Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

bài tiểu luận kim quỹ yếu lược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.37 KB, 45 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền y học cổ truyền phương Đông đã cho ra đời 4 bộ sách kinh điển đến tận ngày nay,
đó là Nội kinh, Nạn kinh, Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược.
“Kim quỹ yếu lược phương luận” là phần tạp bệnh của sách “Thương hàn tạp bệnh
luận” do Trương Trọng Cảnh viết từ thời Đông Hán. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về
chẩn trị tạp bệnh theo lý luận biện chứng của y học cổ truyền. Sách có giá trị cao cả
về lý luận cũng như ứng dụng lâm sàng và là một trong những sách kinh điển của y
học cổ truyền. Tên sách là “Kim quỹ yếu lược phương luận”, trong đó “Kim quỹ” có
nghĩa là quan trọng và quý giá, “Yếu lược” có nghĩa là tóm lược. “Kim quỹ yếu lược”
cho thấy đây là những nội dung quan trọng chủ yếu và cần thiết về y học cổ truyền
được tóm tắt lại.
Lịch sử ra đời lưu lạc và được chỉnh lý của sách có thể chia thành ba giai đoạn.
Khoảng đầu thế kỷ thứ ba sau công nguyên, Trương Trọng Cảnh viết xong “Thương
hàn tạp bệnh luận”. Sách gồm hai phần “Thương hàn” và “Tạp bệnh”. “Kim quỹ”
thuộc phần viết về tạp bệnh. Trong thời gian từ Đông Hán đến Tây Tấn do chiến tranh
loạn lạc sách bị thất lạc. Tuy đã được Vương Thúc Hoà (Tây Tấn) thu thập và chỉnh
lý nhưng người ta vẫn chỉ thấy phần “Thương hàn luận”, gồm mười chương mà
không thấy phần tạp bệnh. Cho đến tận thời Tống Nhân Tông, Học sỹ Ông Lâm mới
tìm thấy trong thư viện của gia đình cuốn “Kim quỹ ngọc hàm yếu lược phương”, đây
chính là bản tóm lược “Thương hàn tạp bệnh luận” của Trương Trọng Cảnh. Lâm Ức
và nhiều tác giả khác đã tiến hành hiệu đính theo nguyên tắc: phần đầu sử dụng bản
do Vương Thúc Hoà đã hiệu đính tương đối hoàn chỉnh nên giữ nguyên, phần thứ hai
viết về tạp bệnh và các bệnh phụ khoa. Nhằm tiện cho ứng dụng lâm sàng lại đem
phần viết về phương tễ phân biệt theo các chứng hậu chia thành ba chương. Do là
sách tóm lược nên đặt tên sách là: “Kim quỹ yếu lược phương luận”, về sau được gọi
tắt là “Kim quỹ yếu lược” hay chỉ đơn giản là “Kim quỹ”.
Sách “Kim quỹ” bàn về tạp bệnh nội khoa là chính, tuy nhiên cũng đề cập đến một số
bệnh phụ khoa và ngoại khoa.
Toàn sách chia thành ba phần lớn, tổng cộng có 25 chương. Phần đầu từ chương 1
đến chương 10, phần hai từ chương 11 đến chương 19, phần ba từ chương 20 đến
chương 25.


Chương đầu mang tên “Bệnh tạng phủ kinh lạc trước sau” có tính chất tổng luận, viết
về nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, dự phòng, chẩn đoán và điều trị bệnh …. Do viết
theo hình thức hỏi đáp, nêu các nguyên tắc nên chương này có tính chất cương lĩnh
cho toàn cuốn sách. Từ chương thứ hai “Bệnh kính thấp yết” đến chương mười bảy
“Bệnh nôn oẹ hạ lợi” thuộc bệnh nội khoa. Chương mười tám “Bệnh sang ung tràng
ung phù nề” thuộc bệnh ngoại khoa. Chương mười chín “Bệnh phu quyết thủ chỉ tý
thũng chuyển cân âm hồ sán ưu trùng” viết về một số hợp bệnh. Chương hai mươi
1


đến chương hai mươi hai chuyên về sản phụ khoa. Ba chương cuối viết về cấm kỵ,
chú ý khi dùng thuốc và ăn uống cùng một số nghiệm phương.
Cũng như Thương Hàn Luận, sách Kim Quỹ cũng được rất nhiều thầy thuốc chú giải,
được hiểu theo nhiều trường phái khác nhau nhưng đều một mục đích là mang đến
cho đọc giả cái nhìn sâu sắc nhất về nội dung mà Trương Trọng Cảnh gửi gắm.
Chính vì vậy, được sự hướng dẫn của thầy cô bộ môn của khoa y học cổ truyềntrường Đại học Y dược Huế, nhóm chúng em xin được phép thảo luận về mạch
,chứng và phép trị của các chứng bệnh ngược, trúng phong và lịch tiết phong, huyết
tý hư lao, phế nuy, phế ung ,bôn đồn khí và hung tý, tâm thống đoản khí. Phần thảo
luận gồm 4 chương, từ chương 5 đến chương 10 trong giáo trình “kim quỹ yếu lược”
của khoa Y Học Cổ Truyền- trường Đại học Y Dược Huế. Bài tiểu luận này chỉ là một
góc nhìn nhỏ của chúng em về mạch chứng và cách chữa các chứng bệnh trong phần
tạp bệnh của cuốn sách kinh điển này mà chúng em đã được học và tìm hiểu. Hy
vọng sẽ nhận được sự đón đọc và phê bình của thầy cô và bạn đọc.

DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN

2


MỤC LỤC


VẤN ĐỀ 1:MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH LỊCH TIẾT PHONG
VÀ TRÚNG PHONG
- BỆNH LỊCH TIẾT PHONG ……………………………………………. 5
- BỆNH TRÚNG PHONG
……………………………………………..10
VẤN ĐỀ 2 :
MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH HUYẾT TÝ HƯ
LAO
- HUYẾT TÝ
…………………………………………….15
- HƯ LAO
…………………………………………….17
VẤN ĐỀ 3: MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA CÁC BỆNH PHẾ NUY, PHẾ
UNG, HO KHÍ ĐI LÊN
- PHẾ NUY
…………………………………………….29
- PHẾ UNG
…………………………………………….31
VẤN ĐỀ 4: MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BÔN ĐỒN KHÍ..............33
VẤN ĐỀ 5:MẠCH CHỨNG VÀ PHEP ĐIỀU TRỊ BỆNH HUNG TÝ,TÂM
THỐNG,ĐOẢN KHÍ
…………………………………………….37
KẾT LUẬN
…………………………………………….46
3


==* VẤN ĐỀ 1*==
MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH LỊCH TIẾT PHONG

VÀ TRÚNG PHONG
I. BỆNH LỊCH TIẾT PHONG
1.ĐẠI CƯƠNG:
1.1.
Theo y học hiện đại:
-Viêm khớp dạng thấp của y học hiện đại được xếp vào chứng
lịch tiết phong của y học cổ truyền.Viêm khớp dạng thấp là
một bệnh tự miễn có biểu hiện viêm mạn tính màng hoạt dịch
của khớp mà nguyên nhân chưa được biết rõ.Những đặc điểm
chính của bệnh là tổn thương các khớp nhỏ và nhỡ ở ngoại biên,ít khi tổn thương các
khớp lớn,có tính chất đối xứng,cứng khớp buổi sáng,sự hủy hoại màng hoạt dịch
khớp mạn tính cuối cùng sẽ dẫn đến tàn phế.
- Để chẩn đoán viêm khớp dạng thấp năm 1987 hội thấp khớp Mỹ đưa ra 7 tiêu
chuẩn chẩn đoán được ứng dụng rộng rãi đến ngày nay,tuy nhiên hạn chế của tiêu
chuẩn này là chưa chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm cho nên hội thấp khớp học Mỹ kết
hợp với Liên đoàn chống Thấp khớp Châu Âu EULAR đề nghị ứng dụng tiêu chuẩn
ACR/EULAR 2010 để chẩn đoán được bệnh ở giai đoạn sớm hơn.
4


1.2.

Theo y học cổ truyền:

-Lịch tiết phong: là bệnh có triệu chứng chủ yếu là đau xương khớp do phong, hàn,
thấp xâm nhập và liên quan với sự thay đổi thời tiết.
-Theo sách “hoàng đế Nội kinh” thì “lịch tiết phong” còn gọi là “bạch hổ lịch tiết
phong” là một bệnh thuộc phạm vi chứng tý,”lịch” ở đây nghĩa là xé,”tiết” nghĩa là
quan tiết tức xương khớp,”phong” ở đây là chỉ phong tà lưu ngoài tấu lý,vậy nên
“bạch hổ lịch tiết phong” nghĩa là bệnh đau ở ngoài tấu lý như con hổ trắng cắn xé

vào các khớp.

2.

NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA LỊCH TIẾT PHONG:

2.1 .Theo y học hiện đại:
a) Nguyên nhân:
Nguyên nhân gây bệnh hiện tại chưa rõ ràng, được coi là một bệnh tự miễn dịch với sự
tham gia của nhiều yếu tố như nhiễm khuẩn hoặc di truyền.
b) Cơ chế bệnh sinh:
Cơ chế bệnh sinh hiện tại chưa rõ. Tuy nhiên , nhiều nghiên cứu cho thấy phản
ứng miễn dịch xảy ra ở màng hoạt dịch đóng vai trò cơ bản trong bệnh viêm khớp
dạng thấp. Tổn thương xuất hiện sớm nhất, cơ bản nhất, và là nguyên nhân dẫn đến
mọi tổn thương khác là tình trạng viêm không đặc hiệu mạn tính của màng hoạt dịch
khớp. Hậu quả dẫn đến các tổ chức xơ thay dần tổ chức viêm, dẫn đến tình trạng dính
và biến dạng khớp.
c) Triệu chứng:
- Biểu hiện tại khớp:
+ Ví trí: thường gặp nhất là khớp ngón gần, bàn ngón, cổ tay, khuỷu, gối, cổ chân, bàn
ngón chân hai bên đối xứng.
+ Tính chất:
Trong đợt tiến triển: các khớp sưng, đau, nóng, ít khi đỏ. Có cứng khớp buổi sáng kéo
dài trên một giờ.

5


- Biểu hiện toàn thân và ngoài khớp:
+ Hạt dưới da: thường ở trên xương trụ gần khuỷu, trên xương chày gần khớp gối hoặc

chung quanh các khớp nhỏ ở bàn tay. Tính chất hạt không đau, không vỡ, không di
động.
+ Viêm mao mạch: biểu hiện dưới dạng hồng ban ở gan tay chân, hoặc tổn thương hoại
tử quanh móng, đầu chi. Tiên lượng nặng.
+ Gân, cơ, dây chằng và bao khớp: cơ cạnh khớp teo do giảm vận động. Có thể gặp
triệu chứng viêm gân, kén khoeo chân.
+ Biểu hiện nội tạng: viêm màng ngoài tim, bệnh cơ tim, nhiễm bột tim, rối loạn nhịp
tim, u hạt.
+ Các biểu hiện khác: hội chứng thiếu máu, hội chứng rối loạn thần kinh thực vật,…
2.2

.Theo y học cổ truyền:

Theo “kim quỹ yếu lược” :
<tức là thận, nhược tức là can. Hãn ra vào trong nước, nếu nước làm tổn thương
tới tâm thì sinh lịch tiết( khớp xương đau), mồ hôi vàng ra cho nên gọi là lịch tiết.
Mạch phu dương( động mạch ở trên mu bàn chân, thuộc kinh túc dương minh vị
trên động mạch gian cốt tương ứng huyệt xung dương) phù hoạt, hoạt là cốc khí
đầy đủ, phù là tự ra mồ hôi.
Mạch thiếu âm( mạch ở trên mắt cá trong thuộc kinh túc thiếu âm thận, chỗ huyệt
thái khê), phù nhược, nhược là huyết bất túc, phù là do phong. Phong huyết tương
bác nhau nên gây đau như kéo rút.
Người béo mạch sáp tiểu, đoản khí, tự hãn, các khớp xương đau không co duỗi
được thường do uống rượu mà ra mồ hôi lại bị gió gây nên.
6


Vị chua thì thương gân, gân bị thương thì hoãn( mềm hơn) gọi là tiết, vị mặn thì
thương xương, xương bị thương thì teo( nuy), gọi là khô, khô và tiết tác động lẫn

nhau gọi là đoạn tiết, dinh khí không thông thì vệ khí không đi một mình và dinh
vệ đề rất nhỏ(vi), tam tiêu không có cái gì tựa để chống lại, chân tay ( tứ thuộc)
đoạn tuyệt vố sự nuôi dưỡng, thân thể gầy mòn chỉ có chân là sưng to, ra mồ hôi
vàng, cẳng chân lạnh, nếu có sốt thù cũng là bệnh lịch tiết>>.
*Qua phân tích các kinh văn trên ta rút ra được nguyên nhân gây bệnh lịch tiết
phong do:
- Phong thấp: do người đang ra mồ hôi (thấp) gặp phong tà, phong và thấp
hợp lại thành phong thấp làm các khớp không co duỗi được gây đau. Thường thấy ở
người béo có mạch sáp tiểu, đoản khí, ra mồ hôi (khí hư, vệ hư), hoặc ở người béo
uống rượu (dương khí tán ra ngoài) ra mồ hôi.
- Thấp nhiệt: do người đang ra mồ hôi (thấp) gặp nước (hàn vào cùng thấp)
làm dương uất lại hóa nhiệt, nhiệt và thấp vào các khớp như thủy làm tổn thương tâm,
ở các khớp sẽ có mồ hôi (nhiệt chưng thấp). THường gặp những người có can và thận
hư, với mạch vốn trầm (chủ cốt – thận) và nhược (chủ cân- can).
- Phong và huyết: Phong vào huyết, phong huyết đánh nhau làm các khớp
đau rút, chủ yếu thấy ở người có mạch thiêú âm phù (ngoại cảm phong tà) nhược
(huyết hư)
- Ăn chua mặn quá: ăn chua nhiều làm tổn thương gân, gân mềm đi gọi là
tiết, ăn mặn nhiều quá làm tổn thương xương, gây teo gọi là khô. Khô và tiết tác động
lên nhau gọi là đoạn tiết, làm cho dinh khí không thông, vệ khí không hành, dinh vệ
điều hư, tam tiêu không có chỗ dựa, tứ chi không được nuôi dưỡng gây nên người
gầy chỉ có chân phù ra mồ hôi vàng và cẳng chân lạnh, phải có sốt.
3.

MẠCH VÀ CHỨNG CỦA LỊCH TIẾT PHONG VÀ ĐIỀU TRỊ

3.1 Thấp nhiệt:
- Triệu chứng: Các khớp chân tay sưng đau, nóng (tà khí xâm nhập) người nặng nề
chân như muốn thoát (mất cảm giác, chân như rời ra do thấp xuống chân) đầu váng
(phong thấp cản trở thanh dương không lên được), đoản khí (thấp làm khí cơ rối

loạn), bụng ấm ách muốn nôn (vị khí bị trở ngại)
- Biện chứng: Các khớp tay chân đau nhức do phong thấp xâm nhập, khớp sưng to do
thấp nhập vào khớp, chân sưng nề như muốn thoát do thấp hạ chú xuống hai chân,
đầu huyễn do phong thâp làm cản trở thanh dương khôn
7


- Phép chữa:
Khu phong thanh nhiệt, hòa dinh chỉ thống
- Phương thuốc: QUẾ CHI THƯỢC DƯỢC TRI MẪU THANG
Quế chi
4 lạng
Tri mẫu
4 lạng
Ma hoàng
2 lạng
Bạch truật
5 lạng
Phòng phong 4 lạng
Phụ tử
2 củ (bào)
Thược dược
3 lạng
Sinh khương 5 lạng
Cam thảo
2 lạng
Nước 7 thăng, sách lấy 2 thăng, uống ấm 7 hộp, ngày 3 lần
Ý nghĩa bài thuốc:
-Ma hoàng, quế chi, phòng phong : khu phong trừ thấp
-Thược dược, tri mẫu : hòa âm

-Bạch truật, phụ tử : trục hàn thấp chỉ thống
-Sinh khương : giáng nghịch cầm nôn mửa.
3.2

Phong hàn:

- Triệu chứng: Các khớp đau không co duỗi được (hàn thấp lưu trú ở gân cốt và lạc
mạch bế tắc)
- Biện chứng: . Khớp đau nhức không thể co duỗi do hàn thấp lưu trú ở cân khớp, gây
co lại không co duỗi được và lạc mạch bị tắc không thông gây đau nh
- Phép chữa:
Ôn kinh tán hàn trừ thấp chỉ đau.
- Phương thuốc: Ô ĐẦU THANG
Ma hoàng
3 lạng
Hoàng kỳ
3 lạng
Ô đầu
5
Bạch thược
3 lạng
Cam thảo chích
3 lạng
Mật giảm độc của Ô đầu, 4 vị còn lại tán thô, nước 3 thăng sắc còn 1 thăng bỏ bã.
Cho mật Ô đầu vào sắc tiếp. Uống 7 hộp nếu chưa có kết quả thì uống tiếp cho hết
thuốc.
Ý nghĩa bài thuốc:
Ma hoàng, hoang kỳ : tán hàn thấp ở biểu.
Ô đầu : trục hàn chỉ thống.
Cam thảo, bạch thược : hoãn cấp chỉ thống.

8


Mật ong: làm hòa hoãn tính độc của ô đầu.

II.BỆNH TRÚNG PHONG
1.

ĐẠI CƯƠNG:

Trúng phong là bệnh do phong tà thừa cơ xâm nhập vào kinh lạc, tạng phủ khi chính
khí (dinh vệ, khí huyết) của cơ thể hư suy gây nên bán thân bất toại
( HIÉMIPLÉGIE ). Về sự ghi chép có liên quan đến chứng “trúng phong” :
- Ở “Nội kinh bệnh” thiên “Phong luận” sách “Tố vấn” nói: “Phong trúng vào du
huyệt của 5 tạng 6 phủ truyền nhập vào nội bộ cũng là phong của tạng phủ, tất cả đều
trúng vào chỗ khí huyết suy nhược, thiên vào một chỗ là thiên phong”.
- Sách “Kim quỹ yếu lược” thì cho là đường lạc mạch bị trống rỗng, phong ở ngoài
vào là nguyên nhân chủ yếu, lại lấy trúng lạc, trúng kinh, trúng
phủ, trúng tạng để phân biệt bệnh tà nông hay sâu, nặng hay
nhẹ”. Ngoài ra các sách “ Thiên kim ngoại đài bí yếu”, “Tế
sinh phương” đều có thảo luận về “trúng phong” mà phần
lớn cũng không tách rời phạm vị trên.
Theo y học hiện đại, chảy máu não, nhồi máu não, u não, áp xe não,
biến
chứng não của các bệnh viêm tai giữa, tai xương chủm ở trẻ em đều được xếp vào
chứng trúng phong trong y học cổ truyền.
2.

NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA TRÚNG PHONG:


2.1 . Theo y học hiện đại:
a. Nguyên nhân:
- Chảy máu não do tăng huyết áp
- Nhũn não vì động mạch bị tắc: Trong bệnh xơ
cứng động mạch hoặc do cục máu phát sinh tại
chỗ hoặc từ xa đưa đến như trong trường hợp van
2 lá.
- Màng não hoặc não bị viêm
9


- Biến chứng não của bệnh tai giữa viêm, xương chũm tai viêm.
- U não.
- Áp xe não
- Chấn thương sọ não: máu tụ ngoài màng cứng hoặc tụ máu dưới màng cứng.
b. Triệu chứng: Việc đầu tiên là phải phát hiện (xác định) được bên liệt.
Quan sát kỹ mặt người bệnh sẽ thấy:

Liệt mặt:
- Nếu liệt trung ương:
• Nếp nhăn mắt, mũi, má, mép rất rõ ở bên lành, rất mờ ở bên bệnh.
• Miệng, nhân trung lệch sang bên lành.
• Khi thở, má bên liệt phập phồng theo nhịp thở, như người hút thuốc lá.
• Dấu hiệu Pierre Marie Poix: khi ấn mạnh 2 ngón tay ở góc hàm, chỉ thấy miệng, má
bên lành cử động.


- Nếu liệt Ngoại biên.
• Liệt giống như trên nhưng nếp nhăn trán bên liệt cũng
mờ.

• Thêm dấu hiệu Charles Bell: Khi muốn nhắm, mắt
không kín, tròng đen đưa lên. Nếu bảo người bệnh:

Há và mím chặt miệng: khi quan sát nếp nhăn ở
trán và mắt, thấy bên lành rõ và nhiều nấp nhăn, bên
liệt ít và mờ hơn.

Người bệnh ăn cơm sẽ thấy cơm chảy qua bên
liệt do 2 môi khép không kín.

Riêng lưỡi thường không liệt, nhưng khi thè
lưỡi ra ta có cảm tưởng là lưỡi bị lệch về phía liệt vì miệng méo về bên lành.


Liệt một tay một chân cùng bên:

- Liệt mềm: Giảm vận động nửa người (mặt
• Đối bên với tổn thương và tùy thuộc vào vị
• Ưu thế các cơ duỗi chi trên, các cơ gấp đối
• Liệt mặt trung ương ưu thế 1/3 mặt dưới.

- tay - chân).
trí tổn thương.
với chi dưới.

- Liệt cứng
Thường là dấu hiệu của liệt nửa người có diễn tiến từ từ, hoặc từ liệt mềm chuyển
qua liệt cứng (thời gian thông thường khoảng 3-4 tuần). Đây là triệu chứng thường
thấy ở tất cả các bệnh nhân liệt nửa người.
+ Co cứng kiểu tháp hay co cứng kiểu tăng trương lực tháp.

10


Ưu thế các cơ sấp và gấp chi trên (ngón tay gấp, khuỷu tay gập), các cơ duỗi
chi dưới (làm chân duỗi, đi như lết ngang).

Khi co kéo các chi thì thấy có lực cản.
+Tư thế dáng khi đi bộ: mất vung vẩy cánh tay, tay bên liệt co, chân lết ngang.


2.2

. Theo y học cổ truyền:

Nguyên nhân trúng phong thường do: Nội phong, Hỏa thịnh, Thấp đởm, Khí hư mà
gây nên bệnh.
- Nội phong: theo Diệp Thiên Sĩ cho nguyên nhân trúng bệnh phong là dương khí
trong than thể biến động vì Can là tạng thuộc phong, nếu tinh huyết suy kém, thủy
không nuôi được mộc, mộc không tươi tốt, cho nên phần dương của Can mạnh lên,
dẫn đến nội phong thường nổi lên mà thành chứng trúng phong, hoặc do phần âm của
Can kém, huyết ráo sinh nhiệt, nhiệt thì khí phong dương nổi lên, đường lạc của các
khiếu nghẽn tắc dẫn đến ngã lăn ra thành chứng trúng phong.
- Hỏa thịnh: thuyết hỏa thịnh do Lưu Hà Gian sang tạo. Ông cho là trúng phong vốn do
hỏa của Tâm thịnh, Thận thủy hư suy. Thủy hư không chế được hỏa thành ra âm hư
dương thực, khí nóng uất lên làm tâm thần mở choáng đến nỗi đột nhiên ngã ra không
biết gì. Ông lại chỉ rõ nguyên nhân Tâm hỏa thịnh quá là vì không kiêng khem giữ
gìn ngũ chí quá lực.
- Thấp đởm: thấp đởm gây ra chứng trúng phong do Chu Thi đề xướng, ông nêu
nguyên nhân sinh phong then chốt là ở chỗ thấp, thổ sinh ra đờm. Vì đờm mà sinh ra
nhiệt, tuy đờm nhiệt không phải nguyên nhân chủ yếu của chứng trúng phong nhưng

nhiều khi thấy có chứng trạng đờm trệ, khí bế… Xét đến nguyên nhân thì đều do hỏa
của Tâm và Can thịnh, tân dịch bị nung nấu hóa thành đờm mà gây nên bệnh.
- Khí hư: bệnh liên quan đến tuổi và thể chất, cho nên Lý Đông Viên cho là: “Phàm
người tuổi ngoài 40 là lúc khí suy, hoặc do lo nghĩ giân dữ làm tổn thương phần khí
thì hay bị bệnh này. Khi tuổi cường tráng thì không có, nếu người béo mập thì hoặc
khi cũng có”. Ngoài ra trong “Nội kinh” có viết: “trúng phong là không phải phong tà
ở ngoài đến mà là do khí ở trong người tự làm nên bệnh”
3.

MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH TRÚNG PHONG:

3.1 Biện chứng:
a. Trúng phong:
Trúng phong có mạch thốn khẩu phù khẩn, phù là có hư, khẩn là hàn, hàn và hư tác
động lẫn nhau thì ta mới vào bì phu, vì có huyết hư lạc mạch rỗng, nên tặc tà vào lạc
mạch và lưu ở đó, hoặc là lưu lại ở bên phải, hoặc là lưu lại ở bên trái, lúc đó tà khí
lưu ở bên nào thì bên đó hoãn, bên kia do chính khí vẫn bình thường nên có thể co lại
11


được, bên chính khí kéo bên có tà khí gây nên mồm méo, mắt lệch (ý là bán thân bất
toại).
Khi tà khí vào lạc thì cơ phu bất nhân (rối loạn cảm giác), khi tà khí vào kinh lạc thì
rất khó vận động (trọng bất thắng – rối loạn vận động), khi tà khí vào phủ thì không
nhận được người (bất thức nhân – rối loạn ý thức), khi tà vào tạng thì lưỡi cứng khó
nói (rối loạn trung khu ngôn ngữ), miệng thổ dãi (rối loạn hoạt động thần kinh thực
vật).
b. Mạch thống khẩu trì và hoãn:
Mạch trì là hàn, mạch hoãn là có hư. Nếu dinh khí hư vong hyết thì hoãn (trầm), nếu
vệ khí hư trúng phong thì hoãn (phù), nếu tà khí trúng kinh thì người có ẩn chẩn (do

phong động gây nên), có người có tâm khí bất túc (dương ở ngực hư) khi tà khí vào
đó sẽ gây ngực đầy thở gấp (phế khí không tuyên phát). Qua đoạn này sẽ có thể thấy
phải có dinh khí, vệ khí hư thì phong tà mới có thể xâm nhập vào kinh lạc tạng phủ
được.
3.2. Luận trị:
a. Trúng phong phi: do dinh vệ hư, phong tà xâm nhập gây nên thân người không
thể tự thu ( dinh vệ tắc ở biểu), nói không được, lơ mơ, không biết đau ở đâu (dinh vệ
tắc ở lý), co quắp không xoay chuyển được (dinh vệ tắc ở biểu).
- Phép chữa: Thông dinh vệ, điều hòa han nhiệt, ích khí bổ huyết
- Phương thuốc: CỔ KIM LỤC NGHIỆN TIỂU TỤC MỆNH THANG
Ma hoàng
3 lạng
Quế chi
3 lạng
Hạnh nhân
40 hạt
Cam thảo
3 lạng
Thạch cao
3 lạng
Can khương 3 lạng
Nhân sâm
3 lạng
Đương quy
3 lạng
Xuyên khung
1 lạng
b. Chứng đại phong: có chân tay phiền trọng (khó chịu nặng nề) (đại phong vào
kinh hóa nhiệt), trong tâm sợ lạnh (dương khí bất túc).
- Phép chữa:

Khu phong thanh nhiệt, bổ hư hạ đàm.
- Phương thuốc: HẦU THỊ HẮC TÁN
Cúc hoa
40 phân
Xuyên khung
3 phân
Phòng phong 10 phân
Can khương 3 phân
Hoàng Cầm
5 phân
Quế chi
3 phân
Nhân sâm
3 phân
Tế tân
3 phân
Bạch truật
3 phân
Phàn thạch
3 phân
Phục linh
3 phân
Mẫu lệ
8 phân
12


Cát cánh

8 phân


Làm tán uống ngày 1 lần 1 phương thốn với rượu, uống 60 ngày. Ăn thức mát, không
ăn cá thịt tỏi.
c. Phong hóa nhiệt ngày gây kinh giản ngày phát nhiều lần
- Phép chữa:
Thanh nhiệt, trọng trấn an thần.
- Phương thuốc: PHONG DẪN THANG
Đại hoàng
4 lạng
Thạch anh
6 lạng
Long cốt
2 lạng
Thạch cao
6 lạng
Mẫu lệ
2 lạng
Hoạt thạch
6 lạng
Hàn thủy thạch
6 lạng
Quế chi
3 lạng
Xích thạch chi
6 lạng
Cam thảo
2 lạng
Bạch thạch chi
6 lạng
Can khương 4 lạng

Giã nhỏ, cho vào túi da, lấy 3 đốt ngón tay thuốc, nước suối ban mai 3 thăng, đun sôi
3 dạo, uống 1 thăng lúc ấm. Sào Nguyên Phương: có thể dung chữa cước khí.
d. Phong vào huyết: làm cho bệnh nhân ở trạng thái như cuồng, đi đứng không yên,
nói cả ngày, không hàn không nhiệt (không có biểu chứng), mạch phù (bệnh ở thượng
tiêu).
- Phép chữa:
Dưỡng huyết khu phong.
- Phương thuốc: PHÒNG KỶ THANG
Phòng kỷ
1 phân
Quế chi
3 phân
Phòng phong 3 phân
Sinh địa
2 cân
Cam thảo
1 phân
Sinh địa sắc thô, chưng đến nát lấy nước cốt, rồi vắt kiệt Địa hoàng, sau đó hòa 2
nước cốt này với nhau. 4 vị thuốc kia ngâm 1 với một chén rượu một đêm, vắt lấy
nước cốt, sau đó hòa nước cốt Địa hoàng và nước cốt các vị thuốc kia chia uống làm
2 lần.
e. Thuốc đắp đau đầu do phong:
- Phương thuốc: ĐẦU PHONG MA TÁN PHƯƠNG.
Đại phụ tử 1 củ to (bào)
Muối lượng
Cả 2 lượng bằng nhau. Làm tán cho nước vào bột (1 muỗng phương thốn), đắp vào
chỗ đau để tán hàn (Phụ tử) ở huyết phận (muối dẫn thuốc).
13



==* VẤN ĐỀ 2 *==
MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH HUYẾT TÝ HƯ LAO
I. HUYẾT TÝ

ĐỊNH NGHĨA:
Huyết tý là bệnh cơ nhục đau tê do tà khí thừa cơ xâm nhập vào huyết lạc gây huyết
trở tắc không thông.
1.

2.

NGUYÊN NHÂN CƠ CHẾ BỆNH SINH : (Kinh văn 76)

Hỏi : Bệnh huyết tý do đâu mà bị ?
Thầy đáp : Người giàu sang phú quý, xương yếu, cơ tầy thịt đầy đặn, nhân lúc làm
việc mệt nhọc, mồ hôi ra , khi ngủ bất chợt trăn trở bị thêm cơn gió nhẹ thổi qua mà
mắc phải bệnh này. Nhưng vì mạch vi sáp tại thốn khẩu, mạch tiểu khẩn tại bộ quan
nêm châm dẫn dương khí làm cho mạch hòa hoãn, mạch khẩn không còn nữa thì
bệnh khỏi.
Như vậy phong tà thừa chính khí hư xâm nhập, thường thấy ở người ít vận động,
không xông pha, thường ở nhà, tuy được nuôi dưỡng tốt ,song xương vẫn yếu, sức
không khỏe, hễ lao động là vã mồ hôi ( vệ khí hư), ngủ hay trở mình (tâm huyết hư)
nên bị phong tà xâm nhập.
TRIỆU CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA:
Tà khí ( phong tà) ở nông:
Dương khí bảo vệ bên ngoài cơ thể làm cho chắc chắn nhân khi làm nặng nhọc làm mồ
hôi ra thì dương khí bị tổn thương. Phong khí tuy ít nhưng lại vào thẳng huyết mà
thành bệnh huyết tý. Mạch vi là dương hư, mạch sáp là huyết trệ, mạch khẩn là sự
hiện diện của tà. Tà ở trong huyết, lúc đầu do dương khí bị tổn thương mà nhập vào
được, cuối cùng phải đợi dương khí thông rồi mới xuất ra. Người mắc bệnh tý, huyết

vì phong nhập vào nên tê ơt bên ngoài, dương cũng vì huyết tý mà dừng ở bên trong
cho nên châm dẫn dương để nó xuất ra, dương xuất ra là bệnh trừ. Tà bị khử thì mạch
khẩn không còn nữa mà trở lại mạch hòa, huyết tý được thông.
* Phép điều trị:
Điều hòa dinh vệ
* Phương huyệt: Hợp cốc, Khúc trì, Dương lăng tuyền ( theo Vương Hòa An)
3.
3.1

14


Tà khí ở sâu:
Bệnh huyết tý mạch âm dương ( dinh vệ ) đều vi ; Thốn khẩu mạch quan vi, mạch xích
tiểu khẩn. Chứng trạng bên ngoài cơ thể tê dại như trong chứng phong tý. Dùng
Hoàng kỳ Quế chi ngũ vật thang để chữa. ( Kinh văn 77)
3.2

Thốn khẩu mạch quan vi, mạch xích tiểu khẩn. Biểu hiện dương bất túc mà âm gây
bệnh tý cụ thể là vệ ( bì phu ) , dinh ( mạch lạc ) sức chống đỡ đều kém, mạch quan
vi là Tỳ ( khí ), Can ( huyết ) kém , mạch xích hơi khẩn là tà đã vào sâu hơn. Do dinh
vệ yếu, khí huyết kém nên tà đã vào đến phần huyết. Khi âm dương hình khí bất túc
thì không dùng kim châm mà dùng thuốc có vị ngọt để điều chỉnh âm dương Như vậy
cần tăng cường dinh vệ, làm thông huyết mạch thì mới chữa được.
* Phép chữa : Ích khí ôn kinh, hòa dinh thông lý
* Bài thuốc: HOÀNG KỲ QUẾ CHI NGŨ VẬT THANG
Hoàng kỳ

3 lạng


Thược dược 3 lạng
Quế chi

Sinh khương 6 lạng
Đại táo

12 quả.

3 lạng

Tất cả có 5 vị, nước 6 thăng sắc còn 2 thăng, uống ấm 7 hộp, ngày 3 lần ( có phương
thêm nhân sâm)
Ý nghĩa bài thuốc :
Hoàng kỳ quế chi ngũ vật thang là bài quế chi thang bỏ cam thảo gia hoàng kỳ mục
đích là dẫn dương khí mà cam thảo là tính hòa hoãn nên không dùng. Trong phương
trọng dụng sinh khương cay âm tuyên thông khí trệ. Hoàng khí đi ra biểu, cố vệ khí,
ôn dương hành tý. Quế chi tráng khí hành dương. Bạch thược hòa âm, Quế thược
dùng cùng tăng cường điều hòa dinh vệ, thư sướng huyết hành. Đại táo hợp với sinh
khương ngọt ấm, bổ trung giúp cho ôn dưỡng hành tý. Biểu lý hợp lực làm cho dương
thông mà tý tự giải.
4.

SỰ KHÁC NHAU GIỮA HUYẾT TÝ VÀ PHONG HÀN THẤP TÝ:

Huyết tý là cơ thể bị tê dại( do huyết bị trở tắc không thông ) bệnh do dương hư không
bảo vệ bên ngoài mà bị bệnh, cần dùng châm dẫn dương để điều bổ phần hư. Nếu khi
chữa lại dùng phép tán ( như trong phong hàn thấp tý ) thì phong hàn không hết mà
dương khí lại càng bị tổn thương, huyết tý lại càng nặng.
15



Mạch chẩn giúp chẩn đoán và theo dõi huyết tý là : Mạch vi, sáp tại thốn khẩu, trên bộ
quan mạch tiểu khẩn. Khi mạch hòa hoãn mạch khẩn không còn là bệnh khỏi.

II.

HƯ LAO

ĐẠI CƯƠNG:
- Hư lao là hậu quả của các bệnh lâu ngày, thể hiện ở ngũ tạng hư suy , lao tổn, khí
huyết không đầy đủ, tinh thần bại hoại mà sinh ra, trong lâm sàng còn chia ra âm hư,
dương hư, âm dương đều hư.
- Hư lao theo Y học hiện đại gọi là hội chứng suy nhược mạn tính.Hội chứng suy
nhược mạn tính (SNMT) là một tình trạng rối
loạn phức tạp đặc trưng bởi sự mệt mỏi sâu rộng,
không cải thiện khi nghỉ ngơi và có lẽ ảnh
hưởng xấu đối với thể chất lẫn tinh thần
người bệnh.
2.
NGUYÊN NHÂN:
2.1
Theo y học hiện đại:
Hội chứng SNMT có thể xảy ra sau những bệnh lý nhiễm trùng như cúm, viêm phế
quản, viêm gan hay nhiễm trùng đường ruột; có thể xảy ra trong khi hoặc ngay sau
một tình trạng stress nặng; hoặc bắt đầu từ từ không hề có nguyên nhân cụ thể rõ ràng
nào. Nó bòn rút sức lực và năng lượng của bạn, và đôi khi phục hồi sau nhiều năm.
Những người từng sống khỏe mạnh và tràn đầy sinh lực nay bỗng nhiên suy nhược
nặng nề, luôn cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, đau khớp, đau cơ và hạch lympho.
Chẩn đoán:
Theo CDC (Centers for Disease Control and Prevention), tiêu chuẩn chẩn đoán hộ

chứng SNMT khi suy nhược mệt mỏi không giải thích được kéo dài 6 tháng trở lên
với ít nhất 4/8 triệu chứng chính:
1.
Mất khả năng tập trung công việc, suy giảm trí nhớ.
2.
Đau cổ họng.
3.
Các hạch lympho ở cổ, nách to (vừa) và đau.
4.
Đau nhức chuyển từ khớp này đến khớp khác mà không có dấu hiệu viêm khớp
như sưng, nóng, đỏ, đau.
5.
Đau cơ không giải thích được nguyên nhân.
6.
Rối loạn giấc ngủ.
7.
Có thể nhức đầu nặng.
8.
Kiệt sức mau chóng chỉ sau những công việc bình thường.
Triệu chứng thường nặng trong vòng 1-2 tháng đầu tiên, sau đó một số ít hết bệnh
hoàn toàn trong khi một tỷ lệ nhỏ khác không thể phục hồi lại được. Đa số còn lại có
cải thiện dần dần, song không thể đạt được thể trạng như lúc ban đầu chưa mắc bệnh.
1.

16


2.1 Theo y học cổ truyền:
Bệnh hư lao là do ngũ tạng hư suy lao tổn, khí huyết không đủ, tinh thần bại hoại ,
bệnh lâu ngày thể chất yếu mà hình thành nên các chứng Huyễ vựng, Đầu thống, Phát

nhiệt, Tâm quý, Chính xung, Kiện vong, Thất miên….

BIỆN CHỨNG:
.Hư lao với biểu hiện dương hư:
Âm bộ lạnh, tay chân lạnh, tinh tự chảy, lãnh tinh, không có con, bụng dưới đầy, tiển
tiện bất lợi, bụng đầy ỉa sống phân, mạch phù hư nhược, triểu trầm trì.
Dương hư sinh ngoại hàn, hàn nhiều ở ngoài, tứ chi không được ấm cho nên tay chân
nghịch lạnh. Hàn nghịch ở trong thì bụng đầy, đi tiện lỏng, ăn không tiêu. Mạch trầm
tiểu trì là do dương đại hư.
3.2
. Hư lao với biểu hiện âm hư:
Lòng bàn tay và bàn chân phiền nhiệt, bệnh nặng vào mùa hạ khỏi vào mùa đông, mồ
hôi trộm, vô sinh, mạch trầm huyền, tế sác.
Tứ chi vốn là dương, trong bệnh lao thì dương thác âm hư mà sinh nội nhiệt cho đên
tay chân bứt rứt, lao thương đa số thuộc âm hư nên vào mùa hạ, lúc mộc hỏa thịnh,
khí phù ở ngoài thì lý càng hư cho nên bệnh nặng. Mùa đông thì kim thủy tương sinh.
Khí liễm vào trong mà không phục ở ngoài cho nên khỏi.
Đạo hãn là mồ hôi khi ngủ, lúc tỉnh thì ngừng, do khi ngủ dương khí vào bảo vệ bên
trong, khi tỉnh thì dương bảo vệ bên ngoài, nay dương hư không đủ sức bảo vệ bên
trong, mà tiết ra ngoài kéo theo âm khí ra nên có mồ hôi trộm. Cũng có cách giải
thích như sau : “ Bình thường dương vệ hư không cổ vũ được mạch khí ở ngoài,
không đủ sức chế ước tân dịch, khi ngủ vệ khí vào bên trong ( âm), khí huyết không
được bảo vệ ở bên ngoài, tấu lý khai nên ra mồ hôi. Khi tỉnh dương khí lại ra ngoài,
biểu hiện ngừng ra mồ hôi” ( Trung quốc y học đại từ điển ) hoặc có cách giải thích
3.
3.1

17



khác : Khi ngủ vệ khí vận hành ở trong âm, âm hư thì có hỏa, dương hỏa và âm đấu
tranh với nhau, âm dịch thất thủ chạy ra ngoài thành đạo hãn.
3.3
. Hư lao với biểu hiện khí hư:
Đột nhiên có suyễn ( Thận không nạp khí), đoàn khí, đi nhanh thì thở gấp ( Phế hư),
phân sống ( Tỳ không kiện vận), lý cấp, mạch hư.
Trong ngực khí hưu thiếu, không được bổ sung thường xuyên nên khi đi nhanh là
suyễn thở có tiếng to.Khí hư công năng vân hóa của Tỳ bị suy thoái chất tinh vi của
thủy cốc không được phân bố, nguồn hóa sinh bị chèn ép mà gây ra bụng trướng, đại
tiện lỏng.
3.4
. Hư lao với biểu hiện huyết hư:
Sắc mặt nhợt nhạt, khát, mất máu, mạch huyền đại khâu, cách sáp.
Tình chí uất kết ngấm ngầm làm hao tổn Can huyết hoặc mất huyết quá nhiều, sau khi
ốm lâu không kịp thời chăm sóc âm huyết suy kém nặng hơn tích hư thành lao mà
gây nên Can huyết hư với sắc mặt trắng, mạch huyền tế.
Mạch huyền là căng, mạch đại thường là hồng đại, mạch khâu là đại nhưng rỗng ( do
không còn huyết dịch lưu thông sau mất máu ), mạch cách cũng là mạch rỗng song
còn căng hơn khâu. Khi mất máu cấp thì dương khí phù việt ra ngoài nên mạch đại
song phù hư.
Mạch huyền là có giảm, có thể hiểu là có mất máu nhiều. Đại là có khâu, có thể hiểu là
mất máu nhiều cho nên án mạch thấy không có máu ở trong mạch. Giảm có hàm ý là
mất máu nhiều, khí không có máu để chở đi, thoát ra ngoài nên người lạnh, cách là
vừa đại hư ( mất máu lớn ). Vừa có hàn ( dương khí thoát ).
3.5
. Hư lao với biểu hiện âm dương đều hư:
Hơi thở ngắn bụng quặn đau, tiểu tiện không lợi, sắc mặt trắng, thường hoa mắt và
chảy máu cam, bụng dưới đầy,lý cấp, không hàn không nhiệt,
mạch hư, trầm, huyền hoặc có mạch phù đạu hoặc cực hư.
Mạch hư là dương hư, mạch trầm huyền là trọng án thấy có huyền là âm bất túc, 2

mạch hợp lại là âm dương đều hư. Không hàn không nhiệt là do âm dương bất túc mà
không tương thừa hoặc là không có ngoại cảm. Đoản khí là do khí hư. Bụng dưới
đầy, tiểu tiện không lợi là do dương khí hư ( hạ tiêu hư ). Lý cấp là do khí âm sa
xuống . Sắc mặt trắng có lúc mắt mờ tối là thượng tiêu hư mà không vinh nhuận. Hoa
mắt, chảy máu cam là do dương khí thượng lên.
Dương khí khi phiền lao ( mệt nhọc cả tinh thần và thể xác ) thì dương phù vượt ra
ngoài ( Mạch phù đại vô lực ); mạch đại không phải là khí thịnh mà trọng án thì mạch
rỗng nhu.
Lao ở đây là chỉ dương hư, âm hư không tàng dương. Mạch cực hư cũng là lao, lao ở
đây là suy ở lý. Như vậy 2 mạch đại ( phù vô lực ) và hư là mạch của hư lao.

18


CÁC CHỨNG THƯỜNG GẶP CỦA HƯ LAO VÀ CÁCH CHỮA
: Chứng hư lao có biểu hiện chính là thất tinh:
Người thường mộng tinh, bụng dưới đau dữ dội , dương vật lạnh, hoa mắt, rụng tóc,
mạch cực hư khâu trì. Mạch này có thể thấy cả ở người ỉa lỏng, són phân, mất máu,
mất tinh. Chủ mạch của người mất tinh là khâu động hoặc vi khẩn, con trai là thất
tinh, con gái nằm mộng thấy giao hợp về dùng bài Quế chi gia long cốt mẫu lệ thang
để chữa. ( Kinh văn 83 )
Thận chủ bế tàng, Can chủ sơ tiết, mất tinh do sơ tiết thái quá, cho nên bụng dưới đau
dữ dội, đầu dương vật là nơi hội tụ của tông cân , khí chân dương suy tổn thì dương
vật lạnh. Hoa mắt là do tinh suy. Tóc rụng là do huyết kiệt . Mạch của bệnh sẽ là
mạch hư, khâu, trì biểu hiện có âm hàn thịnh lại có huyết dịch mất nhanh : Mạch hư
chủ mất tinh, mạch khâu chỉ mất máu, mạch trì chủ đi ngoài lỏng sống phân. Song ở
người mất tinh cấp có thể có mạch khâu đọng, vi khẩn là âm dương không hài hòa mà
làm tổn thương đến thần và tinh cho nên đàn ông mất tinh , phụ nữ nằm mộng thấy
giao hợp. Chứng lao làm tổn thương dương khí, hỏa phù vượt không thu liễm được
gây ra tâm thận bất giao , dương nổi lên trên, âm một mình ở dưới, hỏa không nhiếp

thủy, không giao nhau tự tiết cho nên bệnh mất tinh hoặc tinh hư. Tâm hỏa tướng hỏa
nổi lên ở bên trong, nhiễu động tinh làm tinh xuất thì thành mộng giao ( nằm mộng
thấy giao hợp ).
* Phép chữa : Điều hòa âm dương, thu liễm cố sáp
* Bài thuốc : QUẾ CHI GIA LONG CỐT MẪU LỆ THANG
4.
4.1

Quế chi
3 lạng
Thược dược
3 lạng
Sinh khương 3 lạng
Cam thảo
3 lạng

Đại táo
Long cốt
Mẫu lệ

12 quả
3 lạng
3 lạng

7 thăng nước đun còn 3 thăng
Ý nghĩa phương thuốc :
Đây là bài Quế chi thang gia Long cốt Mẫu lệ trong đó Quế chi, thược dược thông
dương cố âm. Cam thảo, sinh khương, Đại táo điều hòa dinh vệ thượng trung tiêu và
làm dương có khả năng sinh âm. Long cốt mẫu lệ để an thận ninh tâm tăng cường để
bổ âm.

Thất tinh, mộng giao là bệnh chữa về thần. Giữa thần về tinh nếu không có Long, Mẫu
thì không đủ sức thu liễm dương khí vượt phù lên
Thất tinh không ngoài âm hư, dương do di tinh lâu ngày cũng bị suy tổn. Âm mất sự
cố nhiếp của dương, ly tán không giữ lại . Dương phù vượt ra ngoài, âm cô độc ở
trong dẫn đến mộng di thất tinh. Dùng quế chi, long cốt, mẫu lệ thang nhằm điều hòa
âm dương, tiềm dương nhập âm, dương được cố, âm được thủ mà làm cho tinh không
bị ngoại tiết.
19


. Hư lao với mạch đại hư phù ( bệnh lao):
Người ta 50- 60 tuổi mắc bệnh có mạch Đại , chứng tý chạy dọc theo lưng, chứng sôi
ruột, mã đao ( nhọt sinh ở nách, đỏ rắn mà không thành mủ , là loại bệnh tràng nhạc
) đều do bệnh lao sinh ra. ( Kinh văn 85 )
Mạch đại do tuổi 50 -60 tinh khí suy gây nên, lưng tê đau là phong tý ở kinh thái
dương, sôi bụng là do hàn khí thịnh ở trường vị. Hạch kết ở nách, ở cổ là do hư hỏa
kết với đờm gây nên ; sôi bụng đi với mạch đại do âm hàn nội thịnh, dương khí phù
vượt ra ngoài , hư hỏa kết với đờm thành thạch.
4.3
Chứng ra mồ hôi trộm ở người hư lao:
Đàn ông như bình thường, mạch hư nhược tế, vi thì hay ra mồ hôi trộm, ( Kinh văn
86 )
Mạch hư nhược là biểu hiện của dương hư, mạch
vi tế là âm hư, đạo hãn là mồ hôi khi ngủ, lúc
tỉnh thì ngừng, do khi ngủ dương khí vào bảo vệ
bên trong, khi tỉnh thì dương bảo vệ bên ngoài,
nay dương hư không đủ sức bảo vệ bên trong,
mà tiết ra ngoài kéo theo âm khí ra nên có mồ
hôi trộm. Cũng có cách giải thích như sau : “
Bình thường dương vệ hư không cổ vũ được

mạch khí ở ngoài, không đủ sức chế ước tân dịch, khi ngủ vệ khí vào bên trong ( âm),
khí huyết không được bảo vệ ở bên ngoài, tấu lý khai nên ra mồ hôi. Khi tỉnh dương
khí lại ra ngoài, biểu hiện ngừng ra mồ hôi” ( Trung quốc y học đại từ điển ) hoặc có
cách giải thích khác : Khi ngủ vệ khí vận hành ở trong âm, âm hư thì có hỏa, dương
hỏa và âm đấu tranh với nhau, âm dịch thất thủ chạy ra ngoài thành đạo hãn.
4.2

* Bài thuốc :

ĐƯƠNG QUY LỤC HOÀN THANG

Đương quy
Sinh địa
Thục địa
Hoàng bá

1 đồng cân
1 đồng cân
1 đồng cân
1 đồng cân

Hoàng cầm
Hoàng liên
Chích hoàng kỳ

1 đồng cân
1 đồng cân
2 đồng cân

. Hư lao do thận dương hư:

Hư lao thắt lưng đau, bụng dưới đau quặn, tiểu
tiện không lợi.( Kinh văn 90)
b)
Đây là triệu chứng của thận dương hư, đau
lưng là phủ của thận, thận hư thì eo lưng đau. Thận và
bàng quang có quan hệ biểu lý. Dương khí của tam
tiêu không làm được nhiệm vụ khơi thông sự ủng tắc
4.4
a)

20


của thủy dịch luân lưu trong cơ thể được thông lợi thì tiểu tiện không thông mà bụng
dưới quặn đau. Phép chữa là ích thận khí là tiểu tiện được thông và bụng quặn đau
cũng hết.
c)
* Phép chữa:
Ích mệnh môn hỏa, hóa khí hành thủy
d)
* Bài thuốc :
BÁT VỊ THẬN KHÍ HOÀN .
e)
f) Sơn
g)
h)

Can địa hoang 8 lạng
thù du 4 lạng
Đơn bì 3 lạng

Quế chi 1 lạng

i) Sơn dược 4 lạng
j) Trạch tả 3 lạng
k)
Phục linh 3 lạng
l) Phụ tử ( bào ) 1 lạng

Nghiền bột, luyện mật làm hoàn bằng hạt ngô đồng, uống với rượu 15 hoàn,
thêm lần đến 20 hoàn . Ngày uống 2 lần.
n)
Ý nghĩa phương thuốc : Quế phụ ôn bổ thận dương hành khí. Thục địa bổ thận
âm dưỡng huyết. Sơn thù, Sơ n dược bổ tỳ ích thận cố tinh. Phục linh, Trạch tả thẩm
tiết , thông lợi khí bàng quang. Đan bì hành huyết sơ điều ứ trệ trong lạc mạch. Bổ tả
khai khai nạp thận khí làm thận khí vận hành thủy, làm cho eo lưng và bụng dưới hết
đau.
4.5
. Chứng tỳ vị hư hàn ở bệnh hư lao:
o)
Mạch tượng trầm tiểu trì gọi là thoát khí, người bệnh đó đi nhanh thì suyễn,
thở có tiếng to, chân tay nghịch lạnh, bụng đầy, nặng hơn thì đại tiện lỏng, ăn không
tiêu. ( Kinh văn 86 )
p)
Mạch trầm tiểu trì là dương khí đại hư gọi là thoát khí, đi nhanh thì thở gấp,
suyễn nghịch do trung khí bất túc, không nuôi đc phế khí làm phế khí hư; chân tay
lạnh toát là do dương ở trong không ra làm ấm tay chân ở ngoài đươc. Chân tay là
gốc của chư dương, vì vậy dương kém biểu hiện ra chân tay lạnh, bụng đầy nặng thì
ỉa phân sống, do trung tiêu hư hàn, âm hàn nội sinh làm tiêu hóa thức ăn không tốt và
ỉa ra phân sống.
4.6.

Bệnh hư lao khi có mất máu lớn:
q)
Mạch huyền mà đại, huyền là giảm, đại là khâu, giảm là hàn, khâu là hư, hư
hàn tác động lẫn nhau nên có mạch cách. Phụ nữ thì đẻ non, rong huyết, nam giới thì
von huyết, thất tinh ( Kinh văn 87 )
r)
Mạch khâu, mạch cách rất giống nhau tuy nhiên có thể phân biệt được. Mạch
huyền là căng, mạch đại thường là hồng đại, mạch khâu là đại nhưng rỗng ( do
không còn huyết dịch lưu thông sau mất máu ), mạch cách cũng là mạch rỗng song
còn căng hơn khâu. Khi mất máu cấp thì dương khí phù việt ra ngoài nên mạch đại
song phù hư.
s)
Mạch huyền là có giảm, có thể hiểu là có mất máu nhiều. Đại là có khâu, có thể
hiểu là mất máu nhiều cho nên án mạch thấy không có máu ở trong mạch. Giảm có
m)

21


hàm ý là mất máu nhiều, khí không có máu để chở đi, thoát ra ngoài nên người lạnh,
cách là vừa đại hư ( mất máu lớn ). Vừa có hàn ( dương khí thoát ) .
t)* Phép điều trị:
Bổ khí, bổ dương để sinh huyết.
u)
* Bài thuốc:
v)
- Nếu đại xuất huyết dùng ĐỘC SÂM THANG
w)
- Nếu có cả khí thoát nữa thì dùng SÂM PHỤ THANG.
x)

Bổ khí sinh huyết, bổ dương có thể nhiếp âm.
4.6
. Chứng trung tiêu có hư lao:
y)
Bệnh hư lao trong bụng đau, tim hồi hộp, chảy máu cam, mộng mất tinh, tứ chi
nhức buốt, tay chân phiền nhiệt, họng khô miệng ráo.
z)
Lý cấp đau bụng dương hư không hiệp điều được với âm ( âm sẽ thinh ở
dưới) gây nên ; chân tay phiền nhiệt họng khô, miệng ráo do âm hư không hiệp điều
được với dương ( nên dương thượng phù; mộng tinh do dương không nhiếp được âm
nên tinh tự xuất, chân tay đau mỏi, do huyết hư không dưỡng được cơ nhục
aa)
nNhững chứng trên đều là biểu hiện của mất cân bằng âm dương, vì vậy trong
điều trị phải điều hòa lại âm dương, không thể lấy thuốc hàn trị nhiệt, thuốc nhiệt trị
hàn mà dùng thuốc cam ôn để kiến trung, trung khí vận hóa tốt, thuốc âm để dẫn
dương, thuốc dương để dẫn âm, Như thế có thể điều hòa được âm dương. Âm dương
được điều hòa thì thiên thắng của hàn nhiệt sẽ hết. Thuốc cam ôn có tác dụng phấn
chấn dương khí của tỳ vị, phục hồi công năng vận hóa, thủy cốc sẽ được vận hóa
thành tinh vi của thủy cốc để đáp ứng dưỡng âm, dưỡng dương đang thiếu hụt, làm
âm dương điều hòa, hết thiên hàn, thiên nhiệt. Cho nên nếu hư nhiệt mà dùng phép tư
âm không đỡ thì dùng cam ôn, vì vậy nói “ cam ôn có thể trừ đại nhiệt” .
ab)
* Phép chữa:
Kiến lập trung khí, điều hòa âm dương
ac)
ad)
*Bài thuốc :
TIỂU KIẾN TRUNG THANG
ae)
af)

ag)

Quế chi
Đại táo
Sinh khương

3 lạng( bỏ vỏ)
12 quả
3 lạng

ah)
ai)
aj)

Thược dược
Di đường
Cam thảo

6 lạng
1 thăng
1 lạng (nướng)

Dùng 7 thăng nước đun lấy 3 thăng, bỏ bả, cho di đường vào, lại đun nhỏ lửa
cho tan ra, uống nóng 1 thăng , ngày uống 3 lần.

ak)

Ý nghĩa phương thuốc : Tiểu kiến trung thang, bản phương là Quế chi thang,
bội bạch thược và gia di đường, tác dụng không phải là phát hãn giải biểu. Mà để ôn
vận huyết mạch , thông tâm dương, ích tâm khí, hòa dinh huyết. Trong phương bội

bạch thược hợp quế chi để hòa dinh vệ, có thể nhu can, ích âm hòa dinh huyết. lại gia
di đường ngọt ấm, bổ trung, cùng với sinh khương, cam thảo, đại táo phối hợp tăng
cường tác dụng ôn dưỡng trung tiêu nên gọi là Tiểu kiến trung thang.

al)

22


.Hư lao có lý cấp( bụng quặn đau ) với các chứng hư( tự hãn, đạo hẵn,
thân thể nặng nề hoặc bất nhân, mạch hư đại) :
am)
Lý cấp là hư mạch cấp nên trong
bụng đau. Các chứng
bất túc, các mạch âm dương đều bất túc
mà chóng mặt, hồi
hộp, suyễn thở, thất tinh, vong huyết…
chứng này là nguyên
nhân dẫn đến chứng kia. Làm hoãn chứng
cấp thì phải dùng vị
ngọt, bổ chứng bất túc thì phải dùng chứng
ôn. Còn công năng bổ
sung cái hư, làm đầy chổ trống rỗng là sở trường của Hoàng Kỳ.
an)
* Phép chữa:
Ôn trung cố biểu, điều hòa dinh vệ
ao)
ap)
* Bài thuốc :
HOÀNG KỲ KIẾN TRUNG THANG

aq)
( tức Tiểu kiến trung thang gia Hoàng kỳ 1,5 lạng )
ar)
Quế chi
3 lạng( bỏ vỏ)
as)
Đại táo
12 quả
at)
Sinh khương
3 lạng
au)
Thược dược
6 lạng
av)
Di đường
1 thăng
aw)
Hoàng kỳ
1,5 lạng
ax)
Cam thảo
1 lạng
ay)
Ý nghĩa phương thuốc : Hoàng kỳ kiến trung thang là bài Tiểu kiến trung thang
gia Hoàng kỳ để bổ khí. Trong phương dùng Di đường, Chích thảo, vị ngọt bổ trung
khí là theo lẽ của nội kinh. “ Tinh bất túc thì dùng vị ngọt để bổ” . Còn dùng quế chi,
sinh khương, đại táo, vị tân cam để tuyên phát dương khí thượng tiêu là theo nội
kinh. “ lấy tân cam để phát tán dương”. Khí huyết sinh ra ở trung tiêu, thổ hư thì can
mộc lấn át nên dùng thược dược để tả mộc trong thổ, làm cho can tỳ điều hòa mà tinh

khí được phục hồi. Lại gia Hoàng kỳ làm đầy chổ trông rỗng, mạch tấu lý thông lạc.
4.8
. Bệnh phong khí do hư lao :Bệnh hư lao do các loại bất túc, dễ bị phong khí
tác động và gây ra trăm bệnh
az)
Các loại bất túc gây hư lao có phạm vi tương đối rộng. Khi đã có bất túc, sức
chống đỡ giảm, thì sẽ có thể bị tác động của phong khí. Vì vây, trong chữa bệnh cần
nâng cao tỳ vị, gốc của hậu thiên. Tỳ vị khỏe, khí huyết sung mãn , tà khí sẽ bị đẩy ra
và khỏi.
ba)
* Phép chữa :
Phù chính để khu tà
bb)
*Bài thuốc :
THỬ DỰ HOÀN
4.7

bc)
bd)
be)
bf)
bg)

Thử dự ( Củ mài )
Cam thảo
Xuyên khung
Mạch môn
Bạch thược

30 phân

28 phân
6 phân
6 phân
6 phân

bh)
bi)
bj)
bk)
bl)

Bạch truật
Hạnh nhân
A giao
Can khương
Bạch liễm

6 phân
6 phân
7 phân
3 phân
2 phân
23


bm)
bn)
bo)
bp)
bq)

br)

Phòng phong
Đương quy
Quế chi
Can địa hoàng
Đậu hoàng quyên
Thần khúc

6 phân
10 phân
10 phân
10 phân
10 phân
10 phân

bx)

21 vị tán bột, luyện mật làm to bằng viên đạn, uống một hoàn với rượu vào lúc

bs)
bt)
bu)
bv)
bw)

Nhân sâm
7 phân
Sài hồ
5 phân

Cát cánh 5 phân
Phục linh 5 phân
Đại táo 100 quả ( Nấu cao)

đói
* Ý nghĩa phương thuốc : Trong bài dùng cả Bát trân thang để bổ khí huyết.
Quế chi, Bạch thược, sinh khương, đại táo để điều hòa dinh vệ . Cát cánh hạnh nhân
để khai phế chỉ khái. Bạch liễm giúp quế chi giải cơ. Phòng phong, Sài hồ, Đậu
hoàng quyển sơ phong tiết tà. Thần khúc tiêu đạo giải biểu. Sở dĩ dùng thử dự nhiều
như vậy vì nó không lạnh, không nóng, không táo, không trơn mà chuyên bổ hư, trừ
phong, ở đây giữ vai trò làm quản. Như vậy tỳ vị được điều hòa, khí huyết sung mãn
thì phong khí sẽ bị loại trừ
4.9
. Bệnh hư lao buồn phiền không ngủ được ( chứng mất ngủ do âm hư).
bz)
Người ta thức thì hồn ngụ ở mắt, ngủ say thì hồn tang
ở Can.Người hư lao, Can khí không được nuôi dưỡng, làm
cho hồn không được tang cho nên không ngủ được (Vưu
Tại Kinh chú).
ca)
* Phép chữa:
Thanh nội nhiệt, trừ phiền, an
thần.
cb)
*Bài thuốc : TOAN TÁO NHÂN THANG
cc)
Toan táo nhân
2 thăng
cd)
Tri mẫu

2 lạng
ce)
Xuyên khung
1 lạng
cf)
Cam thảo
1 lạng
cg)
Phục linh
2 lạng
ch)
Sắc uống
ci)
Ý nghĩa phương thuốc: Toan táo nhân bổ can dưỡng huyết, an thần làm
quân.Xuyên khung thượng hành đầu mục, sơ can điều tiết tán uất. Phục linh trợ giúp
Táo nhân định tâm an thần.Cam thảo hoãn cấp điều trung, Tri mẫu tư âm giáng hỏa
để thanh can dương, trừ phiền.
4.10
Hư lao có huyết ứ :
cj)
Ngũ lao hư cực, gầy gò, bụng đầy không thể ăn uống, thương thực, ưu thương(
tổn thương do ưu phiền ) , ẩm thương ( tổn thương bởi uống nước), phòng thất
thương ( tổn thương do phòng dục), lao thương (tổn thương do sự lao nhọc) làm kinh
lạc, dinh vệ bị tổn thương, trong có máu khô ( Huyết ứ lâu ngày), ngoài thì da khô,
ráp đóng vảy, hai mắt tối sầm.
by)

24



Ngũ lao theo Sào Nguyên Phương có 2 cách phân loại , một là theo nguyên
nhân, hai là theo tạng phủ. Theo nguyên nhân có trí lao, tư lao, tâm lao, ưu lao, bì lao(
mệt mỏi quá độ). Theo tạng phủ có tâm lao, can lao, tỳ lao, phế lao, thận lao.
cl)
Các tổn thương do ăn là ăn uống vô độ, do âu sầu là suy nghĩ uất kết, do uống
là uống rượu quá độ, do phòng sự là do tình dục quá độ, do đói là đói kéo dài, do lao
lực là mệt mỏi quá độ. Các tổn thương đó đều có thể làm kinh lac, dinh khí, vệ khí bị
tổn thương, khí không hành được ứ lại, lâu ngày thành huyết khô dẫn đến người gầy,
bụng ổng, không ăn uống được dẫn đến da khô ráp, mặt tối sầm. Như vậy trong điều
trị phải khử ứ, bổ hư, vì nếu huyết ứ không trừ được thì huyết mới không đến được
đấy.
cm)
* Phép chữa :
Khứ ứ bổ hư
cn)
*Bài thuốc : ĐẠI HOÀNG GIÁ TRÙNG HOÀN PHƯƠNG
co)
Đại hoàng
1 chỉ ( chưng)
cp)
Cam thảo
3 lạng
cq)
Hạnh nhân
1 thăng
cr)
Can địa hoàng
10 lạng
cs)
Manh trùng ( Ruồi trâu) 1 thăng

ct)
Giá trùng ( gián đất) nửa thăng
cu)
Hoàng cầm
2 lạng
cv)
Đào nhân
1 thăng
cw)
Thược dược
4 lạng
cx)
Sơn tra khô ( Can tất ) 1 lạng
cy)
Thủy điệt ( Đỉa ) 100 con
cz)
Nghiền bột, luyện mật làm hoàn bằng hạt tiểu đậu, uống với rượu 5 hoàn. Ngày
uống 3 lần.
da)
Ý nghĩa bài thuốc : Đại hoàng và các vị Manh trùng, Giá trùng, Thủy điệt, Can
tất, Đào nhân để hành huyết khử ứ. Cam thảo, Thược dược, Địa hoàng để bổ hư.
Hoàng cầm để thanh nhiệt. Hạnh nhân để lợi khí, Rượu để dẫn thuốc. Dụ Gia Ngôn
cho rằng phương này có tác dụng chữa huyết can ( máu khô) ở người nguyên khí
chưa bị tổn thương.
db)
Phụ phương : CHÍCH CAM THẢO THANG ( Phục mạch thang )
ck)

dc)
dd)

de)
df)
dg)
dh)
di)
dj)
dk)

Cam thảo
4 lạng ( nướng)
Quế chi
3 lạng
Sinh khương 3 lạng
Ma nhân
nửa thăng
A Giao
2 lạng
Sinh địa hoàng
2 thăng
Mạch môn
nửa thăng
Nhân sâm
2 lạng
Đại táo
30 qủa
25


×