Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vấn đề nước Dạ Lang và ghi chép về Dạ Lang trong một số thư tịch cổ Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.68 KB, 17 trang )

International Seminar „The traces of Yelang Culture in Vietnam“
Hanoi, 2nd Nov. 2010

VẤN ĐỀ NƯỚC DẠ LANG VÀ GHI CHÉP VỀ DẠ LANG
TRONG MỘT SỐ THƯ TỊCH CỔ TRUNG QUỐC
TS. Nguyễn Hữu Tâm- Viện Sử học

I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DẠ LANG TẠI TRUNG QUỐC

Dạ Lang là một nước cổ đại nằm phía Tây Nam Trung Quốc, theo nhận
định chung nước Dạ Lang từ khi được thành lập đến diệt vong chỉ có khoảng
hơn 200 năm lịch sử, nhưng tính từ thời kỳ còn là bộ tộc trước khi ra đời nước
Dạ Lang thì nó tồn tại được trên 400 năm.
Từ xưa đến nay việc nghiên cứu về nước này đã được khởi động, song
chưa được phát triển mạnh mẽ. Các thư tịch cổ của Trung Quốc như bộ sử Nhị
thập tứ sử, hay các bộ địa chí Thủy kinh chú... và nhiều bộ địa phương chí cấp
tỉnh, phủ, huyện... của Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu...đều đã có những ghi
chép về Dạ Lang. Trong một bài viết ngắn này chúng tôi không thể liệt kê
toàn bộ những ghi chép trong thư tịch cổ và các công trình đã công bố của học
giả Trung Quốc, cho nên chỉ có thể giới thiệu khái quát tình hình nghiên cứu
chung và trích dẫn một số thư tịch cổ viết về nước Dạ Lang.
Tư Mã Thiên người đời Hán biên soạn sách Sử ký lần đầu tiên nhắc đến
nước Dạ Lang gần sông Tường Kha, và cho biết thêm trong mấy chục Quân
trưởng ở Tây Nam di thì Dạ Lang là lớn nhất. Vào đời Hán, rất ít học giả
nghiên cứu về các dân tộc phía Nam (thường được gọi một cách miệt thị là
Nam di). Từ sau đó học giả các đời của Trung Quốc căn cứ vào ghi chép đầu
tiên của Tư Mã Thiên, luôn chú trọng khuynh hướng tìm hiểu Dạ Lang gắn
liền với sông Tường Kha.
Tang Khâm trong Thủy kinh《水經》Giang thủy chú chép: Vũ Dương
nước Đại Dạ Lang xưa. Đồng thời sách này chép về sông Tường Kha như sau:
sông Tường Kha chảy theo phía đông đến huyện Uất Lâm, Quảng Uất thành


sông Uất Thủy, theo phía Nam chảy vào Giao Chỉ.
Trịnh Trân trong Tuân Nghĩa phủ chí《遵義府志》xác định Dạ Lang ở
đập Dạ Lang huyện Ky Giang, ý muốn chỉ sông Ky Giang là sông Tường Kha.
Điền Vấn trong Kiềm thư《黔書》lại cho rằng Dạ Lang ở huyện Đồng Tử,
xác định sông Ô Giang là sông Tường Kha. Mạc Dữ Trù trong Khảo về
1


Tường Kha 《 牂 牁 考 》 lại trung dung giữa hai thuyết trên, đã biết rõ con
đường thủy không thông đến Phiên Ngung, nhưng vẫn xác định Dạ Lang ở
gần Tuân Nghĩa và nhấn mạnh đến thuyết này...
Trần Phong trong sách Hán thư- Địa lý chí-Thủy đạo đồ thuyết《漢書地理志-水道圖說》cho rằng Dạ Lang là huyện Lăng Vân của Quảng Tây
ngày nay và lần đầu tiên khẳng định sông Bàn giang của Quảng Tây (tức sông
Hồng Thủy) là sông Tường Kha.
Trình Phong trong Khảo về Tường Kha《牂牁考》, bắt đầu định ra Dạ
Lang ở huyện La Bình của Vân Nam, mà lấy sông Nam Bàn là sông Tường
Kha. Khuất Đại Quân trong Quảng Đông tân ngữ《廣東新語》và Tào Thụ
Kiều trong Điền Nam tạp chí《滇南雜志》cũng đồng tình với kết luận trên.
Đây là những học giả sống sau đời Càn Long và Gia Khánh, bắt đầu lưu tâm
đến việc tìm kiếm Dạ Lang trong vùng Vân Nam.
Đồng Chấn Tảo trong Khảo về sông Tường Kha 《 牂 牁 江 考 》 đăng
trên Học báo Lĩnh Nam, quyển 1 kỳ 4 lại lần đầu xác định Dạ Lang ở khoảng
Chiêm Ích và Khúc Tĩnh của Vân Nam...Đây đều là những học giả sống vào
thời kỳ cận đại, đưa ra những phán đoán dựa vào thực tế địa lý.
Có thể nhận thấy từ thời cận đại trở đi, và nhất là hiện tại vấn đề nước
Dạ Lang đã được giới nghiên cứu Trung Quốc đầu tư nhiều thời gian và công
sức tìm hiểu. Nhiều tổ chức nghiên cứu riêng về Dạ Lang đã được ra đời, đặc
biệt tại Quý Châu đã thành lập Hội nghiên cứu nước Dạ Lang. Gần đây, huyện
tự trị dân tộc Đồng của Hồ Nam đã quyên góp 5 tỷ nhân dân tệ (tương đương
khoảng 750 nghìn USD) trong dân chúng để xây dựng Dạ Lang cổ quốc.

Công trình vĩ đại này đã được khởi công từ tháng 7 năm 2010, dự kiến đến
năm 2015 sẽ hoàn thành hạng mục đầu tiên và đến năm 2020 sẽ hoàn tất toàn
bộ công trình. Công trình Dạ Lang cổ quốc sẽ bao gồm các khu trọng điểm về
Văn hóa cung đình, phong cảnh tập tục của dân tộc Đồng, Sứ quán các nước...
Theo tính toán, sau khi hoàn thành công trình này hàng năm sẽ thu hút khoảng
5 triệu lượt khách đến thăm quan, du lịch tận hưởng văn hóa Dạ Lang cổ.
Xác định tên gọi của nước Dạ Lang ra đời khi nào, ý nghĩa của từng từ
trong cụm từ Dạ Lang và đặc biệt vị trí, địa bàn của nước Dạ Lang đã làm tốn
không ít giấy mực của giới học giả Trung Quốc. Vị trí nước Dạ Lang đang
được đưa ra ở các địa phương bao gồm Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Quý
Châu và cả Hồ Nam. Mỗi một giả thuyết đều có những tư liệu, luận chứng
kèm theo, nhưng cho đến nay việc tranh luận trong giới học thuật về nước Dạ
Lang vẫn chưa ngã ngũ.
Bản thân chữ Dạ Lang cũng cần phải phân biệt rõ ràng, vì có nước Dạ
Lang, quận Dạ Lang, huyện Dạ Lang với niên đại thành lập, cương vực cùng
vị trí cũng hoàn toàn khác nhau.
2


Như về quận Dạ Lang xuất hiện ở hai thời điểm khác nhau:
1. Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Gia đời Tây Tấn (năm 311), chia đặt 3 quận
Tường Kha, Chu Đề và Kiến Ninh, trị sở tại huyện Quan Lĩnh, địa khu An
Thuận thuộc Quí Châu ngày nay.
2. Năm thứ nhất niên hiệu Thiên Bảo đời Đường (năm 742), đổi đặt làm Trân
Châu, trị sở tại tây bắc huyện Chính An, địa khu Tuân Nghĩa thuộc Quí Châu
ngày nay.
Trong khi đó, huyện Dạ Lang lại có 4 lần xuất hiện ở các thời điểm và
địa phương khác nhau.
1. Đời Hán Vũ đế đặt, trị sở ở tại huyện Quan Lĩnh, Quí Châu ngày nay, thời
kỳ sau niên hiệu Đại Bảo của Nam triều bị bãi bỏ.

2 Năm thứ 4 niên hiệu Vũ Đức đời Đường (năm 621), trị sở tại tây nam
huyện Thạch Thiên, địa khu Đồng Nhân, Quí Châu ngày nay. Năm thứ nhất
Trinh Quán đời Đường (năm 627) bị bãi bỏ.
3 Năm thứ 5 niên hiệu Trinh Quán đời Đường (năm 631) đặt, trị sở tại tây
nam huyện Chi Giang, Hồ Nam ngày nay, năm thứ nhất niên hiệu Thiên Bảo
đời Đường (năm 742) đổi tên thành huyện Nga Sơn.
4. Năm thứ 16 niên hiệu Trinh Quán đời Đường (năm 642) đặt, trị sở tại tây
bắc huyện Chính An, Quí Châu ngày nay, thời kỳ Ngũ đại bị bãi bỏ. Năm thứ
2 niên hiệu Đại Quan đời Bắc Tống (năm 1108) đặt lại, năm thứ 2 niên hiệu
Tuyên Hòa đời Bắc Tống (năm 1120) bị bãi bỏ.
Vì thế, việc tìm hiểu nghiên cứu kỹ hơn về nước Dạ Lang và các vấn đề
liên quan không chỉ là vấn đề khoa học thuần túy nữa mà mang cả ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc. Chúng tôi xin đưa ra đây một giả thuyết của học giả Từ
Trung Thư về tên nước Dạ Lang cùng cương vực được trích từ sách Bàn về
văn hóa Ba Thục (Ba Thục văn hóa luận) để giới nghiên cứu Việt Nam quan
tâm tham khảo.
1. Tên gọi nước Dạ Lang:
Trong các thư tịch trước đời Tây Hán không thấy có ghi chép về Dạ
Lang. Phần Tây Nam di truyện, sách Sử kí của Tư Mã Thiên lần đầu tiên chép:
Vua Hán Vũ đế sai Đường Mông là Huyện lệnh huyện Phiên Dương đi sứ
Nam Việt. Khi đến Nam Việt, Đường Mông nghe nói có nước Dạ Lang ở gần
sông Tường Kha, nước này có 10 vạn tinh binh. Dạ Lang là tên âm trực tiếp
mà Đường Mông nghe được từ khẩu ngữ của người Nam Việt, trong đó chữ
Dạ (夜) trong từ Dạ Lang (夜郎) vốn là chữ Ta (謝). Dạ(夜) và Tạ(謝) đều có
trong sách “Quảng vận-Mã vận” (廣運,榪運). Dạ(夜) tức là chuyển âm của
Tạ(謝).

3



Người Man ở Tường Kha (Tường Kha man) đời Đường có 3 bộ tộc
gồm: Đông Tạ, Tây Tạ và Nam Tạ. Phần Nam man truyện trong sách Đường
thư chép: “Thủ lĩnh của bộ tộc Đông Tạ là Tạ Nguyên Thâm, nhiều đời làm
Tù trưởng. Bộ lạc đều kính sợ ông ta. Bộ tộc họ Tạ có pháp luật không cho
phép nuôi (sinh) con gái, tự xưng là họ Cao. Đây là nguyên nhân không thể
lấy chồng”. Đông Tạ ở Tường Kha tự xưng là họ Cao, Tây Tạ, Nam Tạ cũng
là chi nhánh của họ. Người man ở Tường Kha lấy Tạ làm họ không phải bắt
đầu tự Tam Tạ đời Đường. Trong ngôi mộ Đông Hán ở huyện Thanh Trấn,
Quý Châu được phát hiện sau giải phóng, đào được 1 ấn đồng của Tạ Mãi
(hay họ Tạ mua?). Phần Nam trung chí trong sách Hoa Dương quốc chí chép:
Thời Công Tôn Thuật, Công tào huyện Tường Kha là Tạ Xiêm đưa quận về
triều Hán. Phần Ba chí trong cùng sách Hoa Dương quốc chí có chép: Năm
Diên Hi thứ 13 Thục Hán (năm 250), Đặng Chi từng di cư đến đây “5000 hộ
của các họ hào tộc lớn như Từ, Yêm, Tạ, Phạm đến (nước) Thục làm Cung
săn bắn (Xạ liệp cung –射獵宮). Sách Quế Hải ngu hành chí có chép: trong
các phiên thuộc Tây Nam ở Nghi Dân có họ họ Tạ cũng lấy việc săn bắn làm
nghề nghiệp. Các họ Tạ lớn kể trên, từ đời Hán trở đi được phân bố một dải từ
Tường Kha đến Nghi Châu, Quảng Tây. Họ đều nắm giữ chính quyền địa
phương các vùng hoặc đời đời làm quan phụ trách việc săn bắn. Điều này nói
rõ họ đều là hậu duệ của vương tộc Dạ Lang, vì thế đều lấy họ Tạ.
Phần Nam trung chí trong sách Hoa Dương quốc chí chép người quận
Tường Kha "rất chuộng đọc sách”. Người Dạ Lang sau đời Đông Hán, không
dùng họ Dạ nữa mà lấy họ Tạ để thay thế. Đó chính là công phu (kết quả) của
việc đọc sách, khảo cứu thư tịch của họ. Thơ trong phần Tung Cao- Đại Nhã
viết:
Phiên âm:
Điệp điệp Tân Bá,
vương tán chi sự,
vu ấp vu Tạ,
Nam quốc thị thức.

Dịch nghĩa:
Sừng sững Thân Bá,
giúp rập vương triều,
Ở ấp (họ)Tạ,
kiểu tại nước Nam.
Cũng trong sách đó lại chép:
Phiên âm:
4


Vương mệnh Thân Bá,
thức thị Nam bang,
nhân thị Tạ nhân,
dĩ tác nhĩ phường?
Dịch nghĩa:
Vua lệnh Thân Bá,
tạo kiểu nước Nam,
nhân người họ Tạ,
giúp xây thành trì.
Chu Tuyên vương lệnh cho Thiệu Bá Hổ chinh phạt di Từ Chuẩn, rồi
lấy ấp Tạ của di Từ Chuẩn phong cho cháu trưởng của (Thiệu Bá Hổ) làm
Thân hầu. Đồng thời, lệnh cho người họ Tạ bị chinh phục xây thành cho Thân
hầu. Khi đó, người họ Tạ không chịu sự áp bức của người Chu mà di cư
xuống phía Nam tại Kiềm Trung. Sau đó, đến thời kỳ Xuân Thu, Sở diệt hai
nước Thân, Tức, lấy làm cửa ngõ phương Bắc của (nước Sở), vì thế Thân, Tức
lại thuộc về Sở.
Nước Sở thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc là một đại quốc đất rộng người
thưa, muốn khai thác vàng ở Lệ Thủy, hơn nữa còn muốn đưa số vàng khai
thác được chuyển về nước Sở. Đồng thời, nước Sở lại muốn cưỡng bức hàng
loạt dân chúng ở đây di cư xuống phía Nam, để làm người phục dịch. Phần

Dụ lão sách Hàn phi tử chép: “Pháp luật của nước Sở quy định, bề tôi ăn lộc
được đời sau tiếp tục mà thu đất”. Sau này, Ngô Khởi muốn nổi dậy bởi Biến
pháp của Sở Điệu Vương, liền lợi dụng điều quy định này của pháp luật, phế
bỏ những công thần ở nơi xa xôi, để nuôi dưỡng các binh sĩ đang chiến đấu.
Phần Quí tốt trong sách Lã Thị Xuân Thu chép: Ngô Khởi nói với Kinh
Vương: “Đất đai dư thừa, dân chúng thiếu thốn, nay quân vương lấy chỗ thiếu
thốn bù trì cho nơi dư thừa, Thần thấy đó là việc làm không được”. Vì thế,
(Kinh Vương) sai quí tộc đến thực thi tận thu những vùng đất dư thừa rộng
lớn, (mọi người) đều rất khổ vì việc này”. Vốn các quí tộc nước Sở đều có
Thái ấp, hiện tại sau khi được tiếp tục, Thái ấp của bọn họ đều bị tịch thu. Sự
khai thác vàng lại đủ để hấp dẫn khiến cho các quí tộc này đem gia thuộc di cư
xuống đây. Nếu không có những di dân này, làm sao thực hiện được việc khai
thác vàng ở Lệ Thủy và vận chuyển về nước Sở.
Như vậy, Dạ trong Dạ Lang vốn là người Tạ đến từ Trung Quốc, Dạ
(夜) là chuyển âm của Tạ(謝)...
Về chữ Lang trong Dạ Lang :

5


Chữ Lang (郎) thời cổ đọc như chữ Lãng (浪 nghĩa là sóng nước), phần
Địa lí chí trong sách Hán thư, Nhan Sư Cổ chú thích chữ Lang ( 阆 ) trong
Lang Trung ( 阆 中 ) của Thục quận như sau : Man thư- Man di phong tục
chép : Hang (cốc) gọi là Lãng(浪). Tiếng Tạng hiện đại cũng gọi vùng khe núi
là Lãng (浪 đọc là rong). Vùng Tây Nam cổ đại Trung Quốc, tên đất thường
dùng các chữ Lang(郎), Lang(阆), Lang (狼 chỉ con sói), Lang, tất cả đều có
nghĩa chỉ nơi cư trú tại khe núi. Trong Lục Chiếu của Nam Chiếu có Lãng
Khung Chiếu, Đăng Viêm Chiếu và Thi Lãng Chiếu gọi là Tam Lãng. Quyển
117, sách Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ khi viết về núi Liên Hoa
huyện Lãng Khung có chép : Ở cách 40 dặm về phía Bắc huyện, hình như hoa

sen, ba mặt cách trở, còn một mặt chỉ vừa đủ con ngựa đi qua. Đất tiếp giáp là
núi Mông Thứ Hòa, ba mặt đều hiểm trở cách biệt, một mặt gần sông. Vào
thời Lục Chiếu, Thi Lãng Chiếu ở dưới hai ngọn núi này.
Trong tiếng Tạng cổ, hai từ Lang (郎), và Lãng (浪) thuộc các âm thanh
2 và thanh 4 đều có thể đọc thay thế nhau. Dạ Lang là nước phụ thuộc do
người nước Sở lập nên, vì sao lại có thể xưng vương ngang với Sở vương?
Chúng ta đều biết, trong lịch sử Trung Quốc, chỉ các vương triều phong kiến
sau khi được thống nhất mới có quy định chặt chẽ về danh hiệu (tên gọi),
không thể vượt quyền. Nhưng khi các vùng biên cương chưa bị lệ thuộc vào
quyền lực vương triều, họ vẫn có thể tự xưng vương trong địa hạt của mình,
như các nước Ngô, Sở, Từ, Việt thời kỳ Xuân Thu tự xưng vương. Đây là thí
dụ điển hình nhất của việc tự xưng vương. Các Tù trưởng của bộ lạc Ba Đê
sau thời kỳ Hán Ngụy tất cả đều xưng vương. Trong tấm bia Phồn trưởng
Trương Thiền đẳng đề danh bi có chép tên hai người của Bạch hổ di vương là
Tư Vĩ và Tạ Tiết. Ngụy Vũ đế chinh phạt Trương Lỗ ở phía Tây đã lấy : Đỗ
Hộ, Phác Đồ, Viên Ước của Ba di vương làm Thái thú của Tam Ba. Cho nên,
phần Tây Nhung truyện sách Ngụy lược chép: Người Đê có vương đã từ lâu
rồi. Tù trưởng bộ lạc cổ đại xưng vương không chỉ có mấy người kể trên. Đưa
ra mấy dẫn chứng trên để thấy Mân sơn Trang vương và Dạ Lang Trang
vương xưng vương có gì đủ để nghi ngờ đâu ?
2. Cương vực của Dạ Lang :
Tần diệt Ba Thục, kiêm tính đất Ba Kiềm Trung chia làm Ba Quận và
Kiềm Trung Quận. Đây là khởi đầu việc Tần dùng chế độ quận huyện để
thống trị Dạ Lang. Nghĩa của chữ Kiềm Trung là tên gọi chung của cộng đồng
các làng xã bao gồm cả nơi rừng sâu. Cương vực của Kiềm Trung tương
đương với vùng đất do Đô đốc phủ Kiềm Trung đời Đường quản lí. Kiềm
Châu của Đô đốc phủ Kiềm Trung sở tại nay là huyện Bành Thủy của Tứ
Xuyên. Sách Thái Bình hoàn vũ kí chép : Đô đốc Kiềm phủ có 9 châu Kiềm
6



gồm : Thi, Di, Bá, Tư, Phí, Tham, Tần, Cao…, lại kiêm lĩnh 50 châu : Sung,
Minh, Lao…, đều là đất kimi, kí trị nơi hang núi (sơn cốc), khống chế 15 bộ
lạc phiên gần đó: Tường Kha, Côn Minh, Kha Man, Quế Châu, Đề Đà, Man
Mật, Cát Liêu (Cơ Lao), Một Di (Ma), Ba, Thượng Trừu (không rõ), Bột
(Phộc), Tân Kha, Lí Nhân, Mạc Dao (Miêu), Bạch Hổ.
Những bộ lạc phiên trên, không những chỉ bao gồm các bộ tộc trong
toàn tỉnh Quí Châu chưa bị Hán hóa, mà còn vươn tới vùng Ba và Bạch Hổ
của Tứ Xuyên, Côn Minh thuộc Vân Nam, Quế Châu của Quảng Tây. Phạm
vi của chúng đã vượt ra bên ngoài đất 3 quận Vũ Lăng, Kiện Vi, Tường Kha
đời Hán.
Trương Chú người đời Thanh khi biên soạn Tục Kiềm thư đã chép :
Thạch Thiên, Tư Nam ngày nay là Dạ Lang của Di Châu, Lê Bình, Trấn Viễn
là Dạ Lang của Long Tiêu, Đồng Tử, Chính An ngày nay là Dạ Lang của Trân
Châu. Nếu Dạ Lang thời Tần Hán phía Tây giáp Cống ?, Sạ ?, phía Đông giáp
Giao Chỉ, đất rộng vài nghìn dặm. Người ngày nay chỉ biết dựa theo nghĩa để
biết Dạ Lang, mà không biết Dạ Lang rộng lớn vậy! Họ Trương cho rằng:
người đời Đường đã từng lập huyện Dạ Lang ở Di Châu, Long Tiêu, Trân
Châu. Điều đó chứng minh trải qua 5, 6 thế kỉ từ Hán đến Đường, vùng đất
này vẫn tồn tại rất nhiều di dân Dạ Lang. Họ Trương đã dựa vào đó để định ra
cương giới của Dạ Lang, đây thật sự là một nhận thức vĩ đại.
Dạ Lang đến thời Tần Hán, không chỉ đan xen với quận Việt Tung mà
trong địa phận Dạ Lang còn có Cống ? quân, Sạ hầu. Sách Sử kí, Tây Nam di
truyện chép : Đời Hán sai Bát hiệu úy đi dẹp loạn Nam di, giết Thả Lan Cống?
quân và giết Sạ hầu, tức là Thả Lan người Đới Hạng tước quân, mà Đầu Lan
trong bộ tộc Côn Minh tức người Đới Trác tước hầu.
Còn như biên giới phía đông xa xôi của Dạ Lang tiếp giáp với vùng bên
ngoài Cửu Chân, cũng đã được ghi chép trong các bộ sử cổ: “Hậu Hán thưNam man truyện chép: Năm thứ nhất niên hiệu Vĩnh Sơ đời Hán An đế (năm
107), man di Dạ Lang ở bên ngoài Cửu Chân lấy đất làm nội thuộc của mình,
mở rộng địa giới đến 1840 dặm. Những sự kiện mà họ Trương đưa ra ở trên

đều có thư tịch trưng dẫn đầy đủ. Có điều họ Trương không nhắc đến Kiện Vi
quận vì thế không tránh khỏi còn sơ lược.
Kiện Vi quận vốn là đất cũ Dạ Lang, thời kỳ Tần Hán thư tịch ghi chép
thiếu sót, vì thế Tư Mã Thiên đặt nhiều nghi vấn. Tư Mã Thiên chép: Đời Tần
thường đặt tên là Phả (Phả có sách chép là Ách, tức là hay lấy làm tên người,
thực là nhầm), đại khái thông với đường 5 thước. Các nước này (chỉ Dạ Lang)
có đặt thuộc lại ở đây. Sau hơn 10 năm khi Tần bị diệt vong, Hán được hưng
khởi, đều phế bỏ các nước này mà đóng cửa với các nước bên ngoài xưa của
Thục. Người dân Ba Thục hoặc ngầm lẻn ra ngoài buôn bán, mua về ngựa
đực, trâu cày…khiến cho Ba Thục trở nên giầu có. Tư Mã Thiên sống cách
7


thời kỳ Ba Thục hơn 200 năm, vì thế ông không thể biết hết được lịch sử của
Dạ Lang, cho nên không phải ông viết : thường lấy làm tên người, đặt thuộc
lại ở đây mà lại viết : hoặc ngầm lẻn ra ngoài buôn bán, tất cả đều là đại lược
đưa ra mà không dám tự tin (khẳng định). Đường năm thước chưa chắc được
đặt ra từ đời Tần. Hai vương quốc Mân Sơn, Dạ Lang đều do người Sở lập
nên, họ mở đường năm thước, lập quan chế, đặt thuộc lại ở đây cũng là những
việc làm cần thiết để thống trị. Tần diệt Ba Thục phong Sư Lí tử ở đất Nghiêm
Đạo gọi là Nghiêm quân, Trang vương ở Mân Sơn buộc phải dời xuống phía
Nam ở Điền (Vân Nam), do vậy Dạ Lang cũng phải chuyển xuống phía Nam
nhằm tránh sự uy hiếp trực tiếp. Cho nên, các địa phương trực thuộc Kiện Vi
trở thành biên giới giữa Hán và Di.
Kiện Vi quận được thành lập năm Kiến Nguyên thứ 6 đời Hán Vũ đế
(năm 135 trước CN), khi đó Đường Mông chỉ đem hơn 1000 quân lính từ cửa
Ba Phù vào yết kiến Dạ Lang hầu Đa Đồng. Đa Đồng cùng với mấy ấp nhỏ
cạnh Dạ Lang đều thèm muốn lụa mầu của Hán, hẹn ước sẽ đặt Lại, nhưng
vẫn thuộc Kiện Vi quận. Cửa Ba Phù ở huyện Phù quận Kiện Vi (nay là huyện
Hợp Giang, Tứ Xuyên), từ Phù Quan xuống phía Nam đi qua Xích Thủy đến

huyện Trị Miết? quận Kiện Vi. Nhà Hán lấy lụa mầu dụ dỗ, dẫn đến Dạ Lang
nội thuộc mà không phải kinh qua chiến tranh. Trước khi đặt quận Kiện Vi,
Hán và Dạ Lang thường chung sống hòa bình, cho nên người dân Ba Thục
mới thường ngầm lẻn ra ngoài buôn bán, khiến Ba Thục trở nên giầu có.
Nhan Sư Cổ chú sách Hán thư- Địa lí chí : Ưng Thiệu chép, quận Kiện
Vi trước thuộc Dạ Lang, đã nhiều lần xuất hiện trong các thư tịch cổ. Nay xin
đưa ra những đoạn trích mà chúng tôi được biết :
1. Nhạc Tư trong Cửu châu yếu kí: Quận Hòa Nghĩa đất của Dạ Lang cổ, quận
Hòa Nghĩa vốn thuộc Lư Châu, năm Trinh Quán thứ 8 cắt thuộc Vinh Châu,
như vậy Lư Châu, Vinh Châu của Tứ Xuyên đều là đất cũ của Dạ Lang.
2. Thủy kinh-Giang thủy chú : Vũ Dương nước Đại Dạ Lang xưa. Vũ Dương
nay là huyện Bành Sơn, Tứ Xuyên. Ở đây viết nước Đại Dạ Lang tức là chỉ
nước Dạ Lang đất đai rộng lớn, để phân biệt với Dạ Lang sau này dịch chuyển
xuống phía Nam.
3. Thông điển- Châu quận lục, Gia Châu quận Kiện Vi là nước Dạ Lang xưa.
Gia Châu nay là huyện Lạc Sơn, Tứ Xuyên.
4. Thông điển- Châu quận lục, Phổ Châu quận An Nhạc phía Tây Ba Quận đời
Tần giáp đất nước Dạ Lang, đất An Nhạc, Tứ Xuyên thực là đất tiếp giáp giữa
Dạ Lang thời cổ với Ba Quận.
Những ghi chép của thư tịch cổ tuy chép sau khi Kiện Vi được lập
thành quận tới 400, 500 năm, mà khi đó vẫn có nhiều di dân của Dạ Lang.
Những văn nhân, học sĩ như Nhạc Tư, Đỗ Hựu, Lịch Đạo Nguyên cũng chỉ
ghi lại các thuyết cũ được lưu truyền nhiều đời của nhân dân địa phương.
8


Cương vực của Dạ Lang thời cổ, phía Đông đến Kiềm Trung, phía Tây
tới Lệ Thủy, con đường đi qua giữa huyện là trục trung tâm thích hợp nhất ở
đây. Ban đầu khi Hán Vũ đế lập ra quận, đã lấy huyện làm trị sở để khống chế
toàn bộ vùng Dạ Lang. Sau này dẹp yên được loạn Nam di, lại đổi phía Nam

Kiện Vi đặt Tường Kha, đồng thời đổi huyện lệ thuộc Tường Kha. Đây cũng
là một bằng chứng để nói rõ hai quận Kiện Vi, Tường Kha đều thuộc đất cũ
của Dạ Lang.
Những điều vừa nêu trên về đất cũ Dạ Lang, không chỉ bao gồm đất 3
quận Kiện Vi, Tường Kha, Vũ Lăng đời Hán mà có lúc đã vượt ra bên ngoài
phạm vi 3 quận trên. Sử kí-Tây Nam di truyện chép: Quân trưởng vùng Tây
Nam di có tới hàng chục, trong đó lớn nhất là Dạ Lang. Đây là ghi chép của
Tư Mã Thiên tự mình tận mắt trông thấy khi vâng mệnh vua đi sứ chinh phạt
phía Tây.
Trước kia học giả nghiên cứu chưa sâu về lịch sử của Dạ Lang, dựa vào
câu Dạ Lang tự đại để chê bai, thực là điều không đúng sự thật1.
II. GIỚI THIỆU HAI BỘ SÁCH CỔ CHÉP VỀ DẠ LANG VÀ TRÍCH DỊCH
NHỮNG ĐOẠN VĂN CÓ LIÊN QUAN
1. Sử ký 史 記 do Tư Mã Thiên (sinh năm 145 trước CN- mất khoảng

năm 90 trước CN) biên soạn. Sử ký vốn có tên là Thái sử công thư, từ sau đời
Đông Hán mới bắt đầu xuất hiện tên gọi Sử ký và được sử dụng suốt đến hiện
đại. Bộ sách tổng cộng có 130 Thiên (quyển), gồm Bản kỷ 12 quyển, Biểu 10
quyển, Thư 8 quyển, Thế gia 30 quyển và 70 quyển Liệt truyện. Tư Mã Thiên
tự là Tử Trường, người đất Hạ Dương (nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm
Tây).
Sử ký là một bộ Thông sử mang tính chất Bách khoa toàn thư, nội dung
phong phú trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, dân tộc... kéo
dài khoảng 3000 năm lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ thời đại Hoàng đế theo
truyền thuyết cho đến đời Hán Vũ đế. Ngoài việc miêu tả một cách toàn diện
cuộc sống của các tầng lớp trong xã hội và các sự tích liên quan đến các nhân
vật lịch sử trọng yếu ra, Sử ký còn ghi chép khá nhiều về lịch sử các dân tộc
thiểu số và các nước lân bang. Phạm vi các vùng đất được ghi chép trong bộ
Sử ký vượt qua cả bản đồ Trung Quốc hiện đại. Từ khi ra đời, Sử ký đã trở
thành một bộ sử quan trọng, chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử sử học

1

Đoạn trích dịch trên, nguyên văn chép trong sách Bàn về văn hóa Ba Thục,tác giả Từ Trung Thư, Nhà xuất
bản nhân dân Tứ Xuyên, Thành Đô, năm 1981, tr.185-192.《巴蜀文化》,作者:徐中舒。四川人民出版
社,1981 年,成都, 185-192 页。

9


Trung Quốc. Trong Liệt truyện, phần Tây Nam di của Sử ký lần đầu tiên trong
thư tịch cổ Trung Quốc có ghi chép về Dạ Lang.
2. Hậu Hán thư 後 漢 書 do Phạm Việp (398 - 445) 2 đời Tống
thuộc Nam triều soạn, 120 quyển, bao gồm Kỷ 10 quyển, Truyện 80
quyển, Chí 30 quyển. Phạm Việp tự là Úy Tông, người đất Thuận Dương
(nay là Đông Nam, Triết Xuyên, tỉnh Hà Nam), xuất thân trong một gia
đình thế gia vọng tộc.
Phạm Việp làm quan tới chức Tả vệ tướng quân, Thái tử chiêm sự,
Thượng thư Lại bộ lang. Năm thứ 9 niên hiệu Nguyên Gia đời vua Tống
Văn Đế (năm 432), Phạm Việp nhân việc "bị giáng làm Thái thú Nghi
Thành, bất đắc chí, bèn biên tập sách Hậu Hán thư của các tác giả thành
tác phẩm của một nhà. Trong đó, Phạm Việp dùng bộ Đông Quan Hán ký
làm sách tham khảo chính, có bổ sung thêm tư liệu của các bộ sách Hậu
Hán thư. Năm thứ 22 niên hiệu Nguyên Gia (năm 445) Phạm Việp viết
xong phần Bản kỷ, Liệt truyện, đồng thời cùng với Tạ Nghiễm Bá hoàn
thành 5 Chí gồm Lễ nhạc chí, Dư phục chí, Ngũ hành chí, Thiên văn chí
và Châu quận chí. Nội dung của Hậu Hán thư được chép từ Lưu Tú khởi
binh lên ngôi là Hán Quang Vũ đến khi Hán Hiến đế nhường ngôi cho
Tào Phi, ghi chép lịch sử 195 năm của đời Đông Hán (năm 25 đến năm
220)3 .
Sau khi bộ sách Hậu Hán thư của Phạm Việp ra đời, tạo nên một

ảnh hưởng lớn trong xã hội, được giới học giả đánh giá cao, vượt lên trên
các bộ sách trước đó (kể cả bộ Đông Quan Hán ký). Đến đời Đường, bộ
sách của họ Phạm đã thay thế bộ Đông Quan Hán ký, cùng với Sử ký của
Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Cố tạo thành ba bộ sử thịnh hành được
gọi chung là "Tam sử". Sau này các bộ sách Hậu Hán thư lần lượt thất
truyền, cho nên đến nay chỉ còn lại duy nhất bộ sách của Phạm Việp có
thể cung cấp sử liệu để nghiên cứu về triều Đông Hán mà thôi 4.
Trong Hậu Hán thư quyển 86, Liệt truyện 76, Nam man,Tây Nam di,
có chép những tư liệu về nước Dạ Lang, ngoài ra, trong sách Hậu Hán thư,
quyển 76, Liệt truyện 66, Nhâm Diên truyện ghi lại sự kiện liên quan đến
nước Dạ Lang.
2

Trung Quốc nhân danh đại từ điển, Thương vụ ấn thư quán, Thượng Hải, 1984, (Trung văn)
Trung Quốc đại bách khoa toàn thư, Trung Quốc lịch sử, I, Nhà xuất bản bách khoa toàn thư Trung Quốc,
Bắc Kinh, 1998, tr.373 (Trung văn).
4
Trung Quốc lịch sử đại từ điển, quyển Lịch sử sử học, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1984,
tr.168 (Trung văn)
3

10


Chúng tôi xin trích dịch nguyên văn chép về Dạ Lang và Nhâm Diên
trong hai bộ sách Sử ký và Hậu Hán thư trong phần Phụ lục.

11



Phụ lục I: NƯỚC DẠ LANG
I. SỬ KÝ của Tư Mã Thiên, trong Tây Nam di liệt truyện:
Quân trưởng ở Tây Nam di có đến vài chục (người), Dạ Lang là lớn
nhất. Phía Tây thuộc Mỉ Mạc có vài chục, Điền là lớn nhất. Niên hiệu Kiến
Nguyên năm thứ 6, Đại hành Vương Khôi đánh Đông Việt, Đông Việt giết
Vương Dĩnh báo lên. Khôi nhân uy thế của binh lực sai Phiên Dương lệnh là
Đường Mông theo đà tiến thẳng đến Nam Việt. Nam Việt tiếp đãi Mông món
Tương cẩu của nước Thục, Mông hỏi lấy từ đâu ra? Nam Việt đáp rằng:
"Đường tây bắc là Tường Kha, sông Tường Kha rộng vài dặm, mua hàng từ
phía dưới thành Phiên Ngung". Đường Mông trở về đến Trường An, hỏi người
buôn nước Thục. Người này nói: "Chỉ duy nhất có nước Thục sản xuất món
Tương cẩu, phần nhiều đem ngầm ra bán tại chợ Dạ Lang. Dạ Lang ở gần
sông Tường Kha, sông rộng hơn trăm bộ, đủ để đi thuyền. Nam Việt lấy của
cải để bắt ép Dạ Lang thần phục, phía Tây đến Đồng Sư, nhưng cũng không
thể sai khiến thần phục được". Đường Mông dâng thư báo vua: "Nam Việt
vương, lầu mái vàng cờ súy treo bên trái, đất từ đông sang tây rông hơn vạn
dặm, danh nghĩa là ngoại thần (bề tôi bên ngoài), thực ra là chủ một châu. Nay
nếu từ Trường Sa, Dự Chương đến bằng đường thủy đều bị trở ngai, khó đi.
Trộm nghe Dạ Lang quân đội tinh nhuệ, có thể đến 10 vạn người, nếu đi
thuyền trên sông Tường Kha, chẳng may xảy ra việc ngoài ý muốn, thì thành
một trò cười. Thần thành thực nghĩ rằng, biên cương đời Hán có Ba Thục phì
nhiêu, đường thông sang Dạ Lang, đặt thuộc lại rất dễ". Vua liền đồng ý. Ban
cho Đường Mông làm Trung lang tướng, đem nghìn người, lương thực đủ cho
hơn vạn người. Mông đem quân từ cửa Phù Quan của Ba Thục tiến vào, gặp
ngay Dạ Lang hầu là Đa Đồng. Đường Mông hậu đãi, lấy uy đức để phủ dụ,
hẹn sẽ đặt thuộc lại, cho con trai của Đa Đồng giữ chức Lệnh.
Các ấp nhỏ xung quanh Dạ Lang đều rất thèm muốn lụa mầu của Hán,
cho rằng đường đi đến Hán hiểm trở, chẳng bao giờ có được loại hàng hóa
này, liền nghe lời hứa của Đường Mông. Mông trở về tâu báo, vua lấy nơi đó
làm quận Kiện Vi. Sai quân lính Ba Thục đi làm đường, từ Bặc Đạo đến thẳng

sông Tường Kha. Tư Mã Tương Như người nước Thục cũng nói Tây Nam di
Cống, Sạ có thể đặt thành quận. Vua liền ban cho Tương Như chức Lang
trung tướng để đi phủ dụ, cũng như Nam di đặt thành quận, đứng đầu là 1 Đô
úy, hơn 10 huyện, thuộc về nước Thục.
Đương khi đó, bốn quận của Ba Thục thông với đường của Tây Nam di,
lính thú chuyển được lương ăn. Cuối năm, đường không được thông, binh lính
bị đói, (đất đai) ẩm thấp, người chết rất nhiều. Tây nam di lại mấy lần làm
12


phản, nổi binh đánh lại, hao phí vô cùng, Vua lo ngại, sai Công Tôn Hoằng đi
thị sát vùng đó. Trở về, Hoằng tâu báo nơi đó không thuận tiện. Khi Hoằng
làm Ngự sử Đại phu đúng lúc đang xây dựng ở phương Bắc nhằm dựa vào ao
hồ để đuổi giặc Hồ. Hoằng nhân thế nói thêm về cái hại của Tây Nam di, có
thể bãi bỏ, chuyên tâm vào việc (đối phó) với Hung Nô. Nhà vua liền cho bãi
bỏ Tây Nam di, chỉ đặt hai huyện Nam di, Dạ Lang một viên Đô úy, lệnh cho
Kiện Vi tự giữ như cũ.
Điền vương nói với sứ giả nhà Hán: "Hán so với ta ai lớn hơn". Giống
như Dạ Lang hầu cũng (hỏi như) vậy. Do nguyên nhân đường đi không thông
suốt, nên mỗi nơi đều làm chủ một châu, không biết Hán rộng lớn. Sứ giả trở
về, nói phóng lên Điền là đại quốc, đủ để thành phụ thuộc thân cận. Nhà vua
chú ý điều đó. Kịp khi Nam Việt làm phản, vua sai Trì Nghĩa hầu xuống Kiện
Vi lấy quân lính Nam di. Thả Lan quân sợ đi xa, nước láng giềng bắt được
những người già yếu của mình, liền cùng dân chúng làm phản, giết sứ giả và
Thái thú quận Kiện Vi. Hán liền đưa những tội nhân của Ba Thục thường đánh
Nam Việt, sau Bát hiệu úy đánh phá được. (nước) Việt ở Cối Kê đã bị phá,
Bát hiệu úy của Hán không đánh xuống nữa, đem quân trở về, rồi giết Đầu
Lan. Đầu Lan là nơi cách ly với đường giao thông của Điền, sau khi dẹp được
Đầu Lan, tiếp tục bình định Nam di, cho làm quận Tường Kha. Dạ Lang hầu
trước tiên dựa vào Nam Việt, Nam Việt đã bị diệt, trở về giết kẻ làm phản, Dạ

Lang lại vào chầu. Nhà vua cho làm Dạ Lang vương.
Quân trưởng của Tây Nam di có đến hàng trăm, chỉ duy có Dạ Lang, Điền
được trao cho vương ấn.
Sách Sách ẩn thuật toản chép: Bên ngoài Tây Nam, Trang Kiểu là người
đến đầu tiên. Hán vì Đại Hạ, mới sai Đường Mông. Lao Quang, Mị Mạc,
phong tục khác nhau. Dạ Lang lớn nhất, Cống, Sạ đều xưng hùng. Kịp khi đặt
quận huyện, muôn đời tôn sùng công lao.
(Do thời gian quá gấp, nên phần trích dịch trong sách Sử ký của Tư Mã
Thiên chưa kịp đánh số tờ theo nguyên bản, chúng tôi sẽ khắc phục sau Tọa
đàm- Người dịch)

13


II. HẬU HÁN THƯ
II.a.《后汉书第八十六卷·列传第七十六, 10b》 5 (Nguyên văn chép
trong sách Hậu Hán thư quyển 86, Liệt truyện 76, tờ 10b)
(tờ 10b) Năm thứ nhất niên hiệu Vĩnh Sơ đời Hán An đế (năm 107),
man di Dạ Lang ở bên ngoài Cửu Chân lấy đất làm nội thuộc của mình, mở
rộng địa giới đến 1840 dặm
II.b.《后汉书第八十六卷·列传第七十六, 19a-21a》 6 (Nguyên văn
chép trong sách Hậu Hán thư quyển 86, Liệt truyện 76, tờ 19a-21a)
(tờ 19a) Tây Nam di: ở phía ngoài Thục quận có nước Dạ Lang, phía Đông
giáp với Giao Chỉ, phía Tây có nước Điền (Vân Nam), phía Bắc có nước
Cống? Đô, đều có lập Quân trưởng. Người nước đó đều búi tóc, vạt áo vắt về
bên trái, trong ấp tụ cư sinh sống, biết cày cấy. Bên ngoài lại có các bộ lạc
Huề, Côn Minh, tận cùng phía Tây là Đồng Sư, phía Đông Bắc đến Diệp Du,
(huyện Diệp Du thuộc quận Ích Châu, Hiền tôi căn cứ theo Tiền Hán thư viết:
phía Tây từ Đồng Sư, Đông bắc đến Diệp Du tên là Huề, Côn Minh,...). Đất
vuông vài nghìn dặm không có Quân trưởng, tết tóc, theo gia súc di (tờ 19b)

chuyển thường xuyên. Từ Đông bắc Huề có nước Tạc Đô. Đông bắc có nước
Nhiễm Bàng người ở bản địa hoặc theo theo gia súc di cư đến. Từ Đông bắc
Nhiễm Bàng có nước Bạch Mã, là tộc Di vậy. Ba nước này đều có Quân
trưởng.
Nước Dạ Lang, trước kia một người con gái ra giặt ở sông Đồn Thủy,
có khúc tre lớn ba đốt trôi vướng vào chân, nghe trong có tiếng gọi, cô gái liền
bổ khúc tre ra, thấy một bé trai, mang về nhà nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu con
trai có tài võ nghệ, tự lập làm Dạ Lang hầu, lấy họ là Trúc 7. Niên hiệu Nguyên
Đỉnh thứ sáu Hán Vũ đế, bình định di phía nam (Nam di), đặt ra quận Tường
Kha, Dạ Lang hầu xin hàng, nhà vua ban cho vương vị ấn đồng, thao xanh,
sau đó lại giết đi. Dân Di, Lạo cho rằng Trúc vương không phải do khí huyết
sinh ra, nên rất (tờ 20a) trọng thị, xin được lập làm Hậu thần. Thái thú Tường
Kha là Ngô Bá trình lên triều đình, nhà vua liền phong con thứ ba của (Trúc
vương) tước hầu. Khi chết, được phối thờ cùng cha, Ngày nay ở huyện Dạ
二十四史, 縮印百衲本,後漢書, 商務印書館
二十四史, 縮印百衲本,後漢書, 商務印書館
7
Sách Hoa Dương quốc chí (Nguyên chú trong sách Hậu Hán thư).
5
6

14


Lang có Thần Trúc vương Tam lang là do vậy. (Sách Tiền Hán thư- Địa lý chí
có chép: Huyện Dạ Lang có sông Đồn Thủy, đông đến Quảng Uất, sách Hoa
Dương quốc chí viết: sông Đồn Thủy thông với Uất Lâm, nơi đây có đền thờ
Tam lang rất linh ứng, dân chúng truyền rằng: Trúc vương quyên sinh, phá
trúc ở tại đồng hoang sau trở thành rừng trúc, ngày nay đền thờ vương ở đất
Quế Lâm vậy. Vương thường cùng gia nhân đến dừng chân trên tảng đá lớn và

ra lệnh nấu canh, gia nhân thưa: không có nước nấu. Vương dùng kiếm chặt
vào hòn đá, nước từ trong chảy ra. Ngày nay có sông Trúc vương thủy là bắt
nguồn từ đó8.
Xưa kia, vào thời Sở Khoảnh Tương vương có viên tướng tên là Trương
Hào, từ sông Nguyên Thủy vào đánh dẹp Dạ Lang, quân lính đến Thả Lan
buộc thuyền ở trên bờ, rồi tiến đánh trên bộ tiêu diệt được Dạ Lang. Lại nhân
vương Điền Trì lấy xứ Tường Kha là nơi buộc thuyền nên đổi tên là Tường
Kha. (Sách Dị vật chí chép: Tường Kha là nơi buộc thuyền9).
Tường Kha là nơi đất nhiều, mưa lụt, phong tục chuộng phù thủy, cấm
kị quỷ thần, ít gia súc (tờ 20 b), lại không nuôi trồng tằm tang, vì thế quận này
nghèo nhất. Huyện Câu Đinh có cây Quang lang, có thể làm bột ăn, trăm họ
đều dựa vào đó. Vào đời Công Tôn Thuật, có các họ lớn như Long, Phó,
Doãn, Đổng Thị, cùng với Tạ Tiêm (Xiêm) là Công tào của quận bảo vệ biên
cảnh cho nhà Hán, đồng thời lại cử sứ thần từ Phiên Ngung tiến hành tuế
cống. Hán Quang vũ rất vui về việc đó, lại gia tăng ban thưởng. Đến đời vua
Hoàn đế Doãn Trân là người trong quận, tự nghĩ mình sinh ở nơi héo lánh,
không biết lễ nghĩa, xin được theo học Hứa Thận người Nhữ Nam về kinh
điển Nho gia như Tứ thư, Ngũ kinh cùng lý học. Sau khi học trở về (tờ 21a)
làm thầy giáo tại quê hương, từ đó vùng Nam vực bắt đầu có sự học hành.
Doãn Trân làm quan tới chức Thứ sử Kinh châu. (Sách Hoa Dương quốc chí
chép: Doãn Trân tên tự là Đạo Trân, người huyện Mẫu Liễm)10.
Phụ lục II: TRUYỆN NHÂM DIÊN
《后汉书第七十六卷·列传第六十六,4b-8a》
Nguyên văn trong sách Hậu Hán thư, quyển 76, Liệt truyện 66, Nhâm Diên
truyện, tờ 4b đến 8a
(tờ 4b) Nhâm Diên tên tự là Trưởng Tôn, người huyện Uyển, quận Nam
Dương,. Năm 12 tuổi cùng bạn bè học ở Trường An, thông hiểu các sách
"Thi", "Dịch", "Xuân Thu". Diên rất nổi tiếng trong Thái học, bạn bè đã đặt
8


Nguyên chú trong sách Hậu Hán thư. (Người dịch)
Nguyên chú trong sách Hậu Hán thư. (Người dịch)
10
Nguyên chú trong sách Hậu Hán thư. (Người dịch)
9

15


cho tên là "Thánh đồng Nhâm" (Ông thánh trẻ tuổi Nhâm). Gặp phải thời loạn,
tránh giặc, ông đến lánh nạn tại Lũng Tây. Khi đó, Khôi Hiêu đã chiếm được
4 quận, sai người đi mời Nhâm Diên, nhưng không đi. Năm thứ nhất niên hiệu
Cánh Thủy (năm 23), Nhâm Diên là thuộc quan Đại tư mã. được (vua Hán)
cho giữ chức Đô úy (quận) Cối Kê. Đương thời Ông mới 19 tuổi, các viên
quan đón tiếp thấy tuổi còn trẻ, (tờ 5a) lấy đó làm kinh dị. Sau khi Nhâm Diên
đến, thanh bạch không có gì, đầu tiên chỉ sai người đến tế lễ Diên Lăng Quý
tử11.
Lúc đó, đất nước vừa được khôi phục, giao thông trên đường tắc nghẽn,
những người phương bắc đến lánh nạn ở Giang Nam đều chưa trở về Trung
nguyên, Cối Kê nhiều nhân tài nổi tiếng. Nhâm Diên đến trị nhậm, đều cho
mời những người đức cao đạo trọng như Đổng Tử Nghi, Nghiêm Tử Lăng...,
tôn kính lấy lễ đối đãi như với Thầy giáo và bạn bè. Với những thuộc quan
nghèo khó, Nhâm Diên thường sẻn bớt bổng lộc của mình ra phân chia cho
họ. Những nhân viên bị cắt giảm về đều cho họ cấy cày ruộng đất công, giải
quyết vấn đề túng bấn của họ. Mỗi khi đến thị sát trong huyện, đều sai người
đến thăm hỏi và khích lệ những người con có hiếu, mời họ bữa cơm.
(tờ 5b) Vùng đất Ngô có người tên là Long Khâu Trường, ẩn cư tại huyện
Thái Mạt12. Vào thời Vương Mãng, các quan Tứ phụ và Tam công 13 liên tiếp
cho triệu mời, nhưng Khâu Trường không chịu ra. Các thuộc quan trong
huyện kiến nghị Nhâm Diên triệu mời ông ta, nhưng Nhâm Diên nói: "Ngài

Long Khâu Trường tự mình là người thực hành đạo đức đại nghĩa, có tiết tháo
của Nguyên Hiến, Bá Di14. Ta giữ chức Đô úy mà làm kinh động tự viện của
ông ta, lo rằng sẽ khiến Khâu Trường cảm thấy ngượng thẹn, nếu cho mời đến
cũng không thể được". Nhâm Diên sai công tào mang thiếp mời của mình đưa
đến thăm hỏi, sau tự mình viết trát đưa Khâu Trường đi bệnh viện. Các viên
quan, sứ giả thường xuyên tấp nập trên đường. Sau một năm, Long Khâu
Trường đi xe đến quan phủ bái yết Nhâm Diên, hy vọng những năm cuối đời
sẽ được giao một chức quan15. Nhâm Diên từ chối nhiều lần, sau giao cho ông
ta giữ chức Nghị tào Tế tửu. Chẳng bao lâu, Long Khâu Trường mắc bệnh qua
11

Quý tử là con út của Ngô vương Thọ Mộng tên là Trát, được phong ở đất Diên Lăng. (nguyên chú trong
Hậu Hán thư)
12
Huyện Thái Mạt thuộc quận Cối Kê, nay là huyện Long Khâu, Mậu Châu. Sách Đông Dương kí chép: Thời
Tần, đổi làm Thái Mạt, có núi Long Khâu (Long Khâu sơn) có Cửu thạch đặc biệt đẹp, sắc đỏ, xa trông tựa
đóa sen, ẩn sâu có một cái hang đá giống như cửa sổ có một chiếc sập đá nằm nghỉ được. (nguyên chú trong
Hậu Hán thư)
13
Tứ phụ tức Thái sư, Thái phó, Quốc sư, Quốc tướng, Tam công gồm Tư mã, Tư đồ, Tư không. Tứ phụ và
Tam công đều là chức quan cao cấp trong thời Vương Mãng, xem thêm trong Tiền Hán thư. (nguyên chú
trong Hậu Hán thư)
14
Nguyên Hiến là học trò Khổng Tử, người nước Lỗ. Tử Cống đưa xe tứ mã , bày rau đậu đến, Tạ Nguyên
Hiến chỉnh đốn áo mũ ra đón Tử Cống. Bá Di là con của vua Cô Trúc, nhường ngôi, sau chết đói ở trên núi
Thú Dương (nguyên chú trong Hậu Hán thư).
15
Xin được ghi tên vào chức quan trong quận. (nguyên chú trong Hậu Hán thư)

16



đời. Nhâm Diên tự mình đến cúng tế trước bài vị, (tờ 6a) ba ngày liền không
đến công đường làm việc. Vì thế, nhiều Nho sĩ, đại phu tài giỏi trong quận đều
tích cực ra làm quan.
Năm đầu niên hiệu Kiến Vũ (năm 25), Diên dâng thư nguyện đem
16
thân về bái tạ tại cung vua 17. Vua xuống chiếu cho Diên làm Thái thú (quận)
Cửu Chân. Hán Quang Vũ cho Nhâm Diên yết kiến, ban tặng cho ngựa và lụa
dày. Phong tục của Cửu Chân lấy săn bắn làm nghề, không biết cày bừa bằng
trâu bò. Dân chúng thường gọi nhau đi mua lúa của Giao Chỉ, dẫn đến luôn
luôn thiếu thốn. Nhâm Diên liền ra lệnh cho dân chúng rèn đúc nông cụ, dạy
dân việc khai khẩn đất đai. Diện tích ruộng đất hàng năm được mở rộng, trăm
họ sung túc.
Dân Lạc Việt lại không có lễ phép cưới hỏi lấy vợ lấy chồng, mọi người
đều dâm háo, không có rước đón thành vợ chồng, không hiểu lẽ cha con, đạo
vợ chồng. Nhâm Diên gửi thư cho các huyện trực thuộc, quy định: nam từ 20
(tờ 6b) đến 50, nữ từ 15 đến 40, đều căn cứ vào độ tuổi mà cưới nhau. Những
người nghèo khó không có đồ sính lễ, lệnh cho Trưởng lại trở xuống đều bớt
bổng lộc để giúp đỡ họ. Vì vậy, có hơn 2000 người lấy nhau cùng lúc. Năm
đó, mưa thuận gió hòa, ngũ cốc được mùa. Họ sinh con cái, mới bắt đầu biết
họ tên, đều nói: "Khiến ta có đứa con này là do ông Nhâm (Nhâm quân)". Có
rất nhiều người lấy chữ Nhâm đặt cho tên con của mình. Do đó, Man di, Dạ
Lang ngoài biên, đều mộ nghĩa giữ ải. Diên bèn triệt bỏ trinh thám đóng quân
trong cõi. Trước kia vào thời vua (Hán) Bình Đế (năm 1-5 trước CN), Tích
Quang người đất Hán Trung làm Thái thú Giao Chỉ dạy dỗ dân man, lấy lễ
nghĩa để cải hóa họ, tiếng tăm sánh ngang với Nhâm Diên. Năm đầu niên hiệu
Kiến Vũ (năm 25), sai sứ cống hiến, phong cho làm (tờ 7a) Diêm thủy hầu.
Phong hóa Trung Hoa ở đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai viên Thái thú này.
Diên coi việc được 4 năm, có chiếu chỉ gọi về Lạc Dương, do mắc bệnh

nên giáng làm Thư Dương lệnh. Quan dân ở Cửu Chân đều lập đền thờ sống
ông. Sau Diên được ban cho làm Thái úy Vũ Uy. vua Hán đích thân triệu kiến,
răn ngừa trước: "Hãy phụng sự tốt thượng quan, đừng để mất đi danh vọng!".
Diên trả lời: "Bề tôi nghe nói trung thần không giành lợi cho mình, nếu vì lợi
mình thì không phải trung thần. Làm việc chính đáng, phục vụ quốc gia, đó
chính là tiết tháo của bề tôi. Thượng quan hay hạ quan đều nói như thế, đấy
không phải là phúc của hoàng đế. Còn như phải phụng sự tốt thượng quan,
thần không dám tiếp ý chỉ đó". Nhà vua cảm khái rằng: "Lời nói của khanh
quả đúng vậy!".
Khi Diên đến Vũ Uy, lúc đó nắm giữ Trưởng sử quân binh là Điền Cám
là một họ lớn trong quận, con em khách mời của chúng hại dân tàn bạo. Nhâm
16
17

Vốn nguyên văn là hài cốt (nắm xương) chúng tôi dịch cho thoát ý. (Người dịch)
Nhâm Diên có ý muốn xin từ chức. (Người dịch)

17


Diên cho bắt Điền Cám, cha con khách mời 5, 6 người họ Điền bị trừng trị
theo pháp luật. Điền (tờ 7b) Thượng là con út của Điền Cam liền tụ tập vài
trăm tên ngang ngạnh tự xưng là Tướng quân đến đêm tấn công vào trị sở
quận. Nhâm Diên lập tức đưa quân đánh bại bọn chúng. Từ đó trở đi, uy danh
vang trong toàn cõi, quan lại dân chúng yên tĩnh.
Phía Bắc quận tiếp giáp với Hung Nô, phía Nam quận liền với người
Khương, dân chúng sợ bọn chúng đến cướp bóc, phần nhiều để ruộng hoang
phế. Nhâm Diên đến tập hợp tuyển chọn hơn 1000 người có võ nghệ, tiến
hành thưởng phạt nghiêm minh, lệnh đưa những người lai phương Bắc giỏi
cưỡi ngựa đến Hưu Đồ và Hoàng Thạch, đóng giữ các nơi hiểm yếu. Một khi

có báo động lập tức xuất kích nghênh chiến. Quân giặc nhiều lần bị đánh bại,
bị thương, vì thế không dám xâm phạm nữa.
Hà Tây ít mưa, do vậy đặt ra các viên quan lại phụ trách việc dẫn nước,
sửa sang đê mương, dân chúng được hưởng lợi nhiều. Lại lập các trường học,
từ các con cháu của duyện lại trở lên, theo lệnh chỉ đều được đến trường đọc
sách, miễn trừ dao dịch. (tờ 8a) Sau khi đã thông hiểu văn pháp, đều được đề
bạt tuyển dụng thăng tiến. Từ đó, trong quận xuất hiện lớp người đọc sách
hiểu được nghĩa lí. Sau này, có việc giết người Khương mà không báo trước
lên thượng quan, Diên bị giáng chức làm Triệu Lăng lệnh. Vua Hán Hiển tông
lên ngôi, Diên được ban chức Thái thú Dĩnh Xuyên. Năm thứ 2 niên hiệu
Vĩnh Bình (năm 59) được triệu hồi về Tịch Ung, giao cho làm Thái thú Hà
Nội, coi việc được 9 năm, nhân bị bệnh mất. Con út là Khải làm quan đến
chức Thái thường.
Hà Nội, Canh Dần (2010),
Quý thu, cát nhật
Viết tại Quan Nhân thư trai.

18



×