Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tên gọi Dạ Lang từ góc độ ngôn ngữ dân tộc học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.57 KB, 16 trang )

INTERNATIONAL SEMINAR “ TRACES OF YELANG CULTURE IN VIETNAM”
HANOI; 2nd Nov. 2010

Tên gọi Dạ Lang
từ góc độ ngôn ngữ-dân tộc học
Tạ Đức
Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á

Hiện có vài cách lí giải tên gọi Dạ Lang (Ye lang). Mới nhất là cách lí giải của học giả Mỹ
Geoff Wade ( 2009) coi gốc của Dạ Lang là Zina, âm Hán cổ Jia lang, là tên gọi một bộ tộc Lô
Lô/Di, từ đó có tên gọi China-Trung Quốc.
Trong bài này, tôi sẽ đặt tên gọi Dạ Lang trong mối quan hệ tương ứng về mặt ngôn ngữ
với một loạt tên gọi tộc người, quốc gia cổ của người Bách Việt ở Nam Trung Quốc và Việt
Nam. Việc khám phá các mối quan hệ đó sẽ góp phần làm sáng tỏ những tương đồng giữa các
di vật khảo cổ của văn hóa Dạ Lang với văn hóa Đông Sơn. Chúng cũng liên quan với vấn đề
nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam, đặc biệt là của tộc người trong sách báo Việt Nam
thường gọi là người Việt, nhưng trong bối cảnh thời tiền sử cần phải gọi là người Việt Nam để
vừa kết nối vừa phân biệt với người Việt/Yue-một khái niệm trong sách báo thế giới chỉ một tộc
người, một nước đã xuất hiện trong văn giáp cốt Thương, sau đó chỉ tộc người của hai nước
Ngô-Việt thời Xuân Thu –Chiến Quốc, tiếp đó chỉ một cộng đồng rộng lớn hơn ở Nam Trung
Quốc thời Tần-Hán gồm nhiều nhóm thường được gọi là Bách Việt, vốn là tổ tiên của nhiều tộc
người hiện nói tiếng Nam Á, Thái-Kađai, Nam Đảo, Mông-Dao, Tạng-Miến ở Nam Trung Quốc
và ĐNA.
1. Dạ Lang -Văn Lang
Năm 1918, trong bài viết “Nước Văn Lang”, nhà Hán học Pháp Henri Maspero ( 1918:2)
đưa ra giả thuyết Văn Lang là do các sử gia Trung Quốc, Việt Nam đọc hay chép nhầm Dạ
Lang. Ông đưa ra các luận cứ sau:
- Hai chữ Văn và chữ Dạ giống nhau, dễ đọc hay chép nhầm. Thực vậy, Thông Điển
(thời Tống) viết: Phong Châu là nước Văn Lang xưa (chú thích ở đó có sông Văn Lãng).
-Trong khi đó, Nguyên Hòa Quận Huyện Chí (cũng thời Tống) quả quyết: Phong Châu là
đất của nước Dạ Lang xưa; ở đó có suối Dạ Lang.


-Lãnh thổ nước Dạ Lang (sau là quận Kiện Vi và Thương Ngô), một bên giáp nước Ba,
một bên giáp hồ Động Đình. Do nhầm Dạ Lang thành Văn Lang, sử Việt cũng chép lãnh thổ
Văn Lang như lãnh thổ Dạ lang là tây giáp Ba Thục, bắc đến Hồ Động Đình.


-Tên Văn Lang không có trong cổ thư, bỗng nhiên xuất hiện vào thời Đường là do một
nhầm lẫn khác. Sách Lâm ấp ký viết ở nam huyện Chu Ngô, quận Nhật Nam có người Văn
Lang, phía nam huyện có sông Văn Lang. Khi chép Lâm ấp ký có người chép Chu Ngô thành
Thương Ngô, nên các nhà địa lý thời Đường chép sai theo. Phần lớn tên các bộ của nước Văn
Lang cũng là các tên có từ đời Đường.
Maspero là người đầu tiên đã đưa ra mối quan hệ Dạ Lang-Văn Lang về mặt ngôn ngữ.
Tuy nhiên, luận cứ của ông về việc đọc –chép nhầm chữ Dạ thành chữ Văn, từ đó phủ nhận
sự tồn tại của nước Văn Lang, đã bị nhiều học giả phản bác.
Trong một bài viết trước năm 1945, nhà Hán học Việt Nam Nguyễn Văn Tố (1997: 435)
đã vạch rõ: chính các sách Trung Quốc như Thủy Kinh Chú, Thái Bình Ngự Lãm… cũng chép
tên nước Việt Nam cổ là Văn Lang. vấn đề là sách Trung Quốc viết các tên gọi Việt Nam phần
nhiều viết từ đồng âm, ít khi đúng mặt chữ, như chữ Giao Chỉ viết hai chữ Chỉ khác nhau; sử
Trung Quốc viết tên người Trung Quốc ở mối quyển mỗi khác. Cụ Tố tin các sử gia Việt Nam
chép tên Văn Lang là đúng, bởi Văn Lang là “những người con trai vẽ hay xăm mình”, cũng
như Giao Chỉ là “người có hai ngón chân cái giao nhau”.…Thời Vua Hùng đã biết dùng chữ
(Hán) Văn Lang, bởi đã biết dùng các chữ Quan Lang, Lạc Hầu, Lạc Tướng, Bồ chính, Phụ
Đạo (!?). Cụ cũng cho rằng, truyền thuyết kể lãnh thổ của nước Văn Lang phía tây đến Ba
Thục, phía bắc đến hồ Động Đình là sai, là quá sự thực.
Cụ Tố chắc đã sai khi cho rằng Văn Lang là tên Hán-Việt thực của nước Việt cổ. Nhưng
Cụ đã đúng khi coi Văn Lang và Dạ Lang là những tên gọi tương đương trong tiếng Hoa .
Cần nhấn mạnh là, sử sách Trung Quốc ghi các danh từ của các tộc khác Hoa theo kiểu
phiên âm, và cùng một từ có thể được ghi lại bằng âm và viết bằng các chữ khác nhau ở mỗi
nơi, mỗi lúc, bởi những người khác nhau. Chúng ta biết tên gọi Campuchia đã từng được
phiên âm thành các tên Cam Bố Trí/Cam Phá Giá/Giản Phố Trại. Tên hồ Po Yang ở Giang Tây
có thể phiên âm thành Bà Dương, Phàn Dương, Phiền Dương, Phồn Dương.

Chúng ta biết, việc ghi lại từ ngữ của một ngôn ngữ khác lạ thường có tính lơ lớ na ná.
Đọc sách báo tiếng Anh ngày nay, đôi khi vẫn thấy có những từ Việt Nam quen thuộc được ghi
thành những từ mà ngay người Việt Nam cũng không nhận ra!
Sau Cụ Tố, các học giả R. Stein (1947), Gaspadone (1955), Bình Nguyên Lộc (1971)
cũng đều bác bỏ quan điểm của Henry Maspero. Đáng chú ý là ý kiến của Stein về hiện tượng
một loạt tên nước ở Hoa Nam có từ Lang: Bách Lang ở Tứ Xuyên , Dạ Lang ở Quảng Tây ,
Việt Lang ở Quảng Đông và Văn Lang ở Việt Nam. Ông cho biết Hậu Hán Thư cũng nói đến
”người man di Dạ Lang ở biên giới phía nam Cửu Chân, Nhật Nam” và truyền thuyết Việt Nam
có kể đến một người Việt Nam đã dựng lên một nước nhỏ mang tên Dạ Lang bên bờ sông Mã.
Chưa hết, ở Quảng Trị vào thời Hán có một con sông mang tên Dạ Lang, sau là sông Hằng
Giang. Trong khi đó, (dẫn theo Bình Nguyên Lộc : 1971:774).
Từ nhận xét của Stein, một loạt câu hỏi mới lại được đặt ra: phải chăng các tên gọi
Bách Lang ( Po/Bo/Bai Yang) và đặc biệt Việt Lang (Yue Lang) cũng có quan hệ cội nguồn với
Văn Lang ( Wen Lang) và Dạ Lang ( Ye Lang)? Từ Lang ở đây có ý nghĩa gì? Phải chăng các
nước đó được tạo nên bởi những nhóm người có cùng nguồn gốc? Truyền thuyết Việt Nam kể
về một nước Văn Lang có lãnh thổ ở hầu khắp vùng Nam Dương Tử, và sử Trung Quốc từng
kể vua Dạ Lang ( và cả vua Điền) hỏi sứ giả Hán nước Dạ Lang ( hay nước Điền) và nước
Hán, nước nào rộng hơn, từ đó, đã có câu thành ngữ “Dạ Lang tự đại”. Nhưng nếu hai tên gọi


Văn Lang –Dạ Lang là hai từ cùng gốc, thì phải chăng câu hỏi đó của vua Dạ Lang là có cơ sở
trong mối liên hệ sâu sa với “nước” Văn Lang? Người/nước Dạ Lang ở Thanh Hóa liệu có
quan hệ cội nguồn với người hay nước Dạ Lang ở Quí Châu?
2. Văn Lang -Việt Thường
Trong một bài viết cũng trước năm 1945 về nước-người Việt Thường, Cụ Tố (1997:440) lại
cho rằng Việt Thường cũng là tên của người Trung Quốc gọi nước Văn Lang, nhưng chủ yếu
dựa vào suy luận: sử Trung Quốc ghi việc nước Việt Thường sai sứ sang Trung Quốc; sử Việt
Nam ghi Việt Thường là một bộ của nước Văn Lang; việc cử sứ sang Trung Quốc là việc của
nước Văn Lang mà sử Trung Quốc gọi là Việt Thường.
Không nói rõ, nhưng có vẻ Cụ Tố cũng ngầm lưu ý sự gần gũi về âm giữa Văn Lang và Việt

Thường trong tiếng Hoa (Wen Lang- Yue Shang).
Không cần phải có những phục dựng từ nguyên mà mỗi nhà ngôn ngữ học lịch sử có thể
đưa ra những dạng khác nhau cho cùng một từ, sự gần gũi giữa hai tên gọi trên về âm, và đặc
biệt sự tương ứng về chức năng: tên nước đủ cho chúng ta cảm nhận mối liên hệ cội nguồn
của chúng.
Chuyện nước Việt Thường ở Nam Giao Chỉ cống chim trĩ cho nhà Chu lần đầu tiên xuất
hiện trong Trúc Thư, Thượng Thư ( thế kỷ 3 TCN), sau đó được nhiều sách chép lại, nhưng với
những chú thích về vị trí của nước Việt Thường rất khác nhau.
Thủy Kinh Chú ( thế kỷ 6), Cựu Đường Thư (thế kỷ 10) viết: Việt Thường là tên một huyện
ở quận Cửu Đức ( Hà Tĩnh), nơi vào thời Ngô ( thế kỷ 3), có suối Việt Thường.
Lương Thư (thế kỷ 6), Minh Sử (thế kỷ 14) viết: nước Việt Thường xưa trên đất Lâm Ấp,
Chiêm Thành sau này, tức vùng đất Quảng Bình-Quảng Trị.
Đại Việt Sử Lược (thời Trần), Khâm định Việt sử (thời Nguyễn) lại viết: An Dương Vương
xây Loa Thành ở đất Việt Thường.
Một số sách thời Tống và Thanh còn ghi chuyện nước Việt Thường dâng cho Đế Nghiêu
rùa thần nghìn tuổi, trên lưng rùa có chữ khoa đẩu, đưa nước Việt Thường về tận thời nhà Hạ.
Có thể thấy, cùng với thời gian, tên gọi Việt Thường di chuyển dần từ Bắc xuống Nam.
Sách Lĩnh Nam Chích Quái có truyện kể việc nước Việt Thường cống chim trĩ khá cụ thể:
Đời vua Chu Thành Vương, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là người Việt Thường đem chim
bạch trĩ sang cống… Chu Công hỏi: "Người Giao Chỉ cắt tóc ngắn, xăm mình, để đầu trần, đi chân đất,
nhuộm răng đen là cớ làm sao?" Sứ đáp: "Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng. Xăm mình để giống hình
vua rồng bơi lội dưới sông, giao long không làm hại. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng
bằng lửa. Để đầu trần cho khỏi nóng bức. Ăn trầu cau để khỏi hôi mồm cho nên răng đen "…

Trong đoạn trên, đáng chú ý là các chi tiết Hùng Vương vốn là vua nước Văn Lang lại
sai bề tôi xưng là người Việt Thường, tức người Việt Thường là người nước Văn Lang. Chu
Công hỏi sứ giả Việt Thường về người Giao Chỉ, tức người Việt Thường là người Giao Chỉ;
người Việt Thường có tục cắt tóc ngắn, xăm mình hình rồng, ăn trầu cau như người Bách Việt.



Về mối quan hệ Giao Chỉ -Việt Thường, Đại Việt Sử Ký ToànThư giải thích: “ Bách Việt
thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Chu Thành Vương (1063-1026)
(Giao Chỉ) mới gọi là Việt Thường (Thị), tên Việt bắt đầu có từ đấy”.
Ở đây, chúng ta lại thấy có mối liên hệ giữa Bách Việt-châu Dương-Giao Chỉ-Việt
Thường. Chúng ta biết, châu Dương tương ứng với vùng hạ lưu Dương Tử bao gồm các tỉnh:
Giang Tây, Chiết Giang, An Huy, Giang Tô ngày nay, đó cũng là địa bàn của hai nước Ngô Việt
thời Xuân Thu-Chiến Quốc có cùng cư dân là người Việt.
Như vậy, càng xa xưa, vị trí nước Việt Thường lại càng xa về phía bắc. Vậy nước Việt
Thường có từ bao giờ, ở đâu?
3. Việt Thường=Việt Chương
Bàn về nước Việt Thường, trong cuốn “Nguồn gốc dân tộc Việt Nam” xuất bản năm
1950, nhà bác học Đào Duy Anh (1950:19) nêu giả thuyết : tên Việt Thường vốn có từ xưa,
nước Việt Thường đã có từ thời Thương, trên đất cũ của nước Tam Miêu, ở khoảng giữa hồ
Động Đình và hồ Phiên Dương. Lãnh thổ của Việt Thường thuộc châu Kinh và châu Dương.
Trung tâm của nước Việt Thường là xứ Việt Chương (trong tiếng Hoa Việt Chương=Yue Zhang
đồng âm với Việt Thường=Yue Chang).…Nước Việt Thường suy từ khi nước Sở thành lập ở
vùng Hồ Bắc và Hồ Nam (thế kỷ 12), lúc đầu mất phần đất phía tây, đến đời Hùng Cừ, đất Việt
Chương ở vùng hồ Phiên Dương mất nốt... Mối quan hệ giữa người Giao Chỉ và người Việt
Thường không rõ ràng nhưng cả hai đều là người Việt và khi tên Việt Thường xuất hiện thì tên
Giao Chỉ không còn...
Trong giả thuyết trên, rất đáng chú ý là việc xác định lãnh thổ của Việt Thường thuộc
châu Kinh và châu Dương, gợi tới nước Xích Quỉ của Kinh Dương Vương trong truyền thuyết
Họ Hồng Bàng. Việc đồng nhất Việt Thường-Việt Chương dựa trên mối quan hệ đồng âm.
Tuy nhiên, trong cuốn “Lịch sử cổ đại Việt Nam” xuất bản năm 1957, tái bản các năm
2006 và 2010, Cụ Đào lại đưa ra và nhất trí với một giả thuyết khác của Lê Chí Thiệp, theo đó:
nước Việt Thường ghi trong thư tịch xưa chỉ thuộc châu Dương, là đất Việt Chương thời Sở,
quận Dự Chương thời Hán. Như vậy, so với giả thuyết đưa ra năm 1950, lãnh thổ của nước
Việt Thường bị thu hẹp, chỉ ở châu Dương và đúng hơn chỉ ở vùng đất Nam Xương, Giang Tây
ngày nay.
Cụ Đào cũng cho hay: "Sách Điền Hệ của Súy Phạm viết một tộc thiểu số ở Vân Nam

tên là Sản Lý hay Xa Ly có truyền thuyết kể đời Chu Thành vương họ sai sứ giả đến triều cống,
khi về được Chu công cho xe chỉ nam, vì thế họ lấy tên là Xa Lý. Lại có một tộc khác là Lão
Qua (Lào) có truyền thuyết kể ở thời Chu, tổ tiên của họ ở nước Việt Thường. Sách Điền nam
tạp chí thì nói Miến Điện là nước Việt Thường xưa… Nước Việt Thường của người Việt ở miền
nam Dương Tử là một nước có thực, vì thế một số tộc người, trong đó có người Việt Nam, vẫn
còn ghi nhớ coi đó là nước tổ của mình.
Cần nói thêm ở đây là: các tên gọi Sản Lý/Sa Ly là tên Hán-Việt của tộc Ss-va hay
Va/Lava/Kala -ở Vân Nam, Myanma cũng như các tên gọi Lão Qua/ Lào đều là những biến thể
của tên gọi Lava mà tôi đã chứng minh là tương ứng với Lạc Việt.


Chúng ta hiểu, vì những lý do nhất định về cả khoa học và chính trị, ở Việt Nam, cả hai
giả thuyết trên của Đào Duy Anh đều chìm trong quên lãng. Tại Trung Quốc, một số học giả đã
phản bác giả thuyết của Đào Duy Anh và chứng minh nước Việt Thường thực sự hoặc ở châu
Phi (?), hoặc ở Lào và Miến Điện.
Gần đây, học giả người Hồ Nam Hà Quang Nhạc ( 1989), chủ yếu dựa trên cứ liệu ngôn
ngữ về địa danh, tộc danh cho rằng người Việt Thường có gốc từ Sơn Đông, nước Việt
Thường thời Chu là ở Tương Tây, Hồ Nam. Trong thời Xuân Thu-Chiến Quốc , người Việt
Thường thiên di đến Trung Bộ Việt Nam, sau đó tới Lào, Thái Lan.
Dù thế nào, những phát hiện khảo cổ học gần đây đã rọi những tia sáng mới vào các
giả thuyết của Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh và Hà Quang Nhạc.
4. Việt Chương= Dự Chương= Chương=Dương Việt
Cũng theo Hà Quang Nhạc (2005:248-58) trong thư tịch và địa danh, Việt Chương cũng
được gọi là Chương (Zhang), Dự Chương ( Yu Zhang) hay Dương Việt ( Yang Yue). Người Việt
Chương là một nhánh của người Dương Việt, và là nhóm Bách Việt ở xa nhất về phía bắc.
Tên gọi Việt Chương thường được gắn với một đoạn trong Sử Ký của Tư Mã Thiên viết
về việc vua Sở Hùng Dịch, vào thế kỷ 9 TCN, đánh Dương Việt, phong cho con út Hùng Chấp
làm Việt Chương Vương.
Tuy nhiên, về địa vực của nước Việt Chương, các học giả Trung Quốc có 3 quan điểm
khác nhau.

- Việt Chương là vùng phía nam sông Hoài, vùng hồ Bà Dương, miền tây An Huy.
- Việt Chương là vùng Đan Dương bên sông Hán, tức huyện Đương Đồ, An Huy.
- Việt Chương nằm ở đông sông Hán, bắc và nam sông Dương Tử, nam sông Hoài, tức
huyện An Lục, Hồ Bắc. Đây là đất gốc của người Việt Chương, là nơi lập nước Việt Chương.
Tại phía đông An Lục có núi Chương, sông Chương. Núi Chương còn gọi là núi Dự Chương.
Đất Dự Chương ở An Lục chính là nơi quân Ngô và Sở giao chiến ( năm 509, Sở đánh Ngô,
Tôn Vũ đem quân đón dánh ở Dự Chương, đập tan quân Sở). Sau này, người Việt Chương
mới đi xuống vùng Nam Xương, bắc Giang Tây.
Đáng chú ý là tại vùng bắc Giang Tây có sông Cám, tên cổ là Dự Chương hay Chương,
cho thấy đây đúng là đất của người Chương/ Dự Chương xưa. Cần nhấn mạnh là, có một hiện
tượng khá phổ biến ở Nam Trung Quốc-Việt Nam : tên sông, suối được đặt theo tên tộc người
sống gắn với dòng sông/suối đó.
Tuy nhiên, về nước Việt Chương hay Việt Thường, các tư liệu cổ sử và địa danh không
thể đưa chúng ta đi xa hơn. May mắn, chúng ta đã có các phát hiện khảo cổ học với các bằng
chứng rất thuyết phục trong thời gian gần đây.


5. Văn hóa Ngô Thành và nước Việt Chương/Việt Thường
Các khai quật khảo cổ từ năm 1973 ở hai di chỉ Ngô Thành và Tân Can ở bắc Giang
Tây đã cho thấy đó là nơi có sự bành trướng xa nhất về phía nam của văn hóa Nhị Lý Cương
của nhà Thương. Nói một cách khác, đó là một thuộc địa của nhà Thương, nơi nhà Thương
đưa quan quân đến cai trị nhằm khai thác các mỏ kim loại ở Nam Dương Tử, đặc biệt là mỏ
đồng Đồng Lĩnh ở Thụy Chương, Giang Tây.
Di chỉ Ngô Thành là di chỉ thời Thương đầu tiên có qui mô tương đối lớn (400 ha/4
km2).được phát hiện ở Nam Dương Tử. Văn hóa Ngô Thành được chia làm ba giai đoạn,
tương ứng với các giai đoạn Nhị Lý Cương (1600-1400 TCN), Ân Khư (1400-1100 TCN) và đầu
Tây Chu (1100-1000 TCN).
Vào giai đoạn 2, Ngô Thành đã phát triển thành một trung tâm lớn mạnh trong vùng với
một tòa thành rộng 61 ha với các lò gốm, lò nấu quặng, lò đúc đồng, đền đài, nhà cửa, đường
xá, kho tàng mộ táng.

Đặc biệt, đã phát hiện trên đồ đồng đồ gốm Ngô Thành 66 chữ, có 6 chữ được đoán là
chữ số, các chữ khác chưa được giải mã. Khác với các chữ trên đồ gốm thời Đá Mới, chữ Ngô
Thành có các câu khá dài (gồm 12 chữ ). Nhiều chữ giống chữ văn giáp cốt Thương, các chữ
khác chưa từng thấy ở đâu. Có giả thuyết người Ngô Thành đã bảo lưu và phát triển một dạng
chữ có cội nguồn từ các văn hóa Đại Khê -Lương Chử.
Năm 1989, các nhà khảo cổ lại phát hiện ra một ngôi mộ lớn có niên đại cuối thời
Thương tại Tân Can, cách Ngô Thành 20 km. Trong mộ có tới 1900 đồ tùy táng, trong đó có
480 đồ đồng,1,072 đồ ngọc, còn lại là đồ gốm. Đồ gốm Tân Can hoàn toàn giống đồ gốm Ngô
Thành về chất đất, loại hình, màu men, hoa văn và các ký hiệu. Cho đến nay, mộ Tân Can là
mộ có nhiều đồ tùy táng thứ nhì thời Đồ Đồng ở Trung Quốc, chỉ đứng sau mộ Phụ Hảo, vợ
vua Thương Vũ Đinh.
Điều cần nhấn mạnh là mộ Tân Can là dạng mộ gò, tức dạng mộ đặc trưng của người
Bách Việt.
Theo học giả Mỹ Bagley (1999: 173-74) “Sự phân bố rộng các đồ đồng có chất lượng
cao, đặc điểm lạ cho phép khẳng định Ngô Thành là quê hương của một nền văn minh riêng
biệt với hiện vật tiêu biểu là những chiếc não, bạt cỡ lớn ….Đồ đồng ở Tân Can với các đồ đẹp
nhất có hoa văn hay hình dáng không kém gì đồ đồng phương bắc cho thấy người ở đây đã
làm chủ hoàn toàn các kỹ thuật đúc đồng. Rõ ràng, Ngô Thành và Tân Can là những dấu tích
của một nhà nước với thành quách và mộ táng của vua chúa. …Văn hóa Ngô Thành là một câu
trả lời mạnh mẽ đối với sự bành trướng của văn hóa Nhị Lý Cương (tức văn hóa Thương). Rõ
ràng, xã hội đã tiếp nhận sự tác động của văn hóa Nhị Lý Cương ở đây đã có một tầng lớp lãnh
đạo đủ thế đủ lực để cung cấp nguyên liệu cho nghề luyện kim ở qui mô lớn và nuôi nấng
những thợ đúc lành nghề, nắm vững các kỹ thuật đúc phức tạp”.
Học giả Mỹ Warner (1993:21) cũng nói đến một “nền văn hóa cao” hay “văn minh” Ngô
Thành với nghề đúc đồng, thành thị và chữ viết.


Vấn đề ở đây là, Ngô Thành cũng nằm đúng ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Bà
Dương, đúng như giả thuyết đầu) và cũng không xa huyện Nam Xương, như giả thuyết sau của
Đào Duy Anh về địa bàn nước Việt Thường.

Tư liệu khảo cổ cũng cho thấy vào cuối thế kỷ 13 TCN, Bàn Long Thành ở vùng sông
Hán, Hồ Bắc, một vùng đất bị cả nhà Hạ và nhà Thương chiếm đóng và biến thành một trung
tâm kiểm soát việc khai thác, vân chuyển nguyên liệu đồng, thiếc từ vùng Nam Dương Tử về
phía bắc bị rời bỏ không người ở.
Hai nhà khảo cổ học Li Liu và Xingcan Chen (2003:126) cho rằng hoặc cư dân Bàn
Long Thành tiếp tục thiên di về phía nam tới vùng Ngô Thành, hoặc cư dân Ngô Thành đã hủy
diệt Bàn Long Thành.
Chúng ta có thể đoán cư dân ở Bàn Long Thành và Ngô Thành cùng là người Việt
Chương/Việt Thường. Tư liệu khảo cổ trên cũng phù hợp với tư liệu ngôn ngữ của Hà Quang
Nhạc, theo đó, người Việt Chương ở Nam Xương, gần Ngô Thành là di dân từ vùng đông sông
Hán Hồ Bắc chuyển xuống.
Sự phổ biến của dạng mộ gò đặc trưng của văn hóa Bách Việt từ Ngô Thành đến vùng
Giang Tô, Chiết Giang cho thấy người Việt ở Ngô Thành có quan hệ cội nguồn với người Việt ở
hai nước Ngô, Việt.
Cần nhấn mạnh ở đây là có sự tương ứng về âm giữa từ Yu (trong Yu chang=Dự
Chương) với Yu (trong Yu Yue=Ư/Vu Việt), với Wu=Ngô. Các học giả Trung Quốc cũng coi văn
hóa Ngô Thành thực chất là văn hóa sớm của nước Ngô.
Tóm lại, mối tương quan Việt Chương-Dự Chương và các di tích thành quách, mộ táng
ở Ngô Thành, Tân Can cho thấy Ngô Thành rất có thể là kinh đô của nước Việt Chương /Việt
Thường thời Thương-Chu.
Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là mối liên hệ về văn hóa-tộc người giữa người Việt
Chương với các nhóm Việt khác ở vùng Dương Tử.

6. Việt Chương –Nhạc Dương-sông Tương
Năm 2000, các nhà khảo cổ học Trung Quốc phát hiện ra di chỉ Đồng Cổ Sơn tại Nhạc
Dương, Hồ Nam những đồ đồng được định niên đại khoảng 1500 TCN, là đồ đồng sớm nhất ở
Hồ Nam. Các di vật sớm ở đây cũng mô phỏng đồ Thương, nhưng các di vật muộn hơn cho
thấy sự trỗi dậy của văn hóa bản địa-được coi là văn hóa Việt.
Nhạc Dương nằm bên hồ Động Đình, nơi đổ về của sông Tương, một nhánh của
Dương Tử nhưng bắt nguồn từ Quảng Tây chảy lên phía bắc, qua Hồ Nam. Sông Tương được

coi là sông Mẹ của Hồ Nam. Hồ Nam cũng gọi là tỉnh Tương. Sông Tương cùng với sông
Nguyên là những con đường chính nối trung lưu Dương Tử với Châu Giang-Quảng ĐôngQuảng Tây-Bắc Việt Nam . Vùng lưu vực sông Tương-Nguyên được coi là đất cổ của người
Lạc Việt ( Lạc Việt chi cổ địa).


Đáng chú ý ở đây là các tên gọi Nhạc Dương (Yue Yang), Tương ( Xiang) và Nguyên
( Yuan) cũng khá gần gũi với Việt Chương/Dương ( Yue Chang/Yang).
Được biết, Nguyên cũng là một tên gọi của sông Hồng. Liệu có phải là sự trùng hợp
ngẫu nhiên?
Năm 2003, các nhà khảo cổ lại phát hiện di chỉ Tạo Thị ở quận Thạch Môn, thành phố
Thường Đức nằm bên sông Lễ, một nhánh khác của Dương Tử cũng chảy vào hồ Động Đình.
Đây được coi là di chỉ văn hóa Đồ Đồng lớn nhất thời Thương ở Hồ Nam ( 7 ha). Đặc biệt ở
đây đã phát hiện được lò và khuôn đúc đồng cùng với những đồ gốm mang phong cách Việt có
niên đại cuối thời Thương.
Các đồ đồng ở Đồng Cổ Sơn không có gì đặc biệt, nhưng tên gọi Đồng Cổ Sơn-Núi
Trống Đồng lại rất đáng quan tâm. Đó là vì vào năm 1977, tại Sùng Dương, tỉnh Hồ Bắc, một
nơi nằm cách Nhạc Dương không xa, người ta đã tìm thấy một chiếc trống đồng được gọi là
trống đồng Sùng Dương (Chong Yang). Các nhà khảo cổ học Trung Quốc cho biết, nơi tìm ra
trống không hề có mộ táng, kho tàng, cũng chẳng có các di vật hay tầng văn hóa liên quan. Họ
đoán: chiếc trống này có thể đã được đưa từ nơi khác đến để dùng trong chiến trận liên quan
đến cuộc chinh phạt Kinh-Sở của vua Thương Vũ Đinh (1250-1192 TCN).
Học giả Mỹ Bagley (1999:150), một chuyên gia về khảo cổ học thời Thương xác định
trống Sùng Dương thuộc các đồ đồng được đúc ở vùng trung lưu Dương Tử, nam Hồ Bắc, bắc
Hồ Nam. Dựa trên phong cách hoa văn, ông cho nó niên đại khoảng thế kỷ 14-13 TCN.
Học giả Đức U. Theobald ( 2000) nhấn mạnh: những trống đồng lớn như trống Sùng
Dương cũng như những chiếc não từ di chỉ Ninh Hương, Hồ Nam có kích thước cực kỳ lớn (
như chiếc não- voi cao 103 cm, nặng 215,5 kg), so với những chiếc não ở mộ Phụ Hảo ( vợ
vua Thương Vũ Đinh/Cao Tôn) và “ chưa từng thấy ở phương Bắc”.
Cần nhấn mạnh, trống đồng Sùng Dương –đúc mô phỏng dạng trống da có hai mặt kínhình thùng- chính là dạng trống đồng đầu tiên của người Bách Việt ở Nam Trung Quốc. Chúng
ta có thể chứng minh những tương đồng về mặt chức năng, tính biểu tượng giữa trống đồng

Sùng Dương với trống đồng Đông Sơn, đặc biệt mối liên hệ về lịch sử-văn hóa giữa trống
đồng Sùng Dương với truyền thuyết Thánh Dóng.
Chưa hết, các tư liệu khảo cổ cũng cho thấy có sự liên kết thống nhất về văn hóa-tộc
người của các nhóm Việt vùng trung và hạ lưu Dương Tử ( tức hai châu Kinh Dương) với các
các nhóm Việt ở xa hơn về phía bắc vùng sông Hán, sông Vị. Điều này được thể hiện qua sự
tương đồng giữa những mặt nạ đồng ở Tân Can với các mặt nạ đồng ở Thành Cố, Lão Ngưu
Pha (Thiểm Tây), Tam Tinh Đôi (Tứ Xuyên) trong đó Lão Ngưu Pha, dựa trên tư liệu khảo cổ
chính là kinh đô của nước Việt được ghi nhận trên văn giáp cốt Thương.
Theo học giả Cao Sĩ Kỳ (1992:262), nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Nam: đa số các học
giả Trung Quốc đều nhất trí coi những chiếc não bạt bằng đồng thời Thương-Chu được tìm
thấy ở các tỉnh Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng
Đông, Quảng Tây là những nhạc cụ đặc trưng của người Việt ở Nam Trung Quốc và do người
Việt đúc. Não xuất hiện đầu tiên ở Tân Can, Giang Tây, và sau đó, ở nam Hồ Bắc, bắc Hồ Nam


với số lượng nhiều hơn, kích cỡ lớn hơn. Cho đến năm 1992, nơi phát hiện nhiều não bạt nhất
ở Nam Trung Quốc ( 21 trong tổng số 73 chiếc) là Ninh Hương, một di chỉ cũng nằm bên bờ
sông Tương ở Hồ Nam.
Cao Sĩ Kỳ cũng chứng minh một loại chuông phổ biến thời Tây Chu gọi là chuông dũng
(chuông có cán hình ống), trước thường được coi là có nguồn gốc từ một dạng não nhỏ ở phía
bắc, nhưng đúng ra là từ dạng não lớn phương nam.
Một nguồn tư liệu cho biết tại vùng bắc và đông bắc hồ Động Đình xưa có một loại
chuông dũng được gọi là “chuông sấm”, thể hiện mối quan hệ của nó với thần sấm-thần mưarồng.
Học giả Mỹ Fankenhousen (1993:139) cho rằng não phương nam mô phỏng não
phương bắc, nhưng có một chức năng tín ngưỡng rất khác. Người ta có thể đánh nó để tập
hợp mọi người, mời gọi hồn ma, hay phát ra tiếng nói của thần linh.
Rõ ràng, chức năng của não, chuông dũng khá gần gũi với các chức năng của trống
đồng Đông Sơn sau này.
Học giả Mỹ Bagley (1999:210) coi những chiếc não bạt cỡ lớn là hiện vật đặc trưng, thể
hiện sự thống nhất về văn hóa của vùng trung và hạ lưu Dương Tử. Chúng có vai trò then chốt

trong các nghi lễ ở phương nam tương tự như các đồ đựng bằng đồng ở phương bắc.
Về đồ đồng Hồ Nam, Bagley nhận xét: Kiểu cách chôn cất, chủng loại, kích cỡ dị
thường, hình dáng và hoa văn khác lạ, tất cả cho thấy một nền văn minh khác hẳn văn minh
Thương…Nếu hiểu biết của chúng ta về văn minh Dương Tử dựa trên các đồ đồng hơn là trên
các thành quách, nếu ở Hồ Nam chúng ta không có di chỉ thành thị nào có thể so sánh với An
Dương thì đó chỉ là hàng chục năm nay An Dương là trung tâm của các cuộc điều tra-khai quật
khảo cổ học còn Hồ Nam thì không. Ngay cả những bằng chứng được phát hiện ngẫu nhiên
cũng đủ để xác lập sự có mặt ở phương nam những trung tâm văn minh với những mối quan
hệ xa rộng…”
Quan điểm của Bagley đã được những phát hiện khảo cổ học gần đây ở Trung Quốc
bước đầu chứng thực .
Năm 2004, tại di chỉ Thán Hà Lý, Ninh Hương, Hồ Nam, các nhà khảo cổ đã tìm thấy
dấu tích tường, hào, nền cung điện của một tòa thành cùng với 7 ngôi mộ của tầng lớp trên có
nhiều đồ đồng và đồ ngọc được xác định niên đại thời Tây Chu.
Có thể, một nước của người Việt ở Hồ Nam thời Tây Chu với kinh đô ở Ninh Hương đã
phát triển từ một nước Việt thời Thương có trung tâm ở Nhạc Dương .
Dựa trên tư liệu khảo cổ, có thể thấy vào giữa thời Thương, hầu hết các điểm ở vùng
trung tâm của nhà Thương như Trịnh Châu, Yến Sư, Đồng Long Sơn, Đông Hạ Phùng…đều bị
rời bỏ, đồng thời với sự phát triển của một loạt trung tâm ở xa hơn về phía bắc. Điều đó cho
thấy có sự di dân Thương về phía bắc, tương ứng với việc sử ghi năm 1300 TCN, vua Thương
Bàn Canh chuyển đô từ Trịnh Châu về Ân Khư-An Dương ( từ đó có tên gọi nhà Ân). Mặt khác,


các trung tâm của người Bách Việt như Ngô Thành, Ninh Hương, Lão Ngưu Pha, Tam Tinh Đôi
đã phát triển với những yếu tố văn hóa kết hợp nhưng đậm bản sắc phương Nam.
Về hiện tượng này, học giả Mỹ Keightly (1999) nhận xét: nhà Thương đã thành nạn
nhân cho chính sự thắng lợi của mình: sự bành trướng về chính trị và văn hóa của nhà Thương
đã kích thích sự ra đời của các nhà nước có dùng đồ đồng ở vùng Dương Tử. Tầng lớp thống
trị địa phương nhờ có thế lực kinh tế-chính trị ngày càng cao, tinh thần độc lập ngày càng
mạnh, có lẽ đã liên kết lại để dành độc lập, dẫn đến sự khủng hoảng và tan rã của đế quốc

Thương
Trên cơ sở đó, chúng ta trở lại với tên gọi Văn Lang.

7. Từ gốc của tên gọi Văn Lang?
Về từ gốc của tên gọi Văn Lang , cho đến nay, có 3 giả thuyết đáng chú ý.
-Bình Nguyên Lộc (1971), với mục đích chứng minh “Người Việt có nguồn gốc Mã Lai”
nên coi từ gốc của Văn Lang là từ Mã Lai chỉ cau là pinang, phiên âm Hán-Việt là tân lang hay
binh lang, là vật tổ của người Văn Lang cũng như một nhóm Chăm sau này.
-Trần Quốc Vượng (1973) cũng cho rằng từ gốc của Văn Lang là một từ Việt cổ chỉ vật
tổ, và ông chọn từ mlang chỉ chim ưng/ đại bàng, trong mối liên hệ với Mê LInh-nơi dựng cờ
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
-Riêng nhà ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu (1969) chứng minh tên gọi Văn Lang có họ
hàng với orang-môt từ Nam Đảo chỉ Người sau mở rộng thành từ chỉ nước .
Có thể thấy, điểm chung và là điểm hợp lý của các giả thuyết trên là truy từ gốc của Văn
Lang trong tiếng Bách Việt cổ. Tiếng Việt Nam hiện được khẳng định là một ngôn ngữ Nam Á,
vì thế, đó phải là một từ trong ngôn ngữ Mẹ của cả tiếng Nam Á và Nam Đảo. Học giả Đức
Wilheim Schmidt (1906) gọi đó là siêu hệ Nam Phương (Austric). Học giả Mỹ Benedict ( 1975),
mở rộng siêu hệ Nam Phương gồm cả tiếng Thái-Ka đai và Mông-Dao, gọi đó là siêu hệ Nam
Thái (Austro-Tai). Các nhà ngôn ngữ học, cho đến nay, người ủng hộ, người bác bỏ sự tồn tại
của hai siêu hệ trên. Có người còn đưa một giả thuyết về siêu hệ Đông Á, bao gồm thêm tiếng
Hoa.
Từ góc độ nghiên cứu của mình, tôi ủng hộ thuyết Nam Thái của Benedict.
Về từ gốc của Văn Lang, tôi cũng ủng hộ giả thuyết của Hoàng Thị Châu, coi từ gốc
của Văn Lang là từ chỉ Người, sau thành tên tự gọi tộc người, sau thành từ chỉ nước. Đó là một
hiện tượng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới và hiện còn thấy rõ ở ĐNA lục địa: người Việt/Việt
Nam-nước Đại Việt-Việt Nam, người Thái-nước Sukhothai-Thailand, người Lào-nước Lão QuaLào, người Chăm-nước Champa…Với trường hợp người Khmer-nước Campuchia, cũng có
thể chứng minh tên gọi Khmer có họ hàng với tên gọi Khmu, với các biến thể:
Kumhmuq/Khamu/Khamouk/Kemu, tương ứng với Kambu/Kampu.



Trong cuốn sách công bố năm 1999, tôi đã nêu giả thuyết tên gọi gốc của Văn Lang là
Ya Yang, trong đó Ya là một từ chỉ Người tối cổ, là gốc của tên gọi Yue/Vat/Việt; Yang là một
biến thể của Ya, là gốc của Chuang/Tráng/Chàng/Lang.
Tên người Yang đã trở thành tên dòng sông Dương Tử (Yang zi) hay Trường Giang,
con sông Mẹ của người và văn minh Bách Việt trong đó chữ giang có gốc Nam Á.. Tên người
Yang cũng là gốc của tên gọi châu Dương gắn với người Dương (Việt).
Như đã nêu, có một hiện tượng lý thú thời tiền sử : tên sông thường đặt theo tên tộc
người gắn bó với sông ( ví dụ: sông Âu –người Âu ở Chiết Giang; sông Mân-người Mân ở Phúc
Kiến; người Bộc-sông Bộc ở Hà Nam; sông Dự Chương- người Dự Chương- sau thành sông
Cám ở Giang Tây…). Như đã nêu, các sông/suối có tên Văn Lang, Dạ Lang, Việt Thường luôn
được ghi nhận cùng với người Văn Lang, Dạ Lang, Việt Thường.
Cần nhấn mạnh là, các tên tự gọi tộc người ở dạng đầy đủ thường có hai từ đều có
nghĩa Người. Người Việt Nam giờ tự gọi là Người Việt. Người Mường tự gọi là Kon Mon. Người
Tày/Thái tự gọi Pu Tay/Pu Thai.v.v. Trong hai từ cùng chỉ Người trên, từ thứ hai thường trở
thành tên tộc người chính.
Cơ sở cho việc phục dựng từ Ya Yang là trong ngôn ngữ của nhiều tộc người ở ĐNA có
cội nguồn Dương Tử có khá nhiều từ chỉ người, tên tự gọi tộc người, hồn ma, thần linh, thủ
lĩnh, vua chúa, nhà, làng, nước, thế giới, .v.v. tức các từ trong Họ Từ Người có âm gần gũi với
Ya Yang/Yang, ở đây chỉ nêu một số từ quan trọng nhất:
-Từ chỉ người: Chang (Nguyên Nam Á); Orang (Nam Đảo).
-Từ chỉ hệ thân tộc: ông/ ung, chàng, nàng (Vietic, Thái, Khmer)..
-Tên tự gọi tộc người: Chuang/Tráng/Chàng/Lang/Nùng/Đồng/Nhắng/Giẳng/Yang(TháiKađai); Malang/Mã Liềng/Thavung/Nha Lang (Việt-Mường/Vietic); Kriang/Katang/Kaleung
(Katuic); Palaung/Riang (Palaungic).
-Từ chỉ nhà-làng-nước: làng/rang/hlang/malang/lan/kanlan (Việt, Dao, Lava, Khmu,
Kháng); chiềng/xiềng (Khmuic, Thái-Kađai); thang/sang (Chamic).
-Từ chỉ thủ lĩnh-vua chúa thần linh: nhà lang/lang/chưởng/chương( Mường), samang
(Lava); Yang/Giàng/Chương ( Nam Á, Nam Đảo, Mông-Dao).
Đặc biệt, tôi cũng đã chứng minh từ Trưng trong tên Trưng Trắc, Trưng Nhị chính là một
từ chỉ vua-thần trong tiếng Việt cổ, tương ứng với từ Yang chỉ thần linh trong ngôn ngữ của
nhiều tộc nói tiếng Nam Á và Nam Đảo. Trưng cũng tương ứng với Chương, trong tâm thức

của các nhiều tộc người ở vùng đông và đông bắc ĐNA lục địa, tùy văn cảnh, là tên một tộc
người huyền thoại; một cư dân cổ tiền chủ đất Lào, là Ông Tổ/Thần Linh/anh hùng thần thoại/vị
anh hùng văn hóa ( Chamberlain, Proschan: 1998).
8.

Người Văn Lang-Việt Thường đi đâu?

Như đã nêu, văn hóa Ngô Thành của người Việt Chương-Việt Thường đã phát triển
thành văn hóa Ngô thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Vào thời đó, có nhiều nước lớn nhỏ khác nhau


của người Bách Việt, nhưng hùng mạnh nhất và được biết đến nhiều nhất là hai nước NgôViệt. Nhưng rồi, Việt thôn tính Ngô, rồi Sở, nước có vua họ Hùng từng tự nhận là Man Di, có cư
dân gốc Bách Việt ( Miêu-Man), có văn hóa hỗn dung Hoa- Việt mạnh nhất lại diệt Việt. Hán-Sở
tranh hùng, Sở lại bị diệt. Các cuộc chiến đẫm máu liên miên từ thế kỷ 9-4 TCN đã xóa sổ
nhiều nước của người Bách Việt, tạo ra những làn sóng di tản, di dân về phía nam, phía tây, tây
nam. Theo một qui luật lịch sử, những di dân,với nòng cốt là tầng lớp hoàng gia, quí tộc , lại lập
ra những nước mới trên vùng đất mới mang hồn bóng Ya Yang xưa.
Từ mối liên hệ Văn Lang-Dạ Lang, chúng ta có thể nêu giả thuyết: nước Dạ Lang xưa,
với lãnh thổ ở Quí Châu và một phần Tứ Xuyên, Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Tây, ngày nay
cũng như nước Văn Lang ở Bắc Việt Nam là hai trong số các nước đó.
Chúng ta biết: văn hóa Dạ Lang có loại qua với chuôi có mô típ 3 vị thần-ếch giống dạng
qua tìm thấy ở Hồ Nam, Sơn Tây, Vân Nam.
Học giả Thụy Điển Kargren cho rằng kiểu qua này gốc Hồ Nam. Học giả Pháp Bzacier
(1972: 97) khẳng định những chiếc qua trên cùng thuộc về một nền văn minh ở Nam, Tây Nam
Trung Quốc và Bắc Việt Nam, những nơi có chung một trường văn hóa.
Chúng ta cũng biết: tại Nhạc Dương, Hồ Nam có di chỉ Đồng Cổ Sơn, có liên hệ tới
trống đồng Sùng Dương. Địa danh Đồng Cổ Sơn còn có ở Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Giang Tây, Quí
Châu, Vân Nam, đảo Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, trong đó, Đồng Cổ Sơn ở Quí Châu
được gắn với một cái hang, nơi ngày xưa theo truyền thuyết người Dạ Lang treo và đánh trống
đồng để tập hợp mọi người. Ở Việt Nam, tên Đồng Cổ Sơn chỉ mới thấy ở Thanh Hóa, nơi

truyền thuyết cũng kể có nước Dạ Lang, nơi cho đến nay vẫn có những người thợ đúc được
trống đồng Đông Sơn.
Trống đồng là vật có thể trao đổi, phân phát. Nhưng một khi trống đồng –cùng với các
địa danh gắn với trống đồng lại xuất hiện ở những nơi thuộc về đất về người có tên gọi gần gũi
nhau: Nhạc Dương-Dạ Lang-Văn Lang, thì có lẽ, chúng phải gắn với những cư dân cùng nguồn
gốc.
Tôi tin, các nghiên cứu so sánh khảo cổ-dân tộc học sẽ tiếp tục củng cố luận điểm này.
9. Klao-Lạc-Lão-Ngật Lão-Giao-Táo-Đáo
Dạ Lang là một liên minh nhiều tộc người, trong đó tộc người bản địa ở Quí Châu và cư
dân gốc của nước Dạ Lang là người Klao/Klo, trong cổ sử Trung Quốc được gọi là người
Lạc/Liêu/Lão/Ngật Lão. Họ còn có tên tự gọi là Ling ( gợi tới tên Lang).
Do sự gần gũi về âm giữa tên gọi tộc người Klao với từ chỉ tre cổ là kle/tle, có truyền
thuyết vua Dạ Lang sinh ra từ cây tre, tên vua và tên tộc người đặt theo từ chỉ tre và có tục thờ
tre.
Kele/Khả Lạc hiện được coi là Ân Khư của văn hóa Dạ Lang ( Ân Khư là di chỉ ở kinh đô
Thương ở An Dương). Ở đó cũng có một nhánh sông mang tên Kele. Có vẻ các tên gọi đó đều
có gốc từ tên tộc người Klao/Kle.


Trong khi đó, người Lava hay Lạc Việt –chủ nhân nước Văn Lang cũng được gọi là
người Lão hay người Giao (Chỉ) từ người Hoa, Keo từ người Tày- Thái và Táo-Đáo từ người
Mường. Có thể thấy, đó là các tên gọi tương ứng với nhau, cho thấy người Dạ Lang cùng gốc
với người Văn Lang.
Một số cổ thư Trung Quốc (Thông Điển, Nguyên Hòa quận huyện chí) viết người Lạc
Việt ở Quí Châu. Học giả Đào Duy Anh (1994:35) cho rằng điều đó sai. Nhưng xem ra các sách
trên có cơ sở.
Chúng ta biết: Hồ Nam –nơi có hồ Động Đình-được coi là đất xưa của người Lạc Việt.
Từ Hồ Nam, người Lạc Việt có thể theo các con sông Nguyên, Tương đi sang Quí Châu, xuống
Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam.
Theo tôi, người Lô Lô-được coi là tộc người thống trị nước Dạ Lang là một nhóm Lava

Tạng Miến hóa.
10. Chương-Choang/Tráng/Chàng-Tượng-Thương Ngô
Người Choang ( hay Tráng/Chàng) hiện được coi là một nhóm Tày-Thái. Họ gồm ba nhsom:
Bu Nong, Bu Ya Yi/Pu Jai và Bu Tai. Họ cũng có tên tự gọi là Mong Lao hay Rao, tương ứng với
Lão/Liêu/Lạc (Việt).
Nghĩa gốc của tên Chuang-hỏi người Chuang không ai biết. Học giả Trung Quốc Sung Shi
Hsu ( 1993), sau 30 năm nghiên cứu, cho rằng tên đó có gốc Tsang wu ku=Thương Ngô là
nước đầu tiên của người Choang được lập khoảng 2500 TCN ở vùng Lưỡng Quảng và Hồ
Nam. Vua Thuấn ( nhà Hạ) đã từng đến thăm nước này vào năm 2215 TCN! Trên đường về
phía bắc, vua băng hà tại núi Tsang-wu-Thương Ngô ở Nam Hồ Nam.
Có sách lại nói đến nước Tsang ko ở Quí Châu bị Sở thôn tính vào thế kỷ 4 TCN. Có sách
nói nước Thương Ngô bị Tần Thủy Hoàng chinh phục vào thế kỷ 3 TCN-từ đó lập ta Tượng
quận. Sau Hán Vũ Đế lập ra quận Tsang wu=Thương Ngô gồm Lưỡng Quảng và một phần Hồ
Nam. Sông Tây Giang một thời cũng có tên là Tsang ko. Khi nhà Hán chiếm Nam Việt, họ gọi
dân bản địa là Chuang ku Lao, gốc từ Tsang wu Lao.
Có thể thấy tên gọi Chuang có gốc Yang và các tên Tsang ku-Thương Ngô là một biến thể
của Yang Yu/Yang Yue=Dương Việt.
Sử Ký viết: Tần Thủy Hoàng đánh Dương Việt chính là đánh vùng Lưỡng Quảng-sau lập ra
3 quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng.
Tên quận Tượng có liên hệ đến tên gọi Chuang tương tự đất Giao Chỉ-Giao Châu có liên hệ
tới người Giao/Lão. Có vẻ, tên gọi cổ của Dạ Lang là Tang Kha ( Zangke) và tên sông Tang
Kha ở đất Dạ Lang cũng có họ hàng với Tsang ko-Thương Ngô và với tên gọi Dương Việt. Phải
chăng chúng là các tên gọi đảo ngược theo cách gọi của người Hoa với các tên Việt ChươngViệt Thường-Ya Yang-Dạ Lang?
11. Dạ Lang - Việt Thường- Nhà Làng


Thủy Kinh Chú ( thế kỷ 6), Cựu Đường Thư (thế kỷ 10) cho biết: Việt Thường là tên một
huyện ở quận Cửu Đức ( Hà Tĩnh), nơi vào thời Ngô ( thế kỷ 3), có suối Việt Thường.
Trong khi đó, cổ sử Việt Nam Trung Quốc cũng nói đến người và nước Việt Thường. Tên
huyện Việt Thường và sông/suối Việt Thường ở Hà Tĩnh rõ ràng có liên hệ với người Việt

Thường nói chúng và với người Dạ Lang ở vùng Thanh-Nghệ Tĩnh
Mặt khác, nhà dân tộc học Pháp J. Cusinier (1949) lại cho biết có một nhóm Mường đã Việt
hóa mang tên Nha Lang ở Nghệ An.
Ninh Viết Giao (1982) cho biết có một xã với tên cổ Nhà Làng ở Hà Tĩnh. Tên xã Nhà Làng
chắc chắn có liên hệ với tên người Nha Lang.
Chúng ta biết hai từ Nhà và Làng cũng có gốc từ chỉ Người Ya và Yang, tương tự các từ
Bản, Buôn có gốc từ Man, Môn, từ Play có gốc từ Blai.
Như vậy, người Nhà Làng cũng là con cháu của người Việt Thường-Dạ Lang xưa.
12. Nhà Làng – Maleng/Mã Liềng
Trong khi đó, tên gọi hai nhóm nhành Vietic (hay Việt-Mường, Việt-Chứt) có âm gần gũi với
Nhà Làng là Mã Liềng.
Theo Trần Trí Dõi (1994), trong tiếng Mã Liềng, Maleng=Người. Rõ ràng, Maleng tương ứng
với Ya Yang cả về âm và nghĩa.
Phải chăng, người Maleng hay các nhóm Vietic ở Trung bộ Việt Nam, Trung Lào con cháu
nơi núi rừng của những nhóm Văn Lang-Việt Thường-Nhà Làng xưa di cư từ phía bắc đến?
13. Việt Thường- Halang-Xơ đăngNgành ngôn ngữ Bahnaric thuộc hệ Nam Á. Trong các tộc nói tiếng Banahric đáng chú ý có
các nhóm với tên gọi Stieng/Halang/Salang/Xa Giang/Sedang/Trieng/Cheng /Ka
Giong/Katang/Mnong gần gũi với Ya Yang/Maleng/Nha Lang..
Nghĩa gốc của các tên gọi trên đã lu mờ, nhưng ít nhất nhóm Roteang/Hotiang thuộc tộc
Xơđăng còn cho biết tên của họ có nghĩa là “Người miền núi” ( Parkin: 1991: 76).
Chúng ta biết nhiều tên gọi tộc người có nghĩa gốc Người sau cũng có nghĩa hạn hẹp là
Người miền núi như các tên Mol/Mọi, Man, Lão…
Sử thi Bahnar Đăm Noi có nhắc trống đồng “mặt bịt vàng, bịt bạc”. Bia ký Chăm viết có
người Mada là cư dân tiền chủ các vùng ven biển Bình Định, Phú Yên. Có lẽ, các trống đồng
Đông Sơn được phát hiện ở Bình Định là của tổ tiên người Bahnaric gốc Văn Lang.
Từ tư liệu văn hóa dân gian, Ninh Viết Giao (1960) từng cho rằng người Bana là người ViệtMường cổ di cư tới Tây Nguyên. Cũng cần nói thêm: trong khi tên gọi Bana gần gũi với LavaLạc Việt thì tên gọi Halang-Sơ đăng lại gần gũi với Ya Yang-Nhà Làng.


Từ tư liệu dân tộc học, Đặng Nghiêm Vạn (1981:49) nhận xét: “Nhóm Bana, Xơ đăng, GiẻTriêng bảo lưu được nhiều nét văn hóa cổ nhất và cũng gần gũi nhất với văn hóa người Việt
cổ”. Rõ ràng, nhà Rông Bana là một dạng nhà trên trên Đông Sơn, có chức năng tương đương

với đình Việt. Từ Rông-chỉ chàng trai cũng là một biến thể của Yang.
Vậy phải chăng các nhóm nói tiếng Bahnaric chính là con cháu người Việt Thường từ phía
bắc dần di cư về phía nam, tới đất Chiêm Thành xưa rồi sau bị đẩy lên vùng núi?
14. Văn Lang-Dạ Lang-Ngan Yang-An Dương
Theo các học giả Thái Lan một trong ba quốc gia cổ của người Lava ở Thái Lan trước khi
có sự lan tỏa và thống trị của người Thái và Khmer có tên gọi là Yang hay Yonok với trung tâm
là Mường Ngan Yang bên sông Mekong, bắc Chiềng Xén ngày nay. Lãnh thổ của Yunok gồm
toàn bộ Bắc Thái Lan ngày nay và có thể tới tận Sipsong Chau Tai tức Tây Bắc Việt Nam
(Cholthira 1997:15; Jumsai 1989:24)
Hill (1990:286) lí giải: Yunok là thành phố của người Yuan, Yunok vốn là từ chỉ người
Yuan/Yon/Yan.
Tôi đã chứng minh : người Lava hay Va hiện ở Thái Lan, Myanma, Vân Nam Trung Quốc
chính là con cháu của người Lạc Việt, tên Lava tương ứng với Lạc Việt. Trong khi đó, tên gọi
Yuan/ Doan lại chính là tên gọi mà người Khmer, Chăm gọi người Việt Nam; tên gọi Yang trùng
khớp với Yang/Văn Lang/Lang; tên Mường Ngeun Yang tương ứng với tên hiệu của Thục Phán
An Dương Vương; và tên Yonok gần gũi với tên Âu Lạc.
Một loạt các tương ứng đó không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Cổ sử Trung Quốc viết: "Quý Châu là đất của Tây Âu Lạc Việt xưa, nhà Tần tuy lập quận
Quế Lâm, nhưng có tên là Âu Lạc”. Vậy Quảng Tây, Quí Châu là đất thuộc Âu Lạc.
Mặt khác, Quý Châu và một phần Quảng Tây cũng thuộc đất Dạ Lang. Như vậy, có sự
đồng nhất nước Dạ Lang với nước Âu Lạc của An Dương (Vương).
Chưa hết, tên kinh đô của nước Âu Lạc của An Dương Vương ở Việt Thường là Cổ Loa.
Liệu nó có quan hệ gì với Kele –trong tiếng Lô Lô là Ku lo-tên một kinh đô của Dạ Lang ?
Về nguồn gốc của An Dương Vương, hiện có bốn thuyết: từ Ba Thục; từ Vân Nam; từ
Quảng Tây và từ Cao Bằng. Giờ chúng ta lại có một thuyết khác cụ thể hơn: An Dương Vương
có thể có gốc từ Dạ Lang?
Việc sử ghi An Dương Vương, vua nước Âu Lạc xây thành ( Cổ Loa) ở Việt Thường, việc
có Đền thờ An Dương Vương ở Nghệ An, việc xuất hiện các tên nước Nam Cương ở Cao
Bằng, Nam Chưởng ở Lào, Ngan Yang ở Thái Lan có âm gần gũi với Văn Lang, An Dương, Dạ
Lang, phải chăng là dấu vết của lịch sử di tản-di cư-phân tán của người Ya Yang/Văn Lang/Dạ

Lang/Việt Thường xưa?


Tạm kết luận
Tên tự gọi tộc người-từ đó thành tên nước, thể hiện ý thức tộc người-quốc gia, vì thế,
thường gắn với sự tồn tại của tộc người đó. Chúng thực sự là một mã di truyền bằng ngôn ngữ,
rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu lịch sử tộc người.
Mối liên hệ về mặt ngôn ngữ giữa các tên gọi Dạ Lang-Văn Lang-Việt Thường-Nhà
Làng-An Dương-Mã Liềng.v.v. là những dấu tích của quá trình lan tỏa và thiên di đầy bi tráng
của người Bách Việt vùng Dương Tử xuống phía nam.
Những phát hiện khảo cổ học gần đây cũng tỏ ra tương hợp với các liên hệ ngôn ngữtộc người nêu trên. Việc phát hiện các văn hóa Ngô Thành-Nhạc Dương-Ninh Hương thời
Thương là những ví dụ tiêu biểu. Với nhứng phát hiện đó, rõ ràng, nhiều vấn đề về tiền sử Việt
Nam cần và có thể viết lại.

Thư mục chọn lọc
Bagley, Robert 1999 : Shang archaeology in The Cambridge History of Ancient China From the
Origins of Civilization to 221 BC Cambrodge University Press
Bezacier L 1972. Asie du Sud –Est Tome 2 Le Vietnam Paris
Bình Nguyên Lộc: 1971 Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Bách Bộc Sài Gòn.
Cholthira Satyawadhna: 1996. Ethnic inter-relationships in the history of Lanna: Reconsidering
the Lwa role in the Lanna scenario… Tai culture Vol II, No 2.
Đào Duy Anh 2010 Lịch sử Cổ đại Việt Nam, Nxb VHTT . Hà Nội
Gao Zhixi 1992 Shang and Zhu period bronze musical instrument from South China. Bulletin of
the School of Oriental and African studies. University of London. Vol 55.
Hà Quang Nhạc 2005 Sở nguyên lưu sử Nxb Giáo Dục Giang Tây
Li Liu-Xingcan Chen: 2003b State Formation in Early China Duckworth
Proschan Frank 1998: Cheuang in Kmhmu Folklore. History, and Memory. International
Conference. Bangkok. Thammasat University
Nguyễn Văn Tố: 1997. Đại Nam dật sử-sử ta so với sử Tàu. Hội KHLS VN.
Tạ Đức 1999 Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc-biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn . Hà

Nội.



×