Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC: Nghiên cứu vai trò của kiến thức bản địa trong bảo tồn đa dạng sinh học Vườn Quốc gia Ba Vì tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.82 KB, 71 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, việc điều tra và nghiên cứu kiến thức bản
địa đã được nhiều cơ quan, tổ chức quan tâm chú ý trong nhiều lĩnh vực tự
nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá, y tế…
Kiến thức bản địa là hệ thống kiến thức của các dân tộc bản địa hoặc
của một cộng đồng hay một khu vực cụ thể nào đó, tồn tại và phát triển
trong những điều kiện nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong
cộng đồng ở một vùng địa lý xác định. Kiến thức bản địa bao hàm rất nhiều
lĩnh vực như kiến thức tận dụng dược liệu trong thiên nhiên, về dinh dưỡng
và sức khoẻ con người, sản xuất nông lâm nghiệp, quản lí tài nguyên và
quản lí cộng đồng, sự thích nghi với sự thay đổi của môi trường và xã hội.
Phần lớn kiến thức bản địa có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi
trường rất đa dạng của địa phương vùng cao, gắn liền với nền văn hoá riêng
của từng dân tộc (Hoàng Xuân Tý, 1998) [11].
Vườn Quốc gia Ba Vì là một trong những nơi có đa dạng sinh học cao
ở Việt nam (thiennhien.net) [13]. Trên địa bàn có các dân tộc khác nhau
sinh sống, chủ yếu là dựa vào nông, lâm nghiệp. Nét đặc thù của cộng đồng
các dân tộc ít người ở miền núi là sống gần rừng và dựa vào rừng, vì vậy họ
có một hệ thống kiến thức và kinh nghiệm về đa dạng sinh học rừng. Kiến
thức bản địa có vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt, người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa có kiến thức bản địa rất
phong phú. Kiến thức này là nguồn lực quý giá cho sự phát triển của cộng
đồng cũng như sự phát triển của xã hội, góp phần duy trì và bảo tồn giá trị
đa dạng sinh học cho từng địa phương.
Việc nâng cao kiến thức và nhận thức của người dân trong quản lí và
bảo vệ sự đa dạng sinh học là hết sức cần thiết và thường xuyên. Trong đó,

1



việc nghiên cứu khảo sát trình độ nhận thức của người dân là công việc đầu
tiên.
Chính vì những lí do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên
cứu vai trò của kiến thức bản địa trong bảo tồn đa dạng sinh học
Vườn Quốc gia Ba Vì tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Khái niệm kiến thức bản địa được sử dụng rộng rãi vào đầu những
năm 90 của thế kỷ XX. Sau nhiều thế kỷ, con người chinh phục thiên nhiên
và coi nhẹ những kinh nghiệm sống hằng ngày của người dân. Ở nhiều nơi
trên thế giới người ta đã nhận ra tầm quan trọng của tri thức bản địa trong
lĩnh vực đời sống (Alan, R.Emery and Associates, 1997) [1] .
Công ước 169 của tổ chức lao động thế giới (ILO) đã đưa ra định
nghĩa về người dân và bộ tộc bản địa như sau: “Đó là những người có các
điều kiện xã hội, văn hoá và kinh tế phân biệt với các bộ phận khác của
một cộng đồng mà ở đó địa vị của họ được quy định bởi toàn bộ hoặc
một phần phong tục hay truyền thống, hoặc qua những luật lệ đặc biệt
hay quy định của riêng họ” (John Briggs và Joanne Sharp, 2004) [5].
Trước đây, kiến thức bản địa chỉ được coi là những kiến thức nông
cạn, không mang tính khoa học…. Ngày nay, kiến thức bản địa được nhìn
nhận đúng vai trò của nó.
Hầu hết mọi người đều thừa nhận vai trò của tri thức bản địa như
một nhân tố then chốt trong mọi chương trình phát triển đã và đang được
tiến hành, đặc biệt đối với những chương trình có mục tiêu là đạt tới sự bền
vững. Tuy nhiên, ngược trở lại bối cảnh thế giới giai đoạn sau chiến tranh
thế giới thứ hai, khái niệm phát triển theo từng giai đoạn biến đổi của nền
kinh tế thế giới được bồi đắp dần lên với các nghĩa mới bổ sung. Bắt đầu từ

2



giai đoạn chủ yếu tập trung vào việc khôi phục nền kinh tế thế giới sau
cuộc chiến, tiếp theo sau giai đoạn này là sự tăng trưởng đồng đều trên mọi
lĩnh vực của cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Chủ nghĩa tư
bản phát triển tới giai đoạn này được coi như là một đại chủ nghĩa, siêu lý
thuyết, phủ bóng lên toàn thế giới, các nhà tư bản được trang bị hệ thống
khoa học và kiến thức của phương tây, họ mở rộng công cuộc truyền bá và
ứng dụng tri thức khoa học. Trong công cuộc này họ coi các nguồn tri thức
địa phương như là những trở ngại cần phải vượt qua, để có thể đạt tới mục
tiêu của phát triển. Các nhà làm công tác phát triển coi truyền thống và các
kinh nghiệm truyền thống của các dân tộc người trên thế giới như một điều
gì đó yếu kém, lạc hậu, cần được huỷ bỏ hơn là động viên sử dụng chúng.
Những kinh nghiệm, hiểu biết của các dân tộc bản địa bị bỏ qua, hoặc bị
đánh giá là không mang tính khoa học (phi khoa học), lạc hậu và không
đáng được xem xét (Osseweijer, Mannon, 2003) [17].
Bắt đầu những năm 60 - 70 của thế kỷ 20, vai trò của các tri thức bản
địa được xem xét lại. Mối quan tâm, thiện cảm dành cho tri thức bản địa
càng nhiều lên nhờ một số nhân tố sau:
Thứ nhất là chính sách phát triển bị thất bại. Các chuyên gia phát
triển dần dần nhận ra rằng: các tộc người bản địa cùng với các sinh hoạt
văn hoá, xã hội kinh tế của mình đã và đang sống cuộc sống hài hoà với
môi trường xung quanh. Trong khi đó, sự đổ vỡ của các tri thức khoa học
phương tây, các dự án hiện đại hoá mang tính công nghệ cao lại không đem
đến những kết cục đáng mong đợi, xa rời thực tiễn của các địa phương và
không có khả năng giải quyết nhiều vấn đề đặt ra trong cuộc sống hằng
ngày mà người dân bản địa có thể làm.
Thứ hai là khái niệm phát triển bền vững được hình thành. Phát triển
bền vững được thay thế hoàn toàn cho phát triển truyền thống (phát triển
kinh tế bằng mọi giá không quan tâm tới môi trường). Nó nhấn mạnh đến


3


khả năng đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng tới mai sau.
Năm 1987, Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) cùng với
tuyên ngôn về một “tương lai chung của chúng ta” cảnh báo về sự suy thoái
của môi trường do nghèo đói, kể cả khi không có sự hiện diện của các
ngành công nghiệp trên toàn thế giới. Tương lai ảm đạm của một thế giới
được cảnh báo liên tục từ các tổ chức phi chính phủ và từ chính các quốc
gia đang phải đối mặt với nguy cơ này. Dần dần các chuyên gia phát triển,
những người hoạt động trong lĩnh vực môi trường, các tổ chức phi chính
phủ nhận ra rằng: Những tri thức truyền thống, thế giới quan, và văn hoá
của các dân tộc bản địa ẩn chứa mối quan hệ hài hoà thân thiện với môi
trường xung quanh. Các dân tộc bản địa lúc này được xem như là các nhà
sinh thái học thực thụ với những hiểu biết sâu sắc về môi trường, những
quan niệm, niềm tin, và cả cách họ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (Ellen. R
and Harris. H, 2003) [15].
Trường hợp người Aru sống trên đảo Aru ở miền đông Indonesia là
một ví dụ tiêu biểu, nguồn sống của dân tộc này chủ yếu là dựa vào tự
nhiên, các hoạt động kinh tế của dân tộc này phụ thuộc vào 2 loại gió mùa
Đông và gió mùa Tây. Trong thời kỳ gió mùa Đông từ tháng 5 đến tháng
10 hàng năm, người Aru chỉ tiến hành thu thập Hải Sâm ở các bãi thuỷ
triều, bãi cát, đánh bắt cá hoặc làm việc thu hoạch Hải Sâm tại các dải đá
ngầm, vụng nước sâu, lặn mò ngọc trai và thậm chí là săn bắt cá mập.
Người Aru hiểu biết rất rõ giá trị kinh tế và y học của Hải Sâm, nắm được
các loại và đặc điểm của Hải Sâm, thời điểm và địa điểm thích hợp để đánh
bắt các loại Hải Sâm này trong một năm. Họ biết rằng, yếu tố mùa và thuỷ
triều là 2 yếu tố then chốt quyết định số lượng Hải Sâm thu thập được.
Người Aru lưu giữ cho mình những hiểu biết sâu sắc về Hải Sâm và cách

thức để thu hoạch Hải Sâm được hiệu quả nhất.

4


Về mặt lịch sử, khái niệm kiến thức bản địa được nhắc tới nhiều do
sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên và các chương trình phát triển kinh tế
xã hội. Xuất phát từ kinh nghiệm trong việc trồng trọt và chăn nuôi ở
những vùng có thổ nhưỡng và nguồn gốc xuất xứ khác nhau của những cây
trồng, vật nuôi, các nhà khoa học đã để ý đến kinh nghiệm của người dân
bản địa trong việc xử lí những vấn đề khó khăn trong quá trình thích nghi.
Vốn trải qua quá trình thích nghi từ rất lâu đời, người dân ở từng địa
phương đã tích luỹ được những kinh nghiệm nhất định đối với cuộc sống
xung quanh họ. Người dân hiểu rõ mối quan hệ giữa vật nuôi, cây trồng của
họ với các điều kiện tự nhiên. Khi các nhà khoa học biết cách phối hợp
những kiến thức bản địa này với những kiến thức và phương pháp khoa học
hiện đại, họ có thể giúp cây trồng và vật nuôi thích nghi tốt hơn với điều
kiện địa phương. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 124 nước hoạt động
trong lĩnh vực nghiên cứu kiến thức bản địa nhằm tăng tính hiệu quả trong
phát triển nông thôn và quản lí bền vững tài nguyên thiên nhiên. Đặc biệt,
nhiều nước chú trọng khai thác dạng tài nguyên thiên nhiên này cho các
mục đích thương mại có giá trị cao, ví dụ trong các lĩnh vực dược học và
mỹ phẩm. Ngoài ra, ở nhiều nơi ở các nước đang phát triển và phát triển,
kiến thức bản địa đang được nghiên cứu hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa
học, làm tăng nguồn cơ sở tư liệu về môi trường, được sử dụng để đánh giá
tác động của quy trình phát triển, được sử dụng như một công cụ lựa chọn
để quyết định. Vì vậy, việc phát triển nghiên cứu kiến thức bản địa góp
phần thu thập, lưu trữ, nâng cao sự hiểu biết các tiến trình phát triển, ứng
dụng và điều chỉnh kỹ thuật của các cộng đồng cư dân địa phương. Các tổ
chức quốc tế cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc khuyến khích các

chính phủ sử dụng kiến thức bản địa trong các kế hoạch phát triển của mình
(Agrawal, Aru, 2005) [14].
2.2. Ở Việt Nam

5


Ở Việt Nam, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ là những cơ quan
đầu tiên áp dụng việc sử dụng kiến thức bản địa trong việc cải thiện khả
năng canh tác trồng trọt, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân địa
phương.
Nghiên cứu, đánh giá kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong
nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên đã được Hoàng Xuân Tý và
các cộng tác viên thực hiện trong khuôn khổ dự án; “Đánh giá kiến thức
bản địa của đồng bào dân tộc trong nông nghiệp và quản lí tài nguyên thiên
nhiên ở Việt Nam” do trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế Canada
(IDRC) và quỹ FORD tài trợ (1997 - 1999). Kết quả nghiên cứu đã được
xuất bản thành ấn phẩm do nhà xuất bản nông nghiệp in và phát hành
(Hoàng Xuân Tý, 1998) [11].
Trong chương trình nghiên cứu về nông nghiệp du canh được tài
trợ bởi Viện Quốc tế về Môi trường và Phát triển Anh (IIED). Tổ chức
Hợp tác Lâm nghiệp hải ngoại Nhật Bản (JOFCA) cũng nghiên cứu
những kiến thức bản địa về canh tác nương rẫy, nông lâm kết hợp, các
quy định về làm rẫy, loài cây để khôi phục rừng (Đỗ Đình Sâm và cộng
sự, 1994 - 1998) [7].
Trong chương trình nghiên cứu dân tộc Thái ở Việt Nam do trung
tâm nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hoá thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội thực hiện 1989 và kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trong công
trình “Văn hoá và Lịch sử người Thái ở Việt Nam” (Cầm Trọng, 1998)
[10] cũng đã đề cập tới một số quy ước quản lý, bảo vệ rừng, rẫy.

Nghiên cứu về kiến thức bản địa hay cụ thể hơn là kiến thức bản địa
về môi trường là một ngành nghiên cứu còn rất mới ở Việt Nam. Việt Nam
vẫn đang được coi là một nước đang phát triển với phần lớn đại bộ phận
dân cư sống tại các vùng nông thôn, miền núi cần được nâng cao chất
lượng cuộc sống.Việt Nam là một nước có 54 dân tộc đồng nghĩa với việc
có từng ấy kho tàng kiến thức bản địa cần được nghiên cứu. Một loạt các

6


chính sách phát triển của chính phủ Việt Nam và các quốc gia trên thế giới
vẫn đang gặp khó khăn trong việc truyền đạt tới mục tiêu phát triển ổn định
và cân bằng tiến tới bền vững, do đó kiến thức bản địa cần được tìm hiểu
nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu phong tục, tập quán, kiến thức bản địa của người dân
xã Khánh Thượng liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học Vườn Quốc gia
Ba Vì nhằm thấy được vai trò của kiến thức bản địa trong công tác bảo tồn
đa dạng sinh học.
- Đề xuất các biện pháp phù hợp để bảo tồn và phát triển hệ thống
kiến thức bản địa hỗ trợ công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Người dân tại xã Khánh Thượng, Ba Vì, Hà Nội trong việc quản lí
bảo vệ rừng.
- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tại xã Khánh Thượng, Ba Vì,
thành phố Hà Nội.
- Đa dạng sinh học Vườn Quốc gia Ba Vì.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn dân cư tại xã Khánh Thượng, Ba Vì, Hà Nội.

4. Các luận điểm cơ bản và đóng góp của tác giả
4.1. Các luận điểm cơ bản
- Kiến thức bản địa là kiến thức đặc thù của một cộng đồng người
dân địa phương, có từ lâu đời (truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác), thay
đổi theo thời gian, linh động, phù hợp với từng nơi hay từng vùng cụ thể là
kiến thức chỉ có riêng trong gia đình, cộng đồng, dân tộc thiểu số (nghĩa là
chưa được phổ biến, tuyên truyền rộng ra ngoài), từ nội bộ dòng họ (ví dụ
như tổ tiên), từ bên ngoài (ví dụ như sách vở, dự án), sử dụng trong phạm

7


vi rộng có từ nhiều nguồn khác nhau, đó là các nhóm người có kinh nghiệm
và kiến thức khác nhau, đối với rừng, kiến thức và kinh nghiệm của họ phụ
thuộc vào những loại lâm sản họ thường xuyên thu hái, và mục đích đối với
những sản phẩm đó, họ tìm thấy nó ở đâu và mức độ thu hái thường xuyên
của họ đối với sản phẩm đó như thế nào. Trong công trình nghiên cứu này,
một số nhóm xã hội được tập trung nghiên cứu, cụ thể như sau:
+ Phụ nữ đi hái lượm củi, rau quả
+ Trẻ em lấy củi và hoa quả
+ Thợ săn
+ Nam giới đi lấy gỗ
+ Thầy lang, người trồng cây thuốc
+ Người già biết về truyền thống và lịch sử
+ Những người biết về chế biến và bảo quản sản phẩm.
- Về mặt thuật ngữ, kiến thức bản địa là hệ thống các kiến thức của
dân tộc bản địa hoặc của một cộng đồng tại một khu vực nào đó, nó tồn tại
và phát triển trong những điều kiện nhất định với sự đóng góp của mọi
thành viên trong cộng đồng của một vùng địa lý nhất định. Hiện nay có một
số tên gọi khác nhau của kiến thức bản địa là kiến thức địa phương (local

knowledge), kiến thức truyền thống (traditionnal knowledge), hay kiến thức
bản địa (indigenous technique knowledge), (Viện Kinh tế Sinh thái, 2000)
[12]. Mặc dù tên gọi khác nhau nhưng các thuật ngữ trên gần như đồng
nhất. Dưới đây là một số tính chất được thừa nhận tạm thời về kiến thức
bản địa theo Roy Ellen và Holy Harris trong phần giới thiệu của cuốn sách
“Kiến thức bản địa về môi trường và các biến đổi” đưa ra như sau:
+Kiến thức bản địa mang tính địa phương, bắt đầu từ một địa điểm
cụ thể, là một tập hợp của các kinh nghiệm có được từ những con người
sống tại địa điểm đó. Việc di chuyển các kiến thức này sang một địa điểm
khác có thể làm biến đổi kiến thức bản địa.

8


+Kiến thức bản địa là những tri thức được truyền miệng, hoặc được
chuyển giao qua hình thức mô phỏng, hoặc mô tả. Ghi chép lại những kiến
thức này bằng văn bản có thể làm thay đổi các đặc tính đặc trưng của
chúng.
+Kiến thức bản địa là hệ quả của các gắn kết thực tế trong cuộc sống
hằng ngày và liên tục được củng cố bằng các lần thử nghiệm, các lần mắc
lỗi.
+Kiến thức bản địa có xu hướng là loại kiến thức mang tính thực tiễn
hơn là mang tính lý thuyết. Ở mức nào đó, thì tính truyền miệng phi văn
bản, cũng như sự gắn kết của nó trong các hoạt động thực tiễn hàng ngày
và những hồi ức chứa đựng nó gây trở ngại cho những kiểu tổ chức cần
thiết cho sự phát triển của loại lý thuyết suông.
+Kiến thức bản địa được chia sẻ nhiều hơn so với kiến thức khác,
bao gồm cả kiến thức khoa học (Ellen. R and Harris. H, 2003) [15].
+Kiến thức bản địa có thể tập trung vào cá nhân và có thể gắn kết với
các nghi lễ hoặc các cấu trúc biểu tượng khác nhau nhưng sự phân bố của

nó luôn gián đoạn. Nó không tồn tại trong một tổng thể mà ở từng nơi khác
nhau và với từng cá nhân. Kiến thức bản địa không phải được chuyển giao
từ cá nhân tới cá nhân mà trong thực hành và trong giao tiếp xã hội trong
đó con người trao đổi với nhau ( Lê Thị Diên, 2002) [2].
- Đa dạng sinh học Vườn Quốc Gia Ba Vì: Tài nguyên thiên nhiên ở
Vườn Quốc gia Ba Vì rất phong phú và đa dạng, hệ sinh thái rừng đặc
trưng của khí hậu rừng mưa nhiệt đới và á nhiệt đới núi thấp.
- Kiến thức bản địa trong việc bảo tồn đa dạng sinh học Vườn Quốc gia
Ba Vì tại xã Khánh Thượng, Ba Vì, Hà Nội, bao gồm kiến thức kinh nghiệm
trồng trọt, kiến thức kinh nghiệm chăn nuôi, kiến thức kinh nghiệm khai thác
và sử dụng lâm sản, kiến thức phong tục đã mất hoặc không còn phổ biến, đặc

9


điểm văn hoá liên quan đến vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học Vườn Quốc gia
Ba Vì.
4.2. Đóng góp của tác giả
- Đề tài hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho những người quan
tâm tới kiến thức bản địa, thấy được nhận thức, trình độ của người dân xã
Khánh Thượng, Ba Vì, Hà Nội về kiến thức bản địa. Từ đó, cho thấy cần
thiết phải nâng cao trình độ nhận thức của người dân địa phương trong thời
gian trước mắt cũng như lâu dài, góp phần bảo vệ Vườn Quốc gia Ba Vì.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thu thập số liệu cho đề tài, một số phương pháp điều tra và công
cụ được sử dụng để thu thập số liệu như sau:
5.1. Thu thập tài liệu
- Tài liệu có sẵn bao gồm hệ thống thông tin, dữ liệu cơ bản của địa
phương, các kết quả nghiên cứu, hoạt động của dự án tại địa phương. Tài
liệu có sẵn là cơ sở dữ liệu ban đầu cho các hoạt động PRA và là nguồn

thông tin định hướng và dùng để kiểm tra chéo thông tin…
Các nguồn cung cấp tài liệu:
- Chính quyền địa phương: Uỷ ban Nhân dân xã Khánh Thượng
- Các cơ quan chuyên môn liên quan: Các phòng ban thuộc Uỷ ban
Nhân dân xã Khánh Thượng
- Các tổ chức, dự án, chương trình đã có các hoạt động tại địa phương.
- Các tài liệu xuất bản liên quan đến địa phương.
Phương pháp thu thập tài liệu:
- Liệt kê các số liệu thông tin cần thiết có thể thu thập, hệ thống hoá
theo nội dung hay địa điểm thu thập và dự kiến địa điểm cơ quan cung cấp
thông tin.
- Liên hệ với các cơ quan cung cấp thông tin.
- Tiến hành thu thập bằng ghi chép, sao chụp.

10


- Kiểm tra tính thực tiễn của thông tin thông qua quan sát trực tiếp.
- Phân tích các tài liệu thu thập được, tập hợp thông tin liên quan tới
kiến thức bản địa vườn quốc gia Ba Vì.
5.2. Tạo lập mối quan hệ với người dân địa phương
- Gặp lãnh đạo thôn và các nhà chức trách địa phương khi bắt đầu
công việc tại địa phương để giải toả mọi nghi ngờ.
- Giải thích lí do đến thôn bản và công việc sẽ làm cùng dân.
- Tự biểu hiện sự chân thành của mình với người dân.
- Lựa chọn thời gian và địa điểm mà người dân làm việc thuận tiện.
5.3. Sử dụng phương pháp phỏng vấn bán định hướng
- Thảo luận, trao đổi với các cơ quan và tổ chức có liên quan.
- Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, phỏng vấn bán định hướng
kết hợp với khảo sát hiện trường. Phỏng vấn bán định hướng hay còn gọi là

phỏng vấn linh hoạt là một phương pháp được sử dụng trong quá trình thực
hiện các công cụ PRA. Phương pháp này được sử dụng với cá nhân nông
thôn, các thông tin viên chính từ địa phương…. Kỹ năng phỏng vấn linh
hoạt là đặt người dân vào quá trình đàm thoại thông qua một loạt các câu
hỏi mở và thích hợp. Phỏng vấn linh hoạt phải sử dụng thành thạo 7 dạng
câu hỏi: ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại sao, như thế nào và bao nhiêu.
Để thực hiện phỏng vấn linh hoạt cần chú ý các điểm sau:
- Chuẩn bị danh mục chủ đề để phỏng vấn và ghi rõ từng chủ đề vào
sổ theo dõi công việc hiện trường.
- Lựa chọn cá nhân, thông tin viên chính, nhóm sở thích hay các
nhóm nông dân để phỏng vấn. Phải đảm bảo rằng những người này có khả
năng cung cấp thông tin sâu rộng và có quan điểm rõ ràng.
- Lựa chọn thời gian và địa điểm để cuộc phỏng vấn ít bị ảnh hưởng
vì những lí do ngoại cảnh.

11


- Hỏi những câu hỏi thích hợp với từng cá nhân hay nhóm đang được
phỏng vấn.
- Sử dụng những câu hỏi mở để đạt được giải thích và quan điểm của
người dân hơn là câu hỏi: có hoặc không?
- Ghi chép chi tiết các cuộc phỏng vấn lên sổ theo dõi công việc hiện
trường.
- Điều chỉnh danh mục và câu hỏi để làm nổi lên những vấn đề mới.
- Kiểm tra tính thực tiễn của thông tin thông qua quan sát trực tiếp và
kiểm tra chéo.
Trong quá trình thảo luận, đã sử dụng một số công cụ PRA để thu
thập thông tin. Theo Robert Chamber (1992) PRA được định nghĩa như là
một phương pháp tiếp cận và cũng là phương pháp học hỏi cùng với người

dân về đời sống và điều kiện nông thôn. Như vậy, PRA cho phép cán bộ
phát triển nông thôn học hỏi từ người dân và cùng người dân, là người thúc
đẩy để giúp người dân địa phương tự phân tích, lập kế hoạch và thực hiện.
5.4. Họp dân
Họp dân thể hiện sự tham gia đóng góp đầy đủ nhất của người dân
trong quá trình thực hiện, nhằm kiểm tra lại thông tin, bổ sung và thống
nhất chương trình hành động và cam kết thực hiện. Trong một đợt PRA
phải tổ chức nhiều cuộc họp dân. Để tổ chức cuộc họp dân thành công cần
thực hiện các bước sau:
-

Chuẩn bị:

+ Xác định mục tiêu họp dân.
+ Chuẩn bị nội dung.
+ Chuẩn bị địa điểm và ánh sáng.
+ Thông báo rõ về thời gian họp cho mọi người.
- Tiến hành cuộc họp:
+ Giới thiệu, nêu mục đích cuộc họp, giới hạn nội dung thảo luận.

12


+ Đại diện cộng tác viên thôn trình bày và điều hành thảo luận theo
từng nội dung.
+ Tạo điều kiện cho người dân thảo luận, đóng góp, bổ sung ý kiến.
+ Tổng hợp các ý kiến, thống nhất các kết luận và chốt lại các vấn đề
trước dân.
+ Kết thúc cuộc họp.
Trước khi tiến hành điều tra, phỏng vấn và thảo luận nhóm tại các

thôn của mỗi xã, phải có buổi làm việc với lãnh đạo và đại diện các ban
ngành của xã. Trong buổi làm việc với lãnh đạo xã, các thông tin cơ bản về
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và một số phong tục tập quán của địa
phương đã được tìm hiểu và thu thập. Tiến hành thảo luận với lãnh đạo xã
về các vấn đề liên quan tới hoạt động quản lý và bảo vệ rừng, kiến thức bản
địa, thị trường tiêu thụ và sản phẩm nông, lâm nghiệp.
- Tại các buổi thảo luận với lãnh đạo xã, chọn ra các thôn Gò, Khánh
Chúc Đồi, Bến Đình, Muôn, Chúc Bãi, Chúc Đồi, Sơn Hà, Bưởi, Phú Xuân
để tiến hành điều tra. Chọn 30 cộng tác viên là người có kinh nghiệm trong
sản xuất được mời tham gia thảo luận nhóm. Một số công cụ như: Lược sử
sử dụng tài nguyên rừng, phân tích lịch mùa vụ, phân tích thuận lợi khó
khăn và giải pháp được áp dụng để trao đổi, thu thập và phân tích thông tin.
- Nội dung các buổi thảo luận nhóm tập trung vào việc xác định và
phân tích các kiến thức bản địa liên quan đến vấn đề khai thác, sử dụng,
quản lí tài nguyên rừng tại địa phương
- Sau khi thảo luận nhóm, tiến hành phỏng vấn một số người dân có
kiến thức và kinh nghiệm trong quản lí và sử dụng tài nguyên rừng. Họ là
những người làm nghề thuốc, thợ săn, những người già có kinh nghiệm sản
xuất và trưởng họ. Phương pháp phỏng vấn bán định hướng được sử dụng
trong quá trình trao đổi thông tin.

13


Tiến hành điều tra, khảo sát hiện trường để phân tích, tìm hiểu và
đánh giá một số kinh nghiệm kiến thức bản địa của người dân tại địa
phương trong sản xuất, quản lí, sử dụng tài nguyên rừng.
5.5.Phương pháp thu thập số liệu
Các tài liệu, số liệu, bản đồ, các công trình có liên quan đến khu vực
nghiên cứu được xử lý, đưa lên thành bảng biểu, đồ thị và phân tích, phân

loại để từ đó xác định những vấn đề cần đánh giá.
5.6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê trên máy vi tính theo chương trình Excel
7.0.
- Dựa trên các tài liệu, số liệu đã thu thập, tiến hành tổng hợp, lựa chọn
và phân tích các số liệu, dữ liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu
của đề tài.
- Các thông tin, số liệu sau khi được thu thập, điều tra sẽ được xử lý bằng
phương pháp thống kê sinh hoc, phần mềm Excel 7.0.

14


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
1.1. Vị trí địa lí và địa hình
Vườn Quốc gia Ba Vì nằm trên địa bàn 5 huyện: Ba Vì, Thạch Thất,
Quốc Oai thành phố Hà Nội, huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn tỉnh Hoà Bình,
cách trung tâm Hà nội 60km theo đường quốc lộ 21A, 87.
Ba vì là một vùng núi trung bình và núi thấp có toạ độ địa lí: từ
20055’ – 21007’ vĩ độ Bắc. Từ 105018’ – 105030’ kinh độ Đông. Vùng núi
tiếp giáp với vùng bán sơn địa, vùng này trông như một dải núi nổi lên giữa
đồng bằng chỉ cách hợp lưu sông Đà và sông Hồng 20 km về phía Nam.
Trong Vườn Quốc gia Ba Vì có một số đỉnh núi có độ cao trên 1000
m như đỉnh Vua (1296 m), đỉnh Tản Viên (1227 m), đỉnh Ngọc Hoa (1131
m), đỉnh Viên Nam (1081 m) và một số đỉnh thấp hơn như đỉnh Hang Hùm
776 m, đỉnh Gia Dê 714 m. Dãy núi Ba Vì có 2 dải dông chính. Dải dông
thứ nhất chạy theo hướng Đông-Tây từ suối Ổi đến cầu Lặt qua đỉnh Tản
Viên và Đỉnh Hang Hùm dài 9 km. Dải dông thứ 2 chạy theo hướng TâyBắc-Đông-Nam từ Yên Sơn qua đỉnh Tản Viên đến núi Quýt dài 11 km,

sau đó dải này chạy tiếp đến dốc Kẽm (Hoà Bình).
Ba vì là một vùng có độ dốc khá lớn, sườn phía tây đổ xuống sông
Đà, dốc hơn so với sườn Tây Bắc và Đông Nam, độ dốc trung bình khu vực
là 250 m, càng lên cao độ dốc càng tăng, từ độ cao 400 m trở lên độ dốc
trung bình là 350 m và có vách đá lộ, nên việc đi lại trong vườn là không
thuận lợi.
Khánh Thượng là một trong 7 xã miền núi huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây
cũ, nay là Hà Nội. Với diện tích trên 30 km 2, đây là một xã rộng với nhiều

15


dạng địa hình khác nhau. Nằm vào vị trí tận cùng cực Tây của huyện và
tỉnh, phía bắc xã Khánh Thượng giáp với xã Minh Quang, phía Nam giáp
với xã Hợp Thịnh (huyện Kỳ Sơn - tỉnh Hoà Bình), phía Đông là núi Ba Vì
và phía Tây giáp với sông Đà và bên kia sông Đà là Tu Vũ (huyện Thanh
Thuỷ - tỉnh Phú Thọ).

Địa điểm
nghiên cứu

Hình 1. Bản đồ địa điểm nghiên cứu huyện Ba Vì
Trước năm 1945, vùng Khánh Thượng ngày nay gồm 3 xã, đó là xã
Giáp Thượng, xã Xóm Gò và xã Khánh Chúc. Thời hậu Lê các xã này
thuộc tổng Hoằng Nhuệ huyện Bất Bạt phủ Quảng Oai trấn Sơn Tây.
Tháng 3 năm 1946 xã Giáp Thượng, Xóm Gò, Khánh Chúc sáp nhập vào
thành một xã lấy tên là xã Tân Dân (dân mới). Từ năm 1973 xã Tân Dân
được đổi tên thành xã Khánh Thượng. Chiều dài của xã tính từ thôn Phú

16



Thứ qua Khánh Chúc, phố Chẹ, Bát Còn đến xóm Bóp dài trên 10km.
Chiều rộng nhất từ xóm Ninh ra bờ sông Đà khoảng 4 km.
Địa bàn xã gồm 2 vùng đất chính được phân ra một cách rõ rệt, đó là
vùng đồi gò thấp ven chân núi, ruộng bậc thang ven suối và vùng đồng
ruộng được bồi đắp phù sa hàng năm ven sông Đà. Đất đai tuy rộng nhưng
chủ yếu là đất đồi gò. Ruộng canh tác toàn xã có 647 mẫu. Từ xưa, vùng
đất Khánh Thượng là những khu rừng nguyên sinh. Cho đến năm 1950,
rừng tự nhiên trong xã còn bao phủ trên một diện tích lớn, nối liền từ sông
Đà tới chân núi Ba Vì. Nằm trên địa bàn một huyện có vị trí cầu nối giữa
hai vùng đồng bằng và miền rừng núi, địa bàn xã Khánh Thượng có hệ
thống giao thông đường thuỷ từ Sông Đà lên Hoà Bình, Tây Bắc xuôi
Trung Hà về Hà Nội. Trong xã có đường tỉnh lộ 89A chạy dọc từ phía bắc
đến phía nam xã. Cùng với hệ thống đường thuỷ, dọc theo sông Đà trong
xã còn có đường 89B. Nằm ở vị trí địa lí này, Khánh Thượng là xã có nhiều
lợi thế, đặc biệt về mặt quân sự, tiến có thể đánh, rút lại an toàn rất thuận
lợi cho những hoạt động quân sự (Đinh Xuân Lộc, 2004) [6].
1.2. Khí hậu, thuỷ văn
Đặc điểm chung của Ba Vì bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ
chế gió mùa, sự phối hợp giữa gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới
ẩm với mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ bình quân năm trong khu vực là
23,4oC. Ở vùng thấp, nhiệt độ tối thấp xuống 2,70C. Nhiệt độ tối cao lên
đến 420C. Ở độ cao 400 m nhiệt độ trung bình năm 20,6 0C. Lượng mưa
trung bình năm 2500 mm, phân bố không đều trong năm, tập trung nhiều
vào tháng 7, tháng 8. Độ ẩm không khí 86,1%. Vùng thấp thường khô hanh
vào tháng 12, tháng 1. Từ độ cao 400 m trở lên không có mùa khô. Mùa
Đông có gió Bắc với tần suất lớn hơn 40%. Mùa Hè có gió Đông Nam với
tần suất 25% và hướng Tây Nam. Với đặc điểm này, đây là nơi nghỉ mát lí
tưởng và khu du lịch giàu tiềm năng nhưng chưa được khai thác.


17


Hệ thống sông suối trong khu vực chủ yếu bắt nguồn từ thượng
nguồn núi Ba Vì và núi Viên Nam. Các suối lớn và dòng nhánh chảy theo
hướng Bắc, Đông Bắc của sông Hồng. Ở phía Tây của khu vực, các suối
ngắn và dốc hơn so với các suối ở phía Bắc và phía Đông, đều là phụ lưu
của sông Đà. Các suối này thường gây lũ vào mùa mưa. Về mùa khô, các
suối thường cạn kiệt, các suối chính trong khu vực gồm có: suối Cái, suối
Mít, suối Ninh, suối Yên Cư…. Sông Đà chảy ở phía nam núi Ba Vì, sông
rộng cùng với hệ suối khá dày như suối Ổi, suối Mít, suối Xoan… thường
xuyên cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân vùng đệm.
Bên cạnh có các hồ chứa nước nhân tạo như hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô, hồ
Hooccua và các hồ chứa nước khác vừa có nhiệm vụ dự trữ nước cung cấp
cho hàng chục ngàn ha đất sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt cho dân.
Đồng thời tạo nên không gian thắng cảnh tuyệt đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ
ngơi vấn cảnh cho du khách. Nguồn nước ngầm trong khu vực tương đối
dồi dào, ở sườn Đông cũng dồi dào hơn bên sườn Tây do lượng mưa lớn
hơn và địa hình đỡ dốc hơn.
Các dẫn liệu về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu được Trung
tâm tư liệu Khí tượng Thuỷ văn thuộc TTKTTV Quốc Gia cung cấp.
1.3. Đa dạng sinh học
1.3.1. Đa dạng tài nguyên thực vật
Theo danh mục thực vật đã được thu thập mẫu và kết quả điều tra bổ
sung năm 2008, cho tới nay Vườn Quốc gia Ba Vì có 1201 loài thực vật
bậc cao có mạch thuộc 649 chi và 160 họ. Như vậy, qua kết quả nghiên cứu
mới nhất đã khẳng định sự phong phú đa dạng loài thực vật của vườn. So
với kết quả điều tra năm 1998, số họ thực vật phát hiện mới tăng 61 họ, số
chi tăng 177 chi và số loài tăng 389 loài.

Nét riêng của vùng cao Ba Vì là tuy cùng nằm trong vùng có hệ thực
vật bản địa của Việt Nam – Nam Trung Hoa như một số nơi khác nhưng

18


ảnh hưởng của độ cao, số loài thuộc các họ phân bố chủ yếu ở á nhiệt đới
và ôn đới nhiều hơn. Đáng chú ý là ở đây là đã có tới 5 chi 5 loài thuộc họ
Đỗ quyên (Ericaceae), 6 loài thuộc họ chè (Theacae), 3 chi 19 loài thuộc họ
Dẻ (Fagaceae) nhiều hơn số chi cùng họ ở vườn Quốc gia Cúc Phương
(Nơi có diện tích lớn gấp 10 lần). Ngược lại số chi có loài thuộc các họ
phân bố chủ yếu ở nhiệt đới như họ Dầu (Dipterocarpaceae) lại tồn tại
tương đối ít ở vùng cao Ba Vì. Nhiều loài phân bố chủ yếu ở đây như: Giổi
nhung (Michelia faveolata), Giổi lá bạc (Michelia sp.), các loài họ Đỗ
Quyên (Ericaceae), Chè thơm (Annesla fragrans), Hoa Tiên (Asarum
maximum)… chỉ gặp ớ các vùng cao Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Sapa (Lào
Cai), Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), Sốpcộp (Sơn La), Hoàng Su Phì (Hà
Giang), trong khi các loài phổ biến trong các kiểu rừng kín ẩm nhiệt đới
như: Chò xanh thuộc họ Bàng (Combretaceae), Chò chỉ, Chò nâu, Táu ruối,
Táu nước, thuộc họ Dầu (Dipterocapaceae) lại không tồn tại, mặc dù có thể
gặp chúng ở đai thấp 600 m trở xuống: Những đặc điểm trên đã phản ánh
rõ nét rừng đai cao Ba Vì gồm nhiều thực vật thuộc đai á nhiệt đới núi thấp.
Tham gia vào thành phần thực vật ở đây còn có một loài thực vật tàn
di (Hoá thạch sống) của kỷ Đệ Tam, qua thời kỳ băng hà còn sót lại như:
các loài Quyết thân gỗ: Cibotium barometz (L).J.Sm.; Gymnosphaera
gigantea (Wall. ex Hook.) và các loài thực vật hạt trần Calocedrus
macrolepis, podocarpus nerifolius D.Don, Amentotaxus… làm tăng thêm
tính đa dạng và phong phú của hệ thực vật.
Bảng 1.1. Danh mục cây gỗ quý hiếm:
STT

1
2
3
4

Tên Việt Nam
Bách xanh
Thông tre
Sến mật

Tên khoa học
Calocedrus macrolepis Kurz.
Podocarpus neriifolius D.Don
Madhuca
pasquieri
(Dubard)

Giổi lá bạc

H.J.Lam
Michelia sp.

19


5
6
7
8
9

10
11
12
13
14
15
16
17
18

Phỉ ba mũi
Dẻ tùng sọc trắng:
Vàng tâm

C. mannii Hook.f.
A. oliver sp.
Magnolia
fistulosa

Trầm
Lát hoa
Re hương
Vù hương
Mắc liễng
Lim xanh
Đinh thối
Táu mặt quỷ
Thiết đinh

Gagnep.)Dandy

Aquilaria crassna Piere ex Lecomte
Chukrasia tabularis A.Juss
C. iners Reinw.Lecomte ex Blume
Cinnamomum Leccomte
Eberhardtia tonkinensis Leccomte
Erythrophleum fordii Oliv.
Fernandoa brilletti (Dop) Steenis
Hopea mollisima C.Y. Wu.
M. stipullata (Wall.) Seem.ex

Giổi xanh
Giổi găng

Schum
Michelia mediocris Dandy
Paramichelia baillonii (Pierre)

(Finet.et

S.Y.Hu
(Nguồn: Tài liệu Vườn Quốc gia Ba Vì)
Thực vật đặc hữu Ba Vì có 8 loài:
1. Mua Ba Vì: Allomorphia baviensis
2. Thu hải đường Ba Vì: Begonia baviensis
3. Xương cá Ba Vì: Tabernaemontana baviensis
4. Cau rừng Ba Vì: Pinanga baviensis
5. Lưỡi vàng làng cò: Lasianthus langkokensis
6. Sặt Ba Vì: Fargesia baviensis
7. Mỡ Ba Vì: Manglietia baviensis
8. Cói túi Ba Vì: Carex bavicola Raym…

Thực vật cây thuốc:
Thực vật thuốc vườn quốc gia Ba Vì có tới 503 loài thuộc 118 họ,
321 chi chữa 33 loại bệnh và chứng bệnh khác nhau trong đó có nhiều loài

20


thuốc quý như: Hoa tiên, Huyết đằng, Bát giác liên, Râu hùm…
(thiennhien.net) [13].
Đặc điểm các kiểu thảm thực vật rừng:
Thảm thực vật ở khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì gồm 3 kiểu chính:
- Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp. Đây là
một quần thể nguyên sinh bị tác động nhẹ nhưng do được bảo vệ trong thời
gian lâu dài, rừng đã trải qua diễn thế hồi nguyên, nên đến nay hình thái và
cấu trúc vẫn mang sắc thái một quần thể nguyên sinh. Kiểu thảm thực vật
này phân bố chủ yếu trên các hệ thống dông mái núi của các dãy núi sau:
Ngọc Hoa, Tản Viên, Đỉnh Vua. Đỉnh Vua - đỉnh 1200 m – 1189 m – 1060
m và 969 m (hệ thống dông phía Tây của đỉnh Vua). Ngọc Hoa - đỉnh
1021 m và 765 m (dải dông phía Tây và Đông Bắc Ngọc Hoa). Từ 700 m
trở lên thuộc núi Viên Nam, Vua Bà.
Hình thái cấu trúc: Loài ưu thế sinh thái là các loài cây thuộc khu hệ
thực vật đệ tam đặc hữu bản địa Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam. Những
họ tiêu biểu gồm: họ Dẻ (Fagaceae), họ Re (Lauraceae), họ Trúc đào
(Apocynaceae). Rừng có kiểu có cấu trúc đơn giản là chỉ có 2 tầng không có
tầng vượt tán, quần thể gồm những cá thể tương đối tròn trịa, rất hiếm thấy
cây có bạnh vè kể cả những cây có tầm vóc to lớn như Giổi (Michelia sp.),
Sến (Madhuca pasquyeri). Tầng ưu thế sinh thái đồng thời cũng là tầng cây
cao nhất. Cả 2 tầng rừng gồm những loài với tỷ lệ cá thể như sau: Dẻ, Sồi
chiếm 14%, Re, Bời lời Ba Vì chiếm 7%, Cồng Sữa chiếm 6 %, Nóng chiếm
6%, Trâm chiếm 6% ở đai rừng á nhiệt đới còn có 2 kiểu phụ chính sau đây:

Rừng rêu (rừng Cảnh Tiên)
Rừng rêu là một kiểu phụ thổ ngưỡng của đai rừng á nhiệt đới ẩm.
Kiểu thảm này phân bố chủ yếu ở đỉnh Vua và một ít ở đỉnh Tản Viên.
Thảm rừng phát triển trên nền đất Feralit vàng nhạt á nhiệt đới điển hình,
tầng đất mỏng phát triển trên đá pocphirit độ dốc lớn, có đá nổi, tầng mùn

21


khá dày (15-20 cm), đất chua pH=4-4,5. Loài cây ưu thế khá rõ rệt, điển
hình là những loài cây thuộc họ Dẻ (Fagaceae) chiếm tỷ lệ cá thể 66%
trong đó Sồi (Lithocarpus sp.) chiếm 21%, Dẻ cau (Quercus platycalyx)
13%, Dẻ gai (Castanopsis tonkinnesis) 11%, Dẻ lá đào chiếm 8%, rồi đến
các loài họ Re (Lauraceae) chiếm 12%, các loài Đỗ Quyên (Enkianthus
pieris và Rhododendron) họ Ericaceae chiếm 11% và các loài trong họ
Côm (Elaeocarpaceae) chiếm 5%.
Rừng thưa á nhiệt đới
Từ xa xưa, con người có thói quen chặt chọn quần thể rừng, đến nay
rừng đã được bảo vệ trong thời gian dài nhưng tán rừng vẫn ở tình trạng bị
phá vỡ mất hẳn tính chất liên tục vốn có của nó độ tàn che 0,3-0,4, ở những
khoảng tán rừng bị phá vỡ thường là những đám rừng, những vạt cây
trong

họ

phụ

Tre

nứa


(Bambusaceae)

chủ

yếu



Giang

(Dendrocalamus). Kiểu thảm rừng này phân bố ở các sườn núi, dưới các
kiểu rừng nguyên sinh, nơi có địa hình khá dốc 40-450, trên đất Feralit
vàng nhạt trên núi trung bình, tầng đất mỏng phát triển trên đá pocphirit,
tầng mùn dày 15-20cm, đất chua pH=4-4,5. Tỷ lệ cá thể những loài cây
ưu thế cũng không rõ ràng, chủ yếu gồm các loài thuộc họ sau: Trâm
(Myrtaceae) chiếm 5%, Bời lời Ba Vì, Bời lời lá tròn thuộc họ Lauraceae
chiếm 5%, Sồi thuộc họ Fagaceae chiếm 4%....
- Kiểu rừng kín thường xanh hỗn hợp cây lá rộng, cây lá kim á
nhiệt đới núi thấp.
Đây là kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ bản địa Nam
Trung Bắc Việt Nam và khu hệ di cư Hymalaya-Vân nam-Quý châu. Từ độ
cao 900 m trở lên đã thấy lác đác có những cá thể loài cây Bách xanh
(Calocedrus macrolepis) trong ngành phụ Hạt trần (Gymnospermae) xuất
hiện ngày càng tăng, và cuối cùng Bách xanh trở thành một trong những
loài ưu thế của ưu hợp Bách xanh, Dẻ, Re, Giổi, Mỡ. Kiểu rừng này đều

22



phân bố ở đỉnh sườn phía tây của 3 đỉnh Ngọc Hoa, Tản Viên và Tiểu
Đồng, kiểu thảm này phát triển trên loại đất Feralit vàng nhạt trên núi trung
bình tầng đất mỏng, phát triển trên đá pocphirit độ dốc lớn hơn 350 có nơi
dốc 60-700 và có nhiều đá tảng. Cấu trúc kiểu rừng này có 2 tầng: Tầng
trên là Bách xanh (Calocedrus macrolepis) xen lẫn với những loài trong họ
Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Mộc lan (Magnoliaceae). Tầng dưới
tán có những loài dương xỉ thân gỗ (Cyalthea podophylla), những cây
thuộc họ Re (Lauraceae), dây leo ít gồm các chi Stychnos, Fissitigma và
Desmos. Cây phụ sinh thấy nhiều trên cành nhánh các thân gỗ đó là các
loài trong họ Phong lan (Orchidaceae) trong đó có loài Kim hoàng thảo
trong chi Dendrobium.
Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới núi thấp
Theo luận điểm quần hệ sinh thái phát sinh thì ở đai khí hậu nhiệt
đới này ở thời kỳ xa xưa vốn là ưu hợp của những loài cây trong các họ ưu
thế như: họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ
Mộc

lan

(Magnoliaceae),

họ

Đậu

(Leguminoceae),

họ

Xoài


(Anacardiaceae), họ Trám (Burceraceae), họ Bồ hòn (Sabindaceae), họ Sến
(Sapindaceae). Nhưng trải qua quá trình chặt chọn những cây gỗ tốt làm vật
liệu xây dựng của người dân địa phương và chặt phá làm nương rẫy bởi thế
đai rừng nhiệt đới này đã bị mất hoàn toàn quần thể thành thục mà chỉ còn
những kiểu phụ nhân tác sau đây:
- Rừng thưa nhiệt đới: Kiểu thảm thực vật này phân bố đều khắp ở
vành đai độ cao 400 m-700 m xung quanh sườn núi Ba Vì, rừng phát triển
trên loại đất Feralit vàng đỏ có mùn trên núi thấp, tầng đất mỏng có nơi
tầng đất trung bình phát triển trên đá Pocphirit độ dốc cao bình quân 26350, tầng mùn mỏng xói mòn mạnh tỷ lệ đá lẫn cao độ chua lớn. Mặc dù
được bảo vệ trong thời gian dài, song đến nay kiểu thảm này vẫn chỉ là một
kiểu rừng thưa, tầng tán đã bị phá vỡ, mất hẳn tính liên tục vốn có của nó,

23


khái niệm về tầng của rừng gỗ chỉ được biểu hiện ở những đám, những vạt
lâm phần gỗ mọc tập trung. Dưới tán cây gỗ có những loài dây leo thân gỗ,
cây phụ sinh thắt nghẹn khá nhiều thuộc nhiều thuộc nhiều họ khác nhau,
những cây dương xỉ phụ sinh, những loài phong lan phụ sinh, những cây họ
Môn, họ Ráy bán phụ sinh, nhiều loài khác nhau thường mọc dầy trên cành
nhánh, trên thân già những cây cổ thụ, những loài trong các chi của họ Dừa
(palmaae) mọc dưới tán rừng. Ngoài ra, dưới tán rừng còn có những loài cây
thuộc họ phụ Tre nứa (Bambusaceae) mọc thành bụi hay đám hạn chế sự tái
sinh của các loài cây gỗ. Do điều kiện khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho điều
kiện sinh trưởng phát triển của nhiều loài, nhiều họ nên tổ thành cây gỗ ở kiểu
thảm rừng này rất phức tạp không thể hiện rõ tính chất ưu thế như vành đai á
nhiệt đới, tỷ lệ % cá thể từ lớn đến nhỏ có các loài trong các họ sau: Trâm
(Syzygium sp.) chiếm 7,1%, Đa (Ficus sp.) chiếm 5,3%, Cà lồ Ba Vì
(Caryodaphnopsis baviensis) chiếm 5%, nóng (Sauraulia trystyla) chiếm 4%,

Bời lời Ba Vì (Lisea baviensis) chiếm 4,3%, Kháo lá lớn (Phoebe cuneata)
chiếm 4%, Thừng mực (Wrightia annamensis) chiếm 4,1%, Sồi (Lithocarpus
sp.) chiếm 3,5%.
- Rừng tre nứa: Sự hiện diện của quần thể rừng giang là do hậu quả
của quá trình khai thác lạm dụng quá mức hoặc quá trình đốt phá rừng gỗ
để làm nương rẫy của người dân sống xung quanh núi. Giang thường phát
triển thành bụi dầy đặc xếp chồng lên nhau tạo thành một tán kín và thấp
hạn chế khả năng tái sinh của mọi loài cây gỗ.
- Rừng phục hồi: Đây là một quần thể xuất hiện sau nương rẫy đã
xoá bỏ đất vẫn còn tốt, loại thảm này phân bố khá tập trung ở quanh khu
cốt 400 m và trên đường từ cốt 400 m sang cốt 600 m. Quần thể này với
hình thái cấu trúc đơn giản với một tầng tán cây gỗ khá đồng đều một loạt
rừng đồng tuổi và gồm những loài cây tiên phong như Ba Soi (Macaranga
denticulata), Hu đay (Trema angustifolia), Ba bét (Mallotus apelta). Ngoài
ra còn gặp những loài cây sau đây: Muối (Rhus chinensis), Ngoã lông
(Ficus fulva). Đây là một kiểu thảm rừng đang diễn thế, nếu được bảo vệ

24


tốt có thể hồi nguyên trở về kiểu phụ miền hay kiểu phụ thổ nhưỡng
nguyên sinh.
- Rừng trồng: Các loài cây chủ yếu là Keo, Thông, Long Não,
Giổi… Cây sinh trưởng tốt chủ yếu trồng ở sườn và chân dẫy núi Ba Vì.
1.3.2. Tài nguyên động vật
Vườn quốc gia Ba Vì là nơi sinh sống của khoảng 45 loài thú, 115
loài chim, 27 loài lưỡng cư, 61 loài bò sát, 86 loài côn trùng, trong đó có 23
loài quý, hiếm có trong sách đỏ như: Culi lớn, Gấu Ngựa, Tê Tê vàng,
Công, Gà lôi trắng, Khỉ, Báo, Gấu, Sóc bay…
1.4. Tình hình dân cư và điều kiện kinh tế xã hội

Theo những tài liệu nghiên cứu gần đây thì Khánh Thượng là một xã
miền núi thuộc vùng đất cổ Văn Lang, thời các vua Hùng dựng nước, cả
một vùng thung lũng đồng bằng từ Ba Vì sang Tam Đảo, nơi hợp lưu của
những con sông lớn nhất đồng bằng Bắc bộ là vùng đất đai trồng trọt tốt
nhất, địa thế lại thuận lợi nên dân cư tập trung đông đúc.
Cuộc khảo sát được tiến hành trên các thôn của xã Khánh Thượng
bao gồm: thôn Bưởi, thôn Bắt Còn Chèm, thôn Gò, thôn Mít, thôn Khánh
Chúc Bãi, thôn Khánh Chúc Đồi, thôn Hương Canh, thôn Sơn Hà.
Dân cư ở đây chủ yếu là dân tộc thiểu số, thuộc địa hình miền núi,
canh tác nương rẫy và trồng cây nông lâm nghiệp.
Bảng 1.2. Số liệu về diện tích đất xã Khánh Thượng
Loại đất
Tổng diện tích tự nhiên

Diện tích (ha)
3,492,0 ha

*Diện tích đất nông nghiệp

699,5 ha

*Diện tích đất lâm nghiệp

1,173,0 ha

*Diện tích đất chuyên dùng

97,7 ha

*Diện tích đất ở


21,0 ha

Tổng số nhân khẩu

4189 người

25


×