SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
ĐƠN VỊ: TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT ĐỒNG NAI
Mã số . . . . . . . . . . . .
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
KHIẾM THÍNH LỚP DỰ BỊ PHÁT TRIỂN
KỸ NĂNG NGHE
Người thực hiện: Đinh Ngọc Vân
Lĩnh vực/Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật: Môn Luyện nghe
Có đính kèm:
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Năm học 2012 – 2013
Hiện vật khác
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Đinh Ngọc Vân
2. Ngày tháng năm sinh: 12 – 6 – 1985
3. Nam, nữ : Nữ
4. Địa chỉ: 106, phố 9, ấp 5, xã Phú Lợi, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại cơ quan: 0613.954171 – Di động: 0987169873
6. Chức vụ: Giáo viên
7. Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ Khuyết tật Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân Khoa
học giáo dục
- Năm nhận bằng: 2007
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục đặc biệt
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
-Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy trẻ khiếm thính
-Số năm có kinh nghiệm: 06 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 6 năm gần đây:
+ Năm học 2010 – 2011: “Một vài kinh nghiệm khi dạy phát âm trong giờ
học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1A”.
+ Năm học 2011 – 2012: “Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ
trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1A”.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHIẾM THÍNH
LỚP DỰ BỊ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE
I.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thính giác là tiền đề của ngôn ngữ. Nhờ nghe được, trẻ bắt chước được
tiếng nói mà nói được. Trong thực tế, rất ít trẻ khiếm thính bị mất thính lực hoàn
toàn, đa số trẻ còn tồn tại phần thính lực, nếu được huấn luyện kết hợp với đeo
máy trợ thính, trẻ có thể tiếp nhận được những âm thanh khác nhau, trước hết là
những âm thanh có cường độ lớn như tiếng sấm, tiếng thét, âm thanh tiếng nói.
Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ Khuyết tật Đồng Nai đã mở lớp Dự bị từ năm
2007, lớp học chuẩn bị cho trẻ khiếm thính vào lớp 1, lứa tuổi bắt đầu đi học từ
5 tuổi đến 7 tuổi. Chương trình Dự bị tương ứng với chương trình Mẫu giáo,
giáo viên dạy học theo đường hướng nghe – nói. Hầu hết trẻ khiếm thính vào
lớp Dự bị không nói được tiếng nào, chưa biết đọc hình miệng cũng như chưa
biết bắt chước hình miệng, chưa biết tự đeo máy trợ thính, chưa biết sử dụng
máy trợ thính để nghe hiểu lời nói, chưa có kỹ năng học tập. Do đó, rèn luyện và
tận dụng khả năng nghe có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giáo dục trẻ khiếm
thính. Nếu được giúp đỡ, trẻ khiếm thính có thể học cách nghe âm thanh chính
xác hơn. Hiểu biết về âm thanh giúp trẻ nhận biết nhiều hơn về thế giới xung
quanh, trẻ sẽ nghe tốt hơn, tránh được những rủi ro và càng có khả năng quan
tâm, chú ý hơn đến nhu cầu của bản thân. Việc tận dụng phần thính lực còn lại
có ý nghĩa quan trọng trong hình thành và phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ.
Trẻ bình thường học ngôn ngữ trong môi trường xã hội đầy ắp tiếng nói.
Sau khi có kỹ năng tiếp nhận tiếng nói, các kỹ năng biểu đạt bằng lời nói dần
dần được hình thành và phát triển. Trẻ bắt đầu nói từng tiếng một rồi sau đó nói
nhiều tiếng và đạt đến năm tiếng trong một luồng hơi vào lúc 5 tuổi. Trẻ khiếm
thính không thể học nói theo cách trên, tuy rằng các bước học nói cũng có
những điểm giống như trẻ nghe được. Trẻ khiếm thính nếu không được luyện
tập đúng phương pháp và thường xuyên sẽ khó có thể có tiếng nói rõ ràng, dễ
hiểu. Nếu đứa trẻ bị cận thị thì đến tiệm kính đo độ và cắt kính, trẻ chỉ đeo vào
và sẽ nhìn rõ như đứa trẻ bình thường. Nhưng đứa trẻ dù là khiếm thính nhẹ thì
đeo máy trợ thính khuyếch đại tất cả các loại âm thanh vào cũng không thể nghe
được như trẻ bình thường. Do đó, trẻ cần có một quá trình học lắng nghe và có
người trò chuyện thường xuyên với trẻ lúc đó trẻ mới phát triển ngôn ngữ nói.
Vì vậy, tôi đã mạnh dạn vận dụng “Một số biện pháp giúp học sinh khiếm
thính lớp Dự bị phát triển kỹ năng nghe” trong thực tế dạy học nhằm giúp học
sinh khiếm thính hình thành và phát triển kỹ năng nghe.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Thế nào là trẻ khiếm thính?
Trẻ khiếm thính là trẻ bị tổn hại cơ quan thính giác ở các mức độ khác
nhau. Do cơ quan thính giác bị tổn hại nên trẻ không tri giác được thế giới âm
1
thanh, không nghe được tiếng nói. Vì thế, không tự hình thành được ngôn ngữ.
Ngày nay, để giảm sự mặc cảm ở trẻ điếc, để cộng đồng xã hội hiểu và gần gũi
hơn đối với đối tượng khuyết tật này, người ta thường dùng thuật ngữ trẻ khuyết
tật thính giác, hay trẻ khiếm thính, trẻ có khó khăn về nghe.
1.2. Ảnh hưởng của khuyết tật thính giác đến sự phát triển ngôn ngữ
- Thính giác đóng vai trò cực kì quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển ngôn ngữ ở trẻ em. Đối với trẻ khiếm thính, hậu quả không thể tránh khỏi
là chậm phát triển về ngôn ngữ và đặc biệt là ngôn ngữ nói.
- Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ theo mức độ điếc:
+ Trẻ điếc nhẹ (mất từ 20 đến 40 dB): Trẻ không nghe hoặc không nghe rõ nên
tiếng nói thường bị mất hoặc nói sai một số phụ âm cao. Tuy nhiên tiếng nói của
trẻ vẫn có thể tự phát triển.
+ Trẻ điếc vừa (mất từ 41 đến 70 dB): Trẻ có thể nói ngọng nhiều và nói những
câu không đúng ngữ pháp.
+ Trẻ điếc nặng (mất từ 71 đến 90 dB): Trẻ bị mất tiếng nói hoặc rất chậm phát
triển ngay từ nhỏ, tiếng nói của trẻ khó nghe và không có thanh điệu.
+ Trẻ điếc sâu (mất từ trên 90 dB): Tiếp thu tiếng nói chủ yếu bằng cách nhìn
hình miệng, không dùng thính giác; mất khả năng giao tiếp bằng tiếng nói nên
tiếng nói và ngôn ngữ không thể tự phát triển được.
1.3. Nội dung luyện nghe cho học sinh khiếm thính
Mục đích của luyện nghe là rèn thói quen tri giác âm thanh, qua đó hình
thành hình ảnh âm thanh bằng thính giác. Phát triển khả năng nghe trên cơ sở
triệt để sử dụng phần thính lực còn lại và sử dụng máy trợ thính.
Nội dung luyện nghe rất phong phú: Luyện nghe với âm thanh đơn giản
đến phức tạp.
- Hình thành và rèn các kỹ năng nhận biết âm thanh: Luyện cho trẻ khiếm thính
có kỹ năng phát hiện, phân biệt và xác định các loại âm thanh khác nhau.
- Hình thành và rèn các kỹ năng nghe âm nhạc: Luyện cho trẻ khiếm thính có
kỹ năng phát hiện, phân biệt và xác định các loại âm thanh âm nhạc khác nhau.
- Hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe âm thanh lời nói: Luyện cho trẻ
khiếm thính phân biệt được âm thanh lời nói về: cường độ, trường độ, tốc độ và
tần số; phân biệt và nhận dạng được các âm vị khác nhau trong âm tiết: nguyên
âm, phụ âm đầu, phụ âm cuối và thanh điệu tiếng Việt.
- Hình thành và rèn các kỹ năng nghe hiểu: Luyện cho trẻ khiếm thính phân
biệt được các âm thanh và tiếng nói, các cụm từ và câu có độ dài khác nhau, các
kỹ năng nghe và thực hiện theo yêu cầu trong các tình huống đóng và mở.
1.4. Yêu cầu của môn luyện nghe
- Tính vừa sức: Để giờ luyện nghe đạt kết quả tốt, giáo viên phải xác định
lượng kiến thức cần luyện tập cho học sinh theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp. Giáo viên cần lựa chọn nội dung và hình thức luyện tập
phù hợp với trình độ của trẻ.
2
- Tính trực quan: Giờ luyện nghe cũng như các giờ học khác cần được trang bị
những giáo cụ trực quan. Các âm thanh để học sinh luyện tập cần phải liên hệ
đến một hiện tượng, sự vật, hoạt động cụ thể mà trẻ đã trải nghiệm qua.
- Sử dụng nhiều hình thức hoạt động: Đa dạng hóa các hình thức luyện tập có
tác dụng chống mệt mỏi và nâng cao tính tích cực của học sinh. Các bài luyện
nghe nên được tiến hành bằng các trò chơi khác nhau. Cần tạo tinh thần thoải
mái, hứng thú cho học sinh trong giờ chơi.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1. Nội dung
Dạy luyện nghe cho học sinh khiếm thính là công việc hết sức khó khăn và
cần được tiến hành trong thời gian dài với những phương pháp khoa học và phù
hợp. Để thực hiện một giờ học thực sự có hiệu quả, trước hết giáo viên cần xác
định khả năng nghe của trẻ, đầu tư chuẩn bị về đồ dùng trực quan, về việc lựa
chọn hình thức phương pháp dạy học, sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Tiếp theo
giáo viên cần tiến hành giờ học bắt đầu với hoạt động đeo máy và kiểm tra máy
trợ thính cho học sinh; sau đó là các hoạt động tùy theo nội dung luyện nghe cho
học sinh để hình thành và rèn các kỹ năng nghe phát hiện âm thanh, phân biệt
âm thanh, nhận biết âm thanh, nhận biết và hiểu lời nói, hoạt động phát triển kỹ
năng nghe thông qua kể chuyện hoặc âm nhạc.
2.2. Các biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.2.1. Công tác chuẩn bị cho giờ học luyện nghe
- Xác định khả năng nghe của trẻ khiếm thính:
Để luyện nghe có hiệu quả, cần xác định tương đối chính xác khả năng nghe
của trẻ - tức là phần thính lực còn lại. Tùy theo khả năng nghe của trẻ, có
phương pháp thích hợp để luyện cho trẻ.
Qua thính lực đồ, giáo viên biết được mức độ nghe của trẻ ở các mức độ
nhẹ, mức độ vừa, mức độ nặng, mức độ sâu. Theo kết quả khảo sát ban đầu trên
thính lực đồ, tất cả học sinh lớp Dự bị tại Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ Khuyết tật
Đồng Nai năm học này đều có thính lực đồ ở mức độ điếc nặng hoặc điếc sâu cả
hai tai.
Khi đã xác định được mức độ điếc của học sinh qua thính lực đồ, giáo viên
kiểm tra phản ứng với âm thanh của trẻ khi đeo máy trợ thính bằng các dụng cụ
đơn giản.
Ví dụ: Dùng một hộp bằng sắt tây rỗng như hộp sữa bột trẻ em có nắp đậy
rồi cho khối gỗ lập phương mỗi chiều khoảng 3cm, lắc hộp tạo nên âm trầm.
Giáo viên lắc nhẹ hộp xem trẻ có phản ứng hay không rồi ghi nhận kết quả. Nếu
trẻ không có phản ứng thì giáo viên lắc hộp thật mạnh để tạo âm thanh to hơn.
Từ đó giáo viên đưa ra nội dung luyện tập phù hợp với khả năng nghe của
từng học sinh.
Ví dụ: Em Nguyễn Thanh Phương sinh năm 2006, độ điếc tai phải 80dB, tai
trái 90dB, trẻ điếc nặng cả hai tai. Trẻ phản ứng với âm thanh, phát hiện có hoặc
3
không có âm thanh. Như vậy giáo viên sẽ bắt đầu luyện nghe cho trẻ phân biệt
âm thanh giống nhau hay khác nhau.
Em Liêu Ngạn Phi sinh năm 2006, độ điếc cả hai tai đều trên 100dB, ở mức
điếc sâu cả hai tai. Trẻ chưa biết phản ứng với âm thanh. Như vậy giáo viên sẽ
bắt đầu luyện nghe cho trẻ phát hiện có hoặc không có âm.
- Đồ dùng trực quan phục vụ cho giờ học: Do giảm sút hoặc mất khả năng
thính giác nên ở học sinh khiếm thính, thị giác được bù trừ và trở nên thành
phần chủ yếu, chủ đạo trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Nên đồ dùng
trực quan không thể thiếu trong giờ học, nhờ có đồ dùng trực quan mới thu hút
được sự chú ý của học sinh giúp học sinh thích học và dễ dàng tiếp thu bài. Đồ
dùng trực quan phải được làm to rõ đẹp, chính xác để hấp dẫn học sinh có thể là:
vật thật, tranh ảnh, thẻ từ, thẻ chữ, mô hình, rối…
- Môi trường lớp học cần được bố trí phù hợp với học sinh khiếm thính:
Giáo viên nên sắp xếp, trang trí lớp nhằm làm lớp học thêm sinh động và giúp
giảm âm nền để học sinh đeo máy trợ thính không bị chói tai vì tiếng ồn. Giáo
viên có thể dùng vải để phủ các vật có mặt phẳng bóng như mặt bàn; treo tranh
lên tường, treo đồ chơi; phòng học cách âm phải được đóng cửa, hạn chế những
tiếng ồn xung quanh thì mới không làm học sinh bị phân tán; treo rèm ở cửa
kính.
- Lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học phù hợp:
+ Luyện dần không vội vã và không quá sức học sinh. Vừa sức bao gồm: thời
gian tăng dần từ 5 – 10 phút tiến đến 30 phút/ngày. Sử dụng các bài tập luyện
nghe từ dễ đến khó, từ âm thanh ngoài ngôn ngữ đến âm thanh ngôn ngữ. Tạo
thời cơ, môi trường để trẻ tự giác, mong muốn được luyện nghe, hình thành thói
quen tự kiểm tra tiếng nói.
+ Kết hợp luyện nghe tập thể với luyện nghe cá nhân.
+ Các hình thức tổ chức luyện nghe tốt nhất là tổ chức trò chơi với âm thanh.
+ Luyện nghe trong tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: Trong tất cả các
môn học và hoạt động giáo dục cần yêu cầu trẻ sử dụng máy trợ thính và khuyến
khích trẻ tiếp nhận thông tin qua nghe. Đây là điều kiện quan trọng để trẻ khiếm
thính rèn luyện kỹ năng nghe và thói quen sử dụng sức nghe.
+ Luyện nghe trong các hoạt động sinh hoạt ở gia đình và cộng đồng. Trẻ cần
được sử dụng máy trợ thính càng nhiều càng tốt trong mọi lúc, mọi nơi.
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí: Sắp xếp học sinh ngồi học theo hình vòng cung để
học sinh quan sát được lẫn nhau, khoảng cách giữa giáo viên với học sinh từ 1m
đến 1,5m. Học sinh có khả năng tập trung chú ý kém nên cho ngồi ở đáy vòng
cung trực diện với giáo viên sẽ dễ quan sát giáo viên nói cũng như các bạn trong
lớp nói.
2.2.2. Tiến hành dạy luyện nghe
Ngoài luyện nghe theo chương trình 2 tiết trong 1 tuần, giáo viên nên luyện
nghe cho học sinh vào 15 phút đầu giờ mỗi ngày, lồng ghép vào các tiết học hội
thoại, tiết môi trường xung quanh. Làm như vậy, học sinh sẽ dần hiểu mình có
trách nhiệm phải dùng máy trợ thính cho thật hiệu quả và giúp học sinh phát
4
triển kỹ năng nghe. Một số biện pháp giáo viên có thể thực hiện trong các giờ
học luyện nghe giúp học sinh khiếm thính lớp Dự bị phát triển kỹ năng nghe như
sau:
- Đeo máy và kiểm tra máy trợ thính cho học sinh: Để dạy luyện nghe bắt
buộc học sinh phải đeo máy trợ thính. Bắt đầu tiết dạy, giáo viên phải kiểm tra
máy trợ thính để đảm bảo máy học sinh đeo đang hoạt động tốt.
Giáo viên thực hiện kiểm tra máy trợ thính theo các giai đoạn cụ thể như
sau:
+ Giai đoạn 1: Đối với học sinh mới lần đầu đeo máy trợ thính, cách kiểm tra
máy dễ nhất là đặt núm tai gần micro khi máy đã mở, nếu có tiếng rít thì có
nghĩa là máy đang hoạt động. Kiểm tra xem máy có pin hay không, pin có nằm
đúng vị trí hay không, kiểm tra xem pin còn hay hết, gắn máy trợ thính cho trẻ.
+ Giai đoạn 2: Kiểm tra xem trẻ có phản ứng với âm thanh hay không khi đeo
máy, bằng cách thức là yêu cầu học sinh giơ tay khi nghe giáo viên đứng phía
sau khoảng cách là 1 mét vỗ tay hoặc nói /ba/.
+ Giai đoạn 3: Khi trẻ phản ứng một cách tự tin với âm /ba/ giáo viên có thể
bước sang giai đoạn ba. Kiểm tra bằng sáu âm Ling (a, u, i, m, s, x) là cách kiểm
tra dễ và nhanh xem trẻ có phát hiện được sáu âm đó là những âm thanh trong
phổ lời nói khi nghe không. Giúp giáo viên và phụ huynh giám sát sự cố của
máy trợ thính, sự thay đổi sức nghe của trẻ. Giáo viên yêu cầu học sinh vỗ tay
khi nghe cô nói: /u/, /a/, /i/, /m/, /s/, /x/. Giáo viên đứng ở phía sau trẻ khoảng
cách 1m, sử dụng giọng nói bình thường, đưa những âm ngắt quãng nhau không
đều, ghi nhận những phản ứng của trẻ. Nếu trẻ không có phản ứng, hãy kiểm tra
máy trợ thính lại để phát hiện ra những lỗi khác và sửa chữa kịp thời.
+ Giai đoạn 4: Khi trẻ phản ứng tốt thì chuyển sang giai đoạn bốn tiếp tục sử
dụng sáu âm Ling để kiểm tra. Giáo viên yêu cầu học sinh nói lại khi nghe cô
nói: /u/, /a/, /i/, /m/, /s/, /x/. Ghi nhận phản ứng của trẻ và so sánh với phản ứng
trước đó. Nếu trẻ không phản ứng đầy đủ với tất cả các âm mà trẻ đã làm trước
đó thì ta hãy nghĩ là máy trợ thính có vấn đề, hãy phát hiện lỗi và sửa chữa kịp
thời. Nếu trẻ phản ứng tốt hơn so với trước đó thì điều này có nghĩa là trẻ đã có
tiến bộ trong việc luyện nghe.
- Hình thành và rèn kỹ năng nghe phát hiện âm thanh:
Đây là kỹ năng đầu tiên mà giáo viên phải rèn cho học sinh khiếm thính lớp
Dự bị mới bắt đầu đeo máy trợ thính.
Mục đích: Để trẻ khiếm thính phát hiện ra có âm thanh hay không có âm
thanh.
Về mặt tần số có thể chia âm thanh ra làm 3 loại: Các âm thanh có tần số
trầm (tiếng trống, nguyên âm /u/), các âm thanh có tần số trung (tiếng chuông,
tiếng ho, tiếng hai khối gỗ nhỏ đập vào nhau, nguyên âm /a/), các âm thanh có
tần số cao (tiếng sáo, tiếng khóc thé, phụ âm /s/, phụ âm /x/).
Ban đầu, điều quan trọng là giáo viên đừng luyện nghe bằng một âm đơn lẻ
như chỉ đánh một tiếng trống, thổi một tiếng sáo… bởi vì trẻ khiếm thính cần
phải có thời gian đặc biệt đối với trẻ mới đeo máy trợ thính hay đeo máy trợ
thính không thường xuyên. Giáo viên tạo ra một chuỗi âm thanh như tututututu,
5
bebebebebe, mumumumumu. Khi trẻ nghe được, giáo viên giảm dần độ dài của
âm thanh phát ra. Ở giai đoạn này không quan trọng trẻ phải nói âm thanh nghe
được là âm gì như “đó là tiếng trống” hay “đó là tiếng chuông”. Nhưng cũng
không gạt đi khi trẻ nói tới mà nên khen trẻ. Giải thích yêu cầu một cách bình
thường có kết hợp đọc hình miệng. Điều này có thể thực hiện với cả lớp, một
nhóm nhỏ hay luyện cá nhân. Khi giáo viên đứng trước trẻ, yêu cầu trẻ cúi đầu
nhìn xuống đất (đừng để trẻ cúi quá vì như vậy máy trợ thính sẽ kêu rít lên),
không nên để trẻ che tay trước mặt bởi như vậy trẻ có thể nhìn qua kẽ tay.
Ví dụ: Luyện nghe phát hiện tiếng trống
Cách thực hiện: Giáo viên thực hiện theo hai hình thức là luyện nghe tập thể
và luyện nghe cá nhân.
Luyện nghe tập thể: Giải thích cho cả lớp biết khi giáo viên đánh trống, học
sinh nghe và phản ứng bằng cách giơ tay. Giáo viên làm mẫu trò chơi với học
sinh khá nhất để các học sinh khác quan sát. Làm thử bằng tiếng trống rất tốt vì
trẻ nhìn thấy bạn đánh trống và đứa trẻ đứng trước mặt bạn có phản ứng. Hãy để
một trẻ đã quan sát đóng vai trò của giáo viên. Bắt đầu luyện tập và ghi kết quả
theo cách sau:
Nếu trẻ phản ứng đúng với tiếng gõ trống: đánh dấu + vào dòng Có.
Nếu trẻ phản ứng đúng với khi không gõ trống: đánh dấu + vào dòng Không.
Nếu trẻ không phản ứng với tiếng gõ trống: đánh dấu – vào dòng Có.
Nếu trẻ phản ứng khi không gõ trống, bởi vì trẻ nghĩ rằng nghe thấy âm thanh:
đánh dấu – vào dòng Không.
Đôi khi giáo viên nghĩ rằng trẻ có thể nghe thấy âm thanh nhưng phản ứng sai,
đánh dấu -? (đánh dấu hỏi vì còn nghi ngờ).
Học sinh từ trái sang phải
1
2
3
4
Có
++++
+---
-? - - +
++++
Không
++++
----
- - -? -
+-++
Tốt
Không nghe
Không rõ
Tốt
Phản ứng
Nhận xét
Luyện nghe cá nhân: Luyện nghe cá nhân là luyện một bài cho từng trẻ. Sau
khi đã luyện nghe tập thể, trẻ nào nghe không tốt thì giáo viên sẽ cho luyện nghe
cá nhân. Giáo viên cho trẻ ngồi cách xa 1m, yêu cầu trẻ nhìn xuống đất, giáo
viên gõ trống và chờ đợi trẻ phản ứng. Thống nhất với cách ra hiệu khi trẻ nghe
âm thanh hay khi trẻ không nghe thấy âm thanh bằng cách trả lời “có” hoặc
“không có”. Giáo viên dùng một quyển sổ luyện nghe trong đó có chia mỗi học
sinh một phần hay một trang để ghi kết quả.
Giáo viên thực hiện ít nhất 10 lần với mỗi loại có âm thanh hay không có âm
thanh. Sau mỗi bài luyện tập luôn khen ngợi trẻ, khen ngợi ngay cả khi trẻ chưa
đạt được hết điểm cộng vì trẻ đã làm hết khả năng với trình độ của mình.
Khi trẻ đã nghe tốt ở âm trầm với tiếng trống thì giáo viên chuyển sang
luyện nghe âm trung với tiếng chuông và âm cao với tiếng sáo.
6
- Hình thành và rèn kỹ năng nghe phân biệt âm thanh:
Khi học sinh khiếm thính đã có kỹ năng nghe phát hiện âm thanh, giáo viên
sẽ tiếp tục rèn học sinh kỹ năng nghe phân biệt hai âm khác nhau, bằng cách
nghe hai âm và trả lời giống nhau hay khác nhau.
Mục đích: Rèn học sinh nghe phân biệt từng cặp hai âm thanh “giống nhau”
hay “khác nhau”, điều này đặc biệt quan trọng đối với học sinh có khó khăn ở
bước nhận biết âm thanh. Đây cũng là một cách giúp giáo viên tìm ra những lỗi
trong lời nói của trẻ. Giáo viên và học sinh có thêm nhiều hiểu biết về khả năng
nghe.
Ví dụ: Luyện nghe phân biệt tiếng trống và tiếng chuông.
Cách thực hiện: Giáo viên đánh trống trước mặt trẻ cho trẻ nhìn thấy; đánh
hai lần cùng một nhịp điệu, không đánh một tiếng mà đánh một dãy năm tiếng,
nhịp trống của hai lần phải giống nhau nếu không trẻ khó bắt chước. Giữa hai
nhịp phải ngắt rõ ràng, cung cấp từ “giống nhau” cho trẻ. Làm tương tự với
tiếng khác nhau với tiếng trống là tiếng chuông và cung cấp từ “khác nhau”. Bắt
đầu trò chơi, gọi một trẻ nghe khá làm mẫu chỉ được nghe và trả lời. Làm vài lần
và hỏi bạn làm có đúng không? Bằng cách này tất cả trẻ sẽ hiểu được cách chơi.
Luyện tập nghe và làm theo một vài lần đối với từng cặp học sinh. Bắt đầu luyện
nghe với cả lớp, đừng để học sinh trả lời ngay mà yêu cầu trẻ giơ tay, hãy cho
học sinh yếu nhất trả lời trước tiên, không kết luận học sinh trả lời là đúng hay
sai. Gọi lần lượt các học sinh khác trả lời, sau đó giáo viên cho biết câu trả lời
đúng, khen thưởng những học sinh làm đúng, động viên những học sinh còn làm
sai bằng cách làm lại cho học sinh xem và khuyến khích trẻ làm lại để được
khen thưởng. Thực hiện với cả nhóm học sinh, sau đó sẽ làm với từng trẻ như
vậy việc theo dõi ghi điểm sẽ dễ dàng hơn. Đặc biệt với học sinh nghe yếu rất
cần thiết phải luyện nghe cá nhân.
Bảng ghi điểm như sau:
Học sinh từ
trái sang phải
1
2
3
4
Giống nhau
+-++
++++
+++-
++++
Khác nhau
+ - - -?
+-++
+ + - -?
++++
Nhận xét
Không rõ
Tốt
Không rõ
Tốt
Một số bài luyện nghe: Tiếng kêu các con vật (con bò, con mèo, con dê,…),
âm thanh môi trường (tiếng xe ô tô, tiếng điện thoại,…), âm thanh lời nói.
- Hình thành và rèn kỹ năng nghe phát hiện âm thanh:
Lúc này học sinh đã phân biệt được các âm thanh do một vật nào đó gây ra,
việc giải thích không còn phải mất nhiều thời gian nữa.
Mục đích: Học sinh phải nhận biết được âm thanh và đồ vật phát ra âm
thanh trong một tình huống nhất định.
7
Cách thực hiện: Giải thích cho học sinh biết điều giáo viên sắp làm. Tốt nhất
là hãy bắt đầu bằng âm thanh phát ra từ đồ vật để trẻ vừa nghe và vừa nhìn.
Ví dụ: Luyện nghe phát hiện tiếng trống, tiếng chuông, tiếng sáo.
Giáo viên gõ trống và giới thiệu cho học sinh biết âm thanh đó là cái trống,
tương tự với cái chuông và cây sáo. Giáo viên phát cho mỗi học sinh thẻ hình
cái trống, thẻ hình cái chuông và thẻ hình cây sáo. Khi giáo viên gõ trống thì học
sinh phải đưa ra được thẻ hình đúng. Thực hiện tương tự với tiếng chuông và
tiếng sáo.
Bảng ghi điểm như sau:
Học sinh từ
trái sang phải
1
2
3
4
Tiếng trống
++++
++++
+++-
++++
Tiếng sáo
++-?
+-++
+--?
++++
Tiếng chuông
++++
++++ -
+-?
++++
Nhận xét
Tốt
Không rõ
tốt
Tốt
Nếu cho học sinh nghe càng nhiều âm thanh thì bảng điểm sẽ càng dài.
Trong một thời gian ngắn giáo viên không nên giới thiệu quá nhiều âm thanh,
hãy làm từng bước và ghi điểm của từng bài tập riêng lẻ. Lúc đầu ghi điểm sau
khi cho nghe hai âm thanh. Khi học sinh đã nghe được cả hai tiếng, hãy cho học
sinh nghe ba tiếng và tăng lên nữa tùy vào khả năng nghe của học sinh.
Giáo viên có thể thay thẻ hình bằng thẻ số, những con số này cũng phải
tương đương với số dán trên đồ vật. Ngoài ra cũng có thể dùng tranh vẽ dán lên
trên bảng hoặc thậm chí có thể viết tên của đồ vật hay con vật phát ra âm thanh.
Giáo viên luyện cho học sinh nghe đi nghe lại vài lần để học sinh nhớ, bước
khắc sâu này rất quan trọng, dành đủ thời gian để học sinh nghe và cũng làm
như vậy đối với tất cả các âm thanh mà giáo viên giới thiệu. Giáo viên nên nhớ
hãy chọn các đồ vật càng khác nhau càng tốt; có nghĩa là âm thanh của các đồ
vật phải khác nhau về độ dài, âm lượng và nhịp điệu. Như là 4 nhịp trống nghe
sẽ hoàn toàn khác với tiếng huýt sáo dài – vì tiếng trống thì trầm còn tiếng sáo
thì cao, 4 nhịp trống sẽ rất khác so với một tiếng sáo dài vì tiếng trống to còn
tiếng sáo thì nhỏ. Giáo viên có thể thực hiện luyện nghe và cho học sinh dùng
băng giấy vẽ hình đồ vật phát ra âm thanh đó để trả lời. Giáo viên hãy cho phép
học sinh được tự do lựa chọn, điều này rất quan trọng. Theo đó, tiết học nhóm sẽ
có tác dụng gần như tiết học cá nhân. Học sinh phải bí mật lựa chọn, giấu băng
giấy trong bàn tay phải, nắm chặt lại rồi đưa ra đằng trước. Tay trái không cầm
gì để ở sau lưng vì học sinh nắm chặt tay nên bạn vẫn không thể biết trẻ đã chọn
câu trả lời nào. Khi tất cả học sinh đã chọn xong và đưa tay phải ra đằng trước,
giáo viên cùng học sinh bắt đầu đếm từ một đến ba rồi cho mở tay ra. Học sinh
theo dõi lẫn nhau, khi cả nhóm trả lời đúng giáo viên hãy khen học sinh.
8
Bài tập dùng trong hội thoại: Mỗi tiết hội thoại đều có thể là một tiết luyện
nghe, ngay sau khi hội thoại hãy cho học sinh luyện nghe.
Ví dụ: Luyện nghe câu có độ dài khác nhau trong hội thoại nhìn lại.
Câu a: Quả táo màu đỏ.
Câu b: Quả táo màu đỏ ăn ngon lắm!
Giáo viên viết những câu này lên một góc bảng, như vậy rõ ràng là giáo viên
chỉ làm bài tập này với hai câu mà thôi. Sau khi hoàn thành bài tập này hãy mở
rộng bằng cách cho thêm một câu nữa, câu này ngắn hơn câu a hoặc dài hơn câu
b. Nếu học sinh đã nghe tốt, giáo viên có thể dùng một phần hay toàn bộ đoạn
hội thoại. Giáo viên nói câu a cho học sinh nghe và xác định câu giáo viên vừa
nói, thực hiện tương tự với câu b. Giáo viên luyện cho học sinh nghe vài lần hai
câu nói trên không theo thứ tự câu để tránh việc học sinh đoán câu.
- Hình thành và rèn kỹ năng nghe nhận biết và hiểu lời nói:
Lúc này học sinh đã đạt được kỹ năng nghe phát hiện âm thanh. Giáo viên
nên rèn học sinh kỹ năng nghe nhận biết và hiểu lời nói trong các giờ luyện tập,
buộc phải thực hành trong tất cả các tình huống giao tiếp tự nhiên.
Mục đích: Học sinh phải thể hiện là mình hiểu lời nói qua kênh thính giác.
Để làm được như vậy, trẻ không nhắc lại câu/lời nói mà sẽ là phản hồi bằng
hành động hay đưa ra câu trả lời nếu đó là câu hỏi.
Cách thực hiện: Trong tiết luyện tập, giáo viên sẽ làm mẫu trước để học sinh
biết thế nào là nghe và hiểu lời nói. Khi thấy có sự khác biệt lớn, ta nên chia học
sinh thành hai nhóm nhỏ (thành viên trong nhóm có mức độ tương đương với
nhau) hay thậm chí còn có thể thực hiện trên cá nhân. Hãy giải thích cho học
sinh biết chủ đề mà giáo viên sắp nói, như vậy học sinh vừa nghe vừa kết hợp
đọc hình miệng. Để mở đầu, giáo viên hãy yêu cầu học sinh nghe chủ đề mà
giáo viên nói ra. Một chủ đề dễ lựa chọn và rất phù hợp với học sinh đó là nói về
những gì liên quan tới chính bản thân học sinh.
Ví dụ:
Giáo viên hỏi: Em tên gì?
Học sinh nghe câu hỏi và trả lời: Em tên Thanh Phương.
Một số câu hỏi khác như: Em bao nhiêu tuổi? Tên cô là gì? Em học lớp mấy?
Ngoài ra, giáo viên rèn cho học sinh nghe – hiểu câu đơn giản, mệnh lệnh
chỉ một hoặc hai hành động.
Ví dụ: Rèn kỹ năng nghe – hiểu câu đơn giản, mệnh lệnh chỉ một hành động.
Một số mệnh lệnh như: hãy đứng lên, hãy ngồi xuống, hãy mở cửa, hãy đóng
cửa,… Yêu học sinh nghe xác định ý nghĩa nội dung tiếng nói và thực hiện theo.
Giáo viên nói mệnh lệnh rồi làm mẫu theo mệnh lệnh, học sinh làm thử và thực
hiện theo mệnh lệnh; lời nói của giáo viên phải rõ ràng, dứt khoát. Trò chơi này
có thể thực hiện theo nhóm, đối với những trẻ có khả năng nói thì yêu cầu trẻ
nhắc lại mệnh lệnh.
- Phát triển kỹ năng nghe qua hoạt động kể chuyện:
Thông qua hoạt động kể chuyện, học sinh khiếm thính sẽ học lắng nghe các
ngữ điệu của giọng giáo viên kể chuyện, nghe nhận biết tên một số nhân vật và
hành động trong truyện. Giáo viên nên sử dụng các câu chuyện có nội dung đơn
9
giản với 1 – 2 nhân vật hoặc 2 – 3 hành động và có tranh minh họa theo cốt
truyện. Với học sinh khiếm thính lớp Dự bị giáo viên nên sưu tầm các quyển
truyện dành cho trẻ ở lứa tuổi từ 0 – 6 tuổi.
Cách thực hiện: Giáo viên nói về một số điểm chính của câu chuyện, học
sinh nghe và nhìn hình miệng. Sau đó, giáo viên bắt đầu lại và kể toàn bộ câu
chuyện, học sinh chỉ nghe. Giáo viên không yêu cầu học sinh hiểu toàn bộ câu
chuyện chỉ cần học sinh nói lại được một số chi tiết trong câu chuyện. Sau đó,
giáo viên nhắc lại câu truyện một lần nữa, học sinh chỉ nghe không nhìn hình
miệng. Sau khi kể xong, hãy để trẻ nhắc lại câu chuyện cho các bạn trong lớp
nghe, đây là một điều tốt giáo viên nên làm dưới hình thức hội thoại.
- Phát triển kỹ năng nghe qua hoạt động âm nhạc:
Sử dụng âm nhạc để luyện nghe đem lại nhiều lợi ích cho trẻ khiếm thính.
Yêu cầu học sinh hát theo giáo viên. Lúc đầu, chỉ cần học sinh ngân nga theo
giai điệu bài hát mà giáo viên hát. Sau đó, yêu cầu học sinh nghe lời bài hát và
hát theo. Hãy sử dụng các bài hát thiếu nhi có lời ngắn, nội dung đơn giản theo
các chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề động vật chọn bài hát “Con gà trống” và bài hát “Một con vịt”
Luyện nghe qua bài hát “Con gà trống”
Con gà trống
Có cái mào đỏ
Chân có cựa
Gà trống gáy ò ó o
Gà trống gáy ò ó o
Giáo viên giới thiệu tên bài hát, nội dung bài hát qua hình ảnh con gà trống.
Hầu hết các bài hát của trẻ thơ có trong dĩa hay bằng nhạc đều được trình bày
với giọng hát rất cao và quá nhanh đối với trẻ khiếm thính. Trước hết, giáo viên
yêu cầu cả lớp lắng nghe cô hát cả bài theo đúng giai điệu và nhấn giọng ở câu
hát tiếng gáy của con gà trống “ò ó o”. Giáo viên hát từng câu cho học sinh nghe
và yêu cầu học sinh ngân nga hoặc hát theo giai điệu của câu hát. Giáo viên hát
cả bài, học sinh nghe rồi ngân nga hoặc hát theo giai điệu của bài hát và vận
động theo bài hát.
Đối với học sinh khiếm thính lớp Dự bị không yêu cầu các em nghe hiểu nội
dung bài hát, chỉ cần các em biết bài hát này nói về con gà trống. Mỗi khi giáo
viên hát đến đoạn “Gà trống gáy ò ó o” học sinh đoán được tên con vật tương
ứng với tiếng gáy hoặc tiếng kêu. Sau đó, giáo viên mở máy cho học sinh nghe
bài hát có nhạc.
Mỗi chủ đề giáo viên luyện nghe cho học sinh qua một hoặc nhiều bài hát
tùy vào khả năng nghe và ghi nhớ của từng học sinh trong lớp.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Qua một năm học mạnh dạn triển khai “Một số biện pháp giúp học sinh
khiếm thính lớp Dự bị phát triển kỹ năng nghe” trong giờ dạy luyện nghe trên
lớp tôi nhận được một số kết quả khả quan như sau:
- Tất cả học sinh đều nghe phát hiện ra có hay không có âm thanh, một số học
sinh đã đạt đến mức độ nghe hiểu lời nói; đa số học sinh phát âm rõ tiếng.
10
- Học sinh có kỹ năng nghe, kỹ năng đọc hình miệng rất tốt, học sinh tích cực
chủ động trong học tập, mạnh dạn phát biểu ý kiến, biết nhận xét bạn nói đúng
hay sai.
- Học sinh thích thú, có hứng thú trong đeo máy trợ thính và sử dụng máy trợ
thính để lắng nghe.
- Học sinh tự tin hơn trong giao tiếp với giáo viên, với bạn lúc ở trường cũng
như lúc ở nhà.
- So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện các giải pháp tôi nhận thấy kỹ năng
nghe của học sinh tiến bộ nhiều.
+ Kết quả khảo sát ban đầu về khả năng nghe của học sinh lớp Dự bị năm học
2012 – 2013:
Lớp
Không có
Phát hiện Phân biệt
phản ứng với âm thanh âm thanh
âm thanh
SL
%
SL
% SL %
Dự bị 1
7
5/7
71.4 2/7 28.6
Dự bị 2
6
5/6
83.3 1/6 16.7
+ Kết quả đánh giá về khả năng nghe của học sinh lớp
2013 sau khi thực hiện các giải pháp:
Lớp
Sĩ số
Sĩ số
Không có
phản ứng
với âm
thanh
SL
%
Phát hiện
âm thanh
Phân biệt
âm thanh
Nhận biết
âm thanh
Hiểu lời
nói
SL
SL
%
%
Dự bị năm học 2012 –
Nhận biết
âm thanh
Hiểu lời
nói
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Dự bị 1
7
7/7 100 6/7 85.7 5/7 71.4 2/7 28.6
Dự bị 2
6
6/6 100 5/6 83.3 4/6 66.7 1/6 16.7
Với kết quả đạt được qua áp dụng kinh nghiệm ở lớp, tôi muốn góp phần
nhỏ vào việc giúp trẻ khiểm thính phát triển kỹ năng nghe ở lớp Dự bị đồng thời
góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập môn luyện nghe ở các lớp tiếp
theo ở bậc tiểu học.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Phát triển kỹ năng nghe cho học sinh khiếm thính là rất quan trọng, do hạn
chế về khả năng nghe nói nên các em gặp khó khăn trong quá trình học tập, nhất
là học ngôn ngữ. Trong đề tài nghiên cứu này, tôi đã nêu lên một số biện pháp
giúp trẻ khiếm thính lớp Dự bị phát triển kỹ năng nghe để khắc phục những hạn
chế về nghe mà tham gia vào học tập tốt hơn.
Đối với giáo viên dạy trẻ khiếm thính:
- Giáo viên phải có kiến thức thật vững chắc về trẻ khuyết tật nói chung và trẻ
khuyết tật mà mình đang phụ trách giảng dạy nói riêng.
- Giáo viên cần đầu tư làm nhiều đồ dùng dạy học phong phú, tổ chức giờ học
phù hợp với học sinh lứa tuổi mầm non.
11
- Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi bước vào giờ học về đồ dùng
trực quan phục vụ cho giờ học luyện nghe phù hợp với nội dung bài học, lựa
chọn hình thức và phương pháp dạy học phù hợp, sắp xếp chỗ ngồi hợp lí và
một công việc rất quan trọng là kiểm tra máy trợ thính cho học sinh.
- Giáo viên cần phải sử dụng các bài luyện nghe phù hợp với khả năng của từng
học sinh, nâng dần nội dung luyện nghe theo sự tiến bộ của học sinh.
- Giáo viên không nên chỉ dừng lại ở việc dạy học bằng một phương pháp mà
phải trau dồi, rèn luyện việc sử dụng phối hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp
dạy học khác nhau để tránh nhàm chán. Giáo viên cần phối hợp linh hoạt giữa
các phương pháp, hình thức để giúp cho học sinh khiếm thính khắc phục được
khiếm khuyết về khả năng nghe nói.
Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh thường xuyên đưa trẻ đi kiểm tra thính lực định kì 6 tháng/1 lần,
thường xuyên đi bảo trì máy trợ thính để kịp thời khắc phục những sự cố của
máy.
- Phụ huynh cần phải đeo máy trợ thính liên tục vào thời gian ở nhà.
- Phụ huynh nên luyện nghe cho trẻ ở nhà theo các bài tập mà giáo viên đã dạy
trên lớp.
Đối với Ban Giám đốc:
- Đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất, phòng hỗ trợ phục hồi chức năng cho học
sinh khiếm thính.
- Phân công giáo viên dạy tiết cá nhân cho học sinh.
- Thường xuyên tổ chức các lớp giao lưu, học tập kinh nghiệm với các trường
chuyên biệt, trường hòa nhập, trường phổ thông.
- Cung cấp nhiều tài liệu về các dạng tật của học sinh để giáo viên tham khảo.
V.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hỏi – Đáp về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở Việt Nam – Viện
KHGD Việt Nam, Trung tâm Tật học – NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – 1999.
2. Giáo trình tâm lí trẻ Khiếm thính – GS.TS Nguyễn Quang Uẩn – Đại học
Sư phạm – 2004.
3. Tài liệu Phương pháp Luyện nghe cho trẻ khiếm thính – Th.S Trần Thị
Thiệp – Đại học Sư phạm Hà Nội – 2006.
i n òa, ngày 10 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Đinh Ngọc Vân
12
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do – Hạnh phúc
Biên Hoà, ngày 10 tháng 5 năm 2013
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012 – 2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHIẾM
THÍNH LỚP DỰ BỊ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE.
Họ và tên tác giả: Đinh Ngọc Vân
Lĩnh vực/Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật: Môn Luyện nghe
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị
Trong Ngành
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới.
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có.
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao.
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao.
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao.
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả.
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc vạch định đường lối, chính
sách:
Tốt
Khá Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện
và dễ đi vào cuộc sống: Tốt
Khá Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng: Tốt
Khá Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ