Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
TIỂU LUẬN HẾT MÔN
TỘI PHAM KINH TẾ
ĐỀ TÀI:
TÔI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THƠNG,
MẠNG INTERNERNT
HOẠT THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN ( ĐIỀU 226b)
GVHD: TS. TRẦN VĂN BEO
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
1
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
Kiên Giang, ngày 24 tháng 11 năm 2015
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM CÔNG NGHỆ CAO
I. KHÁI NIỆM
II. KHÁI QT TÌNH HÌNH TỘI PHẠM SỬ DỤNG CƠNG NGHỆ CAO
1. Khái qt tình hình tội phạm sử dụng cơng nghệ cao
2. Nguyên nhân của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm sử
dụng công nghệ cao
CHƯƠNG II TỘI SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG DIỄN THÔNG, MẠNG
INTERNET HOẶC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN
I. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỂN THƠNG,
MẠNG INTERNET HOẶC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TỘI PHẠM TỘI SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN
THƠNG, MẠNG INTERNET HOẠC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI TỘI PHẠM THÔNG THƯỜNG
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
2
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
CHƯƠNG III DIỄN BIẾN TÌNH HÍNH TỘI PHẠM CƠNG NGHỆ CAO VÀ ĐẶC
ĐIỂM PHƯƠNG THỨC THỦ ĐOẠN TỘI PHẠM SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG
DIỄN THÔNG, MẠNG INTERNET HOẶC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH
VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
I. DIỄN BIẾN TÌNH HÍNH VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TỘI PHẠM CÔNG
NGHỆ CAO
II. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG THỨC THỦ ĐOẠN VI PHẠM TRÊN MỘT SỐ LĨNH
VỰC
III. NGUYÊN NHÂN, DIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1. Nguyên nhân:
2. Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống:
3. Các đặc điểm của tội phạm công nghệ thông tin:
KẾT LUẬN
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
3
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển nhanh như vũ bão trên
phạm vi toàn cầu kéo theo sự bùng nổ của công nghệ thông tin, viễn thông với hệ
quả là số lượng người sử dụng internet và các thiết bị viễn thơng ngày một gia tăng
nhanh chóng. Trên thế giới, có khoảng 1,8 tỷ người (tương đương khoảng 25% dân
số toàn cầu) sử dụng internet. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông,
đến nay, tại Việt Nam có khoảng gần 30 triệu người sử dụng internet (chiếm 1/3
dân số cả nước, cao hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới), 180 nghìn tên
miền Việt Nam (.vn) được đăng ký, 115 triệu thuê bao điện thoại di động, 15 triệu
thuê bao điện thoại cố định. Công nghệ thông tin, viễn thông trở thành một lĩnh
vực mà các đối tượng tập trung khai thác, sử dụng để thực hiện tội phạm. Theo báo
cáo của Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế - International Criminal Police
Organization (INTERPOL), tội phạm sử dụng công nghệ cao đang trở thành mối
nguy hại lớn trên giới với thiệt hại gây ra hàng năm khoảng 400 tỷ đô la Mỹ, cao
hơn số tiền mà tội phạm buôn bán ma túy thu được và cứ 14 giây lại xảy ra 01 vụ
phạm tội sử dụng công nghệ cao.
Ở Việt Nam tội phạm sử dụng cơng nghệ cao gia tăng nhanh chóng, diễn
biến phức tạp và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Năm 2011, tội phạm sử dụng
công nghệ cao xảy ra trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế - xã hội, tập trung
chủ yếu tại các thành phố lớn là Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và đang lan ra các
tỉnh, thành phố khác như: Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Phú Yên... Phần lớn
đối tượng phạm tội là học sinh, sinh viên có kiến thức và đam mê cơng nghệ thơng
tin, một số ít là cán bộ, cơng chức. Chúng thường tập hợp, liên kết với nhau thông
qua các diễn đàn trên mạng internet (còn gọi là underground hay thế giới ngầm) để
chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn phạm tội. Vì vậy, thủ đoạn ngày càng tinh vi,
kín đáo và có sự thay đổi phương thức liên tục nhằm lẩn tránh sự phát hiện của các
cơ quan bảo vệ pháp luật. Sự liên kết giữa các đối tượng trong và ngoài nước ngày
càng thể hiện rõ nét. Tội phạm công nghệ cao diễn ra trên cả lĩnh vực an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh của
Việt Nam trong một số lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế và gây thiệt hại lớn cho
các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngồi nước.
Trước tình hình tội phạm sử dụng cơng nghệ cao ngày càng diễn biến phức tạp làm
ảnh hưởng khơng nhỏ đến chính trị - kinh tế - văn hóa và sự bình n của nhân dân. Tơi
chọn viết đề tài: Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Với 3 chương và được thể hiện theo từng chương,
trong từng nội dung của đề tài cụ thể với mong muốn góp một phần nhỏ của mình vào
cơng tác phịng, chống tội phạm góp phần đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an tồn xã
hội.
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
4
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
Do vốn kiến thức còn hạn chế bản thân là một cán bộ vừa làm vừa học nhu cầu
công việc cuối năm rất nhiều và thời gian thực hiện ngắn nên đề tài không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến phê bình và đóng góp của thầy để đề
tài bản thân đã chọn hoàn chỉnh tốt hơn.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM CÔNG NGHỆ CAO
I. KHÁI NIỆM
Tội sử dụng máy tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số hay được gọi
chung là tội phạm công nghệ thơng tin. Tuy mới chỉ hình thành và phát triển vài chục
năm, nhưng cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã khiến cho nhiều ngành kinh tế, xã
hội và văn hố phụ thuộc vào các cơng nghệ mới của nó, trong đó đặc biệt phải kể đến
vai trị của máy tính điện tử và internet. Cơng nghệ thơng tin cũng hình thành một thế hệ
mới, khác so với thế hệ cách họ chỉ vài chục năm ở chỗ phụ thuộc vào cơng nghệ, coi
máy tính, internet, email, điện thoại di động, máy ảnh số, máy nghe nhạc số... là những
công cụ không thể thiếu trong cuộc sống. Cuộc cách mạng cũng phát triển những khái
niệm, những từ ngữ mới và mới cách đây vài chục năm chưa được nhắc đến như nhưng
nay đã trở lên quen thuộc trong đời sống xã hội như: thư điện tử (email), mạng thông tin
tồn cầu (internet), thơng tin di động (mobile phone), thương mại điện tử (e-commercial),
công nghệ số (digital technology) công nghệ khơng dây (wifi, Bluetooth), trị chuyện
trên mạng (chatting), trị chơi trên mạng (game online) …
Cũng như bất kỳ một thành tựu khoa học nào của nhân loại, khi mà các thành tựu
càng được ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội thì càng dễ bị lợi dụng, sử dụng hoặc
là mục tiêu của giới tội phạm. Các thành tựu do cơng nghệ thơng tin đem lại cũng khơng
nằm ngồi quy luật đó, nên trong thế giới mà cơng nghệ thơng tin đã tạo nên cho con
người đã hình thành một khái niệm mới về loại tội phạm - tội phạm về cơng nghệ thơng
tin hay cịn được biết đến với các tên khác nhau như: tội phạm mạng (cyber crimes), tội
phạm tin học hay tội phạm liên quan đến máy tính (computer crimes). Đây là những khái
niệm mới khơng chỉ đối với Việt Nam chúng ta mà còn đối với nhiều nước trên thế giới.
Do vậy, ngay từ việc sử dụng thuật ngữ đến việc đưa ra khái niệm, đặc điểm đến việc xếp
những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào bị liệt kê vào danh sách của loại tội phạm này
cũng cịn có nhiều ý kiến khơng đồng nhất.
Trước hết, xét về bản chất thì tội phạm cơng nghệ thơng tin cũng có đầy đủ các tính
chất, đặc điểm như mọi tội phạm truyền thống khác, nghĩa là cũng được coi là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội, gồm 4 yếu tố cấu thành cơ bản của một tội phạm (mặt
khách thể, mặt khách quan, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Điểm
khác biệt giữa chúng với tội phạm khác là cơng nghệ thơng tin, máy tính và mạng máy
tính có vai trò, mức độ nhất định trong việc thực hiện, che giấu và gây ra những hậu quả
tác hại đối với xã hội của hành vi phạm tội. Nhìn một cách tổng thể, đối với loại tội phạm
công nghệ thông tin, chúng ta thấy cơng nghệ thơng tin, máy tính và mạng máy tính đóng
một số vai trị quan trọng trong q trình phạm tội, chúng vừa có thể là khách thể của tội
phạm, vừa có thể là cơng cụ phạm tội lại vừa có thể đóng vai trị như là chủ thể của tội
phạm.
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
5
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
Dưới góc độ là khách thể của tội phạm, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất máy tính và
các thiết bị có liên quan là một loại tài sản có giá trị, do vậy nó có thể trở thành đối tượng
các các tội về xâm phạm quyền sở hữu như ăn cắp hay phá hoại tài sản. Hiểu theo một
gốc độ phức tạp hơn, máy tính với vai trị như là khách thể của tội phạm cịn được thể
hiện trong việc tội phạm cố tình phá hoại hay ăn cắp chúng nhằm xoá bỏ hoặc lấy cắp các
thơng tin mà nó chứa đựng.
Dưới góc độ là cơng cụ phạm tội, máy tính và mạng internet ngày càng được các
loại tội phạm khác nhau sử dụng vì những khả năng ưu việt của chúng. Việc sử dụng máy
tính và các thiết bị liên quan làm cơng cụ phạm tội cũng được chia ra làm hai loại: loại
thứ nhất sử dụng máy tính như là cơng cụ để thực hiện các tội phạm truyền thống như tội
đánh bạc, tội lừa đảo; loại thứ hai sử dụng máy tính, các phần mềm máy tính và các bí
mật được lưu giữ trong máy tính như là miếng mồi để lừa những người nhẹ dạ cả tin.
Trong một vụ việc diễn ra ở bang Florida, Mỹ, một tên tội phạm đã lừa đảo trên 50 triệu
đô la của các nhà đầu tư với việc đưa ra thông tin rằng anh ta đang nghiên cứu một phần
mềm mà có khả năng sẽ thu lợi rất lớn.
Cịn dưới góc độ chủ thể của tội phạm, mặc dù chúng ta đều biết rằng theo lý luận
chung chỉ các cá nhân mới được coi là chủ thể của tội phạm, tuy nhiên nếu xét về bản
chất của vấn đề tức là xét dưới góc độ đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội thì máy
tính và mạng máy tính trong một số trường hợp cũng có thể được coi đóng vai trị như là
một chủ thể của tội phạm. Trong trường hợp này, chính mơi trường của máy tính, các
tính năng của máy tính đã thực hiện các hành vi cấu thành tội phạm. Ví dụ như trường
hợp phát tán virus tin học là một ví dụ. Người làm ra và phát tán virus tin học đôi khi chỉ
chủ định phát tán trên một hoặc một số máy tính nhất định. Tuy nhiên, với tính năng phát
tán qua mạng thơng qua thư điện tử, các máy tính này đã tự động phát tán các virus này
sang các máy tính khác và gây ra hậu quả hàng triệu máy tính có thể bị nhiễm virus trong
thời gian rất ngắn.
Mặc dù chúng ta tạm chia vài trị của cơng nghệ thơng tin và máy tính đối với từng
quá trình diễn biến của tội phạm như trên, nhưng trên thực tiễn việc nhận thức về vấn đề
này rất khác nhau ở từng quốc gia, từng khu vực và phụ thuộc vào trình độ phát triển
khoa học cơng nghệ của quốc gia, khu vực đó. Tuỳ thuộc vào nhận thức, khái niệm về
tội phạm công nghệ thông tin có thể rất rộng cũng có thể là rất hẹp.
Tiếp cận trên phạm vi rộng, thì việc phân loại thế nào là tội phạm công nghệ thông
tin cần dựa trên vai trị của máy tính trong tội phạm. Theo quan điểm này thì tội phạm tin
học bao gồm những tội phạm có sự liên can, dính líu của máy tính tới tội phạm với ba vai
trị sau:
- Máy tính là mục đích của tội phạm;
- Máy tính là cơng cụ phạm tội;
- Máy tính là vật trung gian để cất giấu, lưu trữ những thứ đã chiếm đoạt được.
Theo quan điểm này thì rất nhiều các loại tội phạm truyền thống cũng đề bị coi là
tội phạm công nghệ thông tin hay tội phạm tin học, đặc biệt là những tội sử dụng máy
tính, mạng máy tính làm cơng cụ, phương tiện phạm tội, ví dụ như tội đánh bạc trên
mạng, tội cung cấp các dịch vụ mại dâm trực tuyến, tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ
trên mạng...Một trong những định nghĩa rộng nhất về tội phạm máy tính thể hiện quan
điểm theo nghĩa rộng này được Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đưa ra như sau: "Tội phạm tin học là
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
6
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
bất cứ các hành vi vi phạm pháp luật hình sự nào có liên quan đến việc sử dụng các hiểu
biết về công nghệ máy tính trong việc phạm tội, điều tra hoặc xét xử". Theo định nghĩa
này thì bất cứ tội phạm nào cũng có thể được xếp vào loại tội phạm máy tính vì chỉ cần
trong q trình điều tra các điều tra viên sử dụng máy tính để tìm kiếm thơng tin cũng
thuộc phạm vi điều chỉnh của định nghĩa.
Quan điểm hiểu tội phạm tin học theo theo phạm vi rộng cũng vấp phải một vấn đề
khó khăn đó là cụ thể hoá các hành vi phạm tội cụ thể từ đó xác định tội danh cụ thể cho
các hành vi này. Đây là cơng việc khơng dễ dàng vì khi định tội danh xét về bản chất
nhiều tội danh lại trùng với các tội danh truyền thống như tội lừa đảo, đánh bạc..., có
khác chăng ở đây là việc sử dụng cơng cụ là mạng máy tính mà thơi.
Tiếp cận trên phạm vi hẹp, có nhà nghiên cứu cho rằng tội phạm công nghệ thông
tin chỉ là tội phạm được thực hiện và gây hậu quả trên môi trường, trên thế giới ảo do
thành tựu của khoa học công nghệ tin học đem lại và nó hồn tồn khác với các loại tội
phạm truyền thống trước kia. Bộ luật hình sự nước ta năm 2009 đã tiếp cận theo quan
điểm này. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 2009 mới chỉ đề cập đến 6 tội danh có liên
quan đến máy tính, đó là các tội: Tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet, thiết bị số
(Điều 224); Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thơng, mạng Internet, thiết bị số (Điều 225); Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thơng tin
trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet (Điều 226); Tội truy cập bất hợp
pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết bị số của người
khác (Điều 226a);Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết
bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b). Trên thế giới hiện nay đã xuất
hiện thêm nhiều hành vi được coi là tội phạm công nghệ thông tin khác hiểu theo phạm vi
hẹp này như: Tội vào cửa bằng mật khẩu ăn cắp; tội sao chụp bất hợp pháp các chương
trình phần mềm; tội đe doạ tấn cơng hệ thống máy tính... Phương pháp tiếp cận theo
phạm vi hẹp này tuy có ưu điểm là định rõ được tội danh cần xử lý nhưng lại có nhược
điểm là rất dễ bỏ sót tội phạm, nhất là trong bối cảnh công nghệ thông tin đang phát triển
như vũ bão như hiện nay. Một ví dụ điển hình trên thế giới hiện nay đang tranh cãi về
việc có coi hành vi trộm cắp, lừa đảo các tài sản mà người chơi có được khi chơi trị chơi
trực tuyến hay khơng. Nếu nhìn dưới góc độ thế nào là tài sản theo quy định của pháp
luật hiện hành, thì các "tài sản" ảo này là hồn tồn khơng giá trị vì nó thực chất khơng
phải là tài sản vì chỉ là những thứ được tạo ra trong thế giới ảo do một phần mềm máy
tính (những người xây dựng lên trò chơi trực tuyến) nghĩ ra. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc
độ các tài sản này là do người chơi đã bỏ nhiều công sức để tạo lập được, cùng với tính
chất có thể "chiếm hữu, sử dụng và định đoạt" (thực chất chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt ở đây cũng chỉ là tương đối) và đặc biệt là những tài sản này có thể quy đổi sang giá
trị thực (có thể bán cho những người chơi khác) thì chúng lại thực sự cần được coi là một
tài sản thực và cần được pháp luật bảo vệ trước các hành vi như lừa đảo, trộm cắp nhưng
đối với các tài sản hữu hình khác.
Mặt khác, nếu chỉ coi tội phạm tin học giới hạn trong phạm vi thế giới ảo, môi
trường điện tử do công nghệ thông tin đem lại thì đối với những tội phạm truyền thống sử
dụng thành tựu công nghệ thông tin đem lại thực hiện hành vi phạm tội, việc truy tìm dấu
vết, chính sách ngăn ngừa, đấu tranh đối với hành vi này sẽ khơng có gì khác so với các
phương pháp xử lý truyền thống, trong khi về bản chất thì các hành vi phạm tội này khác
hẳn, như kẻ phạm tội tống tiền trên mạng trong và sau khi thực hiện hoàn tồn có thể xố
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
7
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
sạch toàn bộ dấu vết tội phạm bằng kỹ thuật công nghệ tin học gây khơng ít khó khăn cho
hoạt động thu thập dấu vết nếu các phương pháp thu thập, bảo quản chứng cứ khơng thay
đổi phù hợp.
Chính vì mỗi một quan điểm lại có những khiếm khuyết nhất định, nên hiện nay
trên thế giới vẫn chưa đi tới được một khái niệm hồn chỉnh được mọi người cùng nhất
trí. Tại cuộc họp lần thứ 10 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về ngăn chặn và xử lý tội
phạm được, một cuộc hội thảo đã được tổ chức để bàn về vấn đề tội phạm công nghệ
thông tin, việc định nghĩa tội phạm này đã được chia ra thành hai dạng tội phạm:
Tội phạm công nghệ thông tin theo nghĩa hẹp: được định nghĩa là các hành vi phạm
tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với mục đích xâm phạm đến an tồn của hệ thống
máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu của hệ thống đó. Loại tội phạm theo định nghĩa này
có thể được hiểu là loại tội phạm mới có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính,
làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho người sử dụng.
Tội phạm công nghệ thông tin được hiểu theo nghĩa rộng: được định nghĩa là các
hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có liên quan đến máy
tính, mạng máy tính, bao gồm các loại tội phạm như chiếm giữ bất hợp pháp và đe doạ
hoặc làm sai lệnh thông tin bằng phương pháp sử dụng mạng máy tính. Loại tội phạm
theo định nghĩa này là rất rộng, bao gồm nhiều loại hành vi của tội phạm truyền thống
được thực hiện với sự trợ giúp của cơng cụ máy tính mà phổ biến hiện nay như các hành
vi lừa đảo, trốn lậu cước viễn thông, mạo danh...
Định nghĩa này tuy chưa phải là một định nghĩa hồn chỉnh, cịn hết sức chung
chung và sơ sài tuy nhiên nó có ý nghĩa quan trọng ở chỗ lần đầu tiên khái niệm thế nào
là tội phạm công nghệ thông tin (hay tội phạm mạng) đã được các nước trên thế giới thảo
luận và đi tới nhất trí. Tội phạm cơng nghệ thơng tin, theo định nghĩa nêu trên, là những
tội phạm liên quan đến máy tính và cách mạng thơng tin. Định nghĩa thừa nhận tội phạm
công nghệ thông tin bao gồm cả các tội phạm mới hình thành trong mơi trường của cơng
nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống nhưng được thực hiện với sự giúp đỡ
của các công nghệ thông tin mới. Để làm rõ hơn khái niệm về loại tội phạm cơng nghệ
thơng tin từ đó đưa ra những điểm khác biệt với tội phạm truyền thống khác, trước tiên
chúng ta phân tích các đặc điểm của tội phạm công nghệ thông tin trên 4 dấu hiệu đặc
trưng của tội phạm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.
II. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TỘI PHẠM SỬ DỤNG CƠNG NGHỆ CAO
1. Khái qt tình hình tội phạm sử dụng cơng nghệ cao
Ở nước ta tội phạm sử dụng công nghệ cao diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các thế lực thù địch và phản động quốc tế
đã không ngừng tập trung lợi dụng kênh truyền thông qua mạng internet để xuyên
tạc, vu khống chống phá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, kêu gọi tập hợp lực lượng nhằm mục đích gây rối, kích động, biểu tình…
nhất là trước và trong các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, như: Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
8
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2015, tình hình căng thẳng trên Biển
Đơng…
Trên lĩnh vực trật tự, an tồn xã hội, năm 2011 tiếp tục được coi là năm
“báo động đỏ” của an ninh mạng Việt Nam với rất nhiều vụ tấn công, phá hoại, lây
nhiễm virus, phầm mềm gián điệp, mã tin học độc hại..., nhằm vào hệ thống mạng
của cơ quan, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế của Nhà nước với mức độ, tính chất
ngày càng nghiêm trọng, làm rối loạn hoạt động của hệ thống và lộ lọt thông tin.
Điển hình là vụ hệ thống mạng của Tập đồn Dầu khí quốc gia Việt Nam bị tin tặc
liên tiếp tấn công bằng nhiều phương thức khác nhau, làm ngưng trệ hoạt động và
xóa sạch tồn bộ dữ liệu website; vụ Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA tại TP. Hồ
Chí Minh bị đối tượng tấn cơng làm tê liệt hệ thống mạng máy tính, mã hóa dữ
liệu, đe dọa tống tiền trên 2 triệu đơ la Mỹ.
Tình trạng sử dụng các thiết bị công nghệ cao đánh cắp thông tin, làm giả
thẻ tín dụng để mua vé máy bay, hàng hóa ở nước ngồi chuyển về Việt Nam tiêu
thụ tiếp tục gia tăng, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng tiền Việt Nam và hàng triệu
đô la Mỹ cho nhiều nạn nhân. Các tổ chức tội phạm tại Việt Nam liên kết chặt chẽ
với các tổ chức tội phạm ở nước ngoài tạo thành những đường dây tội phạm sử
dụng cơng nghệ cao hoạt động tinh vi, kín đáo. Trong năm 2011, các cơ quan chức
năng đã phát hiện, điều tra, xử lý 128 đầu mối vụ án, vụ việc có dấu hiệu phạm tội,
tăng 66% so với năm 2010, trong đó đã phối hợp đấu tranh với nhiều vụ án lớn, có
yếu tố nước ngồi, có vụ việc liên quan đến hàng nghìn đối tượng. Điển hình như
vụ các cơ quan chức năng Việt Nam đã phối hợp với Bộ An ninh nội địa Hoa Kỳ
(ICE) đấu tranh với các đối tượng trong diễn đàn tội phạm mạng với hơn 2.000
thành viên, hoạt động trộm cắp, mua bán thẻ tín dụng và mua hàng chuyển về Việt
Nam tiêu thụ. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt khẩn cấp 08
đối tượng, thu giữ hơn 2 tỷ đồng tiền Việt Nam và 115.000 đô la Mỹ. Bộ An ninh
nội địa Hoa Kỳ đã thu giữ của các đối tượng tại Mỹ hơn 01 triệu đơ la Mỹ.
Tình hình lừa đảo trong lĩnh vực thương mại điện tử và thanh toán điện tử
gia tăng, dẫn đến tình trạng nhiều nước khơng chấp nhận giao dịch qua mạng
internet có địa chỉ IP xuất phát từ Việt Nam, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và
hình ảnh của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại điện tử nói riêng và lĩnh vực
kinh tế quốc tế nói chung.
Tình trạng các đối tượng người nước ngồi (Trung Quốc, Đài Loan,
Malaysia và một số quốc gia Châu Phi) nhập cảnh vào Việt Nam sử dụng thiết bị
công nghệ cao để lừa đảo, đe dọa tống tiền, làm giả thẻ tín dụng để chiếm đoạt,
trộm cắp tài khoản ngân hàng xảy ra tại nhiều địa phương. Năm 2011, cơ quan
chức năng đã phát hiện, điều tra 10 vụ, chuyển cơ quan điều tra khởi tố 11 bị can,
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
9
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
thu giữ hàng trăm thẻ tín dụng giả do các đối tượng nước ngồi vào Việt Nam hoạt
động phạm tội.
Điển hình như vụ ngày 6/9/2011, Công an tỉnh Phú Yên phối hợp với Tổng
cục An ninh I - Bộ Công an bắt 59 đối tượng người nước ngồi th nhà ở TP. Tuy
Hịa, Phú Yên để sử dụng các thiết bị công nghệ cao lừa đảo tiền qua mạng. Đối
tượng mà bọn chúng hướng đến hầu hết là người Hoa đang sinh sống ở Mỹ, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Trong số 62 đối tượng bị tạm giữ có 59 người Trung
Quốc và 3 người Việt Nam. Kiểm tra tại 4 địa điểm, cơ quan Công an đã tạm giữ
108 điện thoại bàn, 18 laptop, 14 điện thoại di động, 13 bộ đàm, 25 cáp nối mạng,
14 cổng mạng, 6 thiết bị thu phát sóng ngồi trời và 4 thiết bị thu phát sóng trong
nhà. Sáng 17/10/2011, Cơng an tỉnh Khánh Hịa phối hợp với Tổng cục An ninh I,
Bộ Công an bắt quả tang 24 đối tượng có hành vi sử dụng cơng nghệ cao để hoạt
động lừa đảo, gồm 20 người Trung Quốc (9 nữ), 3 người Đài Loan (Trung Quốc)
và 01 người Việt Nam.
Chiều ngày 7/7/2011, Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an đã triệt phá
vụ án lừa đảo quốc tế sử dụng công nghệ thông tin tại Việt Nam. 99 đối tượng liên
quan đến vụ án đã bị bắt giữ trong thời gian từ ngày 29/6/2011 đến ngày 6/7/2011
(bao gồm 76 người Đài Loan, 23 người Trung Quốc). Những đối tượng này đã
nhập cảnh vào Việt Nam từ đầu tháng 06/2010, lưu trú tại một số khách sạn ở các
quận 7, 8, 12, TP. Hồ Chí Minh. Công an thu giữ 2 bộ thiết bị đường truyền tốc độ
cao, 14 bộ đàm cầm tay, 8 điện thoại wifi (không dây, dùng sim), 37 điện thoại
bàn, 7 máy tính xách tay, 2 usb có dữ liệu. Theo lời khai ban đầu, số đối tượng này
sử dụng các phương tiện trên để liên hệ với các cá nhân, tổ chức ở Trung Quốc,
mạo danh là cơ quan chức năng Trung Quốc, yêu cầu nạn nhân cung cấp số tài
khoản hoặc chuyển tiền về tài khoản của họ để phục vụ điều tra, sau đó chiếm
đoạt. Thủ đoạn của bọn tội phạm này là khi đến Việt Nam chia nhỏ thành nhiều
nhóm, mỗi nhóm từ 8 - 10 tên hoạt động độc lập với nhau, được phân công nhằm
vào các mục tiêu cụ thể, như tấn công vào hệ thống ngân hàng và công dân Trung
Quốc ở các tỉnh Giang Tô, An Huy, Thượng Hải. Đặc biệt, nhiều đối tượng cầm
đầu băng, nhóm này đều ở nước ngồi và chỉ đạo toàn bộ hoạt động phạm tội qua
mạng. Hiện các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam đang phối hợp với cơ quan
chức năng của Trung Quốc, Đài Loan để xử lý nhóm tội phạm trên.
Lúc 14 giờ ngày 6/4/2012, Cơng an TP. Hồ Chí Minh đồng loạt kiểm tra 4
địa điểm (gồm 297 -299 Trịnh Đình Trọng, phường Hịa Thanh, quận Tân Phú; 41
đường số 28, phường Bình Trị Đơng B, quận Bình Tân; 44 đường D1, phường Tân
Thới Nhất, quận 12; 9A cư xá Bà Điểm, xã Bà Điểm, huyện Hóc Mơn), bắt giữ 43
người Trung Quốc và Đài Loan đang lên mạng internet lừa đảo các nạn nhân ở
nước ngoài nhằm chiếm đoạt tiền. Thủ đoạn của chúng là liên lạc với nạn nhân ở
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
10
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
Thẩm Quyến, Quảng Châu (Trung Quốc), giả danh cảnh sát, Tòa án đang điều tra
một đường dây trộm cắp tài khoản của nạn nhân. Sau đó, chúng yêu cầu nạn nhân
cung cấp mật mã tài khoản ngân hàng để phục vụ công tác điều tra và ngăn chặn
việc rút tiền trong tài khoản của nạn nhân. Khi nạn nhân cung cấp mật mã tài
khoản ngân hàng, thì chúng thơng báo cho đồng bọn ở Trung Quốc rút tiền của nạn
nhân rồi chiếm đoạt. Tại hiện trường, cơ quan công an đã thu giữ 17 máy tính xách
tay, 2 máy vi tính để bàn, 24 modem, 109 điện thoại bàn, 35 điện thoại di động, 10
bộ đàm, nhiều kịch bản lừa đảo, tiền Việt Nam, đô la Mỹ, nhân dân tệ cùng nhiều
thiết bị viễn thơng khác.
Bên cạnh đó, tình hình tội phạm sử dụng mạng internet để thực hiện các
hành vi phạm tội như: Phát tán văn hóa phẩm đồi trụy, trộm cắp, đánh bạc, cá độ
bóng đá, mại dâm, bn bán trái phép các loại vũ khí, cơng cụ hỗ trợ diễn biến
phức tạp, là nguyên nhân trực tiếp phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác
như giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, tình trạng các băng nhóm lưu manh cơn đồ
chém giết, trả thù, sát hại lẫn nhau.
2. Nguyên nhân của tình hình tội phạm sử dụng cơng nghệ cao
Tội phạm sử dụng cơng nghệ cao ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân, nhưng
chủ yếu là:
Về khách quan, tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên thế giới và
các nước trong khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Trong khi đó, đặc thù của loại
tội phạm này là tính quốc tế và hội nhập nhanh, do đó, đã tác động mạnh đến tình
hình tội phạm sử dụng công nghệ cao ở trong nước.
Về chủ quan, công tác quản lý nhà nước về công nghệ thông tin, viễn
thông, thương mại điện tử, thanh toán điện tử và quản lý, vận hành các hệ thống
máy tính của nhiều cơ quan, doanh nghiệp và cá nhân tại Việt Nam còn nhiều sơ
hở, phần lớn chưa được bảo mật tốt. Hệ thống pháp luật của nước ta trong lĩnh vực
đấu tranh, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao chưa đầy đủ và chưa theo kịp
diễn biến tình hình thực tế. Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm sử
dụng cơng nghệ cao cịn chưa đáp ứng u cầu về số lượng. Đến nay, lực lượng
này mới chỉ được thành lập ở Bộ Công an và Công an ở 3 địa phương là Hà Nội,
Cần Thơ và Đồng Nai. Các địa phương cịn lại chưa có đầu mối chun trách cho
cơng tác này. Đội ngũ cán bộ cảnh sát phịng, chống tội phạm sử dụng cơng nghệ
cao đa số cịn trẻ, chưa được đào tạo chuyên sâu về chuyên môn, kỹ thuật và
nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm thực tế. Trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật mặc dù
đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn còn thiếu, lạc hậu chưa theo kịp sự thay đổi
liên tục của lĩnh vực công nghệ cao dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong triển khai
các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện, thu thập, bảo quản tài liệu, chứng cứ.
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
11
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm
sử dụng cơng nghệ cao
Tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
lường với thủ đoạn đa dạng, xảy ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa - xã
hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Các thế lực thù địch và bọn phản động sẽ
tiếp tục lợi dụng internet để tuyên truyền xuyên tạc và tập hợp lực lượng thực hiện
âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Tình hình mất an tồn thơng tin số
tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến việc ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc
phòng, nhất là nguy cơ bị tấn công, lây nhiễm virus trong hệ thống thông tin dẫn
đến lộ lọt bí mật quốc gia. Tội phạm người nước ngồi vào Việt Nam sử dụng thiết
bị cơng nghệ cao để trộm cắp cước viễn thơng, sử dụng thẻ tín dụng giả, lừa đảo,
tống tiền sẽ tiếp tục gia tăng; các ổ nhóm, đường dây tội phạm sử dụng cơng nghệ
cao sau khi bị phát hiện, xử lý mạnh trong thời gian qua sẽ chuyển qua phương
thức, thủ đoạn mới; tình trạng cá độ và đánh bạc qua mạng tiếp tục diễn biến phức
tạp. Hoạt động của tội phạm sử dụng cơng nghệ cao sẽ ngày càng mang đậm tính
chất của tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia.
Trước tình hình trên, để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm sử dụng công
nghệ cao trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản
sau đây:
Một là, kịp thời ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể đảm bảo an ninh
trật tự trong phát triển các lĩnh vực khoa học - cơng nghệ nhằm phịng, chống tội
phạm sử dụng cơng nghệ cao. Trọng tâm là triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án
5 thuộc Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm về “Đấu tranh phòng chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao”, gắn với thực hiện quy hoạch phát triển An ninh
thông tin số quốc gia đến năm 2020. Triển khai thực hiện các nội dung của Chỉ thị
số 897/CT-TTg ngày 10/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường triển khai
các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin số. Các ngành chức năng cần tăng cường
phối hợp trong công tác quản lý nhà nước và nâng cao ý thức, trách nhiệm phòng
ngừa những nguy cơ xâm hại của tội phạm sử dụng công nghệ cao; gắn cơng tác
đấu tranh phịng, chống loại tội phạm này với các lĩnh vực phát triển khoa học, kỹ
thuật, công nghệ của đất nước.
Hai là, các cơ quan chức năng tiếp tục rà sốt, nghiên cứu và đề xuất hồn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác
đấu tranh với tội phạm sử dụng cơng nghệ cao, như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính… Ban hành Luật Tổ chức
điều tra hình sự trên cơ sở Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Cần tập
trung nghiên cứu, đề xuất bổ sung vào Bộ luật Tố tụng hình sự các quy định có liên
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
12
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
quan đến chứng cứ điện tử, các thủ tục tố tụng hình sự về việc thu thập, bảo quản,
phục hồi và giám định chứng cứ điện tử phù hợp với đặc điểm, tính chất của tội
phạm sử dụng công nghệ cao. Nghiên cứu, đề xuất quy định rõ quyền năng pháp lý
của lực lượng cảnh sát phịng, chống tội phạm sử dụng cơng nghệ cao trong tố tụng
hình sự và thẩm quyền xử phạt hành chính. Cần xây dựng dự thảo Nghị định về
cơng tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm khác
trong lĩnh vực sử dụng cơng nghệ cao trình Chính phủ ban hành. Cần giao cho Bộ
Cơng an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan như Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân
hàng Nhà nước xây dựng Thơng tư liên ngành về phịng, chống tội phạm sử dụng
cơng nghệ cao; chủ trì, phối hợp xây dựng Thơng tư liên ngành giữa Bộ Công an,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn điều tra, truy
tố, xét xử đối với 05 tội danh liên quan đến lĩnh vực sử dụng công nghệ cao trong
Bộ luật Hình sự năm 1999.
Ba là, Chính phủ cần giao cho Bộ Công an chỉ đạo công tác xây dựng, phát
triển lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao ngang tầm
nhiệm vụ trong tình hình mới. Bộ Cơng an cần chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy
và triển khai thành lập các đơn vị cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng cơng
nghệ cao trực thuộc các phịng chức năng ở công an các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nhằm xây dựng một hệ lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm sử
dụng cơng nghệ cao trên phạm vi tồn quốc.
Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phịng, chống
tội phạm sử dụng cơng nghệ cao, tập trung trao đổi thông tin tội phạm, tranh thủ tài
trợ các thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại và đào tạo cán bộ trình độ cao. Tăng
cường phối hợp với các đơn vị có liên quan để giải quyết các yêu cầu phát hiện,
xác minh, điều tra tội phạm một cách kịp thời, triệt để. Phối hợp với các ngành
chức năng trong các hoạt động triển khai ứng dụng cơng nghệ, thiết lập hệ thống
phịng vệ để chủ động và nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Nâng cao ý thức
cảnh giác của người quản lý, sử dụng cơng nghệ cao. Đồng thời cảnh báo, phịng
ngừa việc lạm dụng, thiếu hiểu biết pháp luật dẫn đến vi phạm pháp luật trong sử
dụng công nghệ cao, nhất là giới học sinh, sinh viên.
Tội phạm sử dụng công nghệ cao gắn liền với sự bùng nổ của công nghệ
thông tin và viễn thông. Cùng với xu thế mới của thời đại, tội phạm sử dụng công
nghệ cao sẽ tiếp tục gia tăng. Chính vì vậy, cần tổ chức thực hiện một cách đồng
bộ các giải pháp cơ bản trên đây nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này.
CHƯƠNG III
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
13
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
TỘI SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG DIỄN THƠNG, MẠNG INTERNET HOẶC
THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
I. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỂN THƠNG,
MẠNG INTERNET HOẶC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN
Ðiều 226b*.Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet hoặc thiết
bị số thực hiện hành vi chiếm ðoạt tài sản
1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị
số thực hiện một trong những hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một
trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cõ quan, tổ chức, cá nhân ðể
chiếm ðoạt hoặc làm giả thẻ ngân hàng nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh
toán hàng hoá, dịch vụ;
b) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cõ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm
ðoạt tài sản;
c) Lừa đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng,
mua bán và thanh tốn cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức,
cá nhân;
d) Hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trýờng hợp sau ðây, thì bị phạt tù từ ba năm đến
bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Có tính chất chun nghiệp;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai tramtriệu
đồng;
ð) Gây hậu quả nghiêm trọng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến
mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trãm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
14
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu
đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất ðịnh từ một nãm ðến nãm nãm.
1. Chủ thể:
Chủ thể thường có năng lực hành vi hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp
luât hình sự.
2. Khách thể:
Tội phạm xâm phạm hoạt động bình thường trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
viễn thông.
3. Mặt khách quan:
Mục đích của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt tài sản, sử dụng máy tính, mạng
viễn thơng, mạng internet và thiết bị số như là công cụ phạm tội. Hành vi khách quan của
tội phạm thể hiện ở một trong những dạng sau:
Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để
chiếm đoạt hoặc làm giả thẻ ngân hàng nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh
toán hàng hố, dịch vụ. Trong đó, làm giả thẻ ngân hàng là việc cá nhân khơng có thẩm
quyền sản xuất, phát hành thẻ ngân hàng nhưng sản xuất thẻ giống như thẻ ngân hàng
(trong đó có chứa đựng thơng tin, dữ liệu như thẻ của ngân hàng phát hành).
Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm
đoạt tài sản, tức là việc cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa hoặc sử dụng mã
truy cập của người khác mà không được sự cho phép của người đó để truy cập vào tài
khoản khơng phải của mình để chiếm đoạt tài sản.
Lừa đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua
bán và thanh tốn cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Hành vi lừa đảo ở đây thể hiện ở việc sử dụng thủ đoạn gian dối, đưa ra những
thông tin sai sự thật về một sản phẩm, một vấn đề, lĩnh vực trong thương mại điện tử,
kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu trên mạng
nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm cho họ tưởng là thật
và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó.
Hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hành vi khác
ở đây có thể là gửi tin nhắn lừa trúng thưởng nhưng thực tế khơng có giải thưởng để
chiếm đoạt phí dịch vụ tin nhắn; quảng cáo bán hàng trên mạng Internet, mạng viễn
thông nhưng không giao
4. Măt chủ quan: Lỗi cố ý.
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TỘI PHẠM TỘI SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG
VIỄN THƠNG, MẠNG INTERNET HOẠC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI TỘI PHẠM THƠNG THƯỜNG
Qua phân tích những đặc điểm của tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ở phần trên chúng ta cũng đã
thấy được phần nào sự khác biệt giữa nhóm các tội các nhóm tội phạm thơng thường
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
15
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
khác. Nhìn chung có thể thấy 4 đặc điểm khác biệt cơ bản của tội phạm tội sử dụng máy
tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
so với tội phạm truyền thống như sau:
1. Về vai trị của máy tính, mạng máy tính: Một điểm khác biệt cơ bản giữa tội
phạm tội sử dụng máy tính, mạng viễn thơng, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản và tội phạm thơng thường chính là ở vai trị của máy tính,
mạng máy tính cũng như các thiết bị cơng nghệ thơng tin khác có liên quan đến q trình
thực hiện tội phạm. Máy tính, mạng máy tính vừa có thể là đối tượng của tội phạm lại
vừa có thể là môi trường và công cụ đắc lực để thực hiện hành vi tội phạm.
2. Về đặc điểm chủ thể:
Kẻ phạm các tội về tội phạm tội sử dụng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet
hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hầu hết là những người thơng minh,
những người có tri thức và am hiểu về cơng nghệ mới, là nhóm, tổ chức tội phạm. Phần
lớn những người phạm tội là những người có hiểu biết vững vàng về cơng nghệ kỹ thuật
số, máy tính và có kỹ năng khai thác sử dụng chúng thành thạo. Vì vậy, họ ln thành
cơng trong việc phạm tội và gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
thường thị họ là những người trẻ tuổi, chưa từng bị pháp luật trừng trị và không hề có
tiền án.
3. Về hậu quả thiệt hại:
Hậu quả của tội phạm này thường gây thiệt hại tài sản cho người bị hại, gây tác hại
đến tình hình kinh tế, chính trị và đời sống tinh thần của người dân. Hiện nay loại tội
phạm này đang có chiều hướng gia tăng đã gây ra thiệt hại hàng chục tỷ đồng Việt Nam
và hàng triệu đô la Mỹ cho các nạn nhân.
4. Về tính chất hành vi phạm tội:
Các hành vi phạm tội có liên quan đến tội sử dụng máy tính, mạng viễn thơng,
mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thường rất tinh vi.
Tính chất này được quy định do các đặc điểm sau:
- Kẻ phạm tội lợi dụng điểm yếu cả tin, nhẹ dạ, hám lợi, thiếu cảnh giác của người
bị hại.
- Kẻ phạm tội chỉ thực hiện hành vi phạm tội trong nháy mắt, chúng có thể thực
hiện hành vi phạm tội chỉ trong vịng một phần nghìn, thậm chí một phần triệu giây bằng
các máy tính có tốc độ xử lý siêu tốc.
- Kẻ phạm tội không bị hạn chế về thời gian, khơng gian, chúng có thể thực hiện
hành vi phạm tội ở bất cứ khi nào, bất cứ đâu thậm chí rất từ một nơi rất xa hiện trường
hoặc từ nước ngoài.
- Loại tội phạm này gây cho việc điều tra thu thập dấu vết cực kỳ khó khăn. Bởi kẻ
phạm tội có thể xố bỏ hồn tồn các dấu vết của hành vi phạm tội với một chương trình
xố dấu vết đã được đặt sẵn khi các lệnh phạm tội được thực hiện.
Ngoài bốn đặc điểm khác biệt cơ bản kể trên, chúng ta cũng có thể thấy một số dấu
hiệu khác biệt khác so với các nhóm tội phạm thơng thường như tính khơng biên giới của
loại tội phạm này, tính chất ngày càng tăng về số lượng và hậu quả, tinh vi về cách thức
tiến hành cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghệ thông tin...
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
16
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
Đặc điểm tội phạm học của tội phạm sử dụng công nghệ cao và giải pháp
nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh.
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (PCTP) sử
dụng công nghệ cao (C50), Bộ Công an, từ năm 2010-6/2014 lực lượng Cảnh sát
PCTP sử dụng công nghệ cao (CNC) trên cả nước đã phát hiện và xác minh 1.1476
đầu mối vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến yếu tố công nghệ cao
với 3.220 đối tượng, trong đó 823 vụ việc và 1.990 đối tượng là do C50; 450 vụ
việc và 1.230 đối tượng là do Công an các địa phương; tổng thiệt hại do loại tội
phạm trong lĩnh vực này gây ra lên tới hàng chục ngàn tỷ đồng.
CHƯƠNG III
DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CƠNG NGHỆ CAO VÀ ĐẶC ĐIỂM
PHƯƠNG THỨC THỦ ĐOẠN TỘI PHẠM SỬ DỤNG MÁY TÍNH, MẠNG DIỄN
THÔNG, MẠNG INTERNET HOẶC THIẾT BỊ SỐ THỰC HIỆN HÀNH VI
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
I. DIỄN BIẾN TÌNH HÍNH VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TỘI PHẠM CƠNG
NGHỆ CAO
Phân tích số liệu diễn biến tình hình vi phạm pháp luật (VPPL) trong
lĩnh vực CNC hàng năm cho thấy:
- Năm 2010: Đã phát hiện và xác minh 121 đầu mối vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật (bao gồm 7 chuyên án), gây thiệt hại ước tính gần 20 tỷ đồng,
2.000.000 đơ la Úc, 130.242 đơ la Mỹ, 820 máy tính xách tay và nhiều linh kiện
điện tử các loại. Kết quả: Đã chuyển Cơ quan điều tra các cấp khởi tố 08 vụ, 14 bị
can; chuyển Thanh tra chuyên ngành các cấp xử phạt hành chính 36 vụ; thu hồi 10
tỷ 238 triệu đồng và 112.842 đô la Mỹ.
- Năm 2011: Đã tiến hành phát hiện, xác minh, điều tra 165 đầu mối vụ
việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật (bao gồm 14 chuyên án). Thu giữ tiền và nhiều
tài sản khoảng 12 tỷ đồng và 235.000 USD. Kết quả: Đã chuyển Cơ quan điều tra
các cấp khởi tố 32 vụ, 81 bị can; chuyển Thanh tra các cấp xử phạt hành chính 09
vụ.
- Năm 2012: Đã phát hiện, xác minh 192 đầu mối vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật (bao gồm 17 chuyên án); gây thiệt hại ước tính hơn 1300 tỷ đồng;
đã thu hồi tiền và tài sản trị giá hơn 10 tỷ đồng. Kết quả: Đã chuyển Cơ quan điều
tra các cấp khởi tố 34 vụ, 90 bị can.
- Năm 2013: Đã phát hiện, xác minh 210 đầu mối vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật (bao gồm 30 chuyên án, 178 vụ việc và vụ án). Kết quả: Đã chuyển
CQĐT các cấp: 59 vụ, CQĐT đã khởi tố 35 vụ, 175 bị can (trong đó có 20 chuyên
án, 151 bị can và 15 vụ án, 24 bị can); chuyển Thanh tra các Bộ, ngành và các cơ
quan chức năng xử lý hành chính 30 vụ; thu giữ nhiều tiền và tài sản trị giá hàng
chục tỷ đồng.
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
17
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
- Sáu tháng đầu năm 2014: Đã tiếp nhận, phát hiện, xác minh, điều tra 146
đầu mối vụ việc, đơn thư (bao gồm 11 chuyên án, 135 vụ việc và vụ án). Kết quả:
Đã chuyển CQĐT các cấp: 23 vụ, CQĐT đã khởi tố 12 vụ, 71 bị can (trong đó có
04 chuyên án, 18 bị can và 08 vụ án, 53 bị can); chuyển Thanh tra các Bộ, ngành
và các cơ quan chức năng xử lý hành chính 05 vụ. Tính từ tháng 4 năm 2015 đến
nay ở nhiều nơi như Hà Nội lien tục xảy ra nhiều vụ cụ thể như sau: Đầu tháng 52015, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao, Công an TP Hà Nội
đã đưa ra thơng báo về tình trạng tội phạm cơng nghệ cao đang lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của nhiều người dân nhẹ dạ cả tin. Thủ đoạn của các đối tượng là gọi điện
qua Internet vào các thuê bao của các bị hại ở trong nước để thông báo tới bị hại
với nội dung đang nợ cước điện thoại, hoặc số tài khoản ngân hàng của bị hại bị kẻ
xấu chiếm đoạt để dùng vào mục đích xấu. Đồng thời với thông báo trên, các đối
tượng sẽ yêu cầu bị hại chuyển toàn bộ tiền vào một tài khoản khác sau đó sẽ
chiếm đoạt. Đầu tháng 4-2015, Cơng an TP Hà Nội đã nhận được 13 đơn trình báo
của bị hại với số tiền bị chiếm đoạt lên đến gần 3 tỉ đồng. Điển hình là ngày 15-4,
Phịng Cảnh sát phịng chống tội phạm công nghệ cao, Công an TP Hà Nội nhận
được đơn trình báo của 1 nạn nhân có hộ khẩu thường trú tại quận Hà Đông với
nội dung bị một đối tượng gọi vào số máy bàn của gia đình thơng báo về việc nợ
cước điện thoại với số tiền hơn 8 triệu đồng. Đối tượng này sau đó đã u cầu chị
ấn tiếp phím 0 để gặp cơ quan công an. Nạn nhân tin lời làm theo thì bị một đối
tượng khác tự xưng là Cơng an tỉnh Tây Ninh cho biết số tài khoản ngân hàng của
nạn nhân đã bị các đối tượng xấu đánh cắp và yêu cầu nạn nhân chuyển toàn bộ
tiền vào tài khoản khác, sau 1 đến 2 ngày sẽ chuyển trả lại. Ngay sau đó, nạn nhân
đã ra ngân hàng rút 400 triệu đồng và chuyển vào số tài khoản của đối tượng. Tuy
nhiên sau nhiều ngày không thấy tiền được chuyển trả, nạn nhân đã làm đơn gửi cơ
quan Công an. Cũng với thủ đoạn trên, ngày 5-5 một nạn nhân khác có hộ khẩu tại
quận Đống Đa đã bị lừa đảo chiếm đoạt số tiền lên tới 240 triệu đồng… Thủ đoạn
của các đối tượng rất tinh vi khi dùng Internet thông qua phương thức VOIP thông tin được truyền tải là mã hóa của âm thanh để gọi điện nhằm tránh sự truy
xét của cơ quan công an. Đồng thời sau khi tiền của nạn nhân chuyển vào tài khoản
thì các đối tượng sẽ lập tức rút tồn bộ tiền. Gần đây Bẫy lừa mới trên Facebook
Mới đây, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công
an TP Hà Nội xác minh một số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội với
thủ đoạn mới: Đối tượng gây án là người nước ngoài thường sử dụng Facebook để
làm quen các phụ nữ đơn thân. Sau nhiều tháng trò chuyện, đối tượng đề nghị tặng
cho bị hại những đồ vật có giá trị như tiền, dây chuyền, ĐTDĐ qua chuyển phát
nhanh từ nước ngồi về Việt Nam. Sau đó, chúng cấu kết với đối tượng người Việt
Nam giả danh nhân viên hải quan, cơ quan thuế, sân bay hoặc công ty chuyển phát
nhanh gọi điện cho bị hại thông báo lô hàng chuyển từ nước ngoài về đang bị tạm
giữ. Nếu muốn nhận lại, bị hại phải nộp các khoản tiền chuyển phát nhanh, tiền
thuế các tài khoản do chúng cung cấp. Đầu tháng 4-2015, chị Nguyễn Thị T., ở Hai
Bà Trưng, TP Hà Nội được một người đàn ông giới thiệu tên là Larry Smith, sinh
ra tại New Mexico, Mỹ, hiện đang sống với con trai ở Scotland làm quen trên
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
18
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
mạng xã hội Facebook. Sau một thời gian trò chuyện và trở thân thiết, ngày 10-4,
Smith cho biết sẽ tặng chị Nguyễn Thị T. một món quà. Sau đó 1 ngày, qua
Facebook Smith gửi hình ảnh hóa đơn và thùng q gồm đồng hồ đeo tay, dây
chuyền, nhẫn kim cương, nước hoa, máy ảnh, máy tính bảng, máy nghe nhạc… và
250.000 USD. Ngày 14-4, chị Nguyễn Thị T. nhận được cuộc gọi từ của một người
lạ tự xưng là nhân viên Sân bay Tân Sơn Nhất, TP.HCM thơng báo rằng gói hàng
gửi từ Scotland đang bị giữ, đề nghị nộp 23 triệu đồng vào tài khoản ngân hàng để
trả phí vận chuyển quà. Khi chị Nguyễn Thị T. làm theo hướng dẫn thì nhân viên
sân bay tiếp tục thông báo thùng quà của chị chứa một lượng lớn ngoại tệ, phải nộp
thêm 84 triệu đồng tiền thuế. Nghi ngờ bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị hại đã đến
cơ quan cơng an trình báo. Vẫn với thủ đoạn tương tự, chị Phạm Thị M D., ở Đắk
Lắk cũng bị một đối tượng nước ngoài tự xưng là David Jackson lừa đảo chiếm
đoạt hơn 300 triệu đồng. Quá trình làm quen trên Facebook, Viber, biết bị hại sống
đơn thân, Jackson nói sẽ sang Việt Nam cưới chị D. rồi đưa về Anh sinh sống. Sau
đó, Jackson nói rằng đã mua vé máy bay sang Việt Nam, chuyến bay SQ176 của
Hãng hàng không Singapore Airline, hạ cánh tại sân bay Nội Bài lúc 11h40. Đến
11h44 phút, chị D. được một người phụ nữ tự xưng nhân viên nhập cảnh Sân bay
Nội Bài thông báo đang tạm giữ David Jackson với lý do mang một lượng lớn
ngoại tệ vào Việt Nam mà không khai báo. Để giải quyết vụ việc, nhân viên nhập
cảnh sân bay đề nghị chị D. chuyển 15.500 USD vào một tài khoản ngân hàng. Khi
bị hại thông báo đã làm theo hướng dẫn, đối tượng tiếp tục yêu cầu chị D. chuyển
thêm 45.000 USD. Đến sân bay xác minh, chị D. mới giật mình nhận ra mình đã
trở thành bị hại của nhóm tội phạm chun lừa đảo qua Viber, Facebook…Khơng
thiếu thủ đoạn lừa đảo nào Tội phạm sử dụng công nghệ cao đang ngày càng phát
triển với các thủ đoạn đa dạng, tinh vi hơn. Đa phần người dân bị lừa đảo là do
lòng tham và sự thiếu hiểu biết. Từ việc nạp thẻ mua hồ sơ để nhận giải xe máy
hoặc tiền mặt; đến chiêu trò hack nạp thẻ điện thoại di động; tống tiền qua điện
thoại; gần đây trên mạng Internet đã xuất hiện 1 nhóm đối tượng chuyên lập các
website, kho ứng dụng cho điện thoại di động, máy tính bảng có nội dung khiêu
dâm. Từ đó chúng phát tán link trên các mạng xã hội nhằm lừa người sử dụng click
vào để chiếm đoạt tiền của họ. Sau khi được cảnh báo, các nội dung khiêu dâm bị
xóa bỏ trên các kho ứng dụng, tội phạm lại biến thể sang các trò lừa đảo mới như
việc tạo ra các trị chơi với hình dạng bên ngồi bình thường có tiêu đề rất “hot” để
câu khách song tiềm ẩn bên trong lại chứa các “mã độc” có khả năng gửi tin nhắn
về tổng đài để chiếm đoạt tiền trong tài khoản của người sử dụng. Nguy hiểm hơn,
có những “mã độc” có thể đánh cắp được các dữ liệu như ảnh, video, danh bạ, tin
nhắn, thông tin về tài khoản Facebook, E-mail, tài khoản ngân hàng… Với thủ
đoạn từ đơn giản đến phức tạp, chỉ cần lừa được 1 người/100 người thì đã thành
cơng của bọn tội phạm cơng nghệ cao. Chính vì vậy, để thu lợi bất chính, loại tội
phạm này cịn lợi dụng Internet, thơng qua các mạng xã hội để quảng cáo, giao
dịch mua - bán các loại giấy tờ giả. Giữa tháng 4-2015, Phòng Cảnh sát Hình sự
phối hợp với Phịng Cảnh sát phịng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công
an TP Hà Nội triệt phá đường dây làm giả giấy khám sức khỏe (GKSK) và mua
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
19
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
bán giấy xuất - nhập viện của 1 số bệnh viện lớn tại Hà Nội. 5 đối tượng bị bắt là
Vũ Văn Đề (SN 1991), ở quận Thanh Xuân; Dương Văn Mạnh (SN 1991), ở quận
Thanh Xuân; Nguyễn Thị Thương (SN 1991), ở quận Hoàn Kiếm và Đặng Thị
Tuyết (SN 1995); Đinh Quang Tùng (SN 1991) cùng ở quận Cầu Giấy, Hà Nội
khai nhận đã làm giả GKSK bằng thủ đoạn photocopy GKSK của Bệnh viện Giao
thông Vận tải, làm giả con dấu khắc tên bác sĩ, con dấu bệnh viện rồi rao bán trên
mạng xã hội Facebook. Khách nào có nhu cầu đặt mua giấy khám sức khỏe sẽ liên
hệ giao dịch trực tiếp với Vũ Văn Đề qua số ĐTDĐ được đăng trên Facebook.
Thấy số lượng khách “đặt mua” lớn, Dương Văn Mạnh lại mua lại số giấy tờ giả
do Vũ Văn Đề sản xuất, lập trang Facebook “Giấy khám sức khỏe”, đăng số điện
thoại cá nhân lên rao bán GKSK, giấy ra viện... Ngày 28-4, Phòng CSĐT tội phạm
về TTXH phối hợp với Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao, Công an TP Hà Nội bắt khẩn cấp Bùi Thị Thu Hà (24 tuổi) và Đinh Thế Nam
(22 tuổi), hiện đang thuê trọ và chung sống với nhau như vợ chồng ở quận Hoàng
Mai, Hà Nội về hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Cặp vợ
chồng “hờ” Hà - Nam làm giả các loại giấy ra viện, giấy chứng nhận điều trị, sổ
khám chữa bệnh của Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để
rao bán trên Facebook…
Trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về
CNC, cho thấy số vụ vi phạm pháp luật và tội phạm sử dụng CNC năm sau cao
hơn năm trước. Nếu năm 2010 chỉ phát hiện được 121 đầu mối vụ việc, thì năm
2013 đã phát hiện được 210 đầu mối vụ việc, tăng hơn 57%; chỉ tính riêng 6 tháng
đầu năm 2014 đã tiếp nhận, phát hiện 146 đầu mối, vụ việc, (tăng hơn 1,2% so với
cả năm 2010). Điều này cho thấy tình hình tội phạm sử dụng cơng nghệ cao đang
có chiều hướng ngày càng phức tạp, với diễn biến tăng cả về số vụ và tính chất,
mức độ, hậu quả. Đây mới chỉ là số vụ việc được phát hiện, còn theo đánh giá của
cơ quan chức năng và các chuyên gia, thì số vụ cịn ẩn là vơ cùng lớn, bởi tính đặc
thù hoạt động trong thế giới “ảo” của loại tội phạm này. Điều này cũng chỉ ra rằng,
thực tế số vụ vi phạm pháp luật hình sự phát hiện tương đối nhiều, nhưng số vụ
khởi tố và truy tố rất thấp, bởi chủ thể tội phạm thực hiện trên khơng gian mạng, có
thể ở một nơi nhưng lại gây ra hậu quả tồn cầu, do đó rất khó xác định chủ thể để
truy nguyên và bắt giữ, do rào cản về không gian mạng và lãnh thổ.
II. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG THỨC THỦ ĐOẠN VI PHẠM TRÊN MỘT SỐ
LĨNH VỰC
Một là, trong lĩnh vực xâm phạm an ninh, an tồn mạng máy tính diễn ra rất
phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với ANQG và TTATXH.
- Những năm qua, hệ thống mạng máy tính tại Việt Nam ln trong tình
trạng báo động với rất nhiều vụ tấn cơng, cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của
mạng máy tính, mạng Internet, phát tán virus, phần mềm gián điệp, mã độc hại có
chủ đích với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Hình thức tấn cơng rất đa
dạng (tấn công từ chối dịch vụ làm tê liệt hoạt động của trang web bị hại; lợi dụng
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
20
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
lỗ hổng bảo mật của các trang web để chiếm quyền điều khiển máy chủ, sau đó
thay đổi giao diện của trang web bị tấn công; xâm nhập trái phép hệ thống thông
tin để thu thập, trộm cắp, sửa đổi dữ liệu hoặc phá hủy cơ sở dữ liệu của trang web,
…) nhằm nhiều mục đích khác nhau. Nguy hiểm hơn, đã hình thành các ổ nhóm
đối tượng “lính đánh th” có sự tổ chức, móc nối chặt chẽ, được trả tiền để tấn
cơng vào các mục tiêu trên mạng phục vụ mục đích riêng của các đối tượng bỏ tiền
thuê như phá hoại hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để cạnh tranh
khơng lành mạnh hoặc vì các mục đích vụ lợi khác.
- Tình trạng phát tán các loại vi rút, phần mềm gián điệp, mã độc ngày càng
phức tạp và tinh vi. Đã xuất hiện nhiều biến thể các loại vi rút nhằm quét, tìm và
khai thác lỗ hổng bảo mật, điều khiển từ xa, phá hủy dữ liệu, thu thập, trộm cắp các
thông tin quan trọng như tài khoản ngân hàng, dữ liệu khách hàng, dữ liệu về các
giao dịch, hoạt động kinh doanh, sản xuất thuộc bí mật kinh doanh của các doanh
nghiệp. Các đối tượng cũng mở rộng các hình thức phát tán các loại phần mềm độc
hại qua thư điện tử, website khiêu dâm, diễn đàn trên mạng,… Đặc biệt, với sự phổ
biến rộng rãi của mạng xã hội, blog cá nhân và các loại điện thoại thông minh,
ngày càng xuất hiện nhiều loại vi rút, phần mềm độc hại ẩn trong các ứng dụng
thông dụng, phổ biến. Trong thời gian tới, đây sẽ là một trong những mục tiêu chủ
yếu của tin tặc. Một số vụ các đối tượng mua bán các thiết bị, phần mềm gián điệp
để cài đặt trên điện thoại thông minh, máy tính với quy mơ, phạm vi rộng lớn, xâm
phạm nghiêm trọng quyền riêng tư của công dân, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với
ANQG, TTATXH.
- Hiện đang tồn tại nhiều diễn đàn trên mạng Internet với hàng trăm nghìn
thành viên là người Việt Nam, nếu buông lỏng quản lý sẽ tiềm ẩn nguy cơ to lớn
đối với ANQG, TTATXH. Đặc biệt, xuất hiện nhiều diễn đàn tin tặc được xây
dựng để các đối tượng xấu tiến hành các giao dịch bất hợp pháp, trao đổi kinh
nghiệm, cách thức, công cụ, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm (Vụ diễn đàn
HkvFamily.info, diễn đàn VietExpert.info với hàng nghìn thành viên tham gia mua
bán, trao đổi thơng tin thẻ tín dụng bị trộm cắp).
Hai là, trong lĩnh vực sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông để chiếm
đoạt tài sản diễn biến rất phức tạp, khó lường (trộm cắp, sử dụng trái phép thơng
tin thẻ tín dụng; làm giả thẻ ATM; trộm cước viễn thơng; ...).
Điều đáng quan tâm đó là trong tổng số các vụ VPPL sử dụng CNC nói
chung bị phát hiện thì chiếm đa phần là số vụ VPPL sử dụng công nghệ cao để
chiếm đoạt tài sản: 767 vụ với 2.141 đối tượng trong 4 năm, chiếm 67,8%. Một số
loại hình lừa đảo đã diễn ra khá phổ biến trong thời gian qua:
- Tình trạng trộm cắp, trao đổi, mua bán, sử dụng trái phép làm giả thẻ tín
dụng để mua hàng ở nước ngồi chuyển về Việt Nam tiêu thụ diễn ra phức tạp. Đã
hình thành những đường dây gồm nhiều đối tượng cả trong lẫn ngồi nước và có
sự phân cơng thực hiện từng giai đoạn trong quá trình phạm tội. Tội phạm thường
xâm nhập bất họp pháp vào các website bán hàng, thanh tốn trực tuyến để trộm
cắp thơng tin thẻ tín dụng của người nước ngồi, sau đó sử dụng trái phép thông tin
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
21
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
thẻ tín dụng đó để đặt mua hàng hóa trực tuyến có giá trị cao (Iphone, Ipad, laptop,
máy ảnh...) chuyển về Việt Nam tiêu thụ, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các chủ
thẻ.
- Tội phạm lừa đảo trong thương mại điện tử dưới hình thức huy động tài
chính, kinh doanh đa cấp. Lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử
tại Việt Nam và tâm lý hám tiền, tham lợi, tham giàu nhanh mà không muốn bỏ
công sức lao động của nhiều người dân, các đối tượng đã lập lên những trang web
với vỏ bọc là các trang thương mại điện tử, nhưng thực chất là một tổ chức lừa
đảo, huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp.
- Lừa đảo lấy cắp thông tin cá nhân bằng phần mềm gián điệp để chiếm
đoạt tài sản. Với thủ đoạn sử dụng phần mềm gửi thư rác (spam) có nội dung
khuyến mại, trúng thưởng… gửi đến các các địa chỉ thư điện tử của nhiều người.
Khi người sử dụng nhận được thông báo chúc mừng đã trúng thưởng một chương
trình khuyến mãi chăm sóc khách hàng của một ngân hàng, cùng với nhiều phần
tiền thưởng hấp dẫn, kèm theo đó người dùng phải đăng nhập tài khoản ngân hàng
của mình và cung cấp mã xác thực OTP (One Time Password - loại mật khẩu dùng
một lần được ngân hàng cung cấp cho chủ tài khoản trước mỗi lần thực hiện giao
dịch) để nhận được phần thưởng. Vì chủ quan, người dùng đã làm theo hướng dẫn.
Từ đây, đối tượng sẽ chiếm toàn quyền quản trị, kiểm soát mọi hoạt động của
người sử dụng máy tính. Loại virus được cài vào máy sẽ tự động theo dõi người sử
dụng qua webcam, xem toàn bộ giao diện màn hình máy tính, thu tồn bộ thao tác
trên bàn phím rồi gửi lại cho đối tượng. Khi phát hiện người sử dụng máy tính thực
hiện giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng, đối tượng dùng phương thức này
để trộm cắp tài khoản, mật khẩu ngân hàng và mã xác thực OTP, sau đó thực hiện
việc chuyển tiền từ tài khoản người sử dụng sang các tài khoản khác.
- Tình trạng lừa đảo trên đầu số dịch vụ giá trị gia tăng (GTGT) trên
Internet, viễn thơng: Một số hình thức lừa đảo trên đầu số GTGT đang khá phổ
biến là: Tin nhắn gài bẫy: Gửi tin nhắn “rác” để lừa đảo người dùng nhắn tin, gọi
điện đến đầu số GTGT. Nếu như một tin nhắn bình thường chỉ có giá cước khoảng
300 đồng thì tin nhắn cho các đầu số này thường từ 3.000 - 15.000 đồng /tin. Theo
tính tốn, chỉ cần một ngày nhận được khoảng 100 tin nhắn có giá 15.000 đồng thì
chủ nhân sở hữu dịch vụ giá trị nội dung kia sẽ thu được khoản lợi nhuận lên tới
1.500.000 đồng (trong đó 50% chia cho nhà mạng, 50% cịn lại của kẻ lừa đảo).
+ Phần mềm lừa đảo: Sử dụng phần mềm gián điệp cài trên điện thoại smat
phone tự động gửi tin nhắn đến đầu số GTGT (wap charging). Nếu như với tin
nhắn gài bẫy, kẻ gian phải tốn công gửi tin đi để dụ người khác nhắn tin lại thì các
phần mềm lừa đảo sẽ tự động thực hiện việc đó. Vì thế, sự nguy hiểm cũng như tác
hại còn lớn hơn rất nhiều lần.
+ Hack SIM: Nếu như tin nhắn gài bẫy mang lại số tiền tối đa là 15.000
đồng /tin và có thể bị phát hiện tức thời thì phần mềm lừa đảo có thể lấy được hết
tiền trong tài khoản mà nạn nhân không hề hay biết. Tuy thế, “trị” phần mềm lừa
đảo thì là “cỏn con” so với “chiêu” hack SIM bởi hack SIM có thể giúp kẻ gian
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
22
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
trộm được không chỉ tiền trong tài khoản mà cịn có thể bán lại tài khoản ấy cho
người khác hoặc lấy hết tiền trong ngân hàng khi SIM đó được liên kết với tài
khoản ngân hàng của khổ chủ.
- Tội phạm lừa đảo tài sản bằng hình thức làm quen, giả yêu đương trên
mạng. Với thủ đoạn làm quen, trò chuyện, kết bạn qua mạng internet. Các đối
tượng, chủ yếu là người nước ngoài cấu kết với một số đối tượng trong nước
(thường xảy ra ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và cá tỉnh phía Nam) giả làm
người của những nước như Mỹ, Đức, Úc… sử dụng tiếng Anh làm quen, đặt vấn
đề yêu đương với bị hại. Đối tượng sử dụng ảnh giả, video giả để tạo lòng tin cho
bị hại, chúng thường có kịch bản là đã ly dị và có một khối tài sản lớn muốn tặng
cho người yêu mình và sẽ tổ chức lễ cưới tại Việt Nam. Sau khi “con mồi” bị khối
tài sản hàng triệu đô la làm hoa mắt và phát sinh lòng tham, đối tượng yêu cầu bị
hại chuyển một số tiền đến tài khoản (tại ngân hàng Việt Nam) mà chúng cho trước
để làm thủ tục hải quan, phí vận chuyển… Chúng bày ra rất nhiều chiêu trò để
người bị hại phải chuyển tiền nhiều lần cho chúng như phí chuyển tiền tăng, tiền
đang bị Cảnh sát nước ngoài tạm giữ, tiền đã về đến Việt Nam nhưng bị Hải quan
giữ nên phải đưa tiền để hối lộ… Bởi vậy, mỗi bị hại thường đã phải chuyển cho
đối tượng lừa đảo 2-3 lần, mỗi lần trung bình hàng trăm triệu đồng. Khi nhận được
tiền của “con mồi” chuyển đến tài khoản, ngay lập tức bọn chúng đưa thẻ tín dụng
cho những đối tượng người Việt Nam đi rút tiền tại các cây ATM và chuyển lại
cho chúng.
- Tội phạm tấn công hộp thư điện tử, chiếm quyền điều khiển, lừa đảo
chuyển tiền đến tài khoản của tội phạm. Các băng nhóm hacker là người nước ngoài
(chủ yếu là người Nigeria) sinh sống tại nước ngồi và Việt Nam, với thủ đoạn tấn
cơng vào các hòm thư điện tử của các doanh nghiệp, cá nhân có quan hệ kinh doanh,
thanh tốn tiền với nước ngoài. Chúng chiếm quyền điều khiển hộp thư, giả danh
doanh nghiệp, cá nhân viết thư cho đối tác, thay đổi các nội dung của hợp đồng mua
bán hàng hóa xuất nhập khẩu. Đối tượng thay đổi tài khoản thanh toán tiền trong
hợp đồng bằng tài khoản do chúng lập lên để khách hành chuyển tiền vào. Đối
tượng cấu kết với các đối tượng trong nước, tìm thuê những người Việt Nam lập tài
khoản ngân hàng, chuyển cho chúng để thực hiện hành vi lừa đảo. Sau khi nhận
được tiền lừa đảo, chúng chỉ đạo người được thuê rút tiền tại ngân hàng và chia nhau
theo tỷ lệ đã thỏa thuận (thường người được thuê hưởng 10 - 20%). Với hình thức
này, thời gian qua rất nhiều các doanh nghiệp cá nhân Việt Nam có hợp đồng kinh tế
với nước ngồi và ngược lại bị các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt số lượng tiền rất
lớn, vụ ít nhất là 2 - 3 nghìn USD, vụ nhiều có thể lên đến hàng trăm nghìn USD.
Ba là, trong lĩnh vực khác có liên quan.
Tình trạng đánh bạc trực tuyến và cá độ bóng đá qua mạng Internet trở nên
phổ biến, lan rộng trên cả nước với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Các
website chuyên tổ chức đánh bạc, cá độ trong và ngoài nước thường đặt máy chủ
tại nước ngoài và cấu kết với người Việt Nam hình thành các đường dây đánh bạc,
cá độ có quy mô lớn, được tổ chức thành mạng lưới nhiều tầng. Số lượng người
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
23
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
chơi lên đến hàng trăm nghìn người, lượng tiền đánh bạc lên đến hàng chục ngàn
tỷ đồng. Bằng những thủ đoạn tinh vi, các đối tượng trong nước câu kết với các
chủ cờ bạc lớn ở nước ngoài xây dựng mạng lưới hoạt động đánh bạc rộng khắp
các tỉnh, thành phố trong cả nước. Với mạng Internet, chưa bao giờ việc đánh bạc,
cá độ bóng đá lại dễ dàng, thuận lợi như hiện nay. Các con bạc có thể đánh bạc, cá
độ vào mọi thời điểm, nhiều lần trong ngày và số tiền đánh bạc khơng giới hạn. Do
đó, với số lượng con bạc hàng ngày đông đảo, qua các giao dịch đánh bạc, hàng
nghìn tỉ đồng đã bị chuyển ra nước ngồi, hậu quả đối với đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước là vô cùng nặng nề.
Trên thực tế, các website đánh bạc hầu hết đều có máy chủ đặt ở nước
ngồi, khi đưa vào Việt Nam gồm có hai phần: (1) Phần quản trị (quản lý, theo dõi)
dùng cho các đối tượng có vai trị tổ chức, thơng qua trang quản trị để điều hành
hoạt động đánh bạc trên mạng, theo thứ tự cấp trên đánh bạc trực tiếp với cấp dưới
(Super - Master - Đại lý - Con bạc); (2) Phần đánh bạc là các tài khoản đánh bạc do
các đối tượng tổ chức tự chia nhỏ rồi giao cho các con bạc, chịu sự quản lý của
phần quản trị, chỉ hoạt động được khi các đối tượng tổ chức cho phép (tạo tài
khoản).
Có hai hình thức tổ chức hoạt động đánh bạc, tương ứng với hai hình thức
thanh tốn đánh bạc sau đây:
Hình thức thanh tốn tiền trước ( hay còn gọi là thế chấp): Phần quản trị ở
nước ngồi sẽ tự động kiểm sốt trực tiếp toàn bộ hoạt động đánh bạc đến từng tài
khoản đánh bạc do người chơi bạc tự lập ra. Sau khi đã đăng ký tài khoản đánh bạc
trên mạng, con bạc phải mở tài khoản ở ngân hàng và nạp tiền, rồi chuyển tiền vào
tài khoản của chủ tổ chức có trên website. Số tiền nạp vào tài khoản sẽ quy ra điểm
hoặc tiền ảo, được dùng để các con bạc đánh trực tiếp với chủ website. Vì việc
chuyển tiền ra nước ngồi giữa con bạc và chủ website khơng thể thực hiện trực
tiếp, nên đối tượng tổ chức ở nước ngoài phải sử dụng khâu trung gian là các đối
tượng người Việt Nam. Những đối tượng này mở các tài khoản ở các ngân hàng
thương mại trong nước để các con bạc chuyển tiền vào, sau đó chuyển tiền ra nước
ngoài cho chủ website tổ chức đánh bạc bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi.
Hình thức thanh tốn tiền sau (hay goi là tín chấp): Đây là hình thức phổ
biến khi bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam. Các nhà cái ở nước ngoài sử dụng các
đầu mạng tổng trong nước (phần lớn là những đối tượng hình sự, lưu manh, giới
“anh chị”, “giang hồ”, “xã hội đen”) quản lý, tổ chức phân mạng cho các “đại lý”,
các con bạc thông qua giới thiệu đến các “đại lý” đăng ký chơi bạc và được “đại
lý” cấp cho tài khoản đánh bạc cùng một khoản tiền ứng trước trong tài khoản.
Trung bình mỗi con bạc được “đại lý” cấp cho một khoản tiền từ khoảng 3.000
USD đến 10.000 USD. Sau khi có tài khoản và tiền ứng trước, con bạc có thể đánh
bạc trên trang web của chúng. Sau kỳ hạn một ngày hoặc một tuần, con bạc phải
đến “đại lý” để thanh toán tiền thắng thua. Mức độ nguy hiểm của hình thức này là
con bạc khơng cần bỏ tiền ra mà vẫn có thể thực hiện hành vi đánh bạc với số tiền
ứng trước. Bởi vậy đến khi thua bạc, đối với những con bạc khơng có tiền thanh
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
24
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ
Đề tài: Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( điều 226b)
toán, “đại lý” sẽ dùng các biện pháp ép trả nợ như bắt giữ người trái pháp luật,
buộc gán nhà cửa, tài sản hoặc thuê “xã hội đen” đòi nợ,...
Về thủ đoạn nhận, chuyển tiền đánh bạc: Các đối tượng tổ chức, cầm đầu
các đường dây đánh bạc sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi để che giấu việc nhận,
chuyển tiền và đối phó với biện pháp phong tỏa tài khoản của các cơ quan chức
năng. Chúng thuê các đối tượng người Việt Nam mở tài khoản tại các ngân hàng
thương mại trong nước, sau đó sử dụng dịch vụ chuyển tiền điện tử (Internet
banking) để chuyển tiền qua nhiều tài khoản trung gian, nhanh chóng rút tiền ở tài
khoản cuối rồi chuyển ra nước ngồi bằng con đường “chợ đen” như: thơng qua
các cửa hàng vàng, các đại lý thu đổi ngoại tệ, các doanh nghiệp ở khu vực cửa
khẩu, biên giới,… Thông thường, khi các tài khoản có số dư khoảng vài trăm triệu
đồng trở lên là các đối tượng đã thực hiện luân chuyển ngay để rút lấy tiền mặt (có
trường hợp ngay trong ngày đã luân chuyển nhiều lần). Do đó, khi cơ quan Cơng
an phát hiện, triệt xóa các đường dây này thì trong các tài khoản chỉ cịn lại một
lượng tiền nhỏ.
III. NGUYÊN NHÂN, DIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1. Ngun nhân:
Một là, nhóm ngun nhân và điều kiện khách quan
- Tính “ẩn danh” và phương thức hoạt động “phi truyền thống” của tội phạm
mạng máy tính làm cho các đối tượng phạm tội khó bị phát hiện là một trong những
yếu tố kích thích đối tượng hoạt động phạm tội với niềm tin không thể hoặc rất khó bị
phát hiện. Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, đối tượng
phạm tội khơng cần có một giao tiếp trực tiếp nào với người hoặc cơ quan tổ chức bị
hại, nhiều trường hợp, người bị hại khơng xác định được máy tính, hệ thống thơng tin
của mình đã bị tấn cơng, thâm nhập, sao chép dữ liệu... do đó, đối tượng phạm tội
thường che dấu được tung tích với người bị hại.
- Khác với các dấu vết truyền thống của các vụ án hình sự, các dấu vết quan
trọng phản ánh về hoạt động phạm tội về mạng máy tính thường tồn tại dưới dạng
dữ liệu điện tử, ẩn trong các thiết bị lưu trữ và rất dễ bị xóa bỏ, thay đổi, làm ẩn,
mã hóa. Với chủ ý phạm tội, bằng kiến thức chuyên ngành và sự hỗ trợ của các phần
mềm được cung cấp rất phổ biến trên các trang mạng, các thiết bị phần cứng sẵn có
trên thị trường, các đối tượng khơng khó khăn để thay đổi, xóa bỏ ngay từ đầu các
dữ liệu điện tử liên quan đến quá trình phạm tội như thay đổi địa chỉ IP (fake IP), giả
địa chỉ thư điện tử (fake email)... Đối tượng, cũng có thể dễ dàng tiêu hủy các thiết
bị lưu trữ, đặc biệt gây ra những hỏng hóc về mặt vật lý làm cho việc phục hồi dữ
liệu trở lên vơ cùng khó khăn và hoặc nếu có phục hồi thì cũng cần có những
phương tiện chun dụng kỹ thuật cao và tốn nhiều thời gian với những kỹ sư,
chun gia giỏi.
- Các chương trình phần mềm thường có những lỗ hổng bảo mật nghiêm
trọng và các đối tượng phạm các tội về mạng máy tính thường tập trung khai thác
các lỗ hổng bảo mật này để thực hiện các hoạt động phạm tội. Phạm vi ảnh hưởng
GVHD:TS. PHẠM VĂN BEO
25
HVTH: NGUYỄN VĂN ĐỆ