ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
BÙI THỊ PHƯƠNG THẢO
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở XÃ VẠN NINH,
HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
KHÓA K36 (2012 – 2016)
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:
Th.S HỒ SỸ THÁI
Huế, 5-2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyến thực tập và bài khóa luận với đề tài: “Thực trạng ô
nhiễm môi trường ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”, tôi xin
được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới ban chủ nhiệm Bộ môn Công tác xã hội,
trường Đại học Khoa học Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi có được thời gian
thực tập tại Uỷ ban nhân dân xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Đặc biệt, tôi xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Ths. Hồ Sỹ Thái đã tận tình
giảng dạy và hướng dẫn tôi trong quá trình học tập, tìm hiểu và viết bài khóa luận.
Tôi xin được gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc tới UBND xã Vạn Ninh
cùng các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, các gia đình và bà con nhân dân xã Vạn Ninh,
huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đã nhiệt tình giúp đỡ tôi tìm hiểu và cung cấp
thông tin, số liệu cần thiết để tôi hoàn thành bài khóa luận này.
Do hạn chế về thời gian, trình độ, kiến thức và kinh nghiệm nên khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ
phía các thầy cô giáo và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 13 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Bùi Thị Phương Thảo
2
DANH MỤC VIẾT TẮT
BTNMT
Bộ tài nguyên môi trường
BVMT
Bảo vệ môi trường
BVTV
Bảo vệ thực vật
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá
CTXH
Công tác xã hội
HĐND
Hội đồng nhân dân
HTX
Hợp tác xã
NVCTXH
Nhân viên Công tác xã hội
QCVN
Quy chuẩn Việt Nam
TDTT
Thể dục thể thao
TSKH
Tiến sĩ khoa học
UBND
Uỷ ban nhân dân
MỤC LỤC
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, cùng với đó là hàng loạt các vấn đề cần giải quyết.
Hiện nay vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề không chỉ diễn ra trên nước
ta mà còn diễn ra trên toàn thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường thì vấn đề về môi trường ngày càng nghiêm trọng. Và hiện tượng ô nhiễm
môi trường không phải chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ở cả các nước đang phát
triển trong đó có đất nước Việt Nam ta. Hiện nay ô nhiễm môi trường đang ngày
càng trầm trọng hơn không chỉ ô nhiễm về không khí mà còn ô nhiễm về đất, nước
và hậu quả mà chúng mang lại là ảnh hưởng rất nhiều về mọi mặt đối với cuộc sống
của con người. Các chất thải ngày càng nhiều và phong phú hơn, trong khi đó các
biện pháp xử lý thì kém hiệu quả cùng với sự không quan tâm một cách chính đáng
đã làm cho môi trường ngày một tồi tệ hơn. Vì vậy bảo vệ môi trường đang là một
vấn đề cấp bách.
Trong tiềm thức của nhiều người, ô nhiễm môi trường thường chỉ xảy ra ở khu
vực đô thị, nơi có nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp. Thế nhưng, hiện nay ở
nhiều vùng nông thôn ở tỉnh Quảng Bình đang đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe
của người dân bởi rác thải, chất thải bừa bãi do họ gây ra. Nguyên nhân chính vẫn
là do ý thức của người dân ở nhiều khu dân cư còn xem nhẹ về ô nhiễm môi trường.
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng
Bình đang ngày càng nghiêm trọng, chính quyền xã đã tổ chức nhiều cuộc họp dân
bàn về xử lý rác thải. Nhưng do thiếu kinh phí và nên xã chưa làm được bãi tập kết
rác và lập ra ban thu gom rác thải. Những cống rãnh chạy dọc đường làng chứa đầy
nước đen ngòm hòa lẫn chất thải từ trâu, bò, lợn bốc mùi khó chịu. Chất thải từ
nghề giết mổ lợn, bò hàng chục năm nay ở những ao hồ quanh thôn, gây ô nhiễm
nguồn nước sinh hoạt của người dân. Trên toàn xã có đến 90% số hộ chăn nuôi lợn,
trong đó hàng chục hộ gia đình chăn nuôi từ 10 con lợn thịt trở lên, toàn xã có 1.600
hộ chăn nuôi với tổng quy mô khoảng 64.000 - 70.000 con/lứa, mỗi ngày xả hàng
nghìn mét khối nước thải, chất thải chưa qua xử lý ra môi trường, nước thải từ vệ
sinh chuồng trại ước tính 23m³ mỗi ngày. Hàng ngày nước thải, chất thải từ các
5
chuồng lợn đều đổ ra vườn và chảy xuống các kênh mương nhỏ trong làng dẫn đến
ô nhiễm nguồn nước và bốc mùi hôi rất khó chịu [15;16].
Hiện nay, Vạn Ninh đang phát triển thành khu công nghiệp, khu công nghiệp
gồm có ba nhà máy sản xuất bao gồm: Sản xuất xi măng, sản xuất gạch block và
gạch tuy nen. Mỗi ngày 3 nhà máy xi măng trên địa bàn xã thải ra môi trường một
lượng khí thải rất lớn 2500-2800m³ ở nhiệt độ từ 350-380ºC và nồng độ bụi trung
bình 50mg/Nm3 gây ô nhiễm môi trường, hiệu ứng nhà kính [10;17].
Dựa trên những bất cập trên tôi quyết định chọn đề tài “Thực trạng ô nhiễm
môi trường ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài
khoá luận tốt nghiệp của mình. Qua đề tài này tôi mong muốn đóng góp một phần
nào đó trong việc nâng cao ý thức cho người dân quê tôi về việc bảo vệ môi trường
xanh, sạch, đẹp.
2. Lịch sử nghiên cứu
Ô nhiễm môi trường hiện nay đã và đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội
cũng như các cấp các ngành.
Ngoài các nghiên cứu hay hội thảo, báo cáo bàn về biện pháp làm giảm thiểu
tình trạng ô nhiễm môi trường thì còn có những công trình nghiên cứu của sinh
viên. Đó là đề tài : “Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn Việt Nam hiện
nay” do sinh viên Nguyễn Thị Hạnh lớp K52 – Xã hội học trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội thực hiện.
Đề tài thứ hai là đề tài: “Vấn đề ô nhiễm môi trường ở nông thôn Việt Nam”
Trường Đại học Tây Nguyên- Khoa kinh tế do Lê Hữu Hoàng, Nghị Thị Minh
Hồng, Nguyễn Đăng Tiềm Lớp: Kinh Tế Nông Lâm Khóa: 2008 - 2012 thực hiện.
Cả hai đề tài nghiên cứu trên đã phản ánh tình trạng ô nhiễm môi trường ở các
nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Cái mới của cả hai đề tài này không chỉ lột
tả tực trạng ô nhiễm môi trường mà còn mô tả những hệ lụy, hậu quả nghiêm trọng
của “Tình trạng ô nhiễm môi trường” đối với nền kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như
sức khoẻ của người dân. Bên cạnh đó cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế
tình trạng ô nhiễm môi trường, đưa ra các hoạt động Công tác xã hội với người dân
nhằm tìm hiểu, đánh giá nhận thức, suy nghĩ của họ về vấn đề đó như thế nào?,
cung cấp một số kiến thức nhất định về ô nhiễm môi tường. Điều này có ý nghĩa
6
quan trọng trong việc góp phần giảm tình trạng ô nhiễm môi trường, người dân địa
phương, hướng họ đến một cuộc sống an toàn, tốt đẹp.
Ngoài ra còn có bài viết : “Những bức xúc và các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm
môi trường từ các nguồn phân bón” của PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ và TSKH. Phạm
Quang Hà, đăng trên tạp chí môi trường số 4/2002. Bài viết đề cập đến việc sử dụng
phân bón quá nhiều tất sẽ gây ra ô nhiễm, trong khi đó bà con nông dân lại không
được tiếp cận với những phương pháp bón phân phù hợp với từng giai đoạn, việc sử
dụng không hợp lý số lượng phân bón cũng là nguyên nhân gây ra sự suy thoái
nguồn đất và nguồn nước. Để lại hậu quả nghiêm trọng cho môi trường.
Theo bài báo “Công an xã vào cuộc vì việc Hợp tác xã nuôi lợn đầu độc người
ở xã” của tác giả Hồ Thắng, trên báo Đời sống và Pháp luật (2012). Báo Đời sống
& Pháp luật đã có bài phản ánh người dân "nổi khùng" vì HTX nuôi lợn xả thải đầu
độc thôn xóm. Nội dung phản ánh về tình trạng HTX sản xuât và kinh doanh tổng
hợp Hương Giang xả chất thải từ trang trại chăn nuôi lợn ra môi trường khiến cho
cuộc sống của nhiều hộ dân tại thôn Hương Giang bị đảo lộn. Điều đặc biệt, chăn
nuôi với mô hình trên 1.000 con lợn nhưng HTX chỉ có một bể biogas và một bể
lắng rất nhỏ, hàng ngày lượng nước thải lớn được chủ trang trại cho chảy ra khe
suối, môi trường tự nhiên.
Theo bài viết “Ô nhiễm môi trường ở nông thôn Việt Nam” Của PGS.TS Phạm
Công Nhất, trên báo Nhân dân điện tử (2014) cho biết: Kết quả "Nghiên cứu ảnh
hưởng của ô nhiễm a-sen trong nguồn nước ăn uống, sinh hoạt tới sức khỏe, bệnh
tật của cộng đồng dân cư vùng đồng bằng sông Hồng và biện pháp khắc phục", do
Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường thực hiện cho thấy: Trong số hơn bốn
nghìn đối tượng (nam, nữ) đã sử dụng nước giếng khoan trong hơn ba năm (có
nhiễm chất a-sen) để ăn, uống và tắm giặt đã phát hiện được 60 trường hợp nhiễm
độc a-sen mạn tính (chiếm tỷ lệ 1,62%), trong tổng số người sử dụng nước ô nhiễm
a-sen và chủ yếu phân bố ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội (7,25%), Vĩnh Phúc
(4,98%), Nam Ðịnh (4,5%)... Một số bệnh có tính chất di truyền, tại các khu vực
nông thôn hiện nay ở nước ta đã và đang xuất hiện nhiều loại bệnh tật có tính chất
lây lan, đe dọa đến sức khỏe và tính mạng của người dân như dịch tả, uốn ván, bệnh
ngoài da, ung thư...
7
Theo một bài viết “Nhà máy xi măng “tra tấn” hàng trăm hộ dân” của Đặng
Tài và Đức Long trên báo Dân trí năm 2015. Tác giả cho biết: Gần chục năm nay,
hàng trăm hộ dân thôn Áng Sơn xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
luôn sống trong cảnh bị “tra tấn” bởi tiếng ồn, khói bụi, ô nhiễm từ Nhà máy xi
măng Áng Sơn II. Cuộc sống người dân nơi đây đang bị đảo lộn bởi Nhà máy xi
măng này. Dân kêu trời vì ô nhiễm. Tác giả đặt ra câu hỏi. Vậy đến bao giờ người
dân thôn Áng Sơn mới thoát ra khỏi khu vực ô nhiễm do Nhà máy xi măng Áng
Sơn II? Người dân nơi đây đang mong chờ một câu trả lời dứt khoát từ chính quyền
địa phương cũng như các cấp ban ngành liên quan.
Qua các nghiên cứu, bài báo trên, chúng ta có thể thấy rằng tình trạng ô nhiễm
môi trường đang nhận được quan tâm nhất định từ các nhà nghiên cứu các cơ quan
ban ngành, báo đài để giúp người dân cải thiện môi trường sống, hạn chế tình trạng
ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng những nghiên cứu trên vẫn
chưa đáp ứng hết nhu cầu thực tế của rất nhiều địa phương trên các tỉnh thành trong
cả nước. Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào thực trạng ô nhiễm môi
trường mà chưa đi sâu vào những nguyên nhân, hậu quả của nó đối với cuộc sống
của người dân sống trong khu vực có môi trường bị ô nhiễm. Quan trọng hơn nữa
chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể và chuyên sâu để hạn chế tình trạng này.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước đó tôi tiếp tục chọn đề tài này
nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống giải pháp can thiệp nhằm góp phần nào đó trong
việc đưa ra các giải pháp phù hợp với địa bàn xã Vạn Ninh, và nâng cao nhận thức
cho người dân về việc bảo vệ môi trường.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Từ việc tìm hiểu thực trạng về ô nhiễm môi trường tại xã Vạn Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng
ô nhiễm môi trường tại xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, giúp
cải thiện môi trường sinh thái, tạo ra những điều kiện sống tốt hơn cho người dân
ở đây.
8
3.2. Mục tiêu cụ thể
Tìm hiểu thực trạng ô nhiễm môi trường, những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng ô nhiễm môi trường và tác động của nó, đến đời sống của người dân.
Thực hành CTXH nhóm với một số người dân trên địa bàn nghiên cứu nhằm
nâng cao nhận thức của người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng ô nhiễm môi trường ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Người dân, cán bộ các ban ngành, chính quyền địa phương, công ty, cơ sở sản
xuất kinh doanh trên địa bàn xã.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Thời gian nghiên cứu: Từ 2010- 2015
Thời gian thực địa: 22/02/2016 – 28/04/2016
5. Phương pháp thu thập thông tin
5.1. Phương pháp đọc và phân tích tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin qua việc tìm tài liệu sách báo, các báo cáo,
các công trình nghiên cứu, các biên bản cuộc họp, thông tin truyền tải, phương tiện
truyền thông có liên quan đến vấn đề “ô nhiễm môi trường”.
5.2. Phương pháp quan sát
Trong Công tác xã hội, quan sát là một phương pháp hỗ trợ đắc lực cho nhân
viên Công tác xã hội. Sử dụng phương pháp này giúp nhân viên xã hội có được cái
nhìn tổng quát về địa bàn nghiên cứu, về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên và tình hình kinh tế xã hội, về tình trạng đời sống của người dân, thực
trạng ô nhiễm môi trường tại xã, giúp quan sát thái độ, hành vi của người dân. Qua
đó, nhân viên Công tác xã hội thu thập được những thông tin sơ cấp đóng góp vào
quá trình nghiên cứu của đề tài.
Trong đề tài này sinh viên sử dụng phương pháp quan sát để quan sát đời sống
sinh hoạt của người dân ở địa bàn nghiên cứu, quan sát cách làm việc của cán bộ
môi trường xã.
9
Quan sát điều kiện kinh tế cũng như văn hoá xã hội. Thông qua hình thức quan
sát công khai, người nghiên cứu quan sát được thực trạng ô nhiễm môi trường trên
địa bàn xã, quan sát những nguồn rác thải được thải trực tiếp ra ngoài môi trường.
Sử dụng phương pháp quan sát còn giúp người nghiên cứu có sự so sánh đối
chiếu để xác minh các nguồn thông tin khác một cách hiệu quả.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để thu thập những thông tin mới, cụ thể hơn về thực trạng, nguyên nhân liên
quan đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Tiến hành phỏng vấn sâu với 15 người thuộc
nhiều lĩnh vực, công việc khác nhau trên địa bàn xã. Phỏng vấn đối với những chủ
các lò mổ gia súc gia cầm trên địa bàn xã để biết họ nghĩ như thế nào về việc họ thải
trực tiếp các chất thải ra ngoài môi trường.
Phỏng vấn những hộ dân trực tiếp hứng chịu một môi trường ô nhiễm để biết
được tâm tư nguyện vọng của họ trong việc xử lý các nguồn rác thải.
Phỏng vấn những người làm công tác quản lý tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội
trên địa bàn để biết được chính quyền địa phương đã có những giải pháp như thế
nào để xử lý nuồn rác thải và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường ở xã.
Phỏng vấn chính quyền xã để biết xã đã có những biện pháp nào để xử lý
những người vi phạm gây ô nhiễm môi trường.
Trong quá trình phỏng vấn sâu, bên cạnh những thuận lợi cũng còn tồn tại
không ít khó khăn mà bản thân tôi gặp phải. Trước hết, đó là thời gian phỏng vấn bị
hạn chế. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc tiếp xúc, phỏng vấn thu thập
thông tin. Thời gian chủ yếu mà tôi tiến hành phỏng vấn sâu là buổi trưa và tối. Thứ
hai, do hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên việc phỏng vấn sâu ở
những lần đầu tiên chưa mang lại hiệu quả như ý muốn. Điều này đã được tôi điều
chỉnh và thay đổi ở những lần phỏng vấn sau. Nhờ vậy, kết quả cuộc phỏng vấn đã
tương đối được như ý muốn, thông tin thu thập được phục vụ đắc lực cho đề tài
nghiên cứu.
5.4. Phương pháp vãng gia
Phương pháp này giúp tạo mối quan hệ tốt giữa người nghiên cứu và người dân
cũng như những người thực hiện công tác quản lý môi trường. Trong đề tài này tôi
sẽ đến thăm hộ gia đình có những trang trại nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn xã, để
10
tìm hiểu xem các hộ gia đình đó có sử dụng những biện pháp xử lý rác thải, nước
thải trước khi cho ra ngoài môi trường hay không.
Thăm 10 hộ gia đình sống gần những trang trại gần khu công nghiệp hay những
gia đình nuôi nhiều lợn gà để biết được họ bị ảnh hưởng như thế nào bởi các chất
thải của những gia đình đó, để từ đó đưa ra những đánh giá chính xác và đề ra
những kế hoạch giải quyết phù hợp.
5.5. Phương pháp CTXH nhóm
Công tác xã hội nhóm là một phương pháp không thể thiếu trong Công tác xã
hội. Tiến trình công tác xã hội nhóm gồm 5 giai đoạn là: Giai đoạn chuẩn bị và lên
kế hoạch thành lập nhóm, giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động, giai đoạn hoạt động và
giải quyết vấn đề, giai đoạn can thiệp và giải quyết nhiệm vụ, giai đoạn kết thúc và
lượng giá. Trong bài khóa luận của mình, tôi đã tiến hành tác nghiệp công tác xã hội
nhóm với nhóm những người dân tại xã Vạn Ninh sống trong môi trường bị ô
nhiễm. Tiến trình cụ thể sẽ trình bày ở chương 3.
6. Bố cục của bài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của đề tài được bố cục
bởi 3 chương chính như sau:
Chương 1. Cơ sở thực tiễn và lý luận của đề tài
Chương 2. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại xã Vạn Ninh, huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình
Chương 3. Giải pháp hỗ trợ nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường tại xã
Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
11
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Vạn Ninh là một xã thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, xã nằm trong
tọa độ: 17°16′18″B 106°40′22″, tổng diện tích của xã là 28.86 km², mật độ dân số
đạt 263 người/km², ngày 1/1/2013 xã có 7.754 người [16].
Xã Vạn Ninh nằm ở cực nam huyện Quảng Ninh cách trung tâm huyện lỵ
khoảng 25km về phía Đông Bắc, phía nam giáp 2 xã Hoa Thủy, Sơn Thủy, phía
đông giáp xã Hồng Thủy đều thuộc huyện Lệ Thủy, phía Bắc giáp xã An Ninh, phía
Tây giáp Trường Sơn. Xã có 10 thôn: Thôn Nam Hải, thôn Đồn, thôn Bến, thôn
Giữa, thôn Sỏi, thôn Tây, thôn Đại Phúc, Thôn Áng Sơn, thôn Phúc Sơn, thôn Xuân
Sơn trung tâm xã thuộc thôn Giữa. Vạn Ninh là một xã thuần nông, người dân ở đây
từ bao đời nay chủ yếu sống bằng nghề nông, nhưng do xu thế phát triển công
nghiệp hóa hiện đại hóa nhà máy công nghiệp đã mọc lên ở thôn Áng Sơn. Hiện
nay, đang phát triển thành khu công nghiệp, khu công nghiệp gồm có ba nhà máy
sản xuất bao gồm: Sản xuất xi măng, sản xuất gạch block và gạch tuynen. Nằm sát
khu công nghiệp có các đồi núi đá vôi đã và đang được khai thác cung cấp vật liệu
xây dựng cho xã nhà cũng như các tỉnh, thành lân cận.
Người dân ở hai thôn Áng Sơn, Phúc Sơn chủ yếu làm công nhân cho nhà máy,
bên cạnh đó có một bộ phận người dân ở các thôn trong toàn xã. Do nhu cầu đời
sống của cá nhân và gia đình ngày càng gia tăng nên một số gia đình đã chuyển đổi
cơ cấu ngành nghề và làm thêm nhiều nghề khác nên đã khai thác tối đa các nguồn
lực mà xã có như: Trồng cây công nghiệp, khai thác gỗ, kết hợp nông - lâm - sản từ
đó cuộc sống của người dân dần ổn định và khá giả hơn, bộ mặt nông thôn nơi đây
ngày một tươi mới và khang trang hơn.
Vạn Ninh có hai tuyến đường huyết mạch đi qua: Một là tuyến đường sắt thống
nhất Bắc Nam, hai là quốc lộ 15A một nhánh Đông của con đường Trường Sơn
huyền thoại, nay đã được cải tạo nâng cấp thành đường Hồ Chí Minh, ở đây còn có
đường 10 nối đường Đông Trường Sơn với Tây Trường Sơn [16].
12
1.1.1.2. Địa hình
Địa hình xã Vạn Ninh bị chia cắt bởi ngọn đồi chạy dọc xã có độ cao từ 0-70m
so với mực nước biển, người dân gọi là “cụp 77”, chia xã thành hai khu vực: Khu
vực một và khu vực hai, tả ngạn đồi núi là khu vực hai, hữu ngạn của đồi núi là khu
vực một trung tâm của xã. Ở khu vực hai có các thôn Áng Sơn, Xuân Sơn và Phúc
Sơn ba thôn này nằm dọc sườn núi Trường Sơn, ở đây có hai loại địa hình: Địa hình
đồi núi và địa hình đồng bằng. Địa hình đồi núi chủ yếu có các ngọn núi cao từ
300m – 500m và có một số ngọn núi cao từ 500m đến 1000 m, đất ở đây chủ yếu
đất feralit, đất đỏ badan, đất này phù hợp cho người dân trồng cây cao su 50,5 ha,
cây bạch đàn 20 ha, cây tràm keo lai 150 ha, cây nhựa thông 75 ha, dưới chân núi là
đất chai, đất phù sa bồi tụ người dân sử dụng trồng cây hoa màu và cây lúa nước.
Kết hợp địa hình đồi núi với đồng bằng người dân phát triển kết hợp nông - lâm sản, hằng năm mang lại thu nhập cao cho các hộ dân nơi đây.
Ngoài ra ở khu vực này có các khối núi đá vôi hiện đang được nhà máy xi
măng Áng Sơn khai thác sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp cho các tỉnh thành
trong nước tạo công ăn việc làm ổn định cho nhân dân trong toàn xã.
Khu vực một địa hình ở đây chủ yếu đất phù sa bồi tụ, ngoài ra có đồi núi chạy
dọc làm ranh giới đất đỏ bazan, người dân trồng cây bạch đàn và cây tràm, đất phù sa
có diện tích lớn người dân trồng cây lúa nước hằng năm mang lại sản lượng lúa cao.
Ngoài diện tích đất nông nghiệp xã có hệ thống kênh, mương cung cấp nước để
tưới tiêu cho nông nghiệp, người dân kết hợp nuôi cá thâm canh tổng diện tích là
310 ha và năng suất thu hoạch ước đạt 280kg/ha; nuôi chuyên canh ao hồ là 45 ha
năng suất ước đạt 20 tạ/ha, tổng diện tích nuôi cá là 355 ha, khai thác tự nhiên ước
đạt 15 tấn. Nguồn tài nguyên thiên nhiên đã mang lại cho người dân trong xã một
nguồn thu nhập khá ổn định góp phần vào việc cải thiện đời sống nâng cao chất
lượng của người dân [16].
1.1.1.3. Khí hậu
Nhìn chung nhiệt độ tương đối cao, về mùa Đông: thường giao động từ 17°C –
20°C vào ba tháng 11, 12, 1 dương lịch là những tháng lạnh nhất, có khi có thêm
gió mùa Đông Bắc tràn về mạnh có rét đậm, rét hại nhiệt độ có lúc thấp xuống
10°C. Về mùa Hè: Nhiệt độ trung bình dao động từ 26°C – 35°C. vào các tháng 6,
7, 8 là những tháng nóng, nhất là tháng 6, có khi có gió mùa Tây Nam nhiệt độ có
13
khi lên tới 41°C trong thời kì nền kinh tế công nghiệp môi trường bị ô nhiễm khí
hậu ngày càng tăng lên làm cho nhiệt độ nóng lên 43°C, 44°C [16].
Độ ẩm: Tương đối khá cao, độ ẩm trung bình trong năm vào khoảng từ 82%
đến 84%. Vào tháng 2 tháng 3 là hai tháng có độ ẩm trung bình cao nhất khoảng
90%, lượng mưa: Mùa mưa thường đến chậm hơn so với các tỉnh phía Bắc, nhưng
do yếu tố địa hình ảnh hưởng nên ở xã Vạn Ninh nói riêng và ở tỉnh Quảng Bình
nói chung là một trong những tỉnh có lượng mưa khá cao và có số ngày mưa trong
năm khá lớn. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 2000mm đến 2.500mm,
vào tháng 9, 10, 11 là những tháng có lượng mưa cao, nhìn chung thời tiết trong
vùng khá ổn định theo mùa, riêng mùa Hè ban ngày nhiệt độ có khi cao lên khoảng
41°C, nhưng ban đêm lại giảm xuống 30°C [16].
1.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
Trong những năm qua được sự quan tâm chỉ đạo của UBND huyện, lãnh đạo
trực tiếp của ban chấp hành Đảng bộ, UBND xã bám sát các mục tiêu chương trình
công tác trọng tâm, triển khai các giải pháp thực hiện nhiệm vụ mà nghị quyết hội
đồng nhân dân xã kỳ họp lần thứ VII đã đề ra. Trong điều kiện xã có nhiều khó
khăn: Thời tiết biến đổi và diễn biến phức tạp; Tình hình sâu bệnh hại lúa như rầy
nâu, đạo ôn, đặc biệt là chuột phá hoại trên diện rộng. Cùng với tác động của suy
giảm kinh tế, giá cả vật tư nông nghiệp, dịch vụ, làm đ ất và giá cả một số mặt hàng
thiết yếu tăng, hàng hóa nông sản thiếu thị trường tiêu thụ cùng với những thiệt hại
nặng nề do bão số 10 gây ra nên đã ảnh hưởng không tốt đến phát triển kinh tế - xã
hội và đời sống của người dân.
Song với sự quyết tâm cao của cán bộ, nhân dân trên địa bàn xã, nhiều chỉ tiêu
về kinh tế - xã hội đạt tăng trưởng khá; phong trào VHVN – TDTT được tổ chức
đồng bộ với khí thế sôi nổi, quốc phòng – an ninh được giữ vững, tạo bước chuyển
biến về chất trong triển khai thực hiện nghị quyết HĐND với những kết quả trên các
lĩnh vực cụ thể như:
1.1.2.1. Kinh tế
Sản xuất nông nghiệp:
Người dân có câu “nhất Đồng Nai nhì hai huyện” đó là huyện Quảng Ninh và
huyện Lệ Thủy, mặc dù hai huyện Quảng Ninh và huyện Lệ Thủy không thuộc
nhóm các tỉnh, thành có vựa lúa lớn của nước ta nhưng hai huyện này có diện tích
14
đất phù sa bồi đắp màu mỡ, hằng năm mang lại năng suất, sản lượng lúa cao, chính
vì vậy, xã nhà lấy nông nghiệp làm chủ đạo, làm trọng tâm trong phát triển kinh tế.
Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng cả năm: 1056 ha, đạt 101,1% kế hoạch
trong đó: lúa Đông Xuân: 696 ha/684 ha, đạt 102% kế hoạch, năng suất: 61,7 tạ/ha,
sản lượng 4.294,3 tấn. Lúa Hè Thu: 152,5 ha/240 ha đạt 63,5% kế hoạch, năng suất
11,9 tạ/ha, sản lượng 445 tấn. Ngô Đông Xuân: 9 ha, năng suất 35 tạ/ha, sản lượng
31,5 tấn, ngô hè thu: 10ha, năng suất 2 tạ/ha, sản lượng 20 tấn, tổng sản lượng
lương thực ước đạt 5210,5 tấn, bằng 87,3% kế hoạch, bình quân lương thực đầu
người 673 kg/năm [15].
Là địa phương sở hữu diện tích đất phù sa lớn và màu mỡ, vì vậy, sản lượng lúa
của xã mang lại hằng năm cao, đưa lại nguồn thu nhập cho người dân sau mỗi vụ
mùa canh tác khá ổn định.
Các loại cây trồng khác: Có 155 ha, trong đó: Khoai 15 ha, năng suất 70 tạ/ha
sản lượng 105 tấn; Lạc 23 ha, năng suất 20 tạ/ha sản lượng 46 tấn; Sắn 60 ha năng
suất bình quân 200 ta/ha giá trị thu nhập ước đạt 50 triệu đồng/ha [16].
Thực hiện chính sách của huyện, xã, lượng giống kỹ thuật đưa vào sản xuất
trong năm gần 65 tấn, chiếm 95% diện tích. Đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi cây
trồng: Dưa 2 ha, ngô 6 ha, đưa lại thu nhập khá cao. Tập trung chỉ đạo diệt cây mai
dương, diệt chuột với nhiều giải pháp đồng bộ thiết thực, huy động được sự tham
gia của toàn dân, ngân sách xã, hợp tác xã đầu tư 140 triệu đồng để mua hơn 40.000
con chuột và 17.583 kg gốc rễ mai dương, các hợp tác xã đã trích quỹ bảo hiểm rủi
ro, vốn, quỹ hợp tác xã hỗ trợ cho các hộ sản xuất hè thu bị mất mùa với số lượng
66,2 tấn thóc, giúp cho người dân sản xuất mất mùa nhưng không mất vốn [16].
Bên cạnh diện tích đất phù sa, được sử dụng trồng cây lúa nước xã còn có diện
tích đất trồng cây hoa màu khá rộng. Người dân sử dụng trồng các loại cây hoa màu
như: Ngô, đậu, các loại khoai và rau củ. Bên cạnh các sản phẩm được tiêu thụ tại
gia đình, người dân bán cho các thương lái tăng thêm một nguồn lực kinh tế cho
người dân. Mở rộng quy mô phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tại địa phương.
Tuy nhiên, điều hành dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp còn rất nhiều bất cập,
trong việc chỉ đạo phòng chống sâu bệnh, phòng chống chuột hại lúa còn kém, hậu
15
quả gây ra thiệt hại lớn một số diện tích; Điều hành tươi tiêu nước ở một số vùng
chưa hợp lý. Trong chỉ đạo sản xuất vụ hè thu một số cấp ủy, chính quyền thôn thiếu
kiên quyết, chậm trễ trong công tác triển khai giải pháp thực hiện nên kết quả gieo
xạ đạt sản lượng thấp, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên đất màu, đất một vụ
lúa còn chậm, hiệu quả chưa cao.
Chăn nuôi: Chú trọng tình hình công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc,
gia cầm không để dịch bệnh xảy ra, tổ chức phun tiêu độc khử trùng ở những nơi
công cộng. Các chợ và các hộ gia đình chăn nuôi với số lượng hóa chất 115 lít, triển
khai tiêm phòng cho đàn gia súc , gia cầm cụ thể: Tiêm vacxin lở mồm lông móng
và tụ huyết trùng cho đàn trâu , bò: 1500 liều đạt 73,2%, đàn lợn tiêm phòng vacxin
tam liên: 1190 liều đạt 32%, đàn chó tiêm 550 liều đạt 52,8%; đàn gà và vịt tiêm
phòng được 10.700 con đạt 80,3%, nghiệm thu công tác thụ tinh nhân tạo bò đến
30/10/2013 có 186/190 con 98% nâng tổng đàn đạt lai sinh hóa trên 70%; phối hợp
với nghiệm thu về chính sách hỗ trợ trang trại đủ điều kiện đạt 3 trường hợp [16].
Theo điều tra gia súc, gia cầm đến thời điểm 01/10/2013 đàn trâu, bò có 1238
con, tăng 11,8% kế hoạch, đàn lợn 6034 con, tăng 25,7% kế hoạch, tổng sản lượng
gia súc xuất chuồng đạt 810 tấn, tăng 11,2% so với năm 2012; Đàn gia cầm, thủy
cầm có: 70.250 con đạt 120,2% so kế hoạch, sản lượng xuất chuồng đạt 245 tấn,
tăng 22,5% so với kế hoạch, tổng giá trị chăn nuôi đạt 51,6 triệu đồng, chiếm tỷ
trọng 55,4% trong nông nghiệp [16].
Với đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước, lấy trâu, bò làm sức cày kéo là
chủ yếu, vì lý do đó mà số lượng trâu và bò trong toàn xã có tỷ lệ khá cao, “con
trâu”, được xem là “cơ nghiệp” của gia đình thuần nông nên quá trình phòng chống
dịch bệnh cho gia súc được người dân chấp hành nghiêm chỉnh. Bên cạnh đó, còn
có bộ phận người dân chăn nuôi có nhận thức hạn chế về công tác tiêm phòng gia
súc, gia cầm, còn hạn chế nên hàng năm tỷ lệ gia súc, gia cầm, thủy cầm chết tương
đối cao.
Nuôi trồng thủy sản: Nuôi trồng thủy sản có bước phát triển về quy mô diện
tích và chất lượng đầu tư thâm canh nên kết quả đạt khá, tổng diện tích nuôi cá: 355
ha, trong đó nuôi chyên canh ao hồ 45 ha năng suất ước đạt 20 tạ/ha; Nuôi cá trên
ruộng lúa 310 ha, năng suất thu hoạch ước đạt 280kg/ha, sản lượng 86,8 tấn; Khai
16
thác tự nhiên ước đạt 15 tấn, tổng sản lương nuôi trồng và khai thác tự nhiên ước
đạt 182,8 tấn đạt 103,4% so với kế hoạch.
Nuôi trồng thủy sản đây là một nguồn lực mang lại nguồn kinh tế cho người
dân cao, bên cạnh những thuận lợi về diện tích nuôi trồng rộng, còn đâu đó những
khó khăn về điều kiện của tự nhiên như: Ngập lụt vào mùa mưa, bão làm cho các ao
hồ bị ngập dẫn đến cá trong ao, hồ bơi ra ngoài làm thiệt hại nặng về kinh tế. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra là tìm ra các biện pháp, cách làm như thế nào để tránh được
những thiệt hại, thất thu do điều kiện tự nhiên gây ra để nguồn vốn của người dân
được đảm bảo và mang lại lợi nhuận kinh tế cao.
Lâm nghiệp: Chỉ đạo các chủ rừng đầu tư chăm sóc bảo vệ rừng trồng và nâng
cao hiệu quả công tác phòng chống cháy rừng, hướng dẫn nhân dân thủ tục, quy
trình kỹ thuật khai thác rừng trồng. Trong kỳ khai thác rừng bạch đàn 20 ha, diện
tích cao su trên địa bàn đạt 50,5 ha, keo lai mới trồng 25 ha, nâng tổng diện tích keo
lai đạt 150 ha, bạch đàn , tràm là 312,5 ha, thông nhựa 75 ha.
Trồng cây công nghiệp thời gian thu hoạch khá lâu khoảng từ 10 đến 15 năm,
chính vì vậy cần phải trợ cấp vốn sản xuất cho người dân để người dân có thể xoay
vòng vốn để người dân chủ động trong phát triển kinh tế. Tránh được tình trạng
người dân rơi vào thế bị động, cụt vốn, nếu như rơi vào tình trạng khó khăn sẽ dẫn
đến tình trạng khai thác sớm hơn so với thời gian của cây trồng, lúc này năng suất
cây trồng sẽ bị suy giảm, hiệu quả kinh tế không được như mong muốn, người dân
sẽ càng khó khăn hơn.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn có bước chuyển dịch, hiện nay toàn xã có 123 cơ sở, điểm
sản xuất tập trung vào các ngành nghề: sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, mộc
dân dụng, mỹ nghệ, chế biến lương thực với số lao động thường xuyên 207
người, trị giá sản xuất ước đạt 9572 triệu đồng, tạo ra giá trị gia tăng 4614 triệu
đồng tăng 14,6% so với năm 2012; Kinh doanh dịch vụ, thương mại có bước
phát triển khá, nhiều hộ đầu tư mua sắm phương tiện ô tô phục vụ kinh doanh.
Đến nay có 265 hộ tổ chức kinh doanh dịch vụ thương mại, giải quyết việc làm
thường xuyên cho 320 lao động, trong đó dịch vụ vận chuyển hàng hóa, dịch vụ
17
vận chuyển khách tăng trưởng nhanh góp phần tạo ra giá trị thu nhập 12.843
triệu đồng tăng 17% so với năm 2012 [16].
Tuy nhiên, tiểu thủ công nghiệp ngành nghề ở nông thôn phát triển còn manh
mún, nhỏ lẻ; Kiến thức, kỹ năng, tay nghề, kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh còn
thiếu và yếu, chưa tương ứng với tiềm năng trên địa bàn.
Xây dựng cơ bản: Công trình quản lý xây dựng trên địa bàn từng bước đi vào
nề nếp, tuân thủ theo quy định của pháp luật, trong kỳ đã cấp giấy phép xây dựng
cho 23 hộ xây dựng nhà ở, tăng cường công tác giám sát các công trình đảm bảo
về chất lượng, tổng giá trị các công trình triển khai thi công 4.390,8 triệu đồng, cụ
thể: nhà chức năng trường Trung học cơ sở Vạn Ninh: 3.569,6 triệu đồng, 02 thôn
Nam hải, Đại phúc thi công đường giao thông nông thôn 630m: 474,8 triệu đồng;
Các thôn, hợp tác xã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất văn hóa ở thôn và hạ tầng
đồng ruộng hết: 346,4 triệu đồng, trong đó: ngân sách huyện: 2856 triệu đồng,
ngân sách xã 1020 triệu đồng, ngân sách hợp tác xã và nhân dân đóng góp là 514,8
triệu đồng [16].
Tiếp nhận bàn giao công trình đường Quan từ Bến bốm đến chợ củ hoàn thành
vào quản lý sử dụng, trị giá 1950 triệu đồng, tập trung quyết toán các công trình
đã hoàn thành đưa vào sử dụng. Rà soát thống kê các công trình nằm trong hành
lang các tuyến quốc lộ và đường huyện để phối hợp xử lý, giải quyết theo quyết
định số 1856 của chính phủ, khảo sát đặt tên đường đề nghị huyện phê chuẩn với
số lượng 44 tuyến; cắm mốc chỉ giới xây dựng cho các hộ xây tường rào, xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng 4 trường hợp buộc 02 hộ tháo dỡ nhà do
xây trái phép.
Tuy nhiên, công tác quản lý về xây dựng còn nhiều bất cập: Giải phóng mặt
bằng chưa chặt chẽ, tiến độ công trình đường thôn Bến – Đại Phúc chậm, lưu giữ
quản lý hồ sơ chưa chặt chẽ, quyết toán công trình còn chậm [16].
1.1.2.2. Giáo dục, văn hóa, thông tin – thể dục thể thao(TDTT)
Giáo dục: Giáo dục được địa phương quan tâm hàng đầu, các trường chú trọng
nâng cao chất lượng dạy và học. Chú trọng đổi mới phương pháp quản lý, phương
pháp giảng dạy theo hướng nâng cao khả năng tự chủ của giáo viên và người học.
Việc tổ chức thi, đánh giá chất lượng học tập được chính xác, thực tế hơn, mỗi năm
18
bên cạnh bồi dưỡng học sinh giỏi để tham dự các cuộc thi tỉnh, thi huyện, trường
còn tổ chức học phụ đạo cho những học sinh có kết quả học tập từ loại trung bình,
yếu và kém nên kết quả năm học 2012- 2013 kết quả học tập của học sinh được đảm
bảo về chất lượng. Các chỉ tiêu đề ra của nhà trường tránh được tình trạng ngồi
nhầm lớp của học sinh, không chạy theo bệnh thành tích vì vậy nền giáo dục của xã
nhà được đánh giá toàn diện hơn và chất lượng mũi nhọn được nâng cao.
Cơ sở vật chất trường từng bước được đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hóa,
chuẩn hóa, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác dạy và học. Công tác xã hội hóa
được các ban ngành, ngành lớp nhân dân hưởng ứng và quan tâm chăm lo đúng
mức, công tác khuyến học, khuyến tài đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần
thúc đẩy sự nghiệp giáo dục xã nhà. Nhân dịp khai giảng năm học với sự quan tâm
của các cấp, các ngành đã cấp 68 suất học bổng với số tiền 6.800.000đ, trao thưởng
cho 20 em trúng tuyển vào các trường Đại học năm 2013 (theo nghị quyết HĐND
xã) với số tiền 4.000.000đ, trao thưởng 150 giải học sinh giỏi các cấp với trị giá:
5.200.000đ. Trung tâm học tập cộng đồng chủ động phối hợp với các ban, ngành
mở lớp tuyên truyền phỏ biến giáo dục pháp luật, chuyển giao khoa học kỹ thuật
cho 10 thôn: 26 lớp với 2067 lượt người tham gia, tạo cơ hội thuận lợi cho các tầng
lớp nhân dân tiếp cận đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước và khoa học kỹ thuật ứng dụng [15]
Văn hóa – thông tin – thể thao
Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai sâu
rộng và được sự hưởng ứng tích cực của nhân dân, kết quả điều tra có 116 hộ đạt
tiêu chuẩn gia đình văn hóa, có một thôn và cơ quan xã đề nghị trên thẩm định công
nhận làng văn hóa cơ quan văn hóa.
Tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao chào mừng các ngày
lễ kỷ niệm, các ngày lễ tết của đất nước đã tạo không khí vui tươi, lành mạnh, góp
phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Tổ chức thành công Đại hội TDTT
lần thứ IV năm 2013, với đa dạng các môn thi đấu tạo không khí thi đua sôi nổi,
nâng cao tình đoàn kết, thắt chặt mối quan hệ trên địa bàn. Hệ thống truyền thanh
thôn xã duy trì thời lượng truyền thanh và tiếp sóng thông tin kịp thời các chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo điều
19
hành, của chính quyền phục vụ có hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trên
địa bàn. Bên cạnh những kết quả đạt được thì xã còn có những mặt hạn chế như:
Chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào
xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa đạt thấp, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động
văn hóa, giáo dục xuống cấp, phòng học, phòng chức năng còn thiếu, chưa đáp ứng
được yêu cầu công việc [16].
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đẩy mạnh, trong năm khám và
điều trị cho 5.591 lượt người, trong đó: Khám và điều trị BHYT 2.216 lượt người,
khám điều tra và tại nhà 1.821 lượt người; Khám điều trị nội trú 188 trường hợp.
Chương trình y tế dự phòng được thực hiện chặt chẽ, đã chú trọng tổ chức truyền
thông phòng chống bệnh sốt rét và sốt xuất huyết, phòng chống dịch bệnh theo mùa,
ngộ độc thực phẩm. Kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm các quán kinh doanh trên
địa bàn, phối hợp Trung tâm phòng dịch tẩm màn diệt muổi cho nhân dân trên địa
bàn với số lượng 3.318 cái. Cấp hỗ trợ hộ nghèo màn với số lượng 300 cái; Tẩy
giun định kỳ cho học sinh các Trường tiểu học 494 em, quan tâm tập huấn nâng cao
kiến thức về phòng chống suy dinh dưỡng cho đội ngũ y tế thôn bản
Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng được nâng cao, sức khỏe
của người dân đến từng thôn, từng hộ gia đình, cơ sở hạ tầng được nâng cấp và cải
tiến bởi các thiết bị khoa học tiên tiến hiện đại ở trạm y tế xã để phục vụ chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân [16].
Về dân số kế hoạch hóa gia đình: Thường xuyên tuyên truyền vận động nhân
dân trong độ tuổi thực hiện tốt các biện pháp tránh thai, trong kỳ đã vận động nhân
dân áp dụng các biện pháp tránh thai 372 người, trong đó: Đặt vòng 112 người, đình
sản 05 ca, cấy thuốc 03, tiêm thuốc tránh thai 29 trường hợp, uống thuốc 114 trường
hợp, dùng bao cao su thường xuyên 110 trường hợp.
Ngày mùng 8 tháng 4 năm 2014 xã cùng với huyện thực hiện chiến dịch
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ, tổ chức khám phụ khoa và tư vấn sử
dụng các biện pháp tránh thai an toàn, được sự ủng hộ nhiệt tình, đông đảo người
dân tham gia.
20
Tuy vậy, công tác truyền thông, vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia
đình, thực hiện bình đẳng giới duy trì thiếu thường xuyên, chưa đồng bộ nên một số
chỉ tiêu đạt thấp, tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh còn cao và tỷ lệ sinh con thứ 3
trở lên cao chiếm (14,1%) [16].
1.1.3. Dân cư
Xã Vạn Ninh gồm có 10 thôn: Thôn Nam Hải, thôn Đồn, thôn Bến, thôn Giữa,
thôn Tây, thôn Sỏi, thôn Đại Phúc, thôn Phúc Sơn, thôn Áng Sơn, thôn Xuân Sơn,
ngày 31/12/2013 trên toàn xã có 1.892 hộ, ngày 1/1/2013 xã có 7.754 người.
Tỷ lệ hộ nghèo: 6,76% (128 hộ nghèo/1.892 nhân khẩu), tỷ lệ hộ cận nghèo:
11,62% (220 hộ cận nghèo/1.892 nhân khẩu), tôn giáo có 500 người theo đạo Thiên
Chúa chiếm 6.44%.
Số hộ nghèo và cận nghèo, trong xã chiếm tỷ lệ 18,38% tỷ lệ này đang còn ở
mức độ cao. Chính vì vậy, xã cần phải có những chính sách, biện pháp giúp người
dân thoát nghèo như: Hỗ trợ vốn làm ăn, cho vay vốn với lãi suất thấp và cung cấp
kiến thức về kỹ thuật để người dân phát triển sản xuất có hiệu quả góp phần vào cải
thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Cuộc sống, điều kiện kinh tế của người dân ổn định, khang trang phần nào đó
góp sức cho công tác truyền thông, vận động; Giáo dục; Ban hành các chính sách,
pháp lệnh dân số; Cơ chế giảm sinh cũng như sử dụng các biện pháp tránh thai an
toàn đạt hiệu quả cao [16].
Dân cư ở đây có dân tộc Kinh, chủ yếu là người dân bản địa và người dân
nhập cư ở các tỉnh thành khác đến đây sinh sống và làm việc.
1.2. Một số khái niệm liên quan về vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm môi trường
Môi trường là bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố nhân tạo có mối quan hệ
mật thiết với nhau bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn
tại và phát triển của con người và thiên nhiên ( Theo Điều 1 Luật bảo vệ Môi trường
Việt Nam)
Môi trường theo nghĩa rộng môi trường là các nhân tố tự nhiên và xã hội cần
thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như: tài nguyên thiên nhiên, không
khí, đất, nước, ánh sáng.....
21
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên mà chỉ bao
gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan đến cuộc sống của con người
Tóm lại môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và
phát triển
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn cỉa con người nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người
1.2.2. Ô nhiễm môi trường
Theo Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam:"Ô nhiễm môi trường là sự làm
thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm Tiêu chuẩn môi trường".
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc
năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người,
đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô
nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải
rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt
độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng,
nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến
con người, sinh vật và vật liệu.
Các dạng ô nhiễm môi trường:
Ô nhiễm môi trường đất: Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của
con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của
quần xã sống trong đất. Môi trường đất là nơi cư trú của con người và hầu hết các
sinh vật sống trên cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công
nghiệp và văn hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người
sữ dụng tài nguyên đất và hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung
cấp lương thực, thực phẩm cho con người. Nhưng với tốc độ gia tăng dân số và tố
độ phát triển của các khu công nghiệp và hoạt động đô thị hóa như hiện nay thì diện
tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện
tích đất bình quân trên đầu người ngày càng giảm. Riêng chỉ ở Việt Nam thực tế cho
thấy suy thoái tài nguyên đất là rất đáng báo động và lo ngại.
22
Ô nhiễm môi trường nước: Ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi theo chiều
xấu đi của các tính chất vật lý, hóa học, sinh học của nước, với sự xuất hiện của các
chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại đối với con người và
sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy
mô ảnh hưởng thì ô nhiễm môi trường nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm môi
trường đất. Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước
ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm
lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không
thể đồng hóa được. Kết quả là làm cho hàm lượng oxi trong nước giảm đột ngột,
các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương
nguyên nhân chính gây ô nhiêm môi trường đó la sự cố tràn dầu ô nhiễm nước có
nguyên nhân từ các loại chất thải và chất thải công nghiệp được thải ra các con sông
mà chưa qua khâu xử lý đúng mức, các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu
ngấm dần vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ nước thải sinh hoạt được thải ra từ
các khu dân cư sống ven sông.
Ô nhiễm môi trường không khí: Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt
một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho
không khí mất trong lành hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn
xa do khói bụi. Hiện nay, ô nhiễm môi trường khí quyển là vấn đề thời sự rất nóng
bỏng của cả thế giới chứ không phải của riêng -một quốc gia nào. Môi trường khí
quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và hệ sinh
vật trên trái đất này. Hàng năm con người khai thác và sữ dụng hàng tỉ tấn than đá,
đầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải ra môi trường một khối lượng rất lớn các chất
thải khác nhau như: Chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm
cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm phóng xạ: Ô nhiễm phóng xạ do các chất phóng xạ gây ra, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người.
Ô nhiễm tiếng ồn: Ô nhiễm tiếng ồn bao gồm tiếng ồn do xe cộ, máy bay, tiếng
ồn công nghiệp và các loại máy móc cơ khí khác.
Ô nhiễm sóng: Là do các loại sóng như sóng điện thoại, truyền hình…. Tồn tại
với mật độ lớn.
23
1.2.3. Công tác xã hội
Cho đến nay có rất nhiều cách hiểu, nhiều định nghĩa khác nhau về Công tác xã
hội, sau đây là một số quan niệm về Công tác xã hội:
Công tác xã hội là khoa học ứng dụng: Xây dựng những kỹ năng chuyên môn
nghiệp vụ về Công tác xã hội nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến vị trí,
địa vị vai trò xã hội của cá nhân, cộng đồng xã hội, góp phần ổn định xã hội và
cộng đồng.
Công tác xã hội là các hoạt động thực tiễn với các phương pháp riêng biệt nhằm
vào các cá nhân và các nhóm đối tượng cụ thể nhằm thay đổi các biện pháp cụ thể,
thay đổi các hiện trạng xã hội mang tính bức xúc như: Các tệ nạn xã hội, sự bất bình
đẳng, nghèo đói, bệnh tật, việc làm...
Là hành động nhân đạo, từ thiện: trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội
như: Thiên tai, lũ lụt, chến tranh… Phân phối, ban phát tiền của, hiện vật do các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước giúp đỡ nhằm thực hiện các chức năng xã hội
của các cá nhân, các nhóm và cộng đồng trong xã hội.
Là dịch vụ xã hội: Những dịch vụ xã hội cung ứng cho những cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng những thông tin, tài liệu hỗ trợ tinh thần và các kỹ năng chuyên
môn nhằm mục đích giúp họ vươn lên hoàn cảnh, khắc phục những khó khăn và từ
đó họ có thể vươn lên trong cuộc sống, mặt khác Công tác xã hội cũng giúp cho cá
nhân nhận thức rõ quyền lực của chính mình và xã hội nhằm để tiến tới tác động trở
lại xã hội, xóa bỏ nghèo đói.
Là thiết chế xã hội: Có mục đích nhằm thỏa mãn các lợi ích cơ bản của những
cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội có hoàn cảnh đặc biệt. Nội dung của Công tác xã
hội thể hiện các giá trị, các chuẩn mực, các hành vi xã hội được mọi người cùng
chia sẻ chấp nhận.
Công tác xã hội cũng nhằm mang lại cho những con người đang phải chịu
nhiều thiệt thòi, mất mát trong cuộc sống, những niềm tin sự hỗ trợ cả vật chất và
tinh thần để họ có được cuộc sống ổn định hơn thế nữa để họ có thể tự phát huy
tiềm năng của chính mình vươn lên thoát khỏi đói nghèo, dốt nát, bệnh tật.
24
Xuất phát từ nhiều quan điểm về Công tác xã hội đã dẫn đến nhiều định nghĩa
Công tác xã hội khác nhau tuy không có sự đối lập nào nhưng cũng chưa có được
một định nghĩa nào thống nhất.
Theo Foundation of Social Work Practice: Công tác xã hội là một môn khoa
học ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt qua khó khăn của họ và đạt được một vị
trí ở mức độ phù hợp trong xã hội, Công tác xã hội được xem như một môn khoa
học vì nó dựa trên những luận chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã được
chứng minh, nó cung cấp một lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn và xây dựng
những kỷ năng chuyên môn hóa.
Theo Joanf Robertson – Chủ nhiệm khoa Công tác xã hội đại học Wisconsin,
Hoa kỳ: Công tác xã hội là quá trình giải quyết các vấn đề hợp lý nhằm thay đổi
theo kế hoạch hướng tới mục tiêu đã đề ra ở cấp độ cá nhân, gia đình, nhóm, tổ
chức, cộng đồng và chính sách xã hội.
Theo Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội Quốc tế - IFSW (đưa ra tại Đại hội
Montreal – tháng 7/2000): Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã
hội, việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực
và giải phóng người dân nhằm giúp cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội
can thiệp ở những điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân
quyền và Công tác xã hội là các nguyên tắc cơ bản của nghề (theo định nghĩa này
thì Công tác xã hội được công nhận tại các nước chưa có nền giáo dục phát triển cao
về Công tác xã hội).
Theo Nguyễn Thị Oanh (Đại học Mở bán công Thành Phố Hồ Chí Minh): Công
tác xã hội là hoạt động thực tiễn, mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo các
nguyên tắc và phương pháp nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong
việc giải quyết các vấn đề trong đời sống của họ. Qua đó Công tác xã hội theo đuổi
mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. Công tác xã hội là hoạt
động thực tiễn bởi họ luôn làm việc trực tiếp bới đối tượng, với nhóm người cụ thể
và mang tính tổn hợp cao, bởi người làm Công tác xã hội phải làm việc với nhiều
vấn đề khác nhau như: tệ nạn xã hội, người khuyết tật, vấn đề người nghèo, vấn đề
gia đình,…
25