LỜI MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Sau công cuộc đổi mới năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo
nhân dân vượt qua mọi khó khăn, trở ngại đưa nước ta dần dần đi lên và ổn
định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế và hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Về đối ngoại, Đảng ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ,
mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ với phương châm “Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”. Chúng ta đã có
quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia lớn nhỏ trong khu vực cũng như
ngoài khu vực, đặc biệt là tăng cường quan hệ với các nước láng giềng trong
khối ASEAN trong đó có Singapore. Trên thực tế Singapore có quan hệ rất
sớm với Việt Nam. Ngay từ đầu những năm 90, mối quan hệ giữa hai nước đã
tiến triển đáng kể cùng với sự phát triển chung của tình hình khu vực và thế
giới. Từ đó tới nay Singapore luôn là một trong các bạn hàng lớn nhất của
Việt Nam. Singapore đã khẳng định tầm quan trọng của mình trong mối quan
hệ hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, đầu tư,
giáo dục…Sự hợp tác song phương của hai nước đã đem lại một trong những
lợi ích lớn về hợp tác khu vực đó là xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm
2015 để bảo đảm sự tăng trưởng và thịnh vượng lâu dài của cả khu vực.
Hiện nay, Đảng ta vẫn luôn khẳng định rằng vị thế và chính sách đối
ngoại của Việt Nam: chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; coi trọng và dành
ưu tiên cao cho việc tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực. Là thành
viên có trách nhiệm của ASEAN, Việt Nam sẵn sàng cùng Singapore và các
nước ASEAN quyết tâm xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, gắn kết, vững
mạnh vì một khu vực Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Vì vậy, tôi chọn đề tài tiểu luận về mối “Quan hệ Việt Nam Singapore trong thế kỷ XXI” để ngày càng hiểu rõ hơn về quan hệ đối tác
chiến lược giữa hai quốc gia này.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa Việt Nam - Singapore là một nội dung nhận được
nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Có một số cuốn sách, tạp chí…đã đề cập tới.
Như cuốn Lịch sử quan hệ Việt Nam - Singapore (1965 - 2005) của TS Phạm
1
Thị Ngọc Thu xuất bản năm 2011, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuốn sách này giúp tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đâu là chỗ dựa cho Việt
3.
Nam về quan hệ đối ngoại trong thời kỳ toàn cầu hóa…
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng là mối quan hệ giữa Việt Nam và Singapore
- Phạm vi là mối quan hệ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, thương
mại, đầu tư, giáo dục đào tạo…giữa hai quốc gia
4.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nhằm làm rõ mối quan hệ đối tác, chiến lược giữa Việt Nam
- Singapore trên các lĩnh vực
- Nhiệm vụ phân tích, đánh giá các nội dung sau:
+ Những nhân tố cơ bản tác động đến mối quan hệ giữa Việt Nam -
5.
Singapore
+ Thực trạng quan hệ Việt Nam - Singapore những năm đầu thế kỷ XXI
+ Triển vọng trong quan hệ Việt - Sing
Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Dựa trên đường lối, chủ trương, chính sách, quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách đối ngoại để
từ đó nghiên cứu vấn đề.
- Cơ sở thực tiễn: hoạt động ngoại giao giữa hai quốc gia thông qua các
chuyến thăm viếng của cán bộ cấp cao của hai quốc gia và những thành tựu
đạt được trong quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực từ đó ngày càng nâng cao
quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam - Singapore
6.
7.
Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, logic lịch sử…
Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm Phần mở đầu, nội dung và kết luận
Phần nội dung gồm 3 chương, 8 tiết và phần danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN
QUAN HỆ VIỆT NAM - SINGAPORE
2
1.
Tình hình khu vực
Đông Nam Á là khu vực nằm ở vùng đông - nam lục địa Châu Á, bao
gồm 11 quốc gia. Tổng diện tích khu vực gần 4,5 triệu km 2 . Ưu thế nổi bật về
điều kiện tự nhiên của khu vực này là hầu hết các quốc gia đều tiếp cận biển
và đại dương, nằm trấn giữa các đường hang hải quốc tế nối Ấn Độ Dương
với Thái Bình Dương và tiếp cận với các quốc gia thuộc Châu Đại Dương.
Mặt khác, Đông Nam Á có vị trí chiến lược rất quan trọng, nằm giữa Ấn Độ
và Trung Quốc, gần Nhật Bản, tiếp giáp với Australia, trong khu vực lại có
những hải cảng quan trọng như Malắcca, Singapore, Đà Nẵng…với vị trí
chiến lược của mình cùng với tiềm năng phát triển hải quân rất lớn của nhiều
quốc gia trong khu vực đã khiến Đông Nam Á trở thành một vùng địa chính
trị hết sức nhạy cảm trong toan tính chiến lược của các cường quốc.
Về tài nguyên thiên nhiên thì Đông Nam Á là vùng giàu khoáng sản. Khí
hậu bao trùm là nhiệt đới - xích đạo. Có mạng lưới sông ngòi dày đặc, trữ
lượng nước dồi dào, thực vật tự nhiên phong phú. Đây là những điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế.
Khu vực Đông Nam Á là nơi cư trú của nhiều dân tộc có nguồn gốc,
tiếng nói, tôn giáo khác nhau. Các quốc gia dân tộc trong vùng có chung
nhiều bản sắc, phong tục, tập quán, giá trị văn hóa…Trên cơ sở thống nhất
văn hóa bền chặt này, và tác động của hang loạt các nhân tố khác, Đông Nam
Á nổi lên như một thực thể địa kinh tế, địa chính trị vừa thống nhất vừa đa
dạng trong lịch sử hiện đại.
Với vai trò địa chiến lược và tốc độ phát triển kinh tế, Đông Nam Á có
tầm quan trọng ngày càng lớn trong chiến lược ảnh hưởng của các cường
quốc thế giới. Thực tế cho thấy các cuộc chiến tranh và khủng hoảng diễn ra
trong gần nửa thế kỷ qua tại khu vực đều có nguyên nhân sâu xa là sự can
thiệp từ bên ngoài. Tình hình đó kết hợp với cuộc đấu tranh chính trị - xã hội
của mỗi nước đẫ dẫn đến những thay đổi trong quan hệ giữa các nước. Hiện
3
nay các nước trong khu vực đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn hòa
2.
bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Tình hình của hai nước
2.1 Tình hình của Việt Nam
Kinh tế Việt Nam:
Là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và lớn thứ 57 trên thế giới xét
theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2011 và đứng thứ 128 xét
theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Tổng Thu nhập
nội địa GDP năm 2011 là 124 tỷ USD. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc
cao vào xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng ở Việt Nam một hệ thống kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1976, do chỉ một đảng lãnh đạo đất nước, sự
thăng trầm của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào ai lãnh đạo và
các chính sách của Đảng Cộng sản và Chính phủ đưa ra.
Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp
Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng
Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự
do đa phương với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Việt
Nam cũng đã ký với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương.
Kinh tế Việt Nam dưới sự điều hành của Chính Phủ còn nhiều vấn đề tồn tại
cần giải quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc rễ của bất ổn kinh tế vĩ mô
đã ăn sâu, bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền kinh tế nước này, cộng với
việc điều hành kém hiệu quả, liệu dẫn đến liên tục gặp lạm phát cũng như
nguy cơ đình đốn nền kinh tế.
Tiền tệ: Đồng Việt Nam (đ);
Năm tài chính: Chương trình nghị sự;
Tổ chức kinh tế: AFTA, WTO, APEC, ASEAN, FAO;
GDP (PPP): 320.879 tỷ USD (ước tính 2012);
(DN) 135.411 tỷ USD (ước tính 2012.);
Tăng trưởng GDP: +5,03% (ước tính 2012);
GDP đầu người (PPP): 3,549 USD (ước tính 2012);
4
GDP theo lĩnh vực Nông nghiệp (20,1%), Công nghiệp (41,8%), Dịch
vụ (39%) (ước tính 2006);
Lạm phát (CPI): 6,81% (2012);
Tỷ lệ nghèo: 11,3% - 11,5% (2012 ước tính);
Lực lượng lao động: 52,58 triệu (2012 ước tính);
Cơ cấu lao động theo nghề: Nông nghiệp (56.8%), Công nghiệp (37%),
Dịch vụ (6.2%) (ước tính 2006);
Thất nghiệp: 1,99% (2012 ước tính);
Tài chính công: Nợ công 58,7% GDP (2011 ước tính), Thu 4,96% GDP
(2011 ước tính), Chi 5,33% GDP (2011 ước tính), Viện trợ ODA: 6 tỷ USD
(2011 ước tính).
Chính trị:
Hiến pháp 1992 của Việt Nam quy định nhà nước Việt Nam được xây
dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia, tuy nhiên có sự phân công
ra các lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp để phối hợp hoạt động.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan cao nhất có
quyền lập hiến và lập pháp. Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, điều
hành tất cả các lĩnh vực của đất nước, đối nội, đối ngoại thông qua các thiết
chế từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt, Hiến pháp quy định quyền lãnh
đạo cao nhất đối với nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt
Nam thực hiện chế độ một Đảng duy nhất cầm quyền.
Văn hóa:
Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ
sở đa sắc thái văn hóa tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính:
Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng
trên tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những
phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh
hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung
trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao
tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ
thuật.
5
Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố
dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại
Việt Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng của
người Việt chủ đạo với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những
sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây bắc và Đông bắc. Từ các vùng
đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn
với văn hóa Ch ăm Pa của người Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những vùng đất
mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khơ me đến
sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt
cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của
người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong
trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc
và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây
trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi
về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có
những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
6
Tôn giáo:
Các tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo
giáo (được gọi là "Tam giáo"). Có một số tôn giáo khác như Công giáo Rôma,
Cao Đài và Hòa Hảo. Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ hơn khác gồm Phật
giáo Tiểu thừa, Tin Lành và Hồi giáo.
Phần đông đa số người dân Việt Nam xem họ là nhưng người không có
tín ngưỡng, mặc dù họ cũng có đi đến các địa điểm tôn giáo vài lần trong một
năm. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo
thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo lý ít được quan tâm.
Ngôn ngữ:
Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam
thành 8 nhóm ngôn ngữ của họ: Nhóm Việt-Mường, nhóm Tày-Thái, nhóm
Dao-Hmông, nhóm Tạng-Miến, nhóm Hán, nhóm Môn-Khơ me, nhóm Mã
Lai-Đa đảo, nhóm hỗn hợp Nam Á.
Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính
thức của nước Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngôn
ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt
được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt
nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới
phương ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau
từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Ngoài chữ Quốc ngữ là chữ viết chung của người Việt và của Việt Nam,
một số dân tộc khác cũng sử dụng song hành chữ viết của dân tộc mình như
chữ Khơ me của người Khơ me ở Nam Bộ, chữ Akhar Thrah của người
Chăm, chữ Thái của người Thái ở vùng Tây bắc, chữ Mnông của người
Mnông ở Tây Nguyên,...nhằm gìn giữ văn hoá của dân tộc mình cũng như
tiếp nhận các tri thức mới từ chữ quốc ngữ dịch sang. Theo thống kê hiện nay
có 26 dân tộc thiểu số tại Việt Nam có chữ viết riêng của mình ngoài chữ
Quốc ngữ.
2.2 Tình hình của Singapore
Kinh tế Singapore:
7
Là nền kinh tế phát triển, theo đường lối kinh tế tư bản. Sự can thiệp của
chính phủ vào vào nền kinh tế được giảm thiểu tối đa. Singapore có môi
trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả ổn
định, và là một trong những nước có GDP bình quân đầu người cao nhất thế
giới. xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng điện tử và hóa chất và dịch vụ là
nguồn cung cấp chính cho thu nhập kinh tế và mua được các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và hàng chưa gia công mà trong nước không có. Do vậy
có thể nói Singapore dựa hoàn toàn vào nền kinh tế mở bằng việc mua các
hàng hóa chưa gia công và chế biến chúng để xuất khẩu. Singapore cũng có
một hải cảng chiến lược, có thể cạnh tranh với các nước láng giềng để thực
hiện các hoạt động buôn bán, xuất nhập khẩu. Thành phố hải cảng của
Singapore là một trong những nơi bận rộn nhất trên thế giới, vượt xa Hồng
Kông và Thượng Hải. Thêm vào đó, thành phố hải cảng của Singapore có cơ
sở hạ tầng tốt và lực lượng lao động có tay nghề cao nhờ các chính sách giáo
dục của đất nước trong việc đào tạo kỹ nghề cho công nhân, nó cũng là nền
tảng cho việc phát triển kinh tế của đất nước.
Tiền tệ: Đô la Singapore (SGD);
Năm tài chính: 1 tháng 4 - 31 tháng 3;
Tổ chức kinh tế: WTO, APEC;
GDP (PPP): 280 tỷ USD (2011);
Tăng trưởng GDP: 7.9% (2006);
GDP đầu người: 56000 USD (2011);
GDP theo lĩnh vực: Nông nghiệp 0%, công nghiệp 34.8%, dịch vụ
65.2% (2006);
Lạm phát (CPI) 1% (2006);
Tỷ lệ nghèo: N/A;
Lực lượng lao động: 2,47 triệu (2006);
Thất nghiệp: 3.1% (2006);
8
Tài chính công: Nợ công 24,3 tỉ USD (2006), Thu 19,71 tỉ USD (2006),
Chi 19,85 tỉ USD (2006 est), Viện trợ không có.
Hệ thống chính trị:
Singapore
là một nước cộng hòa nghị viện dựa theo mô hình
Westminster của Anh. Hệ thống chính trị Singapore hoạt động dựa trên
nguyên tắc đa đảng, nhưng gần giống với chế độ dân chủ độc đảng vì kể từ
khi giành được độc lập đến nay, Đảng Nhân dân Hành động (People’s Action
Party-PAP) liên tục cầm quyền trong khi đó phe đối lập lại quá yếu.
Singapore hiện có 24 đảng đăng ký hoạt động chính thức, nhưng ngoài đảng
cầm quyền (PAP) ra thì chỉ có ba đảng là có hoạt động đáng kể. Đó là Đảng
Lao động (Workers’ Party-WP), Đảng Dân chủ Singapore
(Singapore
Democratic Party-SDP) và Liên minh Dân chủ Singapore (Singapore
Democratic Alliance-SDA) .
Văn hóa Singapore:
Hợp nhất trong đa dạng là triết lý phát triển của thành phố quốc tế này.
Mặc dù vị trí địa lý đóng góp một phần trong sự thành công của Singapore,
nhưng nhân tố chủ yếu của sự thành công này là chính là con người.
Dù không được ưu đãi về nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng sức mạnh
của Singapore lại nằm ở tinh thần làm việc cần cù, khả năng dễ thích nghi và
đức tính kiên cường của người dân nơi đây
Dân số Singapore vào khoảng 4 triệu người với 77% là người Trung
Hoa, 14% là người Mã Lai, 8% là người Ấn Độ, 1% là người lai Âu Á và
người có nguồn gốc khác. Cư dân nguyên thủy ở vùng đất này là ngư dân Mã
Lai, nhưng kể từ khi Sir Stamford Raffles đến đây và thiết lập một trạm thông
thương buôn bán của người Anh, Singapore đã trở thành vùng đất có sức thu
hút mạnh đối với dân di cư và các thương gia. Những người này đến
Singapore từ các tỉnh ở phía Nam Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Pakistan,
Ceylon (Sri Lanka), và Trung Đông để mong tìm được một cuộc sống tốt đẹp
hơn cho bản thân và cho gia đình họ.
9
Mặc dù việc kết hôn qua lại giữa các sắc dân đã diễn ra nhiều năm, mỗi
nhóm chủng tộc ở Singapore vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng của mình
đồng thời phát triển như một bộ phận không thể thiếu của cộng đồng dân cư
Singapore.
Ngôn ngữ:
Có bốn ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở Singapore: tiếng Mã lai,
tiếng phổ thông (Mandarin), tiếng Ta-min (ngôn ngữ của vùng Nam Ấn và Sri
Lanka) và tiếng Anh. Tiếng Anh là ngôn ngữ dùng trong kinh doanh, hành
chính, và đuợc sử dụng rộng rãi. Hầu hết mọi người dân Singapore đều nói
được hai ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Quốc ngữ của Singapore là
tiếng Malay.
Tôn Giáo:
Sự hòa hợp dân tộc dẫn đến việc hình thành những nhóm tôn giáo khác
nhau. Khoe mình trên nền trời Singapore là những tòa tháp đặc biệt của các
giáo đường Hồi giáo, những ngọn tháp hình chóp của các thánh đường với lối
kiến trúc Gôtích, những tượng thần phức tạp của các đền thờ Hindu và những
mái nhà với lối kiến trúc khác biệt của các ngôi chùa Trung Hoa. Các tôn giáo
chính ở đây là Hồi Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Giáo,
Độc Thần Giáo, (còn gọi là đạo Sikh, một tôn giáo phát triển từ Ấn độ giáo
vào thế kỷ XVI và dựa trên tín ngưỡng chỉ một Thần) và Do Thái Giáo (Theo
Uniquely Singapore).
3.
Lịch sử quan hệ Việt Nam - Singapore
Việt Nam và Singapore thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 1/8/1973.
Tháng 12/1991, Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore và tháng 9/1992, Đại sứ
quán Singapore tại Hà Nội được thành lập. Đảng ta và Đảng PAP cầm quyền
tại Singapore thiết lập quan hệ chính thức từ tháng 10.1993 nhân chuyến thăm
Singapore của Tổng bí thư Đỗ Mười. Từ đó đến nay, hai Đảng hiện duy trì
quan hệ tốt đẹp và đã triển khai nhiều biện pháp hợp tác như trao đổi Đoàn
10
cấp cao; trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng; kinh nghiệm lãnh đạo quản lý,
phát triển đất nước, đào tạo cán bộ...
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thăm chính thức Singapore từ ngày 16
đến ngày 17-1-1978. Tháng 12-1991, Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore và
tháng 9-1992, Đại sứ quán Singapore tại Hà Nội được thành lập. Sau khi Việt
Nam tham gia Hiệp ước Bali (tháng 7-1992) và trở thành thành viên đầy đủ
của ASEAN vào tháng 7-1995, quan hệ hai nước chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới về chất. Singapore rất coi trọng phát triển quan hệ hợp tác với
Việt Nam và Việt Nam trở thành một trong những thị trường chính về hợp tác
thương mại, đầu tư của Singapore ở Đông Nam Á. Đặc biệt, trong chuyến
thăm làm việc tại Singapore của Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3.2004),
hai bên đã ký Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ
XXI, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hữu nghị và
hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Theo tinh thần Tuyên bố chung này, năm
2005, hai nước đã ký chính thức Hiệp định khung về kết nối Việt Nam Singapore. Hiệp định này đã góp phần đẩy mạnh hợp tác, trao đổi giữa Việt
Nam và Singapore trên nhiều lĩnh vực.
Chương 2
11
QUAN HỆ VIỆT NAM - SINGAPORE NHỮNG NĂM
ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1 Quan hệ trên lĩnh vực chính trị
Kể từ năm 1991, hầu như năm nào lãnh đạo cấp cao hai nước đều thăm
viếng nhau và trao đổi đoàn từ cấp thứ trưởng diễn ra thường xuyên. Mặc dù
Singapore nổi tiếng là thực dụng trong quan hệ quốc tế, cả hai bên đều nhận
thấy cần đẩy mạnh quan hệ chính trị để làm cơ sở cho các mối quan hệ khác.
Sau đây là những nét chính của quan hệ chính trị.
Trong thập niên 90, các cuộc viếng thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước
chủ yếu nhằm mục đích tăng cường hiểu biết và xây dựng lòng tin sau nhiều
thập kỷ đối đầu căng thẳng.
Chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập khu vực trở
thành một trong những xu thế cơ bản trong quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh
mới đó, cả Việt Nam và Singapore đều nhận thấy một khả năng tập hợp lực
lượng mới đang hình thành giữa các nước trong khu vực nhằm đối phó với
những thách thức mới. Sự khác biệt trong nhận thức về khu vực và thế giới
giữa các nước ASEAN cũ và ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia dần dần
được thu hẹp. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Thái Lan “biến Đông Dương từ
chiến trường thành thị trường” đã trở thành phương châm hành động của cả
hai phía.
Tháng 7 năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong quan hệ quốc tế ở khu vực. Sự kiện này không chỉ
xóa bỏ sự nghi kỵ giữa Việt Nam và các nước ASEAN cũ, mà nhất là nó còn
chứng tỏ sự thay đổi cơ bản về tính chất của quan hệ quốc tế trong thời kỳ sau
chiến tranh lạnh. Lợi ích dân tộc và sự gần gũi về địa lý đã giúp cho các nước
vượt qua các khác biệt để cùng phát huy vai trò và lợi thế của một tổ chức
khu vực trong quan hệ với các nước khác, đặc biệt với các nước lớn. Việc
ASEAN mở rộng và bao gồm cả 10 nước trong khu vực năm 1998 là minh
12
chứng cho sự thay đổi hoàn toàn tư duy về quan hệ quốc tế. Lối lập luận theo
bạn thù và nặng về ý thức hệ đã nhường chỗ cho tư duy mới về tập hợp lực
lượng. Đó là các nước trong khu vực, mặc dù khác nhau về hệ thống chính trị
và xã hội, vẫn có thể tập hợp nhau lại trong một cơ chế khu vực vì lợi ích của
mỗi nước và đồng thời vì lợi ích của cả hiệp hội.
Bước vào thế kỷ XXI, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng diễn
ra nhanh chóng. Singapore là nước chủ trương đẩy nhanh quá trình liên kết
ASEAN vừa vì lợi ích riêng vừa muốn giữ được vai trò chủ đạo của ASEAN
trong quan hệ quốc tế tại khu vực. Về phần mình, Việt Nam cũng thấy hội
nhập khu vực là ưu tiên hàng đầu trong “đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển” và “chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hội nhập quốc tế và khu vực”. Trong bối cảnh đó, hai nước tăng cường trao
đổi đoàn cấp cao và giữa các bộ Ngoại giao, Công an và Quốc phòng; quan
hệ hai nước ngày càng phát triển toàn diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu theo
tình thần cùng có lợi và vì lợi ích chung của cả ASEAN
Việc hai nước quyết định miễn thị thực cho công dân của nhau tháng 12
năm 2003 mang một ý nghĩa chính trị to lớn không những tác động đến các
nước trong khu vực, mà cả các nước khác quan tâm đến Đông Nam Á. Đồng
thời quyết định này cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ kinh tế và du
lịch giữa hai nước.
Bắt đầu từ năm 2003, hai nước tiến hành tham khảo thường niên cấp thứ
trưởng ngoại giao. Đặc biệt, trong chuyến thăm làm việc của Thủ tướng Phan
Văn Khải tháng 3 năm 2004, hai bộ trưởng Ngoại giao đã thay mặt chính phủ
hai nước ký “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ
21”. Văn kiện quan trọng này là cơ sở pháp lý và chính trị tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước
trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
13
Thách thức lớn nhất không chỉ đối với quan hệ Việt Nam - Singapore mà
cả quan hệ giữa các nước ASEAN là phải biết kết hợp hài hòa, hợp lý và hào
hiệp giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của cả Hiệp hội và của các thành viên khác
trước những cám dỗ và sức ép từ bên ngoài, nhất là từ các nước lớn. Tư tưởng
“mạnh ai nấy quan hệ” với các nước ngoài khối có nguy cơ chia rẽ và làm suy
yếu ASEAN và nếu không cảnh giác có thể làm mất vai trò chủ đạo của Hiệp
hội trong quan hệ quốc tế ở khu vực. Đẩy nhanh tiến trình hội nhập ASEAN là
điều cần thiết, nhưng tư tưởng “phá rào”, “đánh lẻ” dù xuất phát từ nước nào
thì đúng là có lợi trước mắt, còn về lâu dài sẽ làm xói mòn lòng tin của các
nước khác đối với hiệp hội. Ngược lại, chùng chình, làm chậm tiến trình hội
nhập của cả Hiệp hội sẽ làm mất thời cơ và ảnh hưởng đến lợi ích của cả khối.
Quan hệ song phương:
Hai bên đánh giá cao sự phát triển sâu sắc của mối quan hệ hữu nghị,
hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Singapore. Đặc biệt, năm 2013, hai nước
sẽ tiến hành nhiều hoạt động kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao
(1/8/1973-1/8/2013), trong đó có việc trao đổi các chuyến thăm của Lãnh đạo
cấp cao hai nước, tăng cường hợp tác về chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư,
giao lưu văn hóa, tiến tới thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam Singapore.
Hai bên cũng bày tỏ hài lòng về sự hợp tác hiệu quả giữa hai Bộ Ngoại
giao, khẳng định sẽ tiếp tục duy trì cơ chế Tham khảo chính trị để thắt chặt
hơn nữa sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai Bộ Ngoại giao.
Hai bên chia sẻ nhiều vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm và nhất
trí tiếp tục phối hợp tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là thúc đẩy hợp
tác trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để hoàn thành mục
tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và vai trò trung tâm của
ASEAN trên các vấn đề quan trọng của khu vực.
Hai bên ủng hộ mạnh mẽ việc tăng cường đoàn kết ASEAN và đảm bảo
phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của Hiệp hội ở khu vực, có lập trường và
14
tiếng nói chung trong các vấn đề liên quan đến hòa bình và an ninh tại khu
vực, tăng cường quan hệ và khuyến khích sự tham gia tích cực và mang tính
xây dựng của các nước đối tác trong cơ chế hợp tác ở khu vực.
Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định và an ninh, an
toàn hàng hải ở Biển Đông, việc thực hiện Tuyên bố 6 điểm của các Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN về vấn đề Biển Đông, Tuyên bố chung ASEAN Trung Quốc nhân kỷ niệm 10 năm ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC) và sớm đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Hai bên nhất trí sẽ tiến hành cuộc họp Tham khảo chính trị lần thứ 8 tại
Singapore trong năm 2014.
2.2 Quan hệ trên lĩnh vực kinh tế
Việt nam được xác định là thị trường lâu dài cả về đầu tư và thương mại
của Singapore vì Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường kinh doanh
ngày càng thuận lợi, nền kinh tế tăng trưởng cao và đều đặn trong một đất
nước ổn định cả về chính trị và xã hội. Singapore khuyến khích các công ty
của họ sớm vào Việt Nam và tìm cơ hội kinh doanh lâu dài trong những lĩnh
vực mà họ có lợi thế cạnh tranh và Việt Nam có nhu cầu phát triển. Phía Việt
Nam cũng tính đến đặc thù quan hệ giữa hai nước và dành ưu tiên cho những
dự án đầu tư có hiệu quả từ phía Singapore, dựa trên lợi ích của hai bên và
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của Việt Nam.
Từ tư tưởng chỉ đạo trên, kể từ đầu thập niên 90 đến nay. Singapore luôn
là một trong những nhà đầu tư nước ngoài và bạn hàng lớn nhất của Việt
Nam. Đầu tư trực tiếp (FDI) của Singapore vào Việt Nam có nhiều nét đặc
trưng, khác với các đối tác khác. Thứ nhất là đa số các dự án đều có quy mô
và vốn lớn. Điều này chứng tỏ các công ty Singapore muốn làm ăn lâu dài ở
Việt Nam. Thứ hai là định hướng đầu tư khá rõ ràng đi từ dịch vụ du lịch,
khách sạn sang sản xuất và sau đó, chú trọng nhiều đến dịch vụ viễn thông,
ngân hàng và tài chính, phù hợp với tiến trình mở cửa và cải cách kinh tế của
Việt Nam. Thứ ba là nhiều các tập đoàn lớn của Singapore đều có dự án đầu
15
tư ở Việt Nam. Thứ tư là Singapore có sáng kiến đầu tư tay ba ở Việt Nam.
Tính đến tháng 8 năm 2006, Singapore đã đầu tư vào Việt Nam 7,80 tỷ USD
với 425 dự án.
Tháng 5 năm 1996, Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong thăm Việt
Nam và khai trương Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore tại tỉnh Bình
Dương (VSIP). Cho đến nay, VSIP được đánh giá là dự án thành công nhất
trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước và là một trong những khu công
nghiệp thành công nhất mà Singapore hợp tác xây dựng ở nước ngoài. Phía
Việt Nam muốn Singapore giúp nhân rộng mô hình này ở các địa phương
khác. Trong buổi lễ kỷ niệm 10 năm thành lập VSIP, cả hai Thủ tướng Việt
Nam và Singapore đều khẳng định VSIP là hình mẫu của sự hợp tác lâu dài
và cùng có lợi giữa hai nước. Cho đến thời điểm đó, VSIP đã thu hút 235 dự
án với 1,5 tỷ USD vốn đầu tư và sử dụng 40.000 nghìn lao động.
Từ năm 1996 đến nay, Singapore luôn là một trong những đối tác thương
mại và đầu tư lớn nhất của Việt Nam. Tổng kim ngạch hai chiều năm 2005
đạt 6,4 tỷ USD (Việt Nam xuất 1,8 tỷ USD, nhập 4,6 tỷ USD).
Đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam liên tục tăng. Tính đến hết
tháng 12-2005, Singapore có 396 dự án tại Việt Nam với số vốn đăng ký 7,6
tỷ USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 3,45 tỷ USD. Vốn đầu tư của Singapore trải
đều trong các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, tập trung nhiều vào lĩnh vực
cơ sở hạ tầng, dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Nhìn chung, các dự án đầu
tư của Singapore hoạt động có hiệu quả cao, đóng góp đáng kể cho giải quyết
việc làm, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Năm 1996, khu
công nghiệp Việt Nam - Singapore được xây dựng tại Bình Dương trên diện
tích 500 ha là nơi đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư Singapore và nước khác.
Đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam liên tục tăng trong những
năm gần đây và hiện đứng thứ 5 trong tổng số các nhà đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Tính đến tháng 4/2012, Singapore đầu tư vào Việt Nam 1.020 dự
án với tổng trị giá gần 23 tỷ USD vốn đăng ký. Việt Nam cũng đầu tư vào
16
Singapore 41 dự án với hơn 614 triệu USD. Các dự án đầu tư của Singapore
tập trung vào 5 lĩnh vực: Công nghiệp chế biến và chế tạo; cơ sở hạ tầng; giải
trí; dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Nhìn chung, các dự án đầu tư của
Singapore được đánh giá hoạt động có hiệu quả cao, đóng góp đáng kể trong
việc giải quyết việc làm, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đặc
biệt, Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP) được coi là biểu tượng
cho tính hiệu quả của các dự án đầu tư của Singapore, đã hoạt động được hơn
11 năm với VSIP 1 và 2 tại Bình Dương, VSIP 3 tại Bắc Ninh, VSIP 4 tại Hải
Phòng và VSIP 5 tại Quảng Ngãi (UBND tỉnh Quảng Ngãi trao giấy chứng
nhận đầu tư tháng 4/2012).
Quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore phát triển và tăng điều đặn
trong nhưng năm gần đây: năm 2003 là 5,4061 tỷ SGD, năm 2004: 5,9793 tỷ
SGD, năm 2004: 7,7354 tỷ SGD và năm 2005: 10,3895 tỷ SGD. Việt Nam
nhập khẩu từ Singapore chủ yếu là xăng dầu, máy móc thiết bị, nguyên liệu
thuốc lá, phân bón, hàng điện, điện tử và thiết bị văn phòng. Việt Nam xuất
khẩu sang Singapore chủ yếu là dầu thô, cà phê, gạo, hải sản, hàng dệt may.
Việt Nam luôn nhập siêu đối với Singapore. Trước mắt, tình hình này khó có
khả năng được cải thiện vì những mặt hàng ví dụ như nông sản mà ta có có
khả năng xuất khẩu thì thường bị cạnh tranh rất mạnh từ phía Thái Lan và
Malaixia trong khi đó thị trường tiêu thụ nội địa của Singapore lại nhỏ bé.
Để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đầu tư và thương mại tại Việt Nam và
hỗ trợ các doanh nghiệp Singapore, Ban Quốc tế Doanh nghiệp, Ban du lịch
Singapore đã mở văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2004,
nhận thấy cơ hội đầu tư trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước của Việt Nam, tập đoàn tài chính Temasek Holdings cũng mở văn
phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 3 năm 2005, được sự hỗ trợ của Ban Quốc tế Doanh nghiệp
Singapore, thành phố Hồ Chí Minh đã khai trương Nhà Việt Nam (Vietnam
House) tại Singapore. Nhiệm vụ của Nhà Việt Nam là giúp đỡ các doanh
17
nghiệp ở các tỉnh phía nam thâm nhập thị trường Singapore và thu hút các
công ty Singapore vào làm ăn tại Việt Nam.
Tháng 3 năm 2003, Thủ tướng Goh Chok Tong tiến hành chuyến thăm
làm việc tại Việt Nam. Trước những cơ hội làm ăn mới và nhằm tăng cường
thêm khả năng kinh doanh cho các doanh nghiệp Singapore và thu hút thêm
FDI vào Việt Nam, hai Thủ tướng đã đưa ra Sáng kiến chung Việt Nam Singapore về hợp tác đầu tư. Để thực hiện sáng kiến này, Bản ghi nhớ về hợp
tác đầu tư đã được ký kết tháng 10 năm 2003 với mục tiêu “ xúc tiến và thúc
đẩy đầu tư trực tiếp từ nước thứ ba vào Việt Nam và Singapore và nâng cao
sức cạnh tranh và lợi thế của mỗi nước”. Hai bên thỏa thuận thành lập Ban
Chỉ đạo chung và Nhóm công tác để triển khai sáng kiến trên. Đây là một
hình thức xúc tiến đầu tư mới theo đó hai bên cùng thống nhất chọn những dự
án trong các lĩnh vực ưu tiên để được hưởng cơ chế chấp thuận nhanh. Sáng
kiến này tỏ ta có hiệu quả và cứ 6 tháng một lần, Ủy ban Chỉ đạo lại họp để
kiểm điểm việc thực hiện sáng kiến.
Trong chuyến thăm làm việc của Thủ tướng Phan Văn Khải
tại
Singapore tháng 3 năm 2004, Thủ tướng hai nước đã nhất trí đưa ra một sáng
kiến mới quan trọng hơn nữa. Đó là sáng kiến kết nối hai nền kinh tế nhằm
phát huy mọi thế mạnh của hai nước. Singapore có cơ sở hạ tầng hiện đại, hệ
thống dịch vụ và hậu cần chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, có vốn, kỹ
thuật và kinh nghiệm quản lý, là nơi đặt trụ sở của 9.000 công ty đa quốc gia
và được kết nối toàn cầu. Việt Nam có thế mạnh về điều kiện tự nhiên, nguồn
nhân lực dồi dào, thị trường lớn. Để phát triển nhanh, Việt Nam cần tận dụng
những thế mạnh của Singapore. Sau khi được kết nối, hai nền kinh tế có điều
kiện tốt nhất để thu hút đầu tư nước ngoài.
Sau hơn một năm đàm phán, ngày 05 tháng 12 năm 2005, Hiệp định
Khung kết nối Việt Nam - Singapore đã được ký kết tại Singapore. Hiệp định
bao gồm 6 lĩnh vực kết nối: đầu tư, thương mại và dịch vụ, công nghệ thông
tin - truyền thông, tài chính, giao thông và giáo dục - đào tạo. Theo đánh giá
18
của hai bên, Hiệp định khung “mang ý nghĩa lịch sử củng cố hơn nữa quan hệ
giữa hai nước”. Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đó, sau khi chứng kiến
lễ ký, đã nhấn mạnh rằng Hiệp định kết nối không chỉ có ý nghĩa đối với Việt
Nam và Singapore, mà còn tác động đến cả khu vực. Đối với riêng Việt Nam,
văn kiện này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình hội nhập và
duy trì sự phát triển bền vững với mức tăng trưởng cao.
Sau sự kiện này, Các doanh nghiệp Singapore có phần “phấn khích” về
cơ hội làm ăn ở Việt Nam. Trước sự lớn mạnh và khả năng cạnh tranh kinh tế
của Trung Quốc và Ấn Độ cũng như trong bối cảnh tiến trình toàn cầu hóa
diễn ra nhanh chóng, họ mong muốn Việt Nam “mạnh bạo” đẩy nhanh hơn
nữa tiến trình cải cách kinh tế và cùng họ thúc đẩy tiến trình hội nhập
ASEAN. Họ đánh giá Việt Nam thực sự cần phát triển và có hướng đi đúng
và Việt Nam thực sự muốn ASEAN lớn mạnh, phù hợp với tính toán và lợi
ích của họ. Trong ASEAN, Việt Nam là thị trường mới dễ làm ăn so với các
thành viên cũ và có nhiều cơ hội làm ăn hơn so với các thành viên mới.
2.3 Các lĩnh vực khác
2.3.1 Hợp tác về giáo dục và đào tạo
Từ năm 1992, Singapore lập ra Chương trình hợp tác Singapore (SCP)
do Vụ Hợp tác kỹ thuật thuộc bộ Ngoại giao quản lý. SCP được nhìn nhận là
“phương thức qua đó Singapore muốn chia sẻ với các nước đang phát triển
những kỹ năng công nghệ và hệ thống mà Singapore đã học và thu nhận được
trong những năm phát triển”. Triết lý của SCP là “cho ai con cá thì họ sẽ ăn
hết ngay trong ngày. Giúp ai cách câu cá thì họ có cái ăn cả đời”. Cho đến
năm 2006, Singapore đã nhận đào tạo được 42.000 người từ 162 nước trong
đó có Việt Nam.
Phương tiện dành cho hợp tác kỹ thuật xuất phát từ hai nguồn:
- Ngân sách của Singapore.
- Tài trợ từ nước thứ ba.
- Chương trình trợ giúp gồm 5 loại hình:
19
- Chương trình Song phương.
- Chương trình Đào tạo với Nước Thứ ba (TCTP).
- Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI).
- Thăm quan khảo cứu.
- Chương trình học bổng Singapore dành cho các nước ASEAN.
Ngay sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào đầu những năm 90
thế kỷ trước, Singapore đã quan tâm đến hợp tác giáo dục và đào tạo với Việt
Nam và Việt Nam tham gia cả 5 chương trình hợp tác giáo dục kể trên. Tính
đến năm 2006, đã có 2.500 người Việt Nam tham dự các hình thức đào tạo
khác nhau do Singapore trợ giúp. Năm 1996, Khu Công nghiệp Việt Nam Singapore được thành lập tại tỉnh Bình Dương (VSIP). Nhằm đào tạo nhân
lực tại chỗ cho VSIP, Singapore đã giúp Việt Nam thành lập Trung tâm Đào
tạo Kỹ thuật Việt Nam - Singapore (VSTTC) trực thuộc VSIP. Chương trình
và nội dung đào tạo tại VSTTC gần giống với Viện Giáo dục kỹ thuật (ITE) ở
Xin-ga-po. Hiệu quả đầu tư vào VSTTC là rất cao và Việt Nam muốn
Singapore tiếp tục trợ giúp về tài chính và chuyên môn cho VSTTC.
Sau khi ASEAN trở thành 10 nước, Singapore thấy cần phải thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên cũ và mới thì mới đẩy mạnh
được tiến trình hội nhập ASEAN. Do vậy, tại Hội nghị Cấp cao không chính
thức họp ở Singapore năm 2000, Singapore đưa ra Sáng kiến Hội nhập
ASEAN (IAI). Trong khuôn khổ sáng kiến này, tháng 2 năm 2003, hai nước
đã thành lập tại Hà Nội Trung tâm Đào tạo Việt Nam - Singapore (VSTC).
Nhiệm vụ của VSTC là “mở các lớp đào tạo, tập huấn và hội thảo cho cán bộ
Việt Nam về các lĩnh vực do hai bên cùng xác định và lựa chọn”. Cho đến
nay, hàng trăm cán bộ đã qua các lớp đào tạo và tập huấn do VSTC tổ chức.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN X họp tại Viên Chăn năm 2005, Singapore
tuyên bố bổ sung thêm 28,9 triệu SGD cho IAI nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn
nữa việc đào tạo cán bộ quản lý cho bốn nước thành viên mới.
20
Nhờ Chương trình học bổng Singapore dành cho các nước ASEAN,
hàng trăm học sinh và sinh viên Việt Nam hiện đang học tập tại một số trường
Trung học và ba trường đại học công lập Singapore. Bên cạnh đó, hàng nghìn
sinh viên Việt Nam đang học theo chế độ tự túc tại các cơ sở đào tạo đại học
tư nhân của Singapore, kết hợp với các trường đại học của Mỹ, Anh và
Australia.
Nhìn chung lại, hợp tác giáo dục và đào tạo với Singapore là rất hiệu
quả, góp phần giúp Việt Nam phát triển nhân lực cần thiết cho chiến lược phát
triển quốc gia trong gia đoạn mới. Song, bên cạnh đó cũng có những chuỵên
không thành công mà điển hình là vụ đầu tư lừa đảo mở các trung tâm dạy
tiếng Anh dưới cái tên trường SITC của Michael Yu năm 2005. Đồng thời từ
lâu nay, cũng xuất hiện tâm lý ngộ nhận trong một số gia đình Việt Nam về
việc cho con du học ở nước ngoài, trước hết là ở Singapore. Họ nghĩ rằng cứ
cho con đi nước ngoài là thành tài không cần biết con mình học ở trường nào,
học ngành gì và có học thực sự không. Cho đến nay, không ít sinh viên Việt
Nam theo học chế độ tự túc tại Singapore bị buộc về nước do không có khả
năng học hay bỏ học quá nhiều.
2.3.2 Hợp tác du lịch
Singapore là một đất nước thu hút du lịch mạnh nhất Đông nam Á. Năm
2006, có 9 triệu lượt người đến Singapore. Số tiền mà khách du lịch chi tiêu ở
Singapore khoảng 5 tỷ SGD và tỷ lệ thuê giữ phòng khách sạn luôn đạt trên
80%. Singapore là một trong những điểm đến ưa thích của công dân Việt
Nam khi chọn đị du lịch ở nước ngoài và Việt Nam cũng là sự lựa chọn đối
với khách du lịch nước ngoài đến Singapore muốn đi tiếp đến một nước khác.
Việt Nam và Singapore ký Hiệp định hợp tác du lịch năm 1994. Tháng 12
năm 2003, Việt Nam và Singapore quyết định miễn thị thực cho công dân hai
nước trong vòng 4 tuần. Biên pháp này đã làm cho số lượng người Việt Nam
du lịch sang Singapore tăng đột biến. Năm 2001 có 32.110 người, năm 2002
có 35.261 người và năm 2005 có 150.611 người, tăng 42% so với năm 2004.
21
Ban Du lịch Singapore (STB) đã mở Văn phòng Đại diện tại Thành phố
Hồ Chí Minh. Đây là cơ quan du lịch nhà nước nước ngoài đầu tiên được cấp
phép đặt văn phòng tạiViệt Nam. Bên cạnh hợp tác song phương, hai nước
còn tiến hành hợp tác đa phương về du lịch trong khuôn khổ ASEAN.
2.3.3 Hợp tác về giao thông vận tải
Singapore có hai thế mạnh: cảng biển và cảng hàng không. Hai nước đã
ký Hiệp định hàng không và hàng hải năm 1992. Singapore là nước đi đầu
trong chiến lược “bầu trời mở rộng” và rất muốn Việt Nam sớm tham gia.
Singapore là một quốc gia, nhưng trên thực tế chỉ là một thành phố, không có
đường bay nội địa. Triển khai chiến lược “bầu trời mở rộng” không hề ảnh
hưởng đến vận tải hàng không, cũng như hoạt động của Hàng hàng không
Singapore (SIA). Cho đến nay, đã có Thái Lan và Brunei ký kết hiệp định
“bầu trời mở rộng” về vận tải hàng hóa với Singapore. Xét dưới nhiều góc độ,
ta chưa thể tham gia được chiến lược “bầu trời mở rộng”.
Hậu cần cũng là một trong 6 lĩnh vực được xác định trong Hiệp định Kết
nối mà hai nước đã ký kết tháng 12 năm 2005. Nội dung kết nối giao thông
vận tải bao gồm ba phần: kết nối hàng không; kết nối vận tải biển; kết nối vận
tải bộ. Chắc chắn quan hệ song phương trong lĩnh vực này sẽ phát triển mạnh
trong thời gian tới.
2.3.4 Hợp tác Bưu chính viễn thông
Hai bên đã trao đổi các dịch vụ bưu chính như bưu phẩm thường, bưu
phẩm ghi số, bưu kiện, phát chuyển nhanh, dịch vụ chuyển tiền. Hai nước đã
hợp tác xây dựng và khai thác tuyến thông tin cáp quang biển trực tiếp Việt
Nam - Singapore thuộc hệ thống cáp biển SWM3 dài gần 3000 km. Với hệ
thống này, hai nước đã tăng cường trao đổi lưu lượng internet, cung cấp dịch
vụ Business IP và Frame Relay.
Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là một trong sáu lĩnh vực kết
nối giữa hai nước. Hợp tác trong lĩnh vực này gồm ba phần: thăm quan
22
nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm; triển khai Chính phủ điện tử; thúc đẩy
thương mại và đầu tư trong lĩnh vực ICT.
Với việc hiệp định kết nối được ký kết, các công ty lớn của Singapore
về ICT sẽ có điều kiện thuận lợi để mua cổ phần hay tham gia liên doanh vào
thị trường bưu chính viễn thông của Việt Nam, một thị trường lớn và có nhiều
hứa hẹn.
2.3.5 Trên lĩnh vực quốc phòng
Cùng với sự phát triển chung của mối quan hệ giữa Việt Nam và
Singapore trên tất cả các lĩnh vực, hợp tác quốc phòng song phương cũng đã
có những bước phát triển mới, thể hiện qua các chuyến thăm lẫn nhau của
lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước và việc quân đội hai nước xây dựng được
cơ chế Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Quan hệ quân đội giữa hai nước được đánh giá cao sự phát triển cả chiều
rộng và chiều sâu, trong đó tập trung vào các lĩnh vực hợp tác như trao đổi
đoàn các cấp, quân y, đào tạo tiếng Anh, huấn luyện cho học viên quân sự
Việt Nam và chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng và phát triển quân đội…
Chương 3
TRIỂN VỌNG TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - SINGAPORE
23
3.1 Những thành tựu trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Singapore
Năm nay chúng ta kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam Singapore 1973 - 2013. Nhìn lại cả chặng đường 40 năm qua,nổi bật nhất là
sự phát triển quan hệ chính trị rất tin cậy. Ngoài chính trị, thì kinh tế, đầu tư,
thương mại, giáo dục, quốc phòng, an ninh, chúng ta cũng hợp tác rất mạnh
mẽ. Trong đó những mặt chính đạt được như sau:
Thứ nhất, để tăng cường hiểu biết và tin cậy chính trị, 2 bên đã có rất
nhiều cuộc trao đổi giữa những Đoàn đại biểu cấp cao của 2 nước. Gần đây
nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đi thăm Singapore, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhiều lần sang thăm
Singapore để thúc đẩy hợp tác song phương. Đối với Singapore trong năm
2012, Tổng thống Tony Tan Keng Yam cũng đã sang Việt Nam và trong quá
trình quan hệ hợp tác của 2 nước vừa qua, Thủ tướng Singapore Lý Hiển
Long cũng đã thăm và làm việc với Việt Nam rất nhiều lần. Có thể nói, lãnh
đạo cấp cao của 2 nước thường xuyên trao đổi cả về những vấn đề song
phương và hợp tác khu vực, quốc tế.
Thứ hai, cũng là điểm rất nổi bật, đó là sự hợp tác kinh tế giữa 2 bên vô
cùng mạnh mẽ. Singapore là 1 trong những nước mở đầu hợp tác và giúp đỡ
chúng ta trong công cuộc đổi mới. Cần nhìn qua một vài con số để có thể thấy
sự hợp tác giữa 2 bên về kinh tế, thương mại và đầu tư cho đến nay là rất lớn.
Năm 2012, kim ngạch thương mại giữa 2 bên là 9,6 tỷ lauds. Singapore là 1
trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam về đầu tư trong nhiều năm qua.
Cho đến nay, Singapore đã có hơn 1.100 dự án tại Việt Nam với tổng giá trị
đầu tư lên đến trên 24 tỷ USD. Giữa Việt Nam và Singapore trong vấn đề hợp
tác và đầu tư cũng có những mô hình rất tốt, như 2 bên đã ký kết được Hiệp
định khung Kết nối Việt Nam - Singapore trên 6 lĩnh vực vào năm 2005. Hiện
tại, 2 nước vẫn tiếp tục thúc đẩy việc liên kết theo Hiệp định khung về kết nối
này. Một lĩnh vực vô cùng quan trọng đó là Singapore đã đầu tư rất hiệu quả,
24
mở rộng các Khu Công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP), vừa đem lại lợi
ích cho Singapore, vừa giúp cho việc phát triển nền kinh tế của nước ta.
Singapore còn có rất nhiều thế mạnh mà chúng ta đang tranh thủ hợp tác,
như: giáo dục, khoa học - công nghệ, thương mại. Quan hệ quốc phòng, an
ninh và ứng phó những thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí
hậu hay nước biển dâng cũng là lĩnh vực mà chúng ta cũng đã hợp tác trên
nhiều mặt và đạt được kết quả nhất định.
Trong 40 năm qua, quan hệ hợp tác Việt Nam - Singapore có những
bước phát triển rất bền vững và thể hiện sự tin cậy cao về chính trị, đồng thời
hợp tác sâu rộng về tất cả các mặt. Một đặc thù là quan hệ về Đảng cầm
quyền của 2 quốc gia rất chặt chẽ, đây sẽ là đà để những năm tới, 2 quốc gia
có thể hợp tác sâu và rộng hơn nữa.
3.2 Triển vọng trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Singapore
Thứ nhất, chúng ta phải thấy rằng quan hệ chính trị rất tin cậy giữa 2
bên, đây là lĩnh vực cần phải được tiếp tục thúc đẩy hơn nữa.
Thứ hai, những thế mạnh mà 2 nước hợp tác trong những năm vừa qua,
đặc biệt là về kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục và công nghệ cao đều là
những lĩnh vực cần duy trì và phát huy.
Thứ ba, trong những lĩnh vực chúng ta có lợi ích hợp tác về quốc phòng
và an ninh, cũng như hợp tác khu vực và các diễn đàn quốc tế thì đây cũng là
lĩnh vực mà chúng ta sẽ củng cố mạnh mẽ. Sau 40 năm đã phát triển tích cực
như vậy, từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đang đẩy mạnh việc bàn bạc với
Singapore để có thể nâng cấp quan hệ của 2 nước lên một tầm cao mới và trên
thực tế chúng ta đang bàn với Singapore về việc hướng tới xây dựng phạm vi
chiến lược hợp tác giữa 2 bên. Theo kế hoạch, cấp Thứ trưởng ngoại giao sẽ
phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan trao đổi với các bên và sẽ sớm hoàn tất
nội hàm về chiến lược để trình lãnh đạo các cấp của 2 bên. Dự kiến năm 2013
sẽ có những cuộc trao đổi Hàm cấp cao. Hy vọng khi nội hàm về chiến lược 2
bên hoàn tất, Việt Nam và Singapore sẽ có những ký kết vào một trong những
25