NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CSSKSS
Chăm sóc sức khoẻ sinh sản
BCSK
Biến chứng sản khoa
LMAT
Làm mẹ an toàn
CSSS
Chăm sóc sau sinh
KHHGĐ
Kế hoạch hóa gia đình
TYT
Trạm y tế
UNICEF
United Nations Children’s Fund
WHO
World Health Orgnization
WB
World Bank
UNFPA
Fund United Nations Population
CHDCND LÀO
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
MỤC LỤC
Trang
3
ĐẶT VẤN ĐÊ
Mang thai và sinh con là thiên chức tự nhiên, là niềm vui và hạnh phúc
của mỗi phụ nữ. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo tiềm ẩn về các biến chứng sản
khoa có thể xảy ra. Biến chứng sản khoa là những biến chứng gặp trong các
giai đoạn mang thai, chuyển dạ và trong thời kì hậu sản. Các biến chứng sản
khoa thường gặp là chảy máu sau sinh, nhiễm khuẩn, nhiễm độc thai nghén…
Hiện nay trên thế giới có khoảng 1,5 tỷ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ với hơn
200 triệu phụ nữ mang thai và sinh con hàng năm. Có 40% trong đó có những biến
chứng liên quan đến thai nghén và sinh đẻ, 15% có những biến chứng đe dọa đến
tính mạng mẹ và con cần được chăm sóc. [50], [52]
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trên thế giới trung bình cứ
mỗi phút có một phụ nữ tử vong do các biến chứng liên quan đến thai nghén và sinh
nở, tức là có khoảng 1600 phụ nữ tử vong mỗi ngày và hơn nửa triệu phụ nữ chết
hàng năm do các nguyên nhân trên. Đáng chú ý là 99% các trường hợp tử vong mẹ
có khoảng 20 trường hợp phụ nữ mắc các biến chứng nhiễm trùng, chấn thương và
bệnh tật liên quan đến thai nghén, tương đương với 10 triệu ca mỗi năm [51].
Chăm sóc trước sinh có tác dụng phát hiện, điều trị và phòng tránh được một
số bệnh có tính chất mãn tính (thiếu máu, sốt rét, cao huyết áp…). Chăm sóc trước
sinh đặc biệt có hiệu quả với sức khỏe bà mẹ và thai nhi ở các nước đang phát triển.
Một nghiên cứu về 718 trường hợp tử vong mẹ tại Ai Cập cho thấy 92% trong số
những trường hợp trên có thể tránh được nếu chăm sóc bà mẹ có chất lượng [52]. Ở
Việt Nam tỷ suất tử vong mẹ ở mức khá cao 165/100.000 trẻ đẻ sống và tỷ lệ này
cao hơn ở miền trung và miền núi phía bắc. Có sự chệnh lệch về sức khỏe bà mẹ
giữa người giàu, nghèo; giữa vùng núi và vùng đồng bằng; giữa các dân tộc kinh và
dân tộc thiểu số và thay đổi theo từng vùng nghiên cứu. Tử vong mẹ xảy ra trước
sinh chiếm đến 25% và phần lớn các trường hợp này đều có thể phòng tránh được
thông qua việc thực hiền tốt chăm sóc trước sinh [46].
Lào là một nước đang phát triển có số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cao. Theo
số liệu thống kê của Bộ Y tế năm 1995, tỷ lệ tử vong mẹ ở Lào là 405/100.000 trẻ
sinh ra sống , nghĩa là có mẹ tử vong khoảng 800 người/năm hay là mẹ tử vong 2
4
người/ngày, Bộ Y tế năm 2012, tỷ lệ tử vong mẹ ở Lào là 357/100.000 trẻ. Còn
theo ước tính của Quỹ Nhi đồngLiên hiệp quốc (UNICEF) năm 2000 tỷ lệ tử vong
mẹ ở Việt Nam là130/100.000 trẻ sinh ra sống [28]. Nguyên nhân chính gây ra tử
vong mẹ ở Lào là do các tai biến sản khoa.Theo báo cáo trung tâm chăm sóc sức
khoẻ bà mẹ và trẻ em trong năm 2006, số bà mẹ tửvong trong bệnh viện chỉ là 51
người có báo cáo, nó cho thấy rằng nhiều hơn 90% số lượng bà mẹ tử vong tại nhà
không được cung cấp dịch vụ y tế.Tử vong và tàn tật của mẹ thì có rất nhiều và có
thể phòng ngừa được theo dịch vụ sức khoẻ sinh sản cho mẹ trước khi mang thai và
sau khi sinh, phải chăm sóc mẹ kịp thời khi có biến chứng.
Ở nước Lào chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.Tình hình mắc và tử vong do tai
biến sản khoa ở Lào trong những năm qua giảm không đáng kể. Do vậy, nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản là một trong những mục tiêu được ngành y
tế và toàn xã hội quan tâm. Trongđó hệ thống y tế có vai trò quyết định trong việc
quản lý, theo dõi, phòng bệnh cũng như chẩn đoán và điều trị các khi các tai biến
sản khoa xảy ra.
Tỉnh Aăttapư là tỉnh miền Nam của Nước Lào và tỷ tệ mẹ đã sinh đẻ tại các
bệnh viện và trạm thì còn thấp là 1,011 người/năm,chiếm tỷ lệ 18%, thấp hơn mục
tiêu đề ra của Bộ Y tế là 30%. Một số nguyên nhân thường gặp:
- Nhân viên y tế còn thiếu, Việc trang bị các kiến thức và kỹ năng về quản lý
và chăm sóc thai sản còn nhiều yếu kém.
- Sự nhận thức, sự hiểu biết của người nhân dân cũng như người mang thai
còn vẫn thấp đặc biết ở các lĩnh vực vùng sâu vùng xa, họ không nhận được thông
tin đầy đủ.
- Phụ nữ mang thai hoặc gia đình của họ không mong muốn thai phụ đi
khám thai hoặc sinh đẻ ở dịch vụ tại bệnh viện hay là trạm y tế do còn mang nặng
phong tục truyền thống cũ.
- Vị trí địa lý không thuận lợi khiến việc di chuyển khó khăn khi đến các
trạm y tế hay bệnh viện.
5
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:“ Nghiên cứu
tình hình chăm sóc trước sinh của các bà mẹ ở Huyện Saysêttha Tỉnh Aăttapư / Lào
với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng chăm sóc trước sinh của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình hình chăm sóc trước sinh của bà
mẹ năm 2016.
6
Chương 1
TỔNG QUAN
1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TỈNH ATTAPEU – CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO
1.1. Đặc điểm chung
Attapư nằm ở phía đông nam của nước CHDCDN Lào , có diện tích tự nhiên
10.320 km2. Dân số 143.944 người, nữ 71.154 người, với 27.094 hộ, mật độ dân số
là 13 người /km2,tỷ lệ tăng của dân số là 2,0 % , có 11 dân tộc cùng sinh sống trong
đó dân tộc Lào chiếm 36,9%, các dân tộc khác chiếm 63,1%. Tỉnh có 5 đơn vị hành
chính cấp huyện
với 147 làng, trong đó có 3 huyện nghèo: Huyện Xanxay,
Phuvông và Sanamxay .Có 69 làng nghèo và 37 làng thoát nghèo .
1.2. Tình hình chung ngành y tế tỉnh Attapeu
Cán bộ y tế cấp tỉnh thuộc sở y tế có 72 người.
Bác sỹ, y tá làm việc tại bệnh viện cấp tỉnh có 110 người.
Trung tâm đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có 10 người.
Cán bộ y tế cấp huyện và cả trạm y tế có 274 người.
Tỷ lệ phân phối cán bộ y tế cấp tỉnh là 39,5 %
Tỷ lệ phân phối cán bộ y tế cấp huyện là42,3 %
Tỷ lệ phân bố cán bộ y tế ở cấp trạm là18,2 %
Cấp tỉnh có 1 bệnh viện với 100 giường bệnh, cấp huyện có 4 bệnh viện với
80 giường bệnh, ngoài ra còn có 1 bệnh viện quân đội với 20 giường bệnh và 32
trạm y tế xã.
1.3. Đặc điểm chung tại địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Huyện Saysêtha, phía miền đông của tỉnh
Attapu/ Lào. Dân số 33.422 người trong đó 16.835 phụ nữ, số trẻ dưới 1 tuổi là 977,
số phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi có chồng là 6.858 người, Số phụ nữ có thai là 1.068
người. Thu nhập chủ yếu dựa vào ngư nghiệp. Địa hình phức tạp gồm 2 xã thuộc khu
vực miền núi và 32 xã thuộc khu vực đồng bằng. Điều kiện giao thông từ các xã đên
trung tâm huyện không gặp nhiều khó khăn.
7
2. CHƯƠNG TRÌNH LÀM MẸ AN TOÀN
2.1. Lịch sử phát triển
Vào năm 1987, lần đầu tiên một hội thảo quốc tế về làm mẹ an toàn được tổ
chức tại Nairobi, Kenya. Chủ đề hội nghị là kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng sức
khỏe trên thế giới về tử vong mẹ trong thai kỳ và khi sinh đẻ. Một hội thảo quốc tế
quan trọng thứ hai tổ chức năm 1990 là hội nghị thượng đỉnh quốc tế về trẻ em tài
trợ bởi Liên Hiệp Quốc và tổ chức UNICEF. Trong tuyên bối và kế hoạch hành
động của hội nghị thượng đỉnh này, một trong bảy mục tiêu là giảm tỷ lệ tử vong
mẹ xuống một nửa trong thời gian giữa năm 1990 và 2000. Mục tiêu này một lần
nữa được nhấn mạnh trong hội thảo quốc tế về dân số và phát triển tổ chức tại
Cairo, Ai cập năm 1994. Sau đó vào ngày 7 tháng 4 năm 1998 Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đã chọn chủ đề làm mẹ an toàn để triển khai các chương trình hành động
trên toàn cầu mục đích vì sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em tên toàn thế giới [27], [35].
2.2. Nội dung chương trình làm mẹ an toàn.
Chương trình làm mẹ an toàn triển khai khắp nơi trên toàn thế giới với những
mục tiêu cụ thể như sau: [33], [34]
- Giáo dục cộng đồng về làm mẹ an toàn
- Chăm sóc trước sinh, tư vấn kèm theo giáo dục về dinh dưỡng cho bà mẹ
- Đỡ sinh với kỹ năng tốt
- Chăm sóc các biến chứng của nạo hút thai, chăm sóc sau khi nạo thai
- Tư vấn kế hoạch hóa gia đình, thông tin về các dịch vụ
- Giáo dục các dịch vụ sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên
3. CHĂM SÓC TRƯỚC SINH
Theo chuẩn quốc gia về sức khỏe sinh sản của Bộ Y tế quy định, nội dung
chăm sóc trước sinh bao gồm: khám thai, tiêm phòng uốn ván, tư vấn chế độ
dinh dưỡng, uống viên sắt phòng thiếu máu, chế độ lao động nghỉ ngơi hợp lý.
Khám thai
Khám thai làm một việc hết sức quan trọng trong thời kỳ thai nghén. ở giai
đoạn này có thể có những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến những vấn đề sức khỏe trầm
trọng như bệnh tật, tử vong mà bất kỳ phụ nữ nào cũng có thế mắc phải trong thời
8
kỳ mang thai. ở Việt nam theo quy định của Bộ Y tế trong thời kỳ thai nghén phụ
nữ mang thai phải khám thai ít nhất 4 lần vào 4 giai đoạn: giai đoại 1 là mang thai
được 4 tháng, giai đoại 2 mang thai được 6-7 tháng, giai đoại 3 mang thai được 8
tháng, giai đoại 4 mang thai được 9 tháng . Khám thai định kỳ để theo dõi sự phát
triển của thai và phát hiện những nguy cơ cho cả thai nhi và bà mẹ. Khám thai còn
bao gồm tư vấn sức khỏe, nuôi con bằng sữa mẹ, chăm sóc trẻ sơ sinh, các biện phát
kế hoạch hóa gia đình và hướng dẫn chọn nơi sinh an toàn nhất. Trong mỗi lần
khám thai cán bộ y tế phải tuân thủ các bước như sau [40]:
Bước 1: Hỏi
Cán bộ y tế hỏi các thông tin về cá nhân, về tình trạng sức khỏe, về tiền sử
gia đình, hoạt động tình dục, về tiền sử kinh nguyệt, tiền sử sản khoa, sử dụng các
biện pháp tránh thai trước khi có thai lần này. Ở 3 tháng giữa, cán bộ y tê hỏi thêm
về các dấu hiệu thai máy, thai đạp và các dấu hiệu sụt bụng.
Bước 2: Khám toàn thân
Đo chiều cao, cân nặng, kiểm tra mạch, huyết áp, khám phù, khám da, niêm
mạc, khám vú và nghe tim phổi.
Bước 3: Khám sản khoa
Nắn bụng tìm đáy tử cung. Đặt mỏ vịt quan sát khi có chỉ định. Chỉ khám âm
đạo khi thấy dấu hiệu bất thường. Khi thai ở giai đoạn 3 tháng giữa, cán bộ y tế cần
đo chiều cao tử cung, nghe tim thai; ở giai đoạn 3 tháng cuối, cán bộ y tế đo thêm
vòng bụng, xác định ngôi thai và số lượng thai.
Bước 4: Xét nghiệm
Một số xét nghiệm cơ bản khi phụ nữ mang thai cần làm đó là các xét nghiệm
máu (thử Hemoglobin, hematocrit, HIV, giang mai ở những nơi có đủ trang thiết bị) và
xét nghiệm nước tiểu (dùng que thử hoặc đốt nóng nước tiểu).
Bước 5: tiêm phòng uốn ván
Trong lần khám ở 3 tháng đầu, cán bộ y tế sẽ hẹn phụ nữ mang thai ngày
tiêm vào 3 tháng giữa chu kỳ thai nghén. Ở 3 tháng cuối, cán bộ y tế kiểm tra lại
xem bà mẹ đã tiêm đủ mũi theo quy định chưa.
Bước 6: Cung cấp viên sắt
Cung cấp viên sắt càng sớm càng tốt khi biết phụ nữ có thai cho đến khi sau
đẻ ít nhất 4 tuần, cán bộ y tế nên nhắc nhở bà mẹ uống viên sắt đều đặn và thường
xuyên trong những lần khám thai. Ở những vùng có sốt rét lưu hành cán bộ y tế
cung cấp thuốc phòng sốt rét khi cần thiết.
9
Bước 7: Hướng dẫn bà mẹ vệ sinh thai nghén
Cán bộ y tế hướng dẫn bà mẹ chế độ ăn uống, lao động nghỉ ngơi hợp lý,
mặc quần áo thoáng, hợp vệ sinh trong suốt quá trình mang thai.
Bước 8: Ghi chép
Sau mỗi lần khám, cán bộ y tế phải ghi phiếu, vào sổ, điền bảng quản lý
thai nghén.
Bước 9: Thông báo kết quả
Thông báo kết quả khám với bà mẹ, dặn dò và hẹn đến cơ sở y tế gần nhất
khi cần thiết.
Tiêm phòng uốn ván
Bệnh uốn ván là một trong năm tai biến sản khoa thường gặp trước đây. Đây
là bệnh nặng, có tỷ lệ tử vong cao cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Để dự phòng tai biến
này khi có thai các thai phụ cần đi khám thai sớm và khám thai định kỳ đủ 3 lần.
Thông qua khám thai cán bộ y tế sẽ tiêm phòng uốn van cho thai phụ đồng thời
kiểm tra xem việc tiêm phòng uốn ván có đầy đủ hay không. Hiện nay chương trình
tiêm phòng uốn ván cho bà mẹ mang thai của bộ y tế quy định mỗi phụ nữ khi
mang thai thường tiêm đủ 2 mũi phòng uốn ván, đối với những phụ nữ có thai lần
thứ hai cách lần thứ nhất là 5 năm thì chỉ cần tiêm thêm 1 mũi hoặc có thai lần ba
cách lần hai là 3 năm thì cũng chỉ cân tiêm thêm 1 mũi là đủ. Tiêm mũi thứ nhất
càng sớm càng tốt khi biết có thai, mũi thứ hai cách mũi thứ nhất là 1 tháng và tối
thiểu trước khi sinh là 1 tháng.
Phòng chống thiếu máu cho bà mẹ mang thai
Trong suốt thời kỳ mang thai nhu cầu về sắt của bà mẹ tăng để cung cấp cho
thai nhi. Để phòng chống thiếu máu, bên cạnh việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng, chế
độ làm việc hợp lý, tất cả phụ nữ có thai cần uống thêm viên sắt/ axit folic. Việc dự
phòng thiếu máu trong khi mang thai không những đảm bảo sức khỏe cho bà mẹ và
phòng các tai biến sản khoa mà còn làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng bào thai (cân
nặng sơ sinh thấp) và giảm nguy cơ thiếu máu cũng như giảm suy dinh dưỡng cho
trẻ sau này. Nguyên tắc sử dụng viên sắt/axit folic là càng sớm càng tốt, ngày uống
1 viên trong suốt thời gian mang thai đến hết 1 tháng sau đẻ. Tối thiểu nên uống
trước đẻ 90 ngày và kéo dài sau đẻ 42 ngày. Nếu thai phụ có biểu hiện thiếu máu rõ
rệt có thể tăng liều dự phòng lên liều điều trị 2-3 viên / ngày. Việc tuân thủ theo chế
độ trên là rất quan trọng để dự phòng và điều trị thiếu máu.
10
Phòng chống thiếu dinh dưỡng cho bà mẹ khi mang thai
Trong thời kỳ mang thai, người phụ nữ phải ăn nhiều hơn để đảm bảo dinh
dưỡng cho chính họ và bản thấn đứa trẻ. Bà mẹ có dinh dưỡng tốt, cân nặng tăng từ
9-12kg trong suốt thai kỳ không những để đảm bảo bản thân bà mẹ khỏe mạnh, ít
phải can thiệp khi đẻ, phục hồi nhanh sau đẻ, đủ sữa cho con bú mà còn đảm bảo
cho đứa trẻ sinh ra đủ tháng, khỏe mạnh và phát triển tốt. Ngược lại nếu dinh dưỡng
kém bà mẹ thường có xu hướng dễ mắc bệnh, đứa trẻ chậm phát triển về thể lực và
trí tuệ. Nguyên tắc dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai là phối hợp đủ 4 nhóm thực
phẩm trong một bữa ăn (bột đường, chất đạm, chất béo, rau củ và trái cây), ăn nhiều
hơn bình thường cả về số lượng và chất lượng.
Chế độ làm việc, nghỉ ngơi khi bà mẹ mang thai
Chế độ làm việc và nghỉ ngơi không hợp lý trước khi sinh của các thai phụ là
một trong các yếu tố nguy cơ dẫn đến tình trạng đẻ non và cân nặng của trẻ thấp khi
sinh. Vì vậy, khi mang thai các bà mẹ cần thực hiện chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp
lý và duy trì cuộc sống thoải mái về tinh thần. Tránh lao động quá sức hoặc trong
điều kiện xấu như: làm việc trong điều kiện ô nhiễm, ngâm mình dưới nước, leo
trèo quá cao, thức quá khuya, dậy sớm và cần bảo đảm ngủ được ít nhất 8
tiếng/ngày…
4. TÌNH HÌNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN, CHĂM SÓC TRƯỚC
SINH TRÊN THẾ GIỚI VÀ LÀO
4.1. Tình hình CSSKSS và chăm sóc trước sinh trên thế giới
Việc mang thai và sinh đẻ là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tử
vong, bệnh tật và tàn phế đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở hầu hết các nước
đang phát triển, chiếm ít nhất 18% gánh nặng bệnh tật toàn cầu ở nhóm tuổi này,
nhiều hơn bất kỳ một vấn đề sức khỏe nào [53].
Tại những nước công nghiệp phát triển thì tỷ lệ phụ nữ chết do các tai biến
liên quan đến thai nghén hoặc sinh con ở Châu âu là 1/1400 và ở Bắc Mỹ là 1/3700.
Tuy nhiên ở nhiều vùng Châu phi, tỷ lệ phụ nữ chết do các tai biên liên quan đến
thai nghén hoặc sinh con là 1/16, ở Nam Á và Trung Á tỷ lệ này là 1/35, ở Châu Á
là 1/65, Châu Mỹ La tinh và vùng Caribe là 1/30 [51], [52].
11
Cứ một bà mẹ tử vong do thai sản thì có hàng trăm bà mẹ khác bị đau yếu,
mất sức lao động, bị tật nguyền hoặc bị những tổn thương sinh lý do những biến
chứng thai sản. Do nhận thấy tầm quan trọng về sức khỏe cho bà mẹ, năm 1987 Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ dân số
liên hợp quốc (UNPFA), Ngân hàng thế giới (WB) và Hội đồng dân số thế giới
(PC) đã đưa ra sáng kiến “Làm mẹ an toàn” với mục tiêu tăng cường nhận thức của
mọi người về tử vong mẹ và đưa ra các giải pháp nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong và
bệnh tật của người mẹ.
Theo tổ chức y tế thế giới, tỷ lệ phụ nữ có thai và khám thai ít nhất 1 lần trên
toàn thế giới trung bình là 68%, thấp nhất là Châu Phi (63%) và Châu Á (65%), tiếp
theo là Châu Mỹ La Tinh (73%), cao nhất là Bắc Mỹ (95%) và Châu Âu là 97%. Ở
các vùng nông thôn thì cứ 3 phụ nữ thì có 1 người sống xa cơ sở y tế nơi gần nhất
trên 5km. Nhìn chung ở các nước đang phát triển, chỉ có khoảng 65% phụ nữ có
thai được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc thai nghén so với 97% ở các nước phát
triển [33],[52].
Tử vong mẹ phản ánh tình trạng sức khỏe của phụ nữ, sự tiếp cận dịch vụ y tế
và chất lượng dịch vụ y tế được tiếp cận. Thế giới đang nỗ lực để làm giảm tỷ lệ tử
vong mẹ vì điều quan trọng nhất là một bà mẹ mất đi sẽ gây ra ảnh hưởng sâu sắc đến
sức khỏe và đời sống của những đứa con đang sống của họ. Những đứa trẻ của những
bà mẹ bị tử vong thì có nguy cơ bị tử vong trong năm đầu cao gấp 3 đến 10 lần so với
những đứa trẻ mà bố mẹ chúng sống và nuôi dưỡng chúng [33]. Mặt khác khi bà mẹ
không còn nữa, những đứa trẻ này không được chăm sóc và giáo dục chu đáo cho đến
khi không lớn. Các chế của người mẹ đã ảnh hưởng ngay lập tức đến đời sống gia
đình vì người mẹ có trách nhiệm nuôi dưỡng và hướng dẫn cho thế hệ mai sau, chăm
sóc cho những người già trong gia đình và cũng mất đi sự đóng góp của bản thân họ
cho cộng đồng và xã hội. Nếu mọi người nói chung và phụ nữ nói riêng, ai cũng hiểu
khám thai là cần thiến và người phụ nữ khi có thai được khám thai ít nhất 4 lần trong
một thai kỳ thì sẽ giảm nguy cơ tử vong cho bà mẹ.
Vai trò người cung cấp dịch vụ sản khoa là hết sức quan trọng để đảm bảo
làm mẹ an toàn. Những kiến thức và kinh nghiệm có sẵn của họ và thường xuyên
đào tạo lại nhằm mục đích nâng cao trình độ cũng như kỹ năng đỡ đẻ ngày càng
12
hoàn hảo để chăm sóc tốt trước sinh, thực hiện đỡ đẻ sạch, an toàn, phát hiện sớm
và xử trí những biến chứng sản khoa, đặc biệt là việc chuyển tuyến đến những cơ sở
chăm sóc thích hợp, kịp thời sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong mẹ. Hiện nay tỷ lệ phụ nữ
sinh con có cán bộ y tế giúp đỡ trên thế giới mới chỉ đạt 57%. Trong khi ở Bắc Mỹ
tỷ lệ này đạt 99%, ở Châu Âu đạt 98% hoặc ở Châu Mỹ La Tinh cũng đạt 75% thì ở
Châu Phi cũng chỉ đạt 42% phụ nữ sinh con có cán bộ y tế giúp đỡ, ở Châu Á chỉ
đạt 53% [33].
Năm 2006, tỷ lệ khám thai ít nhất 1 lần bình quân trên toàn thế giới là 80%.
Tỷ lệ này khác nhau giữa các vùng có thu nhập thấp và thu nhập cao. Đối với bộ
phận có thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ khám thai ít nhất 1 lần thấp nhất ở Đông
Á là 66%, Shara – Châu phi 72%, Trung Đông và Bắc Phi 76%, Tây Á và Thái
Bình Dương 89%, Châu Âu và Trung Á 91%, cao nhất là Châu Mỹ La Tinh và
Caribe 95%. Ở cấp độ quốc gia việc sử dụng dịch vụ này tại nhiều nước còn thấp
hơn nhiều như Somalia 26%, Pakistan 36%.[46]
Theo WHO, có khoảng 550.000 trẻ sơ sinh chết vì uốn ván rốn mỗi năm,
trong đó khoảng 220.000 trường hợp ở khu vực Đông Nam Á, chiếm 37% uốn ván
rốn trên thế giới. Theo bà Caroll Bellamy, giám đốc điều hành UNICEF, một trong
những nguyên nhân làm cho phụ nữ mang thai ít nhận được các dịch vụ chăm sóc
trước sinh là do những ưu điểm của nó chưa được nhấn mạnh và chịu ảnh hưởng
của trình độ văn hóa cũng như điều kiện kinh tế của bà mẹ.
13
4.2. Tình hình CSSKSS và chăm sóc trước sinh tại Lào
Tại Lào, mặc dù mặt bằng chung sức khỏe của nhân dân có xu hướng tốt
(năm 2000 tuổi thọ trung bình của Lào tăng lên đến 59 tuổi: nữ 61 và nam 57),
nhưng tử vong của bà mẹ và trẻ em vẫn cao so với các nước khác trong khu vực.
Với tỷ lệ sinh ở Lào là 5,6/1000, tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và tử vong bà mẹ tuy có
giảm nhưng không đáng kể và vẫn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (tử
vong của trẻ em dưới 1 tuổi: 2005 là 82/1000, 2007 là 72/1000; Tử vong mẹ là:
2005 là 530/100.000 trẻ đẻ sống , 2007 là 405/100.000 và 2012 là 357/100.000),
phần lớn các trường hợp tử vong có sự liên quan đến thời điểm mang thai hoặc sau
6 tuần sinh đẻ. Điều chắc chắn rằng thực tế sẽ cao hơn vì theo Tổ chức y tế thế giới
(WHO) thì tử vong mẹ theo nguyên nhân gây tử vong gián tiếp sẽ bỏ sót rất nhiều.
Khám thai là một biện pháp hết sức quan trọng. Ở Lào, theo qui định của Bộ
Y tế, trong một lần mang thai người phụ nữ cần được khám thai định kỳ ít nhất 4 lần.
Theo qui định của Bộ Y tế, trong một kỳ thai nghén người phụ nữ cần được khám
thai định kỳ ít nhất 4 lần ở 3 quý của thai kỳ. Bệnh uốn ván à một trong năm tai biến
sản khoa thường gặp, đây là một bệnh nặng, tỷ lệ tử vong cao cho mẹ và trẻ sơ sinh.
Để dự phòng tai biến này, khi có thai các thai phụ cần đi khám thai sớm và khám thai
định kỳ đủ 4 lần, qua khám thai cán bộ y tế sẽ giúp thai phụ tiêm phòng uốn ván,
đồng thời kiểm tra xem việc tiêm phòng uốn ván có được thực hiện đầy đủ không.
Sinh con tại cơ sở y tế nhà nước tại tỉnh Khăm Muồn và Chăm Pa Sắc chiếm
tỷ lệ 17,2%, tại tỉnh ở miền Bắc của Lào chiếm tỷ lệ 8,4%, và của một số trong
nước tại Thủ đô Viêng Chăn chiếm tỷ lệ 72%. Tại tỉnh Louang Nam Tha chọn nơi
sinh do tự quyết định chiếm tỷ lệ 55,4%, do chồng lựa chọn là 17,8% và do bố mẹ
lựa chọn chiếm 3,5%. Sinh con tại nhà tại tỉnh Khăm Muồn và Chăm Pa Sắc chiếm
68,1%, và tại tỉnh Louang Nam Tha chiếm tỷ lệ 90%. Tỷ lệ phụ nữ khám sau sinh
thấp hơn nhiều khi so sánh với tỷ lệ khám thai, dao động từ 1/4 (23,8%) cho đến 2/3
(70%) phụ thuộc từng tỉnh. Chất lượng của chăm sóc sau sinh cũng không đáp ứng
nhu cầu của bà mẹ. Chỉ 1/3 (31,0%) được khuyến khích đi khám thường xuyên
trong vòng 42 ngày sau đẻ. Một số lượng lớn phụ nữ sinh con tại nhà, với sự hỗ trợ
của các cá nhân không được đào tạo. Trong thời kỳ mang thai và sau khi sinh, phụ
nữ thấy rằng họ thường bị phù cẳng chân và bàn chân, sốt cao và xuất huyết.
14
Một số yếu tố kinh tế-xã hội được kể đến như học vấn thấp, tuổi trẻ, tín
ngưỡng (thiên chúa giáo), dân tộc thiểu số và thu nhập thấp của bà mẹ có tác động
rõ rệt đến các thực hành sau sinh. Một số yếu tố khác có thể cản trở phụ nữ tiếp cận
chăm sóc trước sinh và sau sinh như hiểu biết kém, khoảng cách mỗi lần sinh, xấu
hổ khi tiếp cận với dịch vụ và yếu tố về di cư. Chất lượng dịch vụ thấp cũng là rào
cản đối với tiếp cận của thai phụ. Với các tập quán chăm sóc sau sinh truyền thống,
các thực hành này được tạo ra do văn hóa và các yếu tố xã hội. Niềm tin tại địa
phương, tập quán, phụ nữ có quan hệ thân thuộc có những ảnh hưởng quyết định về
việc các bà mẹ tuân thủ những hành vi này.
Thông tin về làm mẹ an toàn tại tỉnh Xieng Khouang các bà mẹ nhận được
thông tin từ nhân viên y tế cả bà mụ vườn trong làng là 76,6%, từ cán bộ y tế là
48,6%, từ bạn bè 42,9%, từ người cộng đồng lãnh đạo là 36,0%, từ đài và ti vi là
33,7%, từ mẹ là 10,3% và từ chồng 7,3%.
5. TÌNH HÌNH TỬ VONG MẸ VÀ BIẾN CHỨNG SẢN KHOA TRÊN
THẾ GIỚI.
Hiện nay trên thế giới mỗi năm có khoảng 500.000 phụ nữ tử vong có liên
quan đến thai sản. Phần lớn do hậu quả hoặc những biến chứng liên quan đến thai
nghén và nạo phá thai không an toàn [11], [29]. Không những thế, theo ước tính cứ
một bà mẹ tử vong do thai sản thì có khoảng 30 bà mẹ khác bị đau yếu, mất sức lao
động hoặc bị những tổn thương sinh lý do hậu quả của các biến chứng thai sản [29].
Theo số liệu thống kê về số tử vong mẹ năm 2000 của tổ chức y tế thế giới,
quĩ nhi đồng liên hợp quốc, quĩ dân số liên hợp quốc thì số tử vong bà mẹ trên toàn
thế giới là 529.000 bà mẹ. Tuy nhiên số tử vong mẹ khác nhau giữa các châu lục và
có tới 99% là những người đang sống ở các nước đang và kém phát triển, đặc biệt là
ở châu Phi (251.000 bà mẹ), châu Á (253.000 bà mẹ). ẤnĐộ là nước có số bà mẹ tử
vong cao nhất (136.000 bà mẹ), tiếp theo đó làNigeria (37.000 bà mẹ), Paskistan
(26.000 bà mẹ), Cộng hòa Côngô và Ethiopia (24.000 bà mẹ), Cộng hòa Tanzania
(21.000 bà mẹ), Afghanistan(20.000 bà mẹ), Bangladesh (16.000 bà mẹ), Angola
(11.000 bà mẹ), Trung Quốc (11.000 bà mẹ), Kenya (11.000 bà mẹ), Indonesia
15
(10.000 bà mẹ) vàUganda (10.000 bà mẹ). Tổng số bà mẹ tử vong ở 13 nước này đã
chiếm tới67% tổng số bà mẹ tử vong trên toàn thế giới năm 2000 [36].
Tỷ lệ tử vong mẹ trên 100.000 trẻ sinh ra sống (Maternal Mortality Rate) của
thế giới là 400 và tỷ lệ này cũng có sự khác nhau giữa các quốc gia và các châu lục
trên thế giới [28], đặc biệt là tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn giữa các nước phát
triển và đang phát triển. Theo số liệu của UNICEF năm 2000, tỷ lệ tử vong mẹ trên
100.000 trẻ sinh ra sống của các nước công nghiệp phát triển là 13, của các nước
đang phát triển là 440 còn của các nước kém phát triển là 890 [28].
Nguyên nhân tử vong mẹ có liên quan chặt chẽ với các BCSK và nguy cơ tử
vong mẹ do BCSK có sự khác biệt rất lớn giữa các khu vực có điều kiện kinh tế –
xã hội – y tế khác nhau.
Tử vong mẹ phần lớn xảy ra trong tuần đầu sau khi sinh (60%), đặc biệt là 24
giờ đầu sau khi sinh [11]. Có 2 nhóm nguyên nhân chính dẫn đến tử vong mẹ là
nguyên nhân sản khoa trực tiếp và các nguyên nhân gián tiếp khác trong đó nhóm
nguyên nhân sản khoa trực tiếp chiếm tới 80% số ca tử vong mẹ trên thế giới [25],
[34].
Các nguyên nhân sản khoa trực tiếp gây tử vong mẹ là các BCSK (trong các
giai đoạn mang thai, chuyển dạ đẻ và sau đẻ). Có năm nguyên nhân sản khoa hay
gặp nhất gây tử vong mẹ là: băng huyết (thường trong giai đoạn sau đẻ),nhiễm
khuẩn, sản giật, đẻ khó và tai biến do nạo phá thai [25], [29],[30], [34].Các nguyên
nhân gián tiếp gây tử vong mẹ thường liên quan đến tình trạng bệnh tật trước khi
mang thai hoặc các bệnh tật trong khi quá trình thai nghén, thường gặp nhất là sốt
rét, thiếu máu, HIV/AIDS ( virus suy giảm miễn dịch ở người / hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải), bệnh tim mạch…[30],[34].Điều đáng quan tâm là hầu hết các
trường hợp tử vong mẹ do các nguyên nhân sản khoa cũng như các nguyên nhân
gián tiếp khác, đặc biệt là các BCSK đều có thể phòng tránh được nếu như có biện
pháp xử trí kịp thời khi có dấu hiệu sớm cũng như có sự chăm sóc đối với người
phụ nữ trong suốt quá trình mang hai, đẻ con và thời kì hậu sản.
BCSK vẫn luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu đểgiảm
tỷ lệ tử vong mẹ.Theo tài liệu của WHO thì tỷ lệ BCSK có thể lên tới15%, đặc biệt
16
là ở các nước đang phát triển [26].Trong các BCSK thì chảy máu sau đẻ (băng
huyết sau sinh) là hình thái BCSK thường gặp nhất. Tổ chứcy tế thế giới ước tính
hàng năm có khoảng 20 triệu trường hợp bệnh lý do băng huyết sau đẻ . Hội nghị
sản phụ khoa quốc tế diễn ra ở Hà Nội tháng 5 năm 2007 cho biết, băng huyết sau
sinh chiếm khoảng hơn 10% trong đó 1% trường hợp nguy kịch, và 25% trường hợp
tử vong do băng huyết nặng gây ra. Tiền sản giật/sản giật cũng là một hình thái
BCSK ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe bà mẹ và trẻ. Tiền sản giật là bệnh
nhiễm độc thai ghén thường gặp,chiếm tỷ lệ 6% - 8% số phụ nữ mang thai và 85%
trường hợp xảy ra trong thời kì mang thai đầu tiên. Nhiễm khuẩn hậu sản cũng là
một trong những hình thái BCSK thường gặp, nhiễm khuẩn hậu sản có thể chiếm 34% trong số những phụ nữ có thai và đẻ . BCSK do nạo phá thai không an toàn
cũng là một trong những vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và là
một trong những vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Theo tài liệu của WHO
thì mỗi năm trên thế giới có khoảng 19 triệu ca phá thai không an toàn và có khoảng
40% các ca nạo phá thai không an toàn trong lứa tuổi vị thành niên từ 15-24tuổi
[35]. Mỗi năm có khoảng 68.000 phụ nữ tử vong do nạo phá thai không an toàn,
chiếm khoảng 13% phụ nữ tử vong do các nguyên nhân [33], [35]. Theo thống kê
năm 2004 của Hiệp hội Kế hoạch hóa gia đình khu vực Đông Á Châu Đại Dương
cứ một phút trên thế giới có 10 phụ nữ tử vong do nạo phá thai không an toàn [7].
Hầu hết các trường hợp nạo phá thai không an toàn được thực hiện ở các nước đang
phát triển, chiếm khoảng 95% tổng số trường hợp nạo phá thai không an toàn [33].
Tử vong mẹ liên quan đến thai nghén và sinh đẻ không chỉ là một vấn đềsức
khỏe mà còn là một vấn đề mất công bằng xã hội và là một trong những chỉ số để
đánh giá sự phát triển của một quốc gia [30]. Thế giới đang nỗ lực để giảm tỷ lệ tử
vong mẹ cũng như tỷ lệ mắc và tử vong do các nguyên nhân liên quan đến thai
nghén và sinh đẻ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ chính là một trong những mục tiêu của
thiên niên kỷ mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phấn đấu đạt được.
1.
17
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là các thai phụ được chọn ngẫu nhiên tại Trung tâm y
tế Huyện SaySêttha và các trạm y tế xã.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các Thai phụ mang thai được chọn ngẫu nhiên
Đồng ý tham gia trả lời phỏng vấn
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Đang trong giai đoạn chuyển dạ và 24 giờ đầu của thai kỳ hậu sản.
Không hiểu hoặc không trả lời các câu hỏi.
Đang điều trị các biến chứng của thai nghén trong thai kỳ lần này.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu: từ 30/6/2016 đến ngày 31/6/2017
2.1.4. Địa điểm nghiên cứu
+ Khoa sản Trung tâm y tế Huyện Saysêttha.
+ Các trạm y tế xã( TYT) Huyện Saysêttha.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1.Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp điều tra ngang. Thu thập thông
tin dựa vào bảng câu hỏi, các bảng kiểm được thiết kế trước theo hướng dẫn của
chương trình LMAT để phỏng vấn, đánh giá kiến thức các bà mẹ có thai tại cộng
đồng kết hợp với nghiên cứu sổ sách, hồ sơ lưu tại các cơ sở y tế.
2.2.2.Phương pháp chọn mẫu
2.2.2.1.Cỡ mẫu
Bao gồm 277 thai phụ, được tính sau:
Z2 α/2 x P(1-P)
n=
d2
18
Trong đó P =23,6% số bà mẹ được thực hành chăm sóc trước sinh đúng
trong thời kỳ mang thai (nghiên cứu của Lê Thị Thu Huyền, 2011).
Với d =0,05, Z α/2 = 1,95 (khoảng tin cậy 95%)
Ta có thể chọn chọn cỡ mẫu là 350,được tính
1,962 x 0,236 x 0,764
n=
= 277
0,052
2.2.3. Thu thập số liệu
Thu thập số liệu dựa vào bảng câu hỏi điều tra, bao gồm bảng câu hỏi điều
tra các cơ sở y tế, bảng kiểm đánh giá kiến thức thai phụ.
Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ.
2.2.3.1. Phương tiện nghiên cứu
- Công cụ để thu thập số liệu là các phiếu phỏng vấn được chuẩn bị dựa trên
mẫu nghiên cứu của Bộ Y tế, Vụ bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia
đình, Viện dinh dưỡng Việt Nam [5], [6].
- Các câu hỏi được xây dựng theo cấu trúc câu hỏi đóng, câu hỏi mở, câu hỏi
lựa chọn giữa hai tình huống có – không và câu hỏi có nhiều lựa chọn.
- Phiếu theo dõi sức khỏe bà mẹ trong thai kỳ dựa theo mẫu của Vụ bảo vệ
bà mẹ trẻ em – kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế Việt Nam.
- Bảng chuyển đổi ngày đầu kỳ kinh cuối âm lịch sang dương lịch dựa theo
lịch Việt Nam.
- Sổ tiêm phòng uốn ván phụ nữ có thai.
2.2.3.2. Các bước nghiên cứu
- Bước 1: Gặp trực tiếp bệnh viện, trạm y tế và cán bộ chuyên trách của từng
cơ sở để lập danh sách của các phụ nữ đang mang thai để chọn vào mẫu nghiên cứu.
- Bước 2: Tiến hành phỏng vấn bà mẹ mang thai về những vấn đề liên quan
đến kiến thức thái độ và thực hành chăm sóc trước sinh dựa trên bảng câu hỏi đã
soạn sẵn bao gồm những câu hỏi đóng và mở liên quan.
19
2.2.3.3. Nội dung nghiên cứu bao gồm các vấn đề sau:
Tình hình sử dụng các dịch vụ
Nghiên cứu tỷ lệ các bà mẹ sử dụng các dịch vụ y tế về chăm sóc sức khoẻ
trong bà mẹ trong thời kỳ mang thai bao gồm:
+ Tỷ lệ bà mẹ khám thai lần, lần, không khám thai trong thời kỳ mang thai ;
tỷ lệ bà mẹ đã khám thai tại trạm y tế, các cơ sở y tế khác.
+ Tỷ lệ bà mẹ uống hay không uống viên sắt trong thời kỳ mang thai.
+ Tỷ lệ bà mẹ tiêm đủ 2 mũi vac xin trong uốn ván.
Một số yếu tố ảnh hưởng tình hình sử dụng dịch vụ
Nghiên cứu mong muốn tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng các
dịch vụ chăm sóc trước sinh bao gồm các yếu tố như sau:
- Tuổi của bà mẹ được phân theo các nhóm tuổi dưới 20, từ 20-24, 25-29,
30-34, 35-39, 40-44 , 45-49 và trên 49.
- Khoảng cách từ nhà đến trạm y tế: Nghiên cứu các khoảng cách 1 km, từ 1
đến 2 km , 2 3 km, 3 đến 4 km và 4 km.
- Phương tiện bà mẹ thường dùng để đi đến TYT: đi bộ, xe đạp, xe máy, khác.
- Người quyết định chọn dịch vụ: chính bà mẹ, chồng, bố mẹ, anh chị em hay
cán bộ y tế quyết định chọn dịch vụ.
- Có hoặc không nghe thông tin về làm mẹ an toàn.
- Mức độ hiểu biết của bà mẹ về những chăm sóc cần thiết, dấu hiệu nguy
hiểm trong khi mang thai và trước sinh [21], gồm có 12 nội dung bà mẹ phải trả lời:
+ Biết những dấu hiệu nguy hiểm cho bà mẹ trong thời kỳ mang thai như
tăng huyết áp, phù, khó thở, thiếu máu, ra máu âm đạo, thai không đạp.
+ Biết những chăm sóc cần thiết liên quan đến thời kỳ thai nghén như khám
thai và số lần khám thai; uống bổ sung viên sắt trong thời kỳ mang thai; tiêm đây đủ
vắc xin phòng uống ván; thực hiện tốt chế độ aăn uống, lao động và nghị ngơi; vệ
sinh thân thể; dự kiến nơi sinh an toàn trước sinh.
Đánh giá kiến thức của bà mẹ được chia làm 3 mức độ tốt, trung bình và yếu,
được xác định bằng số nội dung bà mẹ trả lời đúng các kiến thức về LMAT như sau:
Nếu bà mẹ trả lời đúng trên 80% nội dung : mức độ kiến thức khá tốt.
20
Nếu trả lời đúng từ 50% - 80% nội dung : mức độ kiến thức trung bình.
Nếu trả lời đúng 50% nội dung, hoặc là không trả lời 50% nội dung : mức
độ kiến thức yếu.
Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng bằng cách tìm hiểu sự khác biệt giữa các tỷ
lệ dịch vụ dựa vào giá trị P với mức có ý nghĩa = 0,05.
Tìm hiểu những lý do khách hàng chọn cơ sở y tế.
Nghiên cứu một số lý do mẹ chọn dịch vụ khám thai , sinh đẻ, CSSS và thực
hiện KHHGĐ theo nhận thức của bà mẹ, bao gồm:
- Dịch vụ đạt chất lượng.
- Quen biết: Bà mẹ quen cán bộ y tế và đã từng đến cơ sở này.
- Giá rẽ không tốn kém.
-Thái độ phục vụ của nhân viên y tế tốt.
- Theo lời khuyên của cán bộ y tế.
- Lý do khác.
- Không rõ lý do.
Phương pháp kiểm soát sai lệch thông tin
- Thông tin thu thập sẽ có bị sai lệch về tuổi thai do bà mẹ không nhớ ngày kinh
cuối cùng. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng đến mục tiêu nghiên cứu của tôi.
Khắc phục: những trường hợp không rõ rang chúng tôi cố gắng ước tính tuổi
thai dừa và tháng mất kinh phối hợp với dựa vào thăm khám đo bề cao tử cung, vòng
bụng và dựa vào kết quả siêu âm thai (nếu có). Điều này cũng được phổ biến và nhấn
mạnh trong quá trình hướng dẫn điều tra cho các đối tượng tham gia nghiên cứu.
- Thông tin cũng có thể sai lệch do người phối hợp phỏng vấn và thăm khám
sản khoa tiến hành thiếu nghiêm túc.
Khắc phục: Đội ngũ giám sát các hoạt động phỏng vấn và thăm khám là các
cán bộ Trưởng khoa, trưởng trạm y tế đã chọn thường xuyên có mặt lúc phỏng vấn.
- Thông tin có thể sai lệch do nhận định của bà mẹ về khoảng cách và thời
gian đến trạm y tế gần nhất. Điều này cũng được khắc phục bằng cách ước lượng
nơi ở của bà mẹ với bệnh viện, trạm y tế và các phương tiện vận chuyên trong nhà
bởi người điều tra.
21
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU.
Xử lý số liệu sử dụng chương trình Epi6 và phương pháp thống kê y học.
Kiểm tra dữ kiện: mỗi bảng câu hỏi được yêu cầu trả lời đầy đủ và sau khi
hoàn tất được kiểm tra ngay khi cán bộ giám sát và người nghiên cứu tính phù hợp
của những câu trả lời.
2.4. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
- Đề tài nghiên cứu được Hội đồng khoa học Trường đại học Y dược Huế
thông qua trước khi tiến hành triển khai trên thực địa.
- Đối tượng nghiên cứu sẽ được giải thích về mục đích và nội dung của
nghiên cứu trước khi tiến hành, nghiên cứu chỉ tiến hành khi có sự chấp nhận hợp
tác tham gia của đối tượng nghiên cứu.
- Mọi thông tin của đơn vị và cá nhân được nghiên cứu sẽ được giữ kín. Các
số liệu, thông tin thu thập được chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, không phục
vụ cho mục đích nào khác.
- Người tham gia nghiên cứu có quyền trả lời, thảo luận hoặc từ chối trả lời,
thảo luận mà không cần giải thích lý do.
- Nội dung nghiên cứu phù hợp, được chính quyền địa phương ủng hộ.
- Kết quả nghiên cứu sẽ được phản hồi cho địa phương khi kết thúc nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trước sinh tại địa phương.
Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ
Chương 4
BÀN LUẬN
Chương 5
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Bộ Y tế (2005), Niêm giám thống kê 2004.
2. Bộ Y tế (2006), Niêm giám thống kê 2005.
3. Bộ Y tế - Chương trình tiêm chủng mở rộng (2004), Mỗi năm có 70.000
phụ nữ chết vì nạo phá thai không an toàn, 15/10/2004
4. Bộ Y tế - Sức khỏe sinh sản, Chương trình chăm sóc sức khỏe ưu tiên –
Làm mẹ an toàn.
5. Bộ Y tế- Vụ Bảo vệ bà mẹ trẻ em và KHHGD (1997), Tử vong mẹ ở Việt
nam, Nhà xuất bản Y học, trang 20-24.
6. Phan Trường Duyệt (2000), Phòng chống năm tai biến sản khoa, Nhà xuất
bản y học, trang 10-12, 25.
7. Phạm Thị Hải (2007), “Nghiên cứu chảy máu sau đẻ tại bệnh viện phụ sản
trung ương từ 7/2004 – 6/2007”, Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội,
Hà Nội, trang 18
8. Lê Điềm (1999), Sản phụ khoa và kế hoạch hóa gia đình, trang 41.
9. Trần Chân Hà (2001), Nghiên cứu tình hình chảy máu sau đẻ tại Viện bảo vệ bà
mẹ trẻ sơ sinh trong 5 năm 1996 – 2000, Luận văn bác sĩ đa khoa, trang 30, 51.
10. Tô Thị Thu Hằng (2002), Nghiên cứu tình hình các bà mẹ lớn tuổi đẻ
con so tại viện BVBMTSS từ năm 1996 – 2000, Luận văn thạc sỹ y học, trang 3,
7, 20, 48.
11. Vương Tiến Hòa (2004), Những vấn đề thách thức trong sức khỏe sinh
sản hiện nay, Nhà xuất bản Y học, trang 7, 10, 19, 24 – 28m
12. Phạm Thị Xuân Minh (2004), “Tình hình chảy máu sau đẻ tại Bệnh viện
phụ sản Trung ương 1999 – 2004”, Luận văn bác sĩ chuyên khoa cấp 2,
Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội, trang 24
13. Trần Thị Ngọc Hồi (2005), Nghiên cứu kiến thức – thực hành chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trẻ em trước, trong và sau sinh tại 3 xã huyện Phú
Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn bác sĩ đa khoa, trang 15.