MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp phát triển chung của toàn nhân loại, giáo dục luôn giữ
một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là chìa khoá dẫn tới một cuộc sống tốt đẹp
hơn, tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn. Nó góp phần vào việc lưu giữ những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và phát triển, truyền bá văn minh nhân
loại. Trong thời đại ngày nay- thời đại của sự bùng nổ tin học, thời đại “kinh
tế tri thức”, thời đại “ toàn cầu hoá” …đặc biệt là sự phát triển của công nghệ
cao thì giáo dục- đào đạo là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của kinh tếxã hội, là nguồn lực quan trọng quyết định vị thế của mỗi quốc gia trên trường
quốc tế. Chính vì vậy trong thời đại ngày nay, các quốc gia đều rất coi trọng
sự phát triển của giáo dục- đào tạo. Ở nước ta, giáo dục và đào tạo đã được
coi là quốc sách hàng đầu, với quan điểm giáo dục của dân, do dân, vì dân,
giáo dục gắn chặt với nguyện vọng, lợi ích của cộng đồng.
Sự phát triển của giáo dục và đào tạo trải qua một quá trình diễn ra liên
tục trong nhiều năm theo các cấp học, bậc học: từ mầm non, tiểu học, trung học
cơ sở, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học…
Trong đó, giáo dục trung học phổ thông giữ vai trò quan trọng trong hệ thống
giáo dục quốc dân, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ cao và phẩm chất nhân cách tốt. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho toàn xã hội nói
chung và ngành giáo dục nói riêng là nhanh chóng nâng cao chất lượng dạy
học ở các ngành học, cấp học, đặc biệt là đổi mới công tác dạy học ở các
trường trung học phổ thông-cấp học cuối cùng để người học bước vào đời.
Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung, giáo
dục THPT nói riêng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã đạt được những thành tựu
nổi bật cả về chất lượng và số lượng: chất lượng giáo dục-đào tạo không
ngừng được nâng cao, mạng lưới giáo dục không ngừng được hoàn thiện. Tuy
1
nhiên, bên cạnh đó cũng còn những hạn chế nhất định cần khắc phục, đặc biệt
là về cơ sở vật chất, trình độ quản lý, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của một
bộ phận cán bộ, giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp giáo
dục-đào tạo trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
Do đó, việc nghiên cứu lịch sử của giáo dục trung học phổ thông tỉnh
Ninh Bình trong thời kỳ từ khi tái lập tỉnh 1991 đến năm 2010 là một việc hết
sức cần thiết, sẽ góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử giáo dục của đất nước
nói chung, của tỉnh nói riêng, từ đó rút ra những hạn chế, những bài học kinh
nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của tỉnh trong tương lai. Bản
thân tôi là một người con của quê hương Ninh Bình và tương lai sẽ là một
giáo viên lịch sử, nhận thức được vai trò, vị trí của sự nghiệp giáo dục- đào
tạo, đặc biệt là tầm quan trọng của giáo dục trung học phổ thông nên tôi quyết
định chọn đề tài “ Giáo dục trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình (19912010)” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giáo dục luôn là một trong những vấn đề mang tính thời sự, đặc
biệt là trong giai đoạn “hiện đại hoá” đất nước hiện nay. Vì vậy mà nó luôn
được nhiều các cá nhân và tổ chức quan tâm nghiên cứu. Trong đó vấn đề
giáo dục Ninh Bình, nhất là từ khi tỉnh được tái lập (1991) đã có một số người
quan tâm nghiên cứu :
Năm 2005, cuốn “Lịch sử Đảng bộ Ninh Bình”, tập 2 (1975-2000)
được xuất bản đã phản ánh lịch sử Đảng bộ tỉnh, trong đó có đề cập khái quát
về giáo dục Ninh Bình trong 25 năm kể từ khi giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Tuy nhiên cũng mới chỉ đề cập tới một số ít số lượng trường,
lớp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặc dù vậy những số liệu đó là những
tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu giáo dục Ninh Bình
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục đề tài “Các giải pháp thực hiện phổ
cập giáo dục bậc trung học của tỉnh Ninh Bình đến 2015” của tác giả Ngô
2
Thành Hưng (năm 2007) trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát đánh giá
thực trạng của công tác phổ cập giáo dục, đề xuất những giải pháp phù hợp và
khả thi thực hiện phổ cập bậc trung học ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2015 đáp
ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục đề tài “Giải pháp phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình đến năm
2020” của tác giả Đinh Hữu Lực (2008) đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
quản lý để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Ninh
Bình.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục đề tài “ Biện pháp quản lý hoạt
động dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của hiệu trưởng các trường
trung học phổ thông thành phố Ninh Bình” của tác giả Nguyễn Hữu Tính
(năm 2008) đã nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học của
các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Ninh Bình và đề xuất
các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất
lượng dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Năm 2010, Ban tuyên giáo Ninh Bình và Viện Khoa học xã hội Việt
Nam đã phát hành cuốn “Địa chí Ninh Bình”, gồm gần 1500 trang với 6 phần,
đã trình bày một cách có hệ thống các lĩnh vực như địa lý, lịch sử, kinh tế, văn
hóa, hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh...của tỉnh Ninh Bình. Trong đó
đã đề cập một cách khái quát nhất đến giáo dục Ninh Bình qua từng thời kỳ
lịch sử từ thời kỳ phong kiến đến nay. Đó là những tư liệu hết sức quý giá đối
với việc nghiên cứu về giáo dục Ninh Bình nói chung và giáo dục Trung học
phổ thông Ninh Bình nói riêng.
Bên cạnh đó là một số luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục khác như: đề
tài “ Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường trung
học phổ thông huyện Yên Khánh-Ninh Bình trong bối cảnh hiện nay” của Đỗ
3
Văn Thông (năm 2008); đề tài “ Dự báo, quy hoạch phát triển đội ngũ giáo
viên huyện Nho quan, tỉnh Ninh Bình đến năm 2015” của Nguyễn Thị Yến
( năm 2008); “ Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề
nghiệp của hiệu trưởng trường trung học phổ thông ở thành phố Ninh Bìnhtỉnh Ninh Bình” của Lê Quốc Huy (năm 2009). Ngoài ra trên các báo, tạp chí
địa phương và đặc biệt là trong các báo cáo tổng kết hàng năm của Sở giáo
dục-đào tạo Ninh Bình cũng đề cập tới sự phát triển của giáo dục phổ thông
tỉnh.
Nói tóm lại, cho đến nay đã có một số bài báo, luận văn có đề cập đến
giáo dục trung học phổ thông Ninh Bình nhưng vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về giáo dục trung học phổ thông tỉnh Ninh
Bình từ khi tách tỉnh đến nay. Tất cả các công trình, bài viết nói trên mới chỉ
đề cập một cách sơ lược hoặc chỉ đi sâu nghiên cứu một mặt cụ thể. Tuy
nhiên đã chứa đựng những tư liệu hết sức quý giá về giáo dục trung học phổ
thông tỉnh Ninh Bình để tôi tham khảo cho công trình nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về giáo dục THPT Ninh Bình gồm quá
trình phát triển, những thành tựu, hạn chế của giáo dục trung học phổ thông
tỉnh Ninh Bình.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Toàn bộ hệ thống giáo dục trung học phổ thông
trong tỉnh Ninh Bình
Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu giáo dục trung học phổ thông tỉnh
Ninh Bình từ năm 1991 khi tách tỉnh đến năm 2010.
3.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
4
- Nghiên cứu những điều kiện ảnh hưởng đến giáo dục trung học phổ
thông tỉnh và tình hình giáo dục trung học phổ thông Ninh Bình trước khi tái
lập tỉnh năm 1991
- Khôi phục lại quá trình phát triển của giáo dục trung học phổ thông
tỉnh Ninh Bình từ năm 1991 đến năm 2010
-Rút ra được những thành tựu, hạn chế, những đặc điểm và những vấn
đề còn tồn tại của giáo dục trung học phổ thông Ninh Bình để có những giải
pháp cho quá trình phát triển của giáo dục trung học phổ thông Ninh Bình
trong những năm tiếp theo.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã cố gắng khai thác triệt để các
nguồn sử liệu viết về giáo dục trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình trong giai
đoạn 1991-2010, gồm các nguồn tài liệu sau:
-Các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện Đảng làm cơ sở
lí luận nghiên cứu.
-Các niên giám thống kê tỉnh Ninh Bình từ 1991 đến 2010.
-Các báo cáo tổng kết năm học của Sở giáo dục-đào tạo Ninh Bình giai
đoạn 1991-2010.
-Các văn bản chỉ thị, nghị quyết của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Bộ
giáo dục-đào tạo liên quan đến giáo dục trung học phổ thông Ninh Bình.
-Các tác phẩm lịch sử có liên quan đến giáo dục trung học phổ thông
tỉnh Ninh Bình.
-Các luận văn, bài viết liên quan đến giáo dục phổ thông Ninh Bình.
-Các tài liệu lưu trữ ở một số trường trung học phổ thông tiêu biểu.
Ngoài ra là các kết quả có được khi đi điền dã, thực tế ở một số trường
trung học phổ thông.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
5
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây:
-Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là những biểu hiện khác
nhau của phương pháp biện chứng macxit:
+Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét các hiện tượng, sự vật
qua các giai đoạn cụ thể với mọi tính chất cụ thể của nó.
+Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng, sự vật
trong hình thức tổng quát của nó, nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh
hướng chung trong sự vận động của cái khách quan được nhận thức này.
-Phương pháp thống kê, hệ thống, đối chiếu, so sánh các sự kiện để
thấy được sự phát triển qua các thời kỳ của giáo dục trung học phổ thông tỉnh
Ninh Bình từ 1991-2010
-Phương pháp phân tích tổng hợp để thấy được mối liên hệ và tác động
qua lại giữa bối cảnh lịch sử với tình hình giáo dục trung học phổ thông Ninh
Bình trong thời kỳ 1991-2010.
- Phương pháp điền dã để khảo sát tình hình thực tế.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống giáo dục
trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ từ sau khi tách tỉnh năm
1991 đến năm 2010. Trên cơ sở đó, luận văn làm rõ đặc điểm, sự phát triển
của giáo dục trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình và rút ra được những
nguyên nhân của sự phát triển đó. Đồng thời rút ra được những vấn đề còn tồn
tại trong giáo dục trung học phổ thông Ninh Bình ngày nay để phát huy
những mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu để giáo dục trung học phổ thông
Ninh Bình ngày càng phát triển.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục
gồm 3 chương
Chương 1: Khái quát giáo dục trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình
trước năm 1991.
6
Chương 2: Giáo dục trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ
1991-2010.
Chương 3: Thành tích, hạn chế và những đặc điểm của giáo dục trung
học phổ thông tỉnh Ninh Bình giai đoạn 1991-2010
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH NINH BÌNH TRƯỚC NĂM 1991
1.1. Khái quát về tỉnh Ninh Bình
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Ninh Bình là một tỉnh cực nam đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội
hơn 90 km về phía Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam; phía Đông và Đông Bắc
giáp Nam Định, có sông Đáy là ranh giới. Phía Đông Nam giáp Vịnh Bắc Bộ.
Phía Tây Bắc giáp Hòa Bình. Phía Tây và Nam giáp Thanh Hóa, có dãy núi
Tam Điệp là ranh giới. Với vị trí đó, Ninh Bình là một địa bàn chiến lược vô
cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ninh Bình là một tỉnh có diện tích nhỏ so với cả nước và trung bình so
với đồng bằng sông Hồng. Tỉnh Ninh Bình hiện nay có diện tích rộng gần
1400km² (trong đó có 40% diện tích là rừng núi). Ninh Bình có 8 đơn vị hành
chính với 6 huyện (Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, Yên Khánh, Yên Mô, Kim
Sơn), 1 thị xã ( Tam Điệp), 1 thành phố (Ninh Bình), gồm 145 xã, phường, thị
trấn. Trong đó, thành phố Ninh Bình là đô thị loại 3 – trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa của tỉnh.
Địa hình tự nhiên phân thành 3 vùng rõ rệt:
Thứ nhất là vùng núi đá vôi ở phía Tây và Tây Bắc của tỉnh với những
dãy núi đá vôi trùng điệp. Vùng núi Ninh Bình có nhiều hang động đẹp nổi
tiếng như: Bích Động, Địch Lộng, động Thiên Tôn, động Liên Hoa…đặc biệt
7
là khu hang động Tràng An; đèo Ba Dội là “cổ họng Bắc – Nam”, cửa ải
trọng yếu giữa khu III và khu IV của đất nước.
Thứ hai là vùng đồng bằng chiêm trũng. Nhìn chung địa mạo đồng
bằng khu vực Ninh Bình mang những đặc điểm của vùng đồng bằng Bắc Bộ,
được hình thành nhờ sự bồi tụ trầm tích phù sa sông.
Thứ ba là vùng đồng bằng ven biển ở huyện Kim Sơn, Yên Khánh và
phía Nam huyện Yên Mô. Nhờ lượng phù sa lớn của sông Đáy bồi đắp, đồng
bằng Ninh Bình tiến ra biển với tốc độ rất nhanh. Vùng đồng bằng ven biển
ngày càng tăng thêm diện tích, hằng năm tiến ra biển từ 80 đến 100m, tạo nên
vùng đất bồi phì nhiêu, màu mỡ.
Khí hậu ở Ninh Bình tương đối đồng nhất-là vùng tiểu khí hậu, mang đặc
điểm của khí hậu nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió mùa
Đông Nam, và cũng chịu ảnh hưởng của khí hậu rừng núi và khí hậu ven biển.
Hệ thống giao thông thủy bộ ở Ninh Bình tương đối thuận tiện, thuận
lợi giao lưu kinh tế-văn hóa, thông thương vào Nam ra Bắc và ngược lên các
vùng Tây Bắc.
1.1.2. Tình hình kinh tế-xã hội
Dân số Ninh Bình hiện nay khoảng 920.000 người. Mật độ trung bình
662 người/km2. Nhân dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề nông. Ngoài
trồng trọt, chăn nuôi còn có các ngành nghề thủ công mỹ nghệ phát triển
mạnh như khai thác đá và trạm trổ đá mỹ nghệ, thêu ren, dệt chiếu và hàng
cói, đồ gốm, đan lát…Thiên nhiên đã tạo cho Ninh Bình một vùng đất có
biển, có rừng núi, có đồng bằng, giàu tiềm năng phát triển kinh tế-văn hóa
toàn diện.
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, được sự quan tâm của Trung ương Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và sự giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ
và nhân dân Ninh Bình đã quyết tâm phấn đấu, đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, đạt được những thành tựu quan trọng, hoàn thành khá toàn diện mục
8
tiêu các Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã đề ra. Kinh tế phát triển, tốc độ
tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực huy
động cho đầu tư phát triển tăng nhanh; cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng
cường. Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được
cải thiện nhiều mặt, bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới; an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được tăng cường.
Hệ thống chính trị được củng cố, dân chủ trong Đảng và trong nhân dân
được mở rộng. Thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đấu tranh
chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng có những chuyển biến tích cực. Vị
thế Ninh Bình được khẳng định và nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế-văn hóa.
Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hóa-xã hội có
nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm đạt cao; Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn năm
1996-2000 đạt bình quân 8,12%/năm, từ 2001-2005 bình quân đạt
11,9%/năm; giai đoạn 2006-2009 đạt 17,0%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Năm 1991, Nông-lâmngư nghiệp: 75,74%; Dịch vụ: 6,08% Công nghiệp-xây dựng: 18,18%, đến
năm 2006 nông nghiệp giảm còn 28%; Dịch vụ: 33%; Công nghiệp-xây
dựng:39 %. Thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng,
năm 2006 đạt 6,42 triệu đồng, tăng 12,5 lần, đến năm 2008 đạt 10,824 triệu
đồng. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878 tỉ đồng,
tăng 35,98 lần, đến năm 2009 đạt 2.660 tỉ đồng [31; tr.201-202].
Nông nghiệp liên tục được mùa, phát triển toàn diện gắn với sản xuất
hàng hóa, trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực. Năm 1991 tổng sản lượng
lương thực đạt 19,4 vạn tấn, năm 2006 đạt 48,4 vạn tấn; Giá trị sản xuất nông
nghiệp năm 1991 đạt 767 tỷ đồng, đến năm 2006 đạt 1.821 tỷ đồng, tăng 2,7
lần [31; tr.202]. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được một số vùng chuyên
9
canh sản xuất hàng hóa tập trung gắn với cơ sở chế biến như vùng trồng cây
vụ đông, vùng lúa chất lượng cao, vùng nuôi tôm sú, nuôi cua, vùng trồng và
chế biến cói…
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng khá, vốn đầu tư
phát triển nhanh. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1991 đạt 300,8 tỷ đồng;
năm 2001 đạt 1.527 tỷ đồng; đến năm 2006 đạt 3.590,7 tỷ đồng, tăng 11,9
lần; năm 2009 đạt 7.486 tỉ đồng [15; tr.423]. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp có
bước phát triển nhanh, nhiều làng nghề truyền thống như đá mỹ nghệ, thêu
ren, chiếu cói và một số ngành nghề mới như sản xuất mộc nhĩ, nấm rơm…
được khôi phục và phát triển đem lại giá trị lớn, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động.
Kinh tế du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh với
nhiều di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Các hoạt động văn hóa phát triển mạnh, đặc biệt là văn hóa cơ sở phục
vụ kịp thời, có hiệu quả. Nhiệm vụ kinh tế-xã hội, thiết chế văn hóa được
quan tâm đầu tư.
Nhờ có tăng trưởng kinh tế nhanh, tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Ninh
Bình đã có sự đổi mới quan trọng, nhanh chóng phát triển các trung tâm công
nghiệp, phát triển các khu du lịch của tỉnh Ninh Bình.
1.1.3. Dân cư và truyền thống hiếu học
*Dân cư
Ninh Bình có miền đất cổ, có rừng cây ven núi lan ra gần biển, có núi đá
vôi với nhiều hang động, gần nguồn nước, đã là một khu sinh thái hấp dẫn người
tiền sử đến ngụ cư sinh sống và phát triển, tạo nên lịch sử dân cư lâu đời.
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, hiện nay Ninh Bình có hơn 900 nghìn
người, trong đó người Kinh đông trên 98 %; người dân tộc Mường ở 5 xã
Nho Quan có trên 100 ngìn người; người theo đạo Thiên chúa có hơn 135
10
nghìn người, chiếm 15 % dân số toàn tỉnh, riêng huyện Kim Sơn có khoảng
80 nghìn người theo đạo Thiên chúa, chiếm tới 43% dân số của huyện.
Nước Việt Nam là cộng đồng của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc vừa
mang những nét bản sắc chung nhất vừa có những nét riêng biệt, tạo nên sắc
màu riêng trong bức tranh truyền thống đa dạng, phong phú của cả đại hội
đồng dân tộc Việt Nam. Từ thưở xa xưa, Ninh Bình đã có hai dân tộc là Kinh
và Mường sinh sống, “đã chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh dựng xây và
bảo vệ dải đất quê hương từ thưở khai sơn phá thạch, dựng cơ đồ. Mỗi dân
tộc có một bản sắc văn hóa truyền thống và phong tục riêng, nhưng cũng đều
có một bản chất chung nhất là cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu
tranh chống thiên tai, giặc dã, gắn bó và yêu quê hương đất nước, chất phác,
giản dị và có khí tiết” [61; tr.46].
Ninh Bình - vùng đất không chỉ phong cảnh hữu tình mà con người
cũng tuấn kiệt, thông minh và có khí tiết. Nhân dân Ninh Bình từ lâu đời đã
có nhiều đóng góp vào lịch sử chung của dân tộc. Trong quá trình đấu tranh
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ thời kỳ mở nước đến nay đã mấy nghìn năm,
thời nào Ninh Bình cũng có nhiều anh hùng hào kiệt, nhiều văn nhân nổi
danh, có nhiều người văn võ kiêm toàn, nêu cao truyền thống dân tộc.
Trong lịch sử đấu tranh bất khuất và hào hùng của dân tộc trong suốt
mấy ngàn năm, mảnh đất Ninh Bình đã cống hiến nhiều người con hiền tài
cũng như đóng góp nhiều danh nhân cho Tổ quốc. Trong đó phải kể đến
những nhân vật tiêu biểu như: Đinh Tiên Hoàng-người có công dẹp loạn 12
sứ quân, thống nhất giang sơn, định đô, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước.
Thời Lý có Nguyễn Minh Khuông-được phong làm quốc sư. Thời Trần có
Trương Hán Siêu, làm đến Thái phó, khi mất được thờ ở Văn Miếu. Thời Lê
có Trịnh Lỗi theo Lê Thái Tổ dẹp quân Minh, lập nhiều chiến công lớn…
Ngoài ra, còn phải kể đến rất nhiều danh tướng, danh sĩ các đời. Có thể khẳng
định: thời nào Ninh Bình cũng có nhân tài, hào kiệt.
11
* Truyền thống hiếu học
Ninh Bình là vùng đất có truyền thống hiếu học. Ngay trong thời Bắc
thuộc hay phong kiến tự chủ thì trong gia đình, việc học hành được chú trọng;
trong xã hội, giá trị của học hành được đề cao. Tỉnh đã có nhiều người đỗ đạt
cao trong các khoa thi thời phong kiến. Ngoài thời Đinh-Tiền Lê, Lý là chưa
có tài liệu thì từ đời Trần cho đến thời Lê rồi triều Nguyễn với việc học được
mở rộng, ở Ninh Bình người học khá đông ở nhiều huyện. Đã có một số
người đạt khoa bảng cao. Nổi bật như:
Thời Trần có Trương Hán Siêu, đậu Thái học sinh (Tiến sĩ), làm Thái
phó, dạy cho các hoàng tử suốt 3 đời vua, vua gọi là thầy, không kêu tên.
Được thờ tại Văn Miếu (Hà Nội), thời Nguyễn được thờ chung ở miếu Đế
Vương tại Huế [58; tr.10].
Thời Nguyễn dưới triều vua Tự Đức có Vũ Duy Thanh, chế khoa cát sĩ,
bảng nhãn, làm Quốc tử giám Tế tửu (hiệu trưởng). Khi ở Quốc tử giám, ông
đã dâng lên vua Tự Đức “Tám điều cải cách giáo dục nước nhà”, chứa đựng
một số quan điểm giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông định lại phép dạy
học và phép thi. Có thể nói ông là một nhà giáo dục tiến bộ [7; tr.200].
Cũng dưới triều vua Tự Đức có Phạm Thận Duật, người Yên Mô, đỗ cử
nhân 1850, làm Thượng thư Bộ hình, hộ giá vua Hàm Nghi, tham gia thảo
chiếu Cần Vương, khâm sai chánh sứ sang Trung Quốc cầu viện chống Pháp,
sau bị Pháp bắt đưa đi đày, hi sinh trên biển năm 1860 [58; tr.16].
Ngoài ra còn rất nhiều người đỗ đạt các vị như tiến sĩ, phó bảng, cử
nhân, sinh đồ…
Những đóng góp, cống hiến của nhiều vị được nhân dân ngưỡng mộ và
lập đền thờ, được khắc tên vào bia đá ở địa phương để thờ phụng và lưu
truyền hậu thế nhằm tôn vinh những người hiền tài có đóng góp cho quê
hương đất nước. Ở các huyện trong tỉnh có lập Văn từ là nơi hội họp các văn
nhân, lập bia ghi tên những người học đỗ cao. Tỉnh có Văn Miếu. Điều này
12
thể hiện truyền thống tự hào của người dân địa phương, đó cũng chính là hành
động thể hiện sự kính trọng của người dân đối với những người có học.
Ngày nay, kế thừa những di sản vô giá đó, tỉnh Ninh Bình có những
nhà giáo giàu tâm huyết, nhiều học sinh giỏi, xuất sắc, thành tài. Có những
người đạt đến học hàm giáo sư, phó giáo sư, học vị tiến sỹ với nhiều thạc sỹ,
các kĩ sư, bác sĩ, cử nhân, hàng ngàn cán bộ văn hóa, khoa học kĩ thuật hoạt
động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Truyền thống hiếu học là sự thể
hiện tính cần cù và chịu khó học hỏi của người dân Ninh Bình.
1.2. Khái quát về giáo dục Trung học phổ thông Ninh Bình từ sau
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến năm 1991
1.2.1. Giáo dục Trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình từ sau cách
mạng Tháng 8 năm 1945 đến năm 1954
Thực dân Pháp sau khi bình định xong nước ta, chúng bắt tay vào tiến
hành công cuộc khai thác thuộc địa. Bên cạnh các chính sách phản động về
kinh tế và chính trị, chúng còn tìm mọi cách nhằm xóa bỏ nền giáo dục khoa
cử và thay vào đó bằng nền giáo dục thực dân mà thực chất đó là chính sách
nô dịch, ngu dân.
Chính sách ngu dân của thực dân Pháp về mặt giáo dục nhằm đầu độc
văn hóa là một trong những chính sách cai trị của thực dân Pháp. Dưới chiêu
bài “Khai hóa văn minh”, thực dân Pháp chú trọng mở các trường tân học
(theo chương trình của Chính phủ Pháp) với mục tiêu đào tạo tay sai và đồng
hóa dân tộc bằng cách thông qua dạy cho người bản xứ về nền văn minh của
nước Pháp. Chúng hy vọng thế hệ trẻ Việt Nam sẽ dần bị Pháp hóa, sùng bái
nền văn minh Pháp, coi khinh nền văn hóa dân tộc và sẽ trở thành người dân
thuộc địa trung thành với mẫu quốc Pháp. Để thực hiện được việc đó, thực
dân Pháp đề ra những chính sách về giáo dục nhằm ngày càng hoàn thiện hơn
công cuộc “ngu dân” đối với người Việt Nam. Ngày 21/12/1917 toàn quyền
AnbeXaro ban hành Bộ luật về giáo dục mang tên “Học tổng chính quy” và
13
thành lập Hội đồng tư vấn học chính Đông Dương với chức năng cơ bản là
giúp cho tên toàn quyền Đông Dương đề ra những quy chế của ngành giáo
dục. Nội dung khẳng định việc xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục phong kiến,
xác lập nền giáo dục thực dân phục vụ cho công cuộc cải cách giáo dục của
nhà cầm quyền Pháp. Năm 1919, AnbeXaro ra lệnh bãi bỏ các trường dạy chữ
Hán và các khoa thi Hội (chỉ cho phép tồn tại những trường Thiên chúa giáo
do các giáo sĩ phương Tây mở) nhằm xóa bỏ nền giáo dục khoa cử phong
kiến có từ trước. Năm 1924 toàn quyền Meclanh thi hành cải cách còn giáo
dục nguy hại hơn. Ông ta cho rằng 9/10 học sinh nông thôn Việt Nam không
đủ sức học hết bậc sơ học nên chỉ cần mở các trường sơ học là đủ. Chúng đề
ra chương trình gọi là phát triển giáo dục theo chiều ngang chứ không theo
chiều dọc.
Với những chính sách thâm độc như vậy, thực dân Pháp đã gây ra hậu
quả vô cùng nghiêm trọng về mặt văn hóa đối với nhân dân Việt Nam nói
chung và nhân dân Ninh Bình nói riêng. Đến trước Cách mạng Tháng 8/1945
người biết chữ toàn tỉnh có 9.115 người trong tổng số dân khi đó là 352.290
người, chiếm 3% dân số. Suốt 80 năm Pháp thuộc chỉ có cấp tiểu học ở Ninh
Bình. Từ năm 1906 có trường tiểu học ở tỉnh lỵ, sau đó đến các huyện lỵ,
không có lớp cấp trung học (dù là cấp Trung học cơ sở). Người Ninh Bình tốt
nghiệp tiểu học muốn học lên phải ra Nam Định hoặc lên Hà Nội trọ học.
Tiền học phí cũng rất đắt, trường công học phí mỗi tháng 4 đồng, tương
đương với hai tạ gạo. Do vậy những người đi học xã có bằng cao đẳng tiểu
học (cấp 2) rất ít, nhiều làng có được một người. Người đỗ tú tài (cấp 3) toàn
tỉnh chỉ đếm trên đầu ngón tay. Những người này được coi là trí thức, đều
thoát ly nông thôn, nông nghiệp. Chỉ một số ít khi nghỉ hưu mới trở về làng.
Làng xã vẫn vắng bóng người tài.
Như vậy trước cách mạng tháng Tám năm 1945 Ninh Bình chưa có
trường lớp cấp 3.
14
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời đã đem lại một cuộc sống mới cho người dân đất Việt. Từ cuộc sống
lầm than cơ cực dưới ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến, giờ đây
người dân Việt Nam đã thực sự được tự do, bình đẳng và có quyền mưu cầu
hạnh phúc.
Giáo dục là một nhiệm vụ cấp thiết mà Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
hết sức quan tâm. Bởi lẽ, khi nhân dân ta giành được chính quyền thì ở nhiều
nơi nhất là các thôn, xã, vùng sâu, vùng xa…rất ít người đọc thông viết thạo,
đó là chưa kể đến những yêu cầu về đội ngũ cán bộ cho các ngành kinh tế,
quân sự, văn hóa cho đất nước. Nạn dốt những hậu quả khác do chính sách cai
trị ngu dân của thực dân Pháp để lại một thách thức to lớn đối với chính
quyền nhà nước non trẻ. Chính vì thế, một trong những nhiệm vụ cấp bách
đầu tiên về giáo dục là phải diệt dốt, đồng thời nhanh chóng xóa bỏ nền giáo
dục thực dân, thay thế bằng một nền giáo dục dân chủ nhân dân.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong bản “Chỉ thị kháng chiến-kiến quốc”,
Đảng và Hồ Chủ tịch đã vạch ra ngay từ đầu nhiệm vụ của giáo dục là: “mở
đại học và trung học, cải cách việc học theo tư tưởng mới, bài trừ cách dạy
nhồi sọ”. Trong những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, Chính phủ đã
quyết định: Trong một thời gian ngắn sẽ bắt buộc học chữ quốc ngữ để chống
mù chữ triệt để, tiếp đó Chính phủ ra sắc lệnh 146 tháng 8/1946 khẳng định
ba nguyên tắc của giáo dục mới là: Dân tộc-khoa học-đại chúng.
Đối với tỉnh Ninh Bình lúc này, trình độ văn hóa còn thấp, 97% dân số
Ninh Bình mù chữ, số học sinh tiểu học chỉ khoảng 1% dân số. Thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, ngành giáo dục và đào tạo Ninh
Bình đã tiến hành triển khai công tác diệt giặc dốt và xây dựng hệ thống
trường lớp cấp phổ thông trong tỉnh theo chủ trương của Đảng và Chính phủ.
Thời kỳ này, giáo dục Ninh Bình nói chung và giáo dục Trung học phổ thông
nói riêng đã có những bước tiến đáng kể.
15
Tháng 9/1949, trường trung học đầu tiên của tỉnh được thành lập, đó là
trường Hoa Lư. Lúc đầu trường đóng ở Thiệu Hóa (Thanh Hóa), sau đó một bộ
phận được chuyển về Điềm Giang và Đông Khê (huyện Gia Viễn). Từ 9/1950,
trường đóng ở thôn Sưa (huyện Nho Quan), có cả một số lớp cấp 3. Khi trường
Hoa Lư về thôn Sưa, có thêm trường tư thục La Văn Cầu. Cuối năm 1953, theo
đà chiến thắng, bộ phận trường Hoa Lư ở Thanh Hóa chuyển ra, thống nhất với
bộ phận ở Ninh Bình, về đóng ở Liên Huy (huyện Gia Viễn).
Như vậy, vào giai đoạn này, tỉnh có 2 trường cấp 3 là trường Hoa Lư ở
Liên Huy và trường tư thục La Văn Cầu ở Gia Hưng. Các trường cấp 3 của
khu III như Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Trường Tộ cũng từ Thanh Hóa ra
đóng ở Xích Thổ (Nho Quan). Ngày 30/6/1954, Ninh Bình được hoàn toàn
giải phóng. Thành tích giáo dục cấp 3 ở vùng tự do đến lúc này đã đạt được là
có một trường, 320 học sinh, 10 giáo viên quốc lập.
1.2.2. Giáo dục Trung học phổ thông Ninh Bình trong những năm
1954-1965
Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Ninh Bình cùng với nhân dân Miền
Bắc nói chung tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bắt
tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Với sự thắng lợi của kháng chiến chống
Pháp, Miền Bắc được hơn 10 năm hòa bình, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Sự nghiệp giáo dục toàn tỉnh được tích cực phát triển mạnh mẽ và xây
dựng hoàn chỉnh đủ các ngành học: hoàn thành thanh toán nạn mù chữ, tiến lên
bổ túc văn hóa. Mở rộng hệ thống các trường lớp phổ thông cả 3 cấp I, II, III.
Mở ngành học mẫu giáo. Xây dựng hệ thống các trường sư phạm.
Năm 1956, Trung ương chủ trương cải cách giáo dục, hợp nhất giáo
dục kháng chiến và giáo dục vùng giải phóng thành hệ thống thống nhất. Tổ
chức hệ giáo dục phổ thông từ 9 năm lên 10 năm: cấp I-4 năm; cấp II-3 năm;
cấp III-3 năm.
16
Tháng 1/1960, trước yêu cầu mới của đất nước, Hội nghị Tỉnh ủy chuyên
bàn về công tác giáo dục đã quyết định những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Tận lực phát triển giáo dục, thực hiện phổ cập cấp I, phát triển mạnh
cấp II, III.
- Chú trọng giáo dục Miền núi và vùng Thiên chúa giáo.
- Vận động nhân dân xây dựng và phát triển giáo dục, góp học phí đài
thọ giáo viên và góp vật liệu, công sức xây dựng trường lớp.[6; tr.909]
Từ năm 1959, giáo dục Ninh Bình được phát triển hơn trước, hoàn chỉnh
về tất cả các ngành học, cấp học, ở tất cả các địa bàn, cả miền núi, vùng Thiên
chúa giáo. Trong đó giáo dục phổ thông cấp III có những bước tiến mạnh.
Năm 1955, theo chủ trương chung, tất cả các trường cấp III như Hoa
Lư, Nguyễn Quốc Trị, La Văn Cầu, Nguyễn Trường Tộ đang đóng ở Gia
Thịnh, Xích Thổ (Ninh Bình) đều theo khu Giáo dục tập trung về Hà Nam,
sau về Nam Định thành trường cấp III Liên khu 3. Tỉnh Ninh Bình không còn
trường cấp III. Do vậy đến năm 1959, tỉnh chủ trương xây dựng lại hệ thống
trường cấp III và từng năm được phát triển thêm, nhằm đào tạo lớp thanh niên
có kiến thức, tăng cường đội ngũ cán bộ cốt cán địa phương, tăng cường lực
lượng sản xuất và chiến đấu, xây dựng quê hương đất nước.
*Về lực lượng giáo viên: Những năm đầu có ít giáo viên tốt nghiệp
Đại học sư phạm, ngành chọn thêm một số giáo viên dạy tốt cấp II lên cùng
dạy. Để đảm bảo chất lượng chính trị các trường cấp III, một số giáo viên cấp
II là đảng viên dạy tốt được bồi dưỡng lên dạy cấp III. Các giáo viên này mấy
năm sau đều được bồi dưỡng Đại học sư phạm. Tiếp đó, để thực hiện giáo dục
toàn diện, một số giáo viên cấp I có năng khiếu được cử đi học lớp Thể dục
thể thao, lớp Nhạc họa của Bộ về dạy ở các trường cấp III và sư phạm. Một số
giáo viên được cử phụ trách phòng thí nghiệm trường cấp III.[58; tr.50]
* Tổ chức lãnh đạo trường: Những năm đầu, hiệu trưởng trường cấp III
là cán bộ chính trị (huyện ủy viên) được tỉnh cử. Những năm sau, một số giáo
17
viên cấp II là đảng viên đã dậy cấp III có tín nhiệm được cử làm hiệu trưởng
trường cấp III. Tất cả các trường cấp III Ninh Bình đều có chi bộ Đảng lãnh
đạo; bộ máy phục vụ như giáo vụ, hành chính, cấp dưỡng [6; tr.912].
* Phát triển trường lớp:
Năm học 1959-1960: Mở trường cấp III Ninh Bình (ngày 7/11/1960
mang tên Lương Văn Tụy). Năm đầu có 4 lớp 8 với 219 học sinh, 12 giáo viên
(phần đông là giáo viên cấp II lên dạy). Đến năm 1960-1961, trường có 7 lớp 8
với 405 học sinh; 3 lớp 9 với 168 học sinh. Giáo viên có 22 người trong đó có 2
giáo viên chính trị, 1 giáo viên thể dục thể thao, 8 giáo viên cấp II lên dạy.
Năm 1961-1962: có 3 trường, thêm trường Gia Viễn, trường Kim Sơn.
Có 13 lớp, 635 học sinh.
Năm 1962-1963 có 3 trường, 20 lớp, 1.104 học sinh
Năm 1963-1964 có 4 trường, thêm trường Nho Quan
Năm 1964-1965 có 5 trường, thêm trường Yên Mô. Năm học này có
2.504 học sinh, giáo viên có 198 người.
Học sinh tốt nghiệp cấp III năm 1962 là 88 học sinh; năm 1964 là 210
học sinh, đến năm 1965 là 378 học sinh, gấp 4 lần năm 1962.[6; tr.912]
Về nội dung giáo dục: Trong điều kiện hòa bình ở Miền Bắc, chiến đấu
ở Miền Nam, từ cải cách giáo dục năm 1956, hướng vào đào tạo người công
dân tốt, chiến sĩ tốt, cán bộ tốt cho đất nước, các trường học các cấp đều phấn
đấu thực hiện giáo dục toàn diện về 7 mặt: Đức-Trí-Kỹ-Lao-Quân-Thể-Mỹ.
Tất cả các trường đẩy mạnh thi đua cải tiến giảng dạy và học tập, làm đồ dùng
dạy và học, mở hội thi giảng dạy, hội thao thể dục quân sự.
Tóm lại trong hơn 10 năm hòa bình ở Miền Bắc, giáo dục Ninh Bình đã
khắc phục khó khăn, có bước phát triển mạnh, toàn diện, đồng đều. Nghành
học nào cũng có điển hình tốt, giữ được vị trí tiên tiến về nhiều mặt trong
18
phong trào giáo dục chung của cả nước. Trong đó có giáo dục trung học phổ
thông. Năm 1959 có 219 học sinh, đến năm học 1964-1965 có 2.504 học sinh,
tăng gần 12 lần.
1.1.3. Giáo dục Trung học phổ thông Ninh Bình thời kỳ chống Mỹ
cứu nước 1965-1975
Trong thời gian 10 năm 1965-1975, tuy ở hoàn cảnh kháng chiến ác
liệt, nhưng với tinh thần quyết chiến quyết thắng, mỗi người làm việc bằng 2,
kiên trì thực hiện đường lối giáo dục của Đảng nên ngành giáo dục Ninh Bình
vẫn được duy trì và tiếp tục phát triển mạnh, có nhiều thành tích lớn góp vào
sự nghiệp giáo dục chung của cả nước, trong đó đặc biệt giáo dục cấp III có
bước phát triển vượt bậc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ tuy rất gay gắt, ác liệt nhưng không thể
hạn chế bước tiến của giáo dục. Trong khó khăn và bom đạn của chiến tranh,
các trường cấp III tỉnh Ninh Bình phát triển rất nhanh, thể hiện ý chí quyết
tâm và tinh thần quyết thắng, vươn lên vượt khó khăn trước mắt, bảo vệ đất
nước và tích cực chuẩn bị lực lượng xây dựng đất nước sau chiến tranh.
Giai đoạn này hệ thống trường lớp được mở rộng: Năm 1964-1965 toàn
tỉnh có 5 trường cấp III với 2504 học sinh.
Năm 1965-1966: có 7 trường, thêm 2 trường là Gia Viễn B, Yên Khánh A.
Năm 1966-1967: có 10 trường, thêm 3 trường là Nho Quan B, Yên
Khánh B, Kim Sơn B.
Năm 1971-1972: có 11 trường, thêm trường Gia Viễn C, ban đầu đóng
ở Gia Lâm, sau về xã Gia Sinh.
Năm 1972-1973 có 13 trường, thêm Lương Văn Tụy B, Yên Mô B.[58;
tr.69]
Số lớp, giáo viên, học sinh cũng tăng đáng kể. Ta có thể thấy rõ điều đó
qua bảng thống kê sau:
19
Bảng 1: Bảng thống kê tình hình lớp - giáo viên-học sinh những năm
1965 - 1975
Năm học
1965-1966
Lớp
71
VIII
Học sinh
IX
X
Tổng
1.80
879
572
3.259
1.332
1.974
1.956
2.250
753
1.131
1.607
1.854
4.650
5.307
6.187
6.730
7.551
8.770
8.245
9.888
10.970
10.871
8
1966-1967
2.535
1967-1968 106 2.319
1968-1969 126 2.626
1969-1970 125 2.626
1970-1971
1971-1972 155
1972-1973 171 3.664
1973-1974 197 4.174
1974-1975
4.635
1975-1976 215 4.25
2.884
3.029
3.750
3.656
1.917
2.685
2.895
2.935
Giáo viên
Tốt
220
nghiệp
459
261
567
310
812
334
1.213
18 GV cấp II lên dạy
354
379
485
1.547
1.637
1.910
0
(Nguồn: Sở GD-ĐT Ninh Bình)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, năm học 1975-1976 so với năm học 19641965 thì trường cấp III gấp hơn 2 lần; lớp cấp III gấp hơn 3 lần; học sinh cấp
III gấp 4 lần. Giai đoạn này Ninh Bình được đánh giá là phát triển cấp III
mạnh nhất toàn khu vực.
Ngoài ra trong giai đoạn này nhằm tập trung bồi dưỡng học sinh giỏi,
cấp học bổng, học tập và sinh hoạt nội trú, tại trường cấp III Lương Văn Tụy
đã mở lớp toán đặc biệt.
Năm 1966-1967: có 83 học sinh, 43 lớp VIII, 40 lớp IX
Năm 1968-1969: có 75 học sinh, 35 lớp IX, 30 lớp X
Năm 1969-1970: có 35 học sinh lớp X [58; tr.70].
20
Đây là khóa duy nhất trong chiến tranh, nhưng cũng đã là cái nôi đào
tạo người giỏi học lên (1/2 trong hơn 100 học sinh), có một số sau này là tiến
sĩ, giáo sư.
Trong suốt 10 năm kháng chiến chống Mỹ gian khổ, giáo dục Ninh
Bình nói chung, giáo dục cấp III Ninh Bình nói riêng luôn duy trì phong trào
học tập với số lượng học sinh ngày càng đông đảo hơn, số học sinh đạt tỉ lệ
cao trong nước và hơn các tỉnh đồng bằng lân cận. Chất lượng dạy và học
được cố gắng bảo đảm và tích cực nâng cao.
1.1.4. Giáo dục Trung học phổ thông Ninh Bình trong thời kỳ hợp
tỉnh Hà Nam Ninh (1976-1991)
Theo chủ trương của BCH Trương ương Đảng, quốc hội khóa III, kỳ họp
thứ II ngày 27/12/1975 đã quyết định : hợp nhất 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình
thành tỉnh Hà Nam Ninh, trung tâm của tỉnh đặt tại thành phố Nam Định.
Trong thời kỳ hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh, nền giáo dục của Tỉnh
tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ
dạy và học. Đặc biệt quy mô trường lớp được mở rộng hơn.
Trong 16 năm hợp nhất tỉnh, vị thế của giáo dục Ninh Bình khi hợp
nhất có thay đổi từ một chủ thể độc lập, thành một thành phần không lớn
trong phong trào chung tỉnh hợp nhất. Mối liên hệ quản lý với phong trào cơ
sở xa hơn. Hoạt động giáo dục ở Ninh Bình, có nhiều khó khăn, tuy cũng có
thêm thuận lợi.
Điều rất cơ bản là ý chí tự lực, tự cường và tinh thần phấn đấu tích cực
của cán bộ, giáo viên và học sinh Ninh Bình vượt qua khó khăn, vươn lên duy
trì và phát huy thêm thành tích…tạo được tiềm lực vững chắc để ngay khi
Ninh Bình được tái lập tỉnh, đã lập tức vươn cao phát triển mạnh mẽ với
nhiều thắng lợi mới lớn hơn, nhiều thành tích mới nổi bật hơn.
21
Trong giai đoạn này, giáo dục cấp III có một số cải cách cơ bản như:
Từ năm học 1985-1986 trường phổ thông cấp III từ 3 lớp 8-9-10
chuyển là 10-11-12, học sinh cấp II hết lớp 7 lên thẳng lớp 10
Năm học 1988-1989 bỏ hệ B ở các trường công lập, tổ chức lớp PTTH
dân lập.
Năm học 1989-1990: tổ chức hệ chuyên-lớp chọn. Thực nghiệm học
phân ban ở trường PTTH Lê Hồng Phong tại Nam Định.
Năm học 1990-1991 các trường cấp III chính thức đổi tên thành Trung
học phổ thông.
Giai đoạn 1976-1991 quy mô trường, lớp, học sinh cũng có nhiều biến
đổi đáng kể:
Bảng 2:Bảng thống kê tình hình trường, học sinh giai đoạn 1976-1991
Năm
1975-
1978-
1979-
1984-
1985-
1987-
1989-
1990-
học
HS
Trường
1976
10.876
1979
10.108
1982
1985
1986
1988
1990
1991
13
13
10.286
13
10.914
14
9.501
14
11.825
15
6.734 6.628
15
15
( Nguồn: Sở GD-ĐT Ninh Bình)
Nhìn bảng thống kê ta thấy so năm 1990-1991 với năm 1975-1976 số
học sinh cấp III giảm mạnh tới 39%. Chỉ có năm học 1987-1988 là tăng vì
thành lập thêm một trường cấp III, còn từ năm 1989 lại giảm mạnh vì chuyển
tiếp lớp 8 học thêm lớp 9 không chuyển thẳng lên lớp 10.
Thời kỳ 1976-1991 - thời kỳ hợp nhất tỉnh Hà Nam Ninh. Trong 16
năm này, nhân dân, cán bộ, giáo viên, học sinh, học viên Ninh Bình đã thể
hiện bản lĩnh tự lực tự cường, nêu cao tinh thần cách mạng, kiên trì vượt khó
khăn, giữ vững và phát triển phong trào, tạo ra tiềm lực và chuyển thành động
lực mạnh mẽ ngay khi tỉnh Ninh Bình được tái lập, thúc đẩy toàn bộ sự
nghiệp giáo dục Ninh Bình mau chóng phát triển mạnh mẽ lên đỉnh cao mới.
22
Trong những năm đầu hợp nhất tỉnh, các cơ sở, trường, lớp được duy
trì với tỉ lệ khá, lực lượng giáo viên và học sinh Ninh Bình vẫn đông đảo. Tuy
nhiên những năm về sau, do điều kiện kinh tế-xã hội của cả nước nói chung
và tỉnh nói riêng gặp nhiều khó khăn nên đã tác động không nhỏ đến việc cho
con em đến trường. Giáo dục cấp III ở Ninh Bình không phát triển mạnh như
trước, mà bị suy giảm mạnh. Tuy nhiên, giáo dục Ninh Bình vẫn cố gắng vượt
qua khó khăn để duy trì phong trào, củng cố quy mô, tạo nền móng cho sự
phát triển ở các giai đoạn tiếp theo.
Giáo dục của tỉnh Hà Nam Ninh những năm 1976-1991 là một trong
những địa phương mạnh trong cả nước, không chỉ có nhiều thành tích lớn nổi
trội mà còn tạo được những điển hình, phong trào tiên tiến thực hiện nghiêm
túc và có sáng tạo đường lối, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước với
nhiều kinh nghiệm được đúc kết và phổ biến rộng rãi. Giáo dục Ninh Bình với
những nỗ lực tích cực vượt bậc, đã góp phần xứng đáng vào những thành tích
lớn được chính phủ và Bộ Giáo dục ghi nhận và biểu dương chung trong Hà
Nam Ninh như:
-Tỉnh có sự nghiệp giáo dục tiên tiến xuất sắc toàn quốc.
-Tỉnh đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục cấp I.
-Tỉnh có phong trào tự làm và mua sắm thiết bị thứ nhất toàn quốc.
-Tỉnh được xếp hạng nhất trong hội thi thiết bị giáo dục (phổ thông và
mẫu giáo) 5 năm 1986-1990 do Bộ Giáo dục tổng kết.
-Tỉnh có nhiều học sinh giỏi quốc gia.[58; tr.113]
Tiểu kết chương 1
Nhân dân Ninh Bình có truyền thống hiếu học qua các thời đại. Trong
mọi hoàn cảnh, Ninh Bình luôn vươn lên khắc phục và chiến thắng khó khăn
trở ngại. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, giáo dục Ninh Bình đã
không phát triển được do sự kìm hãm của chế độ phong kiến thực dân. Khi
thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, nền giáo dục khoa cử dần bị mất đi,
23
thay thế vào đó là nền giáo dục thực dân mà kết quả là hơn 90% nhân dân
Ninh Bình mù chữ. Cách mạng tháng 8-1945 thành công, được sự lãnh đạo
với quyết tâm cao của Đảng bộ tỉnh và nỗ lực của toàn ngành, phong trào giáo
dục Ninh Bình đã có bước phát triển mạnh, đạt nhiều thành tích nổi bật.
Trong đó giáo dục cấp III đạt được những thành tích hết sức to lớn, phát triển
mạnh về quy mô lẫn chất lượng. Khi hợp nhất tỉnh, phong trào giáo dục Ninh
Bình đã phát triển mạnh đều về tất cả các ngành học, cấp học. Cơ sở giáo dục
được mở rộng với nhiều hình thức, tỷ lệ người học trên số dân đạt cao, lực lượng
giáo viên khá mạnh, chất lượng giáo dục được chú trọng bảo đảm, có nhiều điển
hình tiên tiến. Tuy giáo dục cấp III giai đoạn hợp nhất có sự suy giảm đáng kể
do điều kiện khó khăn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng dạy và học, đào tạo ra
nguồn nhân lực quý giá cho đất nước. Đặc biệt những kết quả đạt dược trong 5
năm đầu thực hiện đường lối đổi mới đã đặt cơ sở cho ngành giáo dục trung học
phổ thông Ninh Bình phát triển mạnh mẽ từ sau khi tái lập tỉnh.
24
Chương 2: GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NINH
BÌNH TRONG THỜI KỲ 1991-2010
2.1. Giáo dục Trung học phổ thông Ninh Bình trong những năm
1991-1996
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Bước vào những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế có những
diễn biến phức tạp. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào
cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng . Chủ nghĩa xã hội thế giới đang
ở vào giai đoạn thoái trào. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu bị sụp đổ. Tình hình đó tác động mạnh mẽ đến tiến trình công cuộc
đổi mới của nước ta. Mặt khác đế quốc Mỹ tăng cường thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình”, câu kết với các thế lực phản động trong nước và quốc tế
tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng bao vây cấm vận kinh tế,
tuyên truyền kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa Đảng nhằm xóa
bỏ sự lãnh đạo của Đảng, truyền bá tư tưởng văn hóa đồi trụy, đưa lực lượng
gián điệp, biệt kích vào phá hoại nước ta, cấu kết với bọn phản động trong
nước tăng cường hoạt động nhằm lật đổ chế độ.
Những thay đổi ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra cho chúng ta những
đảo lộn và lúng túng về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, về chương trình
hợp tác kinh tế…Nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá chấm dứt,
nợ nước ngoài hằng tháng tăng lên, trong khi một số nước phương Tây tiếp
tục chính sách bao vây kinh tế, gây cho ta nhiều bất lợi. Do đó, trên tất cả các
lĩnh vực, nhất là về kinh tế-xã hội nước ta còn nhiều khó khăn, đất nước vẫn
chưa thoát khỏi khủng hoảng, nhiều vấn đề xã hội chưa được giải quyết.
Xuất phát từ tình hình trên và căn cứ vào mục tiêu của chặng đường
đầu thời kỳ quá độ lên CNXH (được đề ra từ Đại hội VI), Đại hội VII của
Đảng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là :
25