LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong công trình nghiên cứu
khoa học này là độc lập và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin
cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Trần Hữu Tuấn đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ, góp ý cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ Hợp tác quốc tế - Đào tạo Sau đại học và quý thầy cô giáo ở Trường Đại học Kinh
tế - Đại học Huế đã tạo điều kiện, giúp đỡ và tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Đại học Huế, lãnh đạo và cán bộ
Ban Kế hoạch - Tài chính, lãnh đạo và cán bộ phòng Cơ sở vật chất, phòng Kế
hoạch - Tài chính các đơn vị trực thuộc Đại học Huế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và thu thập số liệu để nghiên cứu và hoàn thành luận văn
thạc sĩ.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã quan tâm,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Huế, ngày 18 tháng 6 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Minh Tuấn
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
2
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của
xã hội là đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất
lượng đào tạo của các Trường Đại học trước lộ trình các trường phải tự chủ hoàn
toàn về mặt tài chính. Một trong những yếu tố để các trường có thể đứng vững và
phát triển là phải có nền tài chính đủ mạnh và phải tự chủ về tài chính. Vấn đề đặt ra
là làm sao tăng thêm nguồn thu, quản lý chi tiêu sử dụng như thế nào cho hiệu quả
nhất các nguồn lực hiện có của đơn vị mình, nói cách khác nếu các trường đại học
biết sử dụng tài sản của đơn vị một cách hiệu quả nhất, hợp lý nhất sẽ là một trong
những giải pháp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Tài sản công nói chung là nguồn lực nội sinh của đất nước, là yếu tố cơ bản
3
của quá trình sản xuất và quản lý xã hội, là nguồn tài chính tiềm năng cho đầu tư
phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; như Bác Hồ kính yêu đã
khẳng định: “Tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh
tế chung, để làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân” (trích
trong Hồ Chí Minh về vấn đề tài chính Nhà xuất bản sự thật năm 1989, trang 79).
Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ tài
sản công của đất nước, do các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý sử dụng để phát
triển các hoạt động sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp ngày
càng lớn và chiếm tỷ trọng quan trọng trong toàn bộ tài sản công thuộc khu vực
hành chính sự nghiệp.
Đại học Huế và các trường thành viên có bề dày lịch sử hơn 58 năm hình
thành và phát triển, là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, các trường luôn tích cực
hướng tới mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới cơ chế quản lý
tài chính và đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công của Đại học Huế.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý tài
sản nhà nước; đồng thời hình thành bộ máy quản lý tài sản công từ Trung ương
xuống địa phương. Công tác quản lý và sử dụng tài sản công từng bước theo chế độ
và tiêu chuẩn định mức sử dụng tài sản công. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng tài
sản của một số Trường Đai học vẫn mang nặng tính hành chính bao cấp, quản lý
thiếu chặt chẽ, sử dụng lãng phí.v.v. chưa hình thành cơ chế quản lý tài sản côngphù
hợp với quá trình đổi mới và cải cách hành chính. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Hoàn thiện công tác quản lý tài sản công tại Đại học Huế” đang là vấn đề bức
súc có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá hiện trang công tác quản lý tài sản công tại
Đại học Huế giai đoạn 2011-2015, đề tài đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện công tác quản lý tài sản công tại Đại học Huế trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý tài sản công ở
4
các trường đại học
- Phân tích thực trạng quản lý tài sản công tại Đại học Huế giai đoạn 20112015.
- Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản công tại Đại học Huế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài này tập trung chủ yếu nghiên cứu tài sản công và cơ chế quản lý tài
sản công đối với các tài sản phục vụ trực tiếp cho hoạt động sự nghiệp của các
Trường Đại học trong Đại học Huế bao gồm các loại tài sản phục vụ cho giáo dục
và đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Thời gian nghiên cứu: Đánh giá thực trạng quản lý tài sản công của Đại học
Huế từ năm 2011-2015 và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lý tài sản công cho toàn Đại học Huế..
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứucủa đề tài là phương pháp thống kê mô tả, thu thập
số liệu sơ cấp từ các báo cáo tình hình tăng giảm tài sản, báo cáo kiểm kê tài sản,
báo cáo tổng hợp tài sản và bảng tính khấu hao tài sản cuối năm của Đại học Huế
qua các thời kỳ từ 2011 – 2015
- Phương pháp so sánh với số liệu sơ cấp thu thập từ các văn kiện của đại
hội, báo cáo của các hội nghị về công tác quản lý công sản của các đơn vị hành
chính sự nghiệp trên cả nước.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ quản lý về thực trạng và hướng
đổi mới công tác quản lý tài sản công thuộc các phòng ban chức năng của một số Trường
Đại học và cán bộ quản lý tài sản cấp trên ở Đại học Huế.
- Phương pháp phân tích nhóm nhân tố khám phá EFA
- Các công cụ xử lý số liệu chủ yếu là excel, SPSS16
- Phương pháp khảo sát ý kiến chuyên gia về các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến công tác quản lý tài sản công của Đại học Huế.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích kết hợp lý
luận với thực tiễn của Việt Nam cũng như đúc kết kinh nghiệm của một số nước để
đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp và đưa ra
các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện công quản lý tài sản công tại các đơn vị sự
5
nghiệp trong thời gian tới.
5. Nội dung nghiên cứu:
Về bố cục của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày 3
chương
Chương I: Tài sản công và cơ chế quản lý tài sản công tại cácđơn vị sự
nghiệp
Chương II: Thực trạng công tác quản lý tài sản công tại Đại học Huế giai
đoạn2011 - 2015.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản công tại Đại học
Huế
CHƯƠNG I
TÀI SẢN CÔNG VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
1.1. Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài sản công
Sự tăng trưởng của nền kinh tế đòi hỏi phải huy động tố đa mọi nguồn lực,
trong đó tài sản công được coi là một nguồn lực quan trong và cần thiết nhất. Đặc
biệt là trong điều kiện đất nước ta đang tập trung phát triển nền kinh tế nhanh và
bền vững. Do vậy, nếu không đặt vấn đề quản lý tài sản công một cách có hiệu quả
thì cũng có nghĩa là chúng ta đang sử dụng nguồn lực to lớn của quốc gia một cách
lãng phí và cũng là khe hở cho nạn tham những, biển thủ tài sản công, ...
Tài sản công được hiểu là những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Nói
rộng ra chúng thuộc sở hữu của toàn dân. Do vậy quản lý và sử dụng có hiệu quả tài
6
sản công được xem là nghĩa vụ và trách nhiệm không chỉ đối với Chính phủ mà còn
đối với tất cả các Bộ ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị và nhân dân.
Nguồn gốc hình thành tài sản công chủ yếu từ Ngân sách Nhà nước và tài
nguyên quốc gia. Tài sản công bao gồm tài sản quốc gia do Chính phủ sở hữu, tài
sản do các cấp địa phương quản lý, tài sản Nhà nước do doanh nghiệp Nhà nước
quản lý, tài sản do các cơ quan hành chính sự nghiệp quản lý, tài sản do các dự án
viện trợ vay nợ hình thành, tài sản Nhà nước trong các tổ chức chính trị xã hội ...
Hiện nay, nước ta chưa có số liệu thống kê nào xác định được toàn bộ giá trị cũng
như số lượng tài sản công trên toàn quốc để quản lý và theo dõi.
Tài sản thuộc sở hữu Nhà nước được quy định theo Điều 181 Bộ luật Dân sự,
đã được Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá IX thông qua
tại kỳ họp thứ 8 ngày 28/10/1995, quy định tài sản thuộc sở hữu toàn dân là “Đất
đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển,
thềm lục địa và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình
thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước
đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đại diện cho lợi ích của
toàn dân, nên Nhà nước được dân giao thực hiện quyền chủ sở hữu đối với tài sản
thuộc sở hữu toàn dân và đã được luật pháp qui định tại Điều 206 Bộ luật Dân sự
10/1995. Theo Điều này, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân”. Theo qui định các
Điều 181 và 206 của Bộ luật Dân sự 10/1995, tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm các loại tài sản sau:
- Đất đai, các tài nguyên trên và trong lòng đất
- Các tài sản được đầu tư mua sắm bằng nguồn vốn của Nhà nước trang cấp
cho các doanh nghiệp nhà nước, các ngành lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa
học kỹ thuật, ngoại giao quốc phòng an ninh.
- Các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước. Theo Bộ luật dân
sự 10/1995, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản qui phạm pháp luật,
các tài sản này bao gồm các tài sản tịch thu sung quỹ Nhà nước, tài sản chôn dấu,
7
chìm đắm tìm thấy, tài sản vắng chủ, vô chủ đã được xác lập quyền sở hữu Nhà
nước và các tài sản do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hiến tặng Chính
phủ hoặc các tổ chức nhà nước.
Tài sản của Nhà nước ngay từ chế độ phong kiến đã hiểu là tài sản công, như
đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước phong kiến được gọi là công điền, công thổ. Tài
sản thuộc sở hữu toàn dân của nước ta hiện nay mà Nhà nước là người thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với các tài sản này được gọi là tài sản công. Nhà nước
thực hiện chức năng sở hữu tài sản công, song Nhà nước không trực tiếp sử dụng
các tài sản này mà Nhà nước giao quyền sử dụng tài sản công cho các tổ chức thuộc
hệ thống bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp,
đơn vị kinh tế nhà nước trực tiếp quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công phục vụ
cho các hoạt động của mình và xã hội theo chế độ qui định của pháp luật; Các tổ
chức cá nhân được Nhà nước giao sử dụng tài sản công đều phải chịu sự thống nhất
quản lý của Chính phủ và Nhà nước kiểm tra giám sát tình hình quản lý sử dụng tài
sản công của tổ chức, cá nhân.
Như vậy, tài sản công được hiểu là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, bao gồm
toàn bộ tài sản được hình thành từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc
Ngân sách nhà nước, các tài sản khác được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước thông
qua quốc hữu hóa hoặc quy định bằng pháp luật và đất đai, tài nguyên thiên nhiên khác
gắn liền với đất đai, vùng trời, vùng biển của quốc gia được Nhà nước giao cho tổ
chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử dụng theo qui định chung của Nhà nước và chịu sự
kiểm tra giám sát của Nhà nước trong quá trình quản lý sử dụng tài sản.
1.1.2. Phân loại tài sản công
Để nhận biết và từ đó định ra các biện pháp quản lý và sử dụng có hiệu quả với
từng loại tài sản, tài sản công có thể được phân chia theo các tiêu thức chủ yếu sau:
1.1.2.1. Phân loại tài sản công theo nguồn gốc hình thành
Theo cách phân loại này, tài sản công gồm:
- Tài sản do thiên nhiên tạo ra ban tặng cho con người và thuộc chủ quyền của
từng quốc gia như: đất đai, rừng tự nhiên, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước
trong lòng đất, vùng trời, vùng biển, mặt nước, những danh lam thắng cảnh. Những
8
tài sản này thường gọi chung là tài nguyên thiên nhiên.
- Tài sản nhân tạo là tất cả các tài sản do con người tạo lập ra và được duy trì
qua các thế hệ như: hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, các công trình văn hoá,
các cổ vật, công sở, cơ sở sản xuất kinh doanh, phương tiện đi lại và thiết bị văn
phòng, thiết bị máy móc sản xuất, tài sản tài chính… Tài sản nhân tạo được hình
thành do đầu tư, mua sắm bằng kinh phí của Ngân sách nhà nước và những tài sản
mà Nhà nước thu nạp được từ các tài sản tịch thu sung quỹ Nhà nước, tài sản hiến
tặng của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
1.1.2.2. Phân loại tài sản công theo thời hạn sử dụng
Theo cách phân loại này, tài sản công bao gồm các loại tài sản có thể sử
dụng vĩnh viễn không mất đi như tài nguyên đất, tài nguyên nước, không khí… và
các tài sản có thời gian sử dụng nhất định như tài nguyên khoáng sản và các tài sản
nhân tạo khác. Tuy nhiên, việc phân loại ra tài sản sử dụng vĩnh viên và tài sản sử
dụng có hạn chỉ là tương đối, vì ngay tài nguyên đất nếu không có biện pháp quản
lý, sử dụng và bảo vệ đất thì đất bị sói mòn, cằn cỗi không sử dụng được hoặc trong
phạm vi một địa phương diện tích đất cũng bị giảm.
1.1.2.3. Phân loại tài sản công theo mục đích sử dụng tài sản
Theo cách phân loại này tài sản công bao gồm:
1.1.2.3.1. Tài sản công thuộc khu vực hành chính sự nghiệp
Bao gồm những tài sản công là đất đai, nhà, công trình, vật kiến trúc trên đất,
các phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị làm việc, thiết bị chuyên dùng và các
tài sản khác phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp.mà Nhà
nước giao cho các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ
trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề
nghiệp (gọi chung là đơn vị hành chính sự nghiệp) quản lý và sử dụng.
1.1.2.3.2. Tài sản công dùng cho mục đích công cộng
Những tài sản công là đất đai; Hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ,
đường hàng không, bến cảng, bến phà, nhà ga…; Hệ thống thuỷ lợi: đê điều, hệ
thống kênh mương, trạm bơm, hồ chứa nước, đập thuỷ lợi…; Hệ thống chiếu sáng,
cấp, thoát nước, công viên…; Hệ thống các công trình văn hoá, di tích lịch sử và
danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng.
9
1.1.2.3.3. Tài sản công dùng vào sản xuất kinh doanh
Bao gồm đất đai giao cho các thành phần kinh tế khai thác sử dụng, tài
nguyên thiên nhiên, nhà xưởng, trang thiết bị máy móc, phương tiện vận tải… vốn
bằng tiền giao cho các doanh nghiệp nhà nước quản lý sử dụng vào sản xuất kinh
doanh hoặc Nhà nước dùng các tài sản này góp vốn vào các công ty cổ phần và giao
hoặc cho các tổ chức kinh tế khác, hộ gia đình và cá nhân thuê.
1.1.2.3.4. Tài sản công chưa sử dụng
Bao gồm các tài sản dự trữ Nhà nước, tài sản được xác lập sở hữu của Nhà nước
đang trong quá trình xử lý và đất đai tài nguyên thiên nhiên chưa giao cho ai sử dụng.
1.1.2.4. Phân loại tài sản công theo đặc điểm và tính chất của tài sản
Theo cách phân loại này, tài sản công bao gồm:
1.1.2.4.1. Bất động sản
Bất động sản là các tài sản không di dời được như: Đất đai; Nhà ở, công trình xây
dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó;
Các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản khác do pháp luật quy định.
1.1.2.4.2. Động sản
Động sản là những tài sản không phải là bất động sản như phương tiện giao
thông vận tải, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác.
1.1.3. Đơn vị sự nghiệp và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
1.1.3.1. Đơn vị sự nghiệp
Đơn vị sự nghiệp là những đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực sự nghiệp giáo
dục, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, sự
nghiệp kinh tế, dịch vụ, tư vấn, … do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập. Đơn
vị sự nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì các đơn vị này cung cấp
cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao, quy trình công nghệ cao, công trình nghiên
cứu khoa học cơ bản và thực hiện các hoạt động công ích phục vụ cho kinh tế – xã hội
phát triển. Các đơn vị sự nghiệp này được Nhà nước đầu tư, mua sắm, trang cấp tài sản
công (cơ sở vật chất), bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ
chính trị, chuyên môn được giao như các cơ quan quản lý nhà nước; ngoài ra, đơn vị
được phép thu một số khoản phí, lệ phí theo qui định của Nhà nước, thu thông qua
hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ rất đa dạng ở hầu hết các lĩnh vực. Hiện nay, các
10
đơn vị sự nghiệp được chia thành ba loại:
- Đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên: là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đủ bù đắp toàn bộ chi phí hoạt động
thường xuyên, Ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí hoạt động thường
xuyên cho đơn vị;
- Đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường
xuyên: là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp chỉ đủ bù đắp một phần chi phí hoạt động
thường xuyên, chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, Ngân
sách nhà nước phải cấp một phần kinh phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị;
- Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp hoặc không có thu do Ngân sách nhà
nước đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên.
1.1.3.2. Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp
Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp là một bộ phận tài sản công mà Nhà nước
giao cho các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý và sử dụng, để thực hiện các hoạt
động sự nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, bao gồm:
- Đất đai, nhà cửa, công trình, vật kiến trúc: là tài sản của đơn vị được giao và
hình thành sau quá trình đầu tư xây dựng như trụ sở làm việc, trường học, bệnh
viện, nhà thi đấu thể thao, nhà văn hóa, phòng thí nghiệm, nhà kho, hàng rào, tháp
nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt,
cầu tầu, cầu cảng...;
- Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị trang bị cho cán bộ
để làm việc và phục vụ hoạt động của đơn vị như máy móc chuyên dùng, thiết bị
công tác, dây truyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ...;
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải, thiết
bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải...;
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác
quản lý hoạt động của đơn vị như máy vi tính, thiết bị điện tử, thiết bị, dụng cụ đo
lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi, chống mối mọt...;
- Vườn cây lâu năm, súc vật nuôi để thí nghiệm hoặc nhân giống như vườn cà
phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả và đàn gia súc các loại.
- Các loại tài sản khác: là toàn bộ các tài sản khác chưa liệt kê vào năm loại
11
trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật...
1.1.3.3. Đặc điểm tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp có các đặc điểm sau:
- Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp không chỉ được Nhà nước giao, được
đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước mà còn được đầu tư mua sắm
từ nguồn vốn của các dự án, vốn vay của quỹ hỗ trợ phát triển hoặc Ngân hàng và
quỹ phát triển sự nghiệp của đơn vị sự nghiệp có thu.
- Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp trong qúa trình sử dụng một phần giá
trị của tài sản là yếu tố chi phí tiêu dùng công, không trực tiếp thu hồi được phần
giá trị hao mòn của các tài sản trong quá trình sử dụng, mà phần lớn thu hồi giám
tiếp qua phí, lệ phí theo qui định của Nhà nước hoặc qua hiệu quả của các hoạt động
sự nghiệp phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội; chỉ một số tài sản công trực
tiếp sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, thì các tài sản đó là
những tư liệu sản xuất để tạo ra các sản phẩm dịch vụ công được tính vào giá thành
sản phẩm dịch vụ và thu hồi trực tiếp phần giá trị hao mòn của tài sản đó trong quá
trình sử dụng.
- Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phần lớn mang tính chất đặc thù theo
ngành, lĩnh vực sự nghiệp mà đơn vị đó hoạt động; cùng một loại tài sản nhưng có
đặc điểm kỹ thuật và đặc tính riêng để phục vụ cho từng loại hoạt động sự nghiệp
riêng theo ngành, lĩnh vực của đơn vị sự nghiệp thực hiện.
1.1.3.4. Vai trò của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
Tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận của tài sản quốc gia,
là tiềm lực phát triển đất nước như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã khẳng định:
“Tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế chung, để
làm cho dân giàu, nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân dân” trích dẫn lời chủ tịch
Hồ Chí minh với vấn đề tài chính của Nhà xuất bản sự thật năm 1989, trang 79. Vai
trò của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp được thể hiện trên các mặt sau:
- Tài sản công trước hết là điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động bộ máy
quản lý điều hành các đơn vị sự nghiệp. Các tài sản này là nhà đất thuộc trụ sở làm
việc, các phương tiện đi lại, máy móc thiết bị văn phòng trang bị cho bộ máy quản
lý điều hành đơn vị sự nghiệp. Hoạt động của bộ máy này không thể thiếu được
12
trong mỗi đơn vị sự nghiệp, vì bộ máy này không chỉ quyết định chương trình hoạt
động của đơn vị mà còn tổ chức các hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Muốn nâng
cao hiệu suất hoạt động của bộ máy này theo hướng tinh giản biên chế thì phải tăng
cường trang bị tài sản làm việc cho các bộ máy này cả về số lượng và chất lượng
của tài sản.
- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là nhân tố quan trọng trong quá trình tổ
chức thực hiện các hoạt động sự nghiệp, cung cấp các sản phẩm dịch vụ công với chất
lượng cao cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nước ta là nước nông
nghiệp tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với yêu cầu phải rút ngắn thời
gian, phải có bước nhảy vọt về công nghệ. Từ đó, tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII
Đảng ta đã khẳng định, chiến lược phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là
khâu đột phá để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là điều kiện vật chất để đào tạo con người
có tri thức, có năng lực khoa học và công nghệ mạnh. Để có con người có tri thức, có
năng lực khoa học để tiếp cận khoa học, công nghệ thế giới, đồng thời có lực lượng lao
động có trình độ kỹ thuật, phải từ phát triển các sự nghiệp giáo dục - đào tạo; như năm
1994 UNESCO đã khẳng định: “không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách
khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó”.
- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là điều kiện vật chất để nâng cao thể
chất và tinh thần cho con người lao động. Con người lao động hiện nay không chỉ
cần có tri thức, trình độ khoa học kỹ thuật mà còn phải có thể chất cường tráng, có
hiểu biết về văn hoá, tinh thần yêu nước. Để tạo cho con người đạt các yêu cầu này
phải bằng các hoạt động sự nghiệp phát triển trên cơ sở vật chất phục vụ cho các
hoạt động này được bảo đảm về số lượng và phù hợp với xu hướng phát triển khoa
học công nghệ.
- Tài sản công trong đơn vị sự nghiệp là điều kiện vật chất cần thiết để thực
hiện các công trình khoa học công nghệ và áp dụng các thành tựu khoa vào phát
triển kinh tế - xã hội. để thực hiện nghiên cứu và ứng dụng các công trình khoa học,
ngoài các nhà khoa học thì điều kiện không thể thiếu là cơ sở vật chất; cơ sở vật
chất này chính là yếu tố quan trọng đóng góp cho các hoạt động nghiên cứu, kết quả
và sự thành công của các công trình nghiên cứu khoa học.
13
1.2. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
1.2.1. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
Cơ chế quản tài sản công được hiểu là phương thức mà qua đó bộ máy quản
lý tác động vào khu vực tài sản công để kích thích, định hướng, hướng dẫn, tổ chức,
điều tiết tài sản công vận động đến các mục tiêu đã xác định. Cơ chế quản lý tài sản
công do chủ thể quản lý là Nhà nước hoạch định thông qua các quan hệ pháp lý, tổ
chức theo luật định. Về nguyên tắc, cơ chế quản lý tài sản công do bộ máy quản lý
soạn thảo và được quy chế hoá theo quy trình ban hành các văn bản qui phạm pháp
luật, sau đó chính bộ máy quản lý sử dụng và hoàn thiện để tác động vào đối tượng
quản lý là nền tài sản quốc gia. Cơ chế quản lý tài sản công là sản phẩm mang tính
chủ quan, nhưng đòi hỏi phải phù hợp với những đòi hỏi khách quan trong điều kiện
cụ thể; bản thân cơ chế quản lý tài sản công cũng là một hệ thống bao gồm hai bộ
phận cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, là hệ thống các mục tiêu của quản lý tài sản công. Đây là bộ phận
có tính quyết định sự vận hành của hệ thống hiệu qủa. Hệ thống các mục tiêu quản
lý tài sản công được đề ra căn cứ vào sự phân tích tổng hợp quan hệ tương tác giữa
mục tiêu và phương tiện, mục tiêu và nguồn lực.
- Thứ hai, là các công cụ quản lý (bao gồm cả chính sách), phương pháp,
phương tiện sử dụng để đạt mục tiêu đã đề ra, là bộ phận cốt yếu của cơ chế quản lý
tài sản công.
Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp chỉ là một bộ phận trong
cơ chế quản lý tài sản công nói chung. Hay nói khác đó chỉ là các phương thức mà
qua đó bộ máy quản lý tác động vào tài sản tại các đơn vị sự nghiệp để kích thích,
định hướng, hướng dẫn, tổ chức, điều tiết việc duy trì, phát triển, sử dụng, khai thác
và xử lý tài sản công trong các đơn vị hành chính sự nghiệp vận động đến các mục
tiêu đã xác định. Bộ phận cốt yếu của cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp là các công cụ quản lý (bao gồm cả chính sách), phương pháp, phương tiện
sử dụng để đạt mục tiêu quản lý.
1.2.2. Chức năng, tác dụng của cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự
14
nghiệp
1.2.2.1. Chức năng của cơ chế quản lý tài sản công
- Chức năng thông tin: Chức năng thông tin của cơ chế thể hiện ở chỗ nó
chứa đựng thông tin về chiến lược, chính sách, các quy tắc, quy định, khuôn khổ,
chuẩn mức,.. để cung cấp cho các đối tượng liên quan trong việc quản lý, sử dụng,
xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp.
- Chức năng định hướng, hướng dẫn hành vi quản lý tài sản công tại các đơn
vị sự nghiệp: Chức năng này thể hiện ở chỗ thông qua những nguyên tắc, qui tắc,
quy định, quy chế... thể hiện thông qua các văn bản qui phạm pháp luật được ban
hành để định hướng, hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan, tổ chức và cá
nhân thực hiện việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp; đồng thời để Nhà
nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản công tại các
đơn vị sự nghiệp. Tài sản công trong cơ quan sự nghiệp do Nhà nước trang cấp cho
các đơn vị sự nghiệp sử dụng; các đơn vị sự nghiệp được Nhà nước giao tài sản
công để trực tiếp quản lý sử dụng phục vụ cho hoạt động của đơn vị, chỉ có quyền
và trách nhiệm thực hiện đầu tư xây dựng, mua sắm trang bị, bảo quản duy trì, sử
dụng và xử lý bán, điều chuyển, thanh lý,.. theo đúng mục đích, hướng dẫn trong
những nguyên tắc, qui tắc, quy định, quy chế của Nhà nước đã qui định đối với tài
sản được Nhà nước giao.
- Chức năng tổ chức, điều tiết việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp: Chức năng này thể hiện ở bằng các qui định, hướng dẫn thông qua văn bản
qui phạm pháp luật và các biện pháp kinh tế kết hợp với biện pháp hành chính, Nhà
nước qui định việc tổ chức thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản công trong các đơn vị
hành chính sự nghiệp, việc sử dụng, việc xử lý bán, điều chuyển, thanh lý tài sản để
các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức và cá nhân có liên quan tổ chức thực
hiện. Đồng thời cũng điều tiết việc quản lý sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp cân đối, phù hợp với khả năng nguồn tài sản hiện có của Nhà nước, khả
năng của Ngân sách nhà nước; cân đối, phù hợp với tài sản công tại các lĩnh vực
khác, cũng như trong từng loại hình đơn vị sự nghiệp để bảo đảm phục vụ nhu cầu
công tác hoạt động của các đơn vị sự nghiệp vừa duy trì phát triển có hiệu quả và
tiết kiệm tài sản công.
15
- Chức năng pháp lý làm căn cứ, cơ sở cho việc quản lý tài sản công tại các
đơn vị sự nghiệp: Thể hiện ở chỗ, cơ chế tạo lập các chuẩn mực, các quy phạm để
làm căn cứ, cơ sở cho việc xây dựng qui chế, qui định quản lý sử dụng, kiểm tra
giám sát và xử lý vi phạm trong quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Bằng
thể chế quản lý bao gồm những quy tắc, qui định, quy chế,.. trong cơ chế quản lý,
được ban hành thông qua các văn bản qui phạm pháp luật, thiết lập nên các căn cứ,
cơ sở pháp lý cho việc huy động các nguồn tài sản, nguồn vốn để trang bị tài sản
công phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp; là căn cứ, cơ sở để thực hiện việc quản
lý, sử dụng, xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp từ khi hình thành đến quá
trình sử dụng và kết kết thúc; đồng thời đó cũng là công cụ pháp lý để các cơ quan
chức năng của nhà nước, tổ chức và nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc
quản lý sử dụng và xử lý những vi phạm trong việc quản lý sử dụng tài sản công
trong các đơn vị sự nghiệp.
1.2.2.2. Tác dụng của quy chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
- Củng cố vai trò của nhà nước trong việc thực hiện các chức năng phát triển
văn hóa xã hội và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Với cơ chế
quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp để phục vụ tốt cho các hoạt động sự
nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường, …, bảo đảm cơ sở vật
chất cho không chỉ bộ máy của các đơn vị sự nghiệp hoạt động mà còn bảo đảm cho
các hoạt động sự nghiệp do các đơn vị sự nghiệp đảm nhận thực hiện ngày càng
được nâng cao phục vụ ngày càng tốt hơn cho xã hội và mọi người dân; từ đó khẳng
định và thể hiện rõ vai trò của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do dân và vì
dân, củng cố vững chắc vai trò của nhà nước không chỉ là bộ máy quản lý xã hội,
mà còn là bộ máy phục vụ nhân dân, phục vụ lợi ích của toàn xã hội.
- Góp phần nâng cao cả về chất lượng và số lượng của các hoạt động sự
nghiệp phục vụ lợi ích chung của quốc gia, lợi ích công cộng. Với cơ chế quản lý tài
sản tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp, sẽ tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực
hiện có cho việc đầu tư tài sản tại các đơn vị sự nghiệp bảo đảm đáp ứng yêu cầu về
cơ sở vật chất để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo lập nên hệ thống
cơ sở vật chất hiện đại để phục vụ giáo dục, nghiên cứu khoa học, cải tạo môi
trường, phát triển văn hóa, thể thao,…;từ đó mở rộng các hoạt động sự nghiệp phục
16
vụ cho xã hội, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng và kết quả của các hoạt
động sự nghiệp.
- Phát huy và nâng cao hiệu quả của tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nói
riêng và tài sản công nói chung phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp định ra những
nguyên tắc, quy chế, qui định,.. trong việc sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
một cách phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả, hạn chế những thất thoát, lãng phí; bảo đảm cho
toàn bộ cơ sở vật chất trong các đơn vị sự nghiệp ngày càng phục vụ tốt cho công tác
của các đơn vị sự nghiệp, phục vụ tốt các hoạt động sự nghiệp với mức cao nhất; từ đó
góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản phục vụ cho các hoạt động sự
nghiệp và sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ngày càng cao.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp
1.2.3.1. Cơ chế thị trường
Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tức nền
kinh tế vận động và phát triển phải tuân theo các quy luật của thị trường, đồng thời
có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Các quy luật của thị trường không những chi
phối tác động trong nền kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác, trong đó
có lĩnh vực hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, cơ chế thị trường cũng là nhân tố ảnh
hưởng đến lĩnh vực hoạt động sự nghiệp và cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn
vị sự nghiệp. Nhân tố này ảnh hưởng đến các quy định trong cơ chế về trang bị, đầu
tư, mua sắm đến theo dõi quản lý tài sản hay xử lý tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp cũng phải được thể chế phù hợp với các quy luật cung cầu, quy luật giá trị,
Điều này thể hiện ở quy định đấu thầu trong đầu tư, xây dựng, xác định giá trị tài
sản tại đơn vị, định giá tài sản khi chuyển giao, đấu giá tài sản khi xử lý bán, thanh
lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đều phải bảo đảm thể hiện đúng giá trị của
tài sản theo giá thị trường, hay nói khác là phải thực hiện theo quy luật cung cầu,
quy luật giá trị,..
1.2.3.2. Chủ trương, chính sách phát triển hoạt động sự nghiệp của Đảng và
Chính phủ
Đây là nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành, xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện
17
cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Trên cơ sở chủ trương, chính sách
phát triển hoạt động sự nghiệp của Đảng và Chính phủ, các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển hoạt động sự nghiệp trong các lĩnh vực, khoa học, giáo dục, môi
trường, văn hóa, thể thao, .. và các mục tiêu phát triển hoạt động sự nghiệp được xác
định; từ đó cơ chế quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp sẽ phải xây dựng, sửa đổi,
hoàn thiện cho phù hợp để bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ công tác của các đơn vị sự
nghiệp, phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển hoạt động sự nghiệp và đạt được các mục tiêu đã đề ra.
1.2.3.3. Thể chế về quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến những nguyên tắc, quy chế, qui
định,.. trong cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Thể chế quản lý
về kinh tế, về tài chính và quản lý tài sản công qui định chuẩn mực hành vi của các
chủ thể tham gia trong hệ thống kinh tế, qui định trách nhiệm và thẩm quyền của
chủ thể quản lý về tài chính, tài sản và nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng quản lý.
Thể chế quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công qui định cái gì
được làm, cái gì không được làm, các gì làm phải có điều kiện; đồng thời cũng xác
lập các công cụ cưỡng chế, chế tài hành vi của các tổ chức, của các đơn vị trong
lĩnh vực kinh tế, tài chính, tài sản công. Thể chế quản lý tài sản công tại các đơn vị
sự nghiệp phải căn cứ các thể chế quản lý kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài
sản công để sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp; đồng thời lấy các thể chế quản lý
kinh tế, quản lý tài chính và quản lý tài sản công làm cơ sở để xây dựng, bổ sung và
thể chế để quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp.
1.2.3.4. Ý thức, năng lực của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý và các
đơn vị sự nghiệp
Đây là nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của cơ chế. Do cơ chế
quản lý do chủ thể quản lý hoạch định thông qua các quan hệ pháp lý, tổ chức theo
luật định; Về nguyên tắc, cơ chế quản lý do bộ máy quản lý soạn thảo và được quy
chế hoá theo quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tác động vào
đối tượng quản lý, cơ chế quản lý là sản phảm mang tính chủ quan, nhưng đòi hỏi
phải phù hợp với các đòi hỏi khách quan trong điều kiện cụ thể. Việc thực hiện cơ
chế cũng do các tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi chi phối của cơ chế và các đơn vị sự
18
nghiệp tổ chức thực hiện. Vì vậy, ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực chuyên
môn, v.v.. của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý, cơ quan soạn thảo
các văn bản quy phạm pháp luật để quy chế hoá cơ chế quản lý tài sản công tại các
đơn vị sự nghiệp và trong các đơn vị được giao chức năng quản lý, trong các đơn vị
sự nghiệp được giao tài sản trực tiếp quản lý sử dụng là nhân tố ảnh hưởng lớn đến
chất lượng của cơ chế và hiệu quả thực hiện cơ chế.
1.2.4. Thực trạng công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự
nghiệp
Theo báo cáo số 214/BC-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ gửi Quốc hội về
tình hình quản lý và sử dụng tài sản nhà nước tại các cơ quan, tổ chức tính đến ngày
31/12/2014:
1.2.4.1. Tổng quan về tài sản Nhà nước đến ngày 31/12/2014
Theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008, Bộ
Tài chính thực hiện tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị với 04 loại tài sản. Tiếp đó, để tăng cường công tác quản
lý tài sản phục vụ công tác quản lý của các dự án sử dụng vốn nhà nước (bao gồm
cả vốn ODA), Bộ Tài chính đã mở rộng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước
để quản lý tài sản của các Ban Quản lý dự án sử dụng vốn nhà nước thuộc các Bộ,
cơ quan trung ương và tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tại thời điểm hiện
nay, Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước đang theo dõi đối với 05 loại tài
sản gồm: (i) đất thuộc trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp; (ii) nhà thuộc trụ
sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp; (iii) xe ô tô các loại; (iv) tài sản khác có
nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên/1 đơn vị tài sản; (v) tài sản khác có nguyên giá
dưới 500 triệu đồng/1 đơn vị tài sản phục vụ hoạt động của các dự án sử dụng vốn
nhà nước.
Đến nay, Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước đã cập nhật thông tin về
tài sản nhà nước của 104.011 đơn vị; trong đó có 88.199 đơn vị có tài sản thuộc 05
loại nêu trên (chưa bao gồm tài sản nhà nước tại các đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân, các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài) và đã thực hiện việc kê khai đăng
ký vào Cơ sở dữ liệu, số đơn vị còn lại không có tài sản thuộc đối tượng phải kê
khai đăng ký. Số liệu tổng hợp về tài sản nhà nước thể hiện trong Cơ sở dữ liệu
19
quốc gia đến ngày 31/12/2014 như sau:
1.2.4.1.1. Tổng hợp tài sản nhà nước tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị
Tổng giá trị tài sản nhà nước tại cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước
đến ngày 31/12/2014 là 999.692,08 tỷ đồng; trong đó: tài sản là quyền sử dụng
đất: 692.372,26 tỷ đồng, tài sản là nhà: 240.641,96 tỷ đồng, tài sản là ô
tô: 20.623,27 tỷ đồng, tài sản khác có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên/01 đơn vị
tài sản: 45.911,83tỷ đồng; tài sản khác có nguyên giá dưới 500 triệu đồng của các
dự án sử dụng vốn nhà nước: 142,76 tỷ đồng
Phân theo cấp quản lý: tài sản nhà nước thuộc các Bộ, cơ quan trung ương
quản lý là: 263.440,20 tỷ đồng, tài sản nhà nước thuộc địa phương quản lý
là 736.251,88 tỷ đồng.
Trong toàn bộ tài sản nhà nước tại cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước
thì tài sản nhà nước do địa phương quản lý chiếm 73,65% về giá trị và 87,56% về
số lượng; tài sản nhà nước do Trung ương quản lý chiếm 26,35% về giá trị và
12,44% về số lượng.
1.2.4.1.2. Cơ cấu tài sản nhà nước tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị
Xét về tổng thể (cả hiện vật và giá trị), cơ cấu tài sản nhà nước của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị quản lý như sau: Khối các đơn vị sự nghiệp sử dụng nhiều tài
sản nhà nước nhất, chiếm 63,82% tổng số hiện vật và 69,08% tổng giá trị; khối các
cơ quan nhà nước đứng vị trí thứ hai với 32,28% tổng số hiện vật và 26,98% tổng
giá trị; khối các tổ chức đứng thứ ba với 2,78% tổng số hiện vật và 3,66% tổng giá
trị; và khối các Ban quản lý dự án chiếm tỷ trọng thấp nhất: 1,12% về hiện vật và
0,28% về giá trị.
Phân tích chi tiết theo loại tài sản, tài sản nhà nước được phân bổ cụ thể như
sau:
Về đất: (i) Khối cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng 174,97 triệu m 2, chiếm
7,08%; (ii) Khối đơn vị sự nghiệp quản lý, sử dụng 2.284,48 triệu m 2, chiếm
92,36%; (iii) Khối các tổ chức quản lý, sử dụng 13,62 triệu m 2, chiếm 0,55%; (iv)
Khối các Ban quản lý dự án quản lý, sử dụng là 0,28 triệu m2, chiếm 0,01%;
Về nhà: (i) Khối cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng 30,88 triệu m 2, chiếm
24,33%; (ii) Khối đơn vị sự nghiệp quản lý, sử dụng 92,50 triệu m 2, chiếm 72,87%;
20
(iii) Khối các tổ chức quản lý, sử dụng 3,51 triệu m 2, chiếm 2,76%; (iv) Khối các
Ban quản lý dự án quản lý, sử dụng là 0,04 triệu m2, chiếm 0,04%;
Về ô tô: (i) Khối cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng 16.482 chiếc, chiếm
44,67%; (ii) Khối đơn vị sự nghiệp quản lý, sử dụng 15.651 chiếc, chiếm 42,42%;
(iii) Khối các tổ chức quản lý, sử dụng 4.609 chiếc, chiếm 12,49%; (iv) Khối các
Ban quản lý dự án quản lý, sử dụng là 155 chiếc, chiếm 0,42%;
Về tài sản khác có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên/01 đơn vị tài sản: (i)
Khối cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng 4.294 tài sản, chiếm 19,70%; (ii) Khối đơn
vị sự nghiệp quản lý, sử dụng 17.294 tài sản, chiếm 79,32%; (iii) Khối các tổ chức
quản lý, sử dụng 153 tài sản, chiếm 0,70%; (iv) Khối các Ban quản lý dự án quản
lý, sử dụng là 60 tài sản, chiếm 0,28%;
Về tài sản khác có nguyên giá dưới 500 triệu đồng của các dự án sử dụng
vốn nhà nước: số lượng là 5.076 tài sản.
1.2.4.2. Biến động về tài sản Nhà nước năm 2014
Năm 2014 là năm các cơ quan nhà nước tích cực triển khai kế hoạch thực thi
Hiến pháp, chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh và Nghị quyết số 67/2013/QH13
ngày 29/11/2013 của Quốc hội về việc tăng cường công tác triển khai thi hành luật,
pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và ban hành văn
bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Nhiều văn bản liên quan đến lĩnh vực
quản lý tài sản công được ban hành như: Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh
bất động sản, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Đầu tư công, các Nghị
định hướng dẫn Luật Đất đai, Luật Đấu thầu. Bên cạnh đó, thực hiện các giải pháp
chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm 2014, đẩy
mạnh thực hiện Chương trình hành động về phòng chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm, tăng cường quản lý kinh tế, ngân sách nhà nước và tài sản
công, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02 tháng 01 năm
2014 trong đó việc chi tiêu công cho xây dựng, mua sắm tài sản được hạn chế tối
đa, chỉ mua sắm, trang bị trong những trường hợp cần thiết; thực hiện mua sắm,
quản lý công khai, minh bạch và đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người
đứng đầu, do vậy, biến động tăng tài sản nhà nước năm 2014 chủ yếu là tăng đối
với những tài sản nhà nước thực sự cấp thiết phải mua sắm như xe ô tô chuyên
21
dùng, tài sản thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục,…
Tổng giá trị tài sản nhà nước (theo nguyên giá) tăng trong năm 2014
là 26.481,18 tỷ đồng. Trong đó: tài sản là quyền sử dụng đất tăng 11.190,74 tỷ
đồng; tài sản là nhà tăng 11.187,54 tỷ đồng; tài sản là ô tô tăng 1.046,52 tỷ đồng; tài
sản khác có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên tăng 3.031,14 tỷ đồng; tài sản khác
có nguyên giá dưới 500 triệu đồng của các dự án sử dụng vốn nhà
nước tăng 25,24 tỷ đồng.
Tổng giá trị tài sản nhà nước (theo nguyên giá) giảm trong năm 2014
là 3.069,25 tỷ đồng. Trong đó: tài sản là quyền sử dụng đất giảm 1.388,02 tỷ đồng;
tài sản là nhà giảm 657,13 tỷ đồng; tài sản là ô tô giảm 582,41 tỷ đồng; tài sản khác
có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên giảm 441,69 tỷ đồng.
Cơ cấu biến động, phân theo cấp quản lý năm 2014: tài sản nhà nước thuộc các
Bộ, cơ quan trung ương quản lý tăng 16.251,24 tỷ đồng, giảm 1.431,78 tỷ đồng; tài sản
Nhà nước thuộc địa phương quản lý tăng 10.229,94 tỷ đồng, giảm 1.637,47 tỷ đồng.
1.2.4.2.1. Tài sản là đất
Năm 2014, diện tích đất do được giao mới, do tiếp nhận, nhận chuyển
nhượng tăng 66,40 triệu m2 với tổng giá trị 11.190,74 tỷ đồng. Trong đó: khối
Trung ương tăng 0,65 triệu m2 với tổng giá trị 8.226,74 tỷ đồng; khối địa phương
tăng 65,75 triệu m2 với tổng giá trị 2.964,00 tỷ đồng.
Diện tích đất giảm do thu hồi, điều chuyển, chuyển nhượng là 67,22 triệu
m2 với tổng giá trị 1.388,02 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương giảm 0,24triệu
m2 với tổng giá trị 590,81 tỷ đồng; khối địa phương giảm 66,99 triệu m2 với tổng
giá trị 797,21 tỷ đồng.
Tổng quỹ đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng đến
31/12/2014 là 2.473,36 triệu m2 với tổng giá trị 692.372,26 tỷ đồng, chiếm69,26%
tổng giá trị toàn bộ tài sản Nhà nước.
1.2.4.2.2. Tài sản là nhà
Năm 2014, diện tích nhà tăng (do xây dựng mới, tiếp nhận) là 6,73 triệu
m2 với tổng nguyên giá 11.187,54 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương
tăng2,37 triệu m2 với tổng nguyên giá 5.999,01 tỷ đồng; khối Địa phương
tăng 4,36 triệu m2 với tổng nguyên giá 5.188,53 tỷ đồng.
22
Diện tích nhà giảm do thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý là 0,42 triệu m2 với
tổng nguyên giá 657,13 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương giảm 0,08triệu m2 với
tổng nguyên giá 198,90 tỷ đồng; khối Địa phương giảm 0,34 triệu m2 với tổng
nguyên giá 458,23 tỷ đồng.
Tổng Quỹ nhà do các cơ quan, tổ chức, đơn vị hiện đang quản lý, sử dụng
đến 31/12/2014 là 126,93 triệu m2 với tổng nguyên giá theo sổ kế toán
là240.641,96 tỷ đồng chiếm 24,07% tổng giá trị toàn bộ tài sản nhà nước, tổng giá
trị còn lại theo sổ kế toán là 134.477,65 tỷ đồng (bằng 55,88% tổng nguyên giá).
1.2.4.2.3. Tài sản là xe ô tô
Năm 2014, số xe ô tô công tăng (mua mới, tiếp nhận) là 1.142 chiếc với tổng
nguyên giá 1.046,52 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương tăng 288chiếc với tổng
nguyên giá 399,07 tỷ đồng; khối Địa phương tăng 854 chiếc với tổng giá
trị 647,45 tỷ đồng.
Số xe ô tô công giảm do thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý, tiêu hủy
là 1.023 chiếc với tổng nguyên giá 582,41 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương
giảm 301 chiếc với tổng nguyên giá 289,42 tỷ đồng; khối Địa phương
giảm 722 chiếc với tổng nguyên giá 292,99 tỷ đồng.
Trong tổng số 1.142 xe ô tô công tăng của năm 2014 thì có 635 xe tăng do
việc tiếp nhận, điều chuyển giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị với tổng nguyên giá
là 573,86 tỷ đồng; mua mới là 507 xe với tổng nguyên giá là 472,66 tỷ đồng. Trong
đó: Xe phục vụ chức danh tăng: 23 xe; xe phục vụ công tác chung tăng 602 xe; xe
chuyên dùng tăng 517 xe.
Tổng số xe ô tô công hiện có 36.897 chiếc với tổng nguyên giá 20.623,27 tỷ
đồng chiếm 2,07% tổng giá trị tài sản nhà nước, chi tiết như sau:
- Phân theo đối tượng phục vụ
Xe ô tô công được phân bổ theo 3 nhóm đối tượng phục vụ, gồm: Xe phục
vụ chức danh, xe phục vụ công tác chung và xe chuyên dùng. Cụ thể như sau:
+ Xe phục vụ chức danh 872 chiếc, chiếm 2,36% tổng số xe với nguyên giá
804,68 tỷ đồng, chiếm 3,9% tổng nguyên giá và giá trị còn lại 331,53 tỷ đồng,
chiếm 5,58% tổng giá trị còn lại.
+ Xe phục vụ công tác chung 24.460 chiếc, chiếm 66,29% tổng số xe với
23
nguyên giá 13.247,66 tỷ đồng, chiếm 64,24% tổng nguyên giá và giá trị còn lại
3.123,61 tỷ đồng, chiếm 52,59% tổng giá trị còn lại. Trong đó, loại xe 4 - 5 chỗ có
số lượng nhiều nhất với 12.096 chiếc, chiếm 32,78% tổng số xe; loại xe 6 - 8 chỗ
8.533 chiếc, chiếm 23,13% tổng số xe.
+ Xe chuyên dùng 11.565 chiếc, chiếm 31,35% tổng số xe với nguyên giá
6.570,93 tỷ đồng, chiếm 31,86% tổng nguyên giá và giá trị còn lại 2.484,35 tỷ
đồng, chiếm 41,83% tổng giá trị còn lại. Trong đó, xe cứu thương là 2.493 chiếc,
xe tập lái là 2.127 chiếc, xe tải là 1.379 chiếc, xe chuyên dùng khác là 5.566 chiếc.
- Về chất lượng xe
Quỹ xe ô tô công hiện nay có tổng giá trị còn lại theo sổ kế toán 5.939,49 tỷ
đồng, bằng 28,80% tổng nguyên giá. Điều này cho thấy phần lớn xe ô tô công đã sử
dụng trên 2/3 thời gian theo chế độ quy định (2). Cụ thể đến thời điểm báo cáo, số xe
ô tô công đã sử dụng trên 15 năm (quá thời gian tính hao mòn) là 7.183 chiếc,
chiếm 19,47 % tổng quỹ xe công; trong đó: xe phục vụ chức danh: 59 chiếc, chiếm
6,77% trong tổng số xe phục vụ chức danh; xe phục vụ công tác chung: 5.309 chiếc,
chiếm 21,7% tổng số xe phục vụ công tác chung; xe chuyên dùng: 1.815 chiếc,
chiếm 15,69% tổng số xe chuyên dùng.
1.2.4.2.4. Tài sản khác có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên
Trong năm 2014, số tài sản này tăng (do mua mới, tiếp nhận) là 1.582 tài sản
với tổng giá trị 3.031,14 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương tăng 856 tài sản với
tổng giá trị 1.619,67 tỷ đồng; khối địa phương tăng 726 tài sản với tổng giá trị
1.411,47 tỷ đồng.
Số tài sản giảm do bị thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý, tiêu hủy 218 tài sản
với tổng giá trị 441,69 tỷ đồng. Trong đó: khối Trung ương giảm 190 tài sản với
tổng giá trị 352,65 tỷ đồng; khối địa phương giảm 28 tài sản với tổng giá trị
89,04 tỷ đồng.
Tổng số tài sản khác có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên hiện có là 21.801 tài
sản với tổng nguyên giá 45.911,83 tỷ đồng, chiếm 4,59% tổng giá trị tài sản.
1.2.4.2.5. Tài sản khác có nguyên giá dưới 500 triệu đồng của các Dự án sử
dụng vốn nhà nước
Trong năm 2014, số tài sản này tăng (do mua mới, tiếp nhận) là 995 tài sản
24
với tổng giá trị 25,24 tỷ đồng. Trong đó, khối trung ương tăng 355 tài sản với tổng
giá trị 6,75 tỷ đồng; khối địa phương tăng 640 tài sản với tổng giá trị 18,49 tỷ đồng.
Tổng số tài sản khác có nguyên giá dưới 500 triệu đồng của các dự án sử
dụng vốn nhà nước hiện có là 5.076 tài sản với tổng nguyên giá là 142,76 tỷ đồng,
chiếm 0,02% tổng giá trị tài sản nhà nước.
1.2.4.3. Hạn chế công tác quản lý tài sản công của các đơn vị hành chính sự
nghiệp
Báo cáo chính phủ cũng nhận định: Sau một thời gian triển khai thực hiện
luật quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước năm 2008 đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế
cần khắc phục để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý tài sản nhà nước trong
tình hình mới.
Phạm vi điều chỉnh của Luật còn hẹp, chưa bao quát hết các loại tài sản Nhà
nước, mới chỉ một nhóm là tài sản nhà nước thuộc khu vực hành chính sự nghiệp đã
hạn chế hiệu quả, hiệu lực trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Sự phân định
giữa chức năng quản lý Nhà nước và dịch vụ công trong quản lý, sử dụng tài sản
nhà nước chưa thực sự rõ ràng, cụ thể nên các bộ, ngành, chính quyền địa phương
vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý, vừa thực hiện các nghiệp vụ mang tính chất dịch
vụ như tổ chức bán, thanh lý, mua sắm tài sản...
Cơ chế quản lý, sử dụng tài srn tại đơn vị sự nghiệp công lậpchưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn. Việc sử dụng tài sản công ở một số nơi còn lãng phí, không
đạt được mục tiêu đầu tư. Tình trạng đầu tư xây dựng quảng trường, trung tâm hội
nghị, nhà văn hoá, cảng biển của một số địa phương vượt quá nhu cầu cần thiết, tần
suất sử dụng thấp, kinh phí bảo dưỡng, duy trì lớn, trong khi ngân sách nhà nước
đang rất khó khăn, chưa phù hợp với thực tiễn, gây lãng phí.
Cơ chế giao vốn cho các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và cho
phép các đơn vị này sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh
dịch vụ, cho thuê, liên doanh liên kết, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước, khai thác có hiệu quả nguồn lực có sẵn từ tài sản nhà
nước gắn với việc huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển dịch vụ sự
nghiệp công lập là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, về
mặt tổng thể việc xác định tài sản giao vốn cho đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính
25