Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.36 KB, 25 trang )

Tiểu luận Triết học

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

Mục Lục
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................2
NỘI DUNG CHÍNH...................................................................................................................................3
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ....................................................................................................4
Khái niệm triết học........................................................................................................................4
Nguồn gốc triết học.....................................................................................................................4
3. Đối tượng của triết học..............................................................................................................6
4. Vấn đề cơ bản của triết học........................................................................................................8
5.Các trường phái triết học....................................................................................................................9
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC ................................................................................................................11
1. Vai trò thế giới quan ................................................................................................................11
2. Vai trò phương pháp luận.........................................................................................................13
3. Vai trò của triết học Mác - Lê nin..............................................................................................14
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỒNG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI.........................................................15
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................................25

Phan Thị Ngân Phương

1

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội



MỞ ĐẦU
Trong thời đại xã hội hiện đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của
khoa học và công nghệ, với vai trò ngày một gia tăng của kinh tế tri thức và
cùng với đó là nhu cầu hội nhập, giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng trở nên
thiết yếu, nhân loại đã chính thức bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên toàn
cầu. Khi thực sự bước vào kỷ nguyên toàn cầu, cả cộng đồng nhân loại đang
phải đối mặt với những khó khăn, thử thách, những vấn đề mang tính toàn cầu.
Việc giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc của cuộc sống,
đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ
thuật hiện đại và công nghệ cao, mà Triết học với tư cách là một ngành khoa học
độc lập cũng đã có những đóng góp không nhỏ. Triết học giúp cho con người
tìm ra lời giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn
đề hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học không chỉ giúp con
người nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng đáng với con người, mà còn
giúp họ xác định mục tiêu và lý tưởng sống để từ đó, góp phần biến đổi hiện
thực nhằm phục vụ cho chính mình. Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, triết
học còn giúp cho con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động
và củng cố quyết tâm hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra,
gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Và trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, triết học cũng đang thực hiện chính
những vai trò to lớn đó.
Để phù hợp với trình độ phát triển ở giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài
người, triết học ra đời với tính chất là một khoa học tổng hợp các tri thức của
con người về hiện thực xung quanh. Sau đó, do sự phát triển của xã hội triết học
đã tách ra và trở thành khoa học độc lập. Triết học với tính chất là khoa học, nên
nó có đối tượng và nhiệm vụ, nó là hệ thống những quan niện, quan điểm có tính
chất chính thể về thế giới, về vật chất, tinh thần và mối quan hệ giữa chúng, về
nhận thức và cải biên thế giới.


Phan Thị Ngân Phương

2

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
Nghiên cứu về triết học, vai trò của triết học trong đời sống xã hội hiện đại
để thấy được triết học không phải là một vấn đề quá xa xôi, khó hiểu, ngược lại,
nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một lập
trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết đúng
đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường
triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở
đây thể hiện giá trị đinh hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng
phương pháp luận của triết học. Tiếc rằng, giá trị định hướng này hiện nay chưa
được khai thác triệt để. Có lẽ chính vì vậy mà cũn cú những sự đánh giá chưa
thoả đáng về vai trò của triết học trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
Chính vì những lý do đó đã thôi thức tôi nghiên cứu đề tài “Vai trò của
triết học trong đời sống xã hội hiện đại” cho bài tiểu luận triết của mình. Với
sự hiểu biết còn hạn chế về triết học, tôi đã cố gắng tìm tòi và trình bày trong bài
tiểu luận này, có thể gặp nhiều thiếu sót, nhưng tôi hi vọng có thể đóng góp
được phần nhỏ bé nào đó trong việc nghiên cứu đề tài này.

NỘI DUNG CHÍNH

Phan Thị Ngân Phương

3


Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

Khái niệm triết học
Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ
VI TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm
ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để
dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là
cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt
tới chân lý tối cao. Đó là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là
Philôsôphia - nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia
vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người.
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình
thái cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận
chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống
nhau, đó là: triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy
luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài
người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một
cách có hệ thống dưới dạng duy lý.

Khái quát lại ta có thể hiểu: triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của
con người trong thế giới ấy.
Nguồn gốc triết học
Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành,
nhất là khoa học thực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học,
Phan Thị Ngân Phương

4

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa
học" của một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm
trên và xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết
học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ngơời đối với thế giới; là
khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt
của thế giới, triết học xem xét thế giới như một chỉnh thể và đem lại một hệ thống
cỏcquan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng
là đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người,
mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.

Như vậy, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất,
triết học không thể ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người. Triết học
chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành
lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống
hóa cỏcquan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và trên cơ sở
đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế
độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều
đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã mang trong mình tính
giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.
Thứ hai, con người đó có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn
hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể
rút ra được cái chung từ vô số các sự vật và hiện tượng riêng lẻ, xây dựng nên
các học thuyết, lý luận.
Phan Thị Ngân Phương

5

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
Điều đó khẳng định rằng, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết
học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quy định.
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ
nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết
học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất
hiện khi có những điều kiện nhất định.
Nguồn gốc nhận thức. Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện

tượng muôn hình, muôn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một
loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển
như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật nào
không? ... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng
cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng
hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
Nguồn gốc xã hội, lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao
động thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai
cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có
điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã tự
mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những
lực lượng xã hội nhất định.
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia
chúng chỉ có tính chất tương đối.
3. Đối tượng của triết học
Đối tượng của triết học, sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai
đoạn lịch sử. Đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của
lịch sử.
Triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm tri thức về tất
cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy
Phan Thị Ngân Phương

6

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

sinh quan niệm về sau này cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học.
Thời kỳ cổ đại, triết học đã đạt đựơc nhiều thành tựu rực rỡ cả ở phương Đông
và phương Tây, mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tri
thức thời hiện đại, trong toán học, vật lý học, hoá học, thiên văn học và cả trong
mỹ học, đạo đức học, dân tộc học, xã hội học ...
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, triết học trở thành nô lệ của thần học. Triết học chỉ còn
nhiệm vụ lý giải, chứng minh, biện hộ cho những tín điều trong Kinh thánh.
Triết học tự nhiên bị thay bằng triết học kinh viện. Triết học thời kỳ này phát
triển một cách chậm chạp trong đêm trường trung cổ.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp,
các bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra
đời với tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu
hình học - Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này là nghiên
cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể” có thể
thực nghiệm được. Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph.
Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... Mặt
khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà
đỉnh cao là Triết học Hêghen. Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn
khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của
Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học
Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của
mình là một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học
riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào Triết học.
Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển
biến tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách
quan cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa
học”. Triết học Mác - Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt
đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải

7
Phan Thị Ngân Phương
Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và
nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên
cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối
quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới
xung quanh.
4. Vấn đề cơ bản của triết học.
Triết học cũng như các khoa học khác phải giải quyết rất nhiều những vấn
đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng và là
điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của
triết học.
Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản
lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư
duy với tồn tại” bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để
giải quyết các vấn đề khác của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định
lập trường thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con người có thể phản ánh trung thực thế giới khách
quan hay không? Nghĩa là con người có khả năng nhận thức hay không?
Việc trả lời hai câu hỏi trên đã dẫn đến sự hình thành các trường phái và
các học thuyết triết học khác nhau.


Phan Thị Ngân Phương

8

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
5.
Các trường phái triết học

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

5.1 Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc
phân chia các học thuyết triết học thành hai trường phái triết học cơ bản là chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
5.1.1 Chủ nghĩa duy vật :
Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và quyết
định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau
của chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử
phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn
tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại: Là kết quả nhận
thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây thơ
và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng.
Trường phái này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện

dẫn thần linh hay thượng đế.
+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII - XVIII: Là
kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự
phát triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy
móc chiếm vị trí thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Là kết quả nhận thức của các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa những tinh hoa của các học
thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy
vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác
Lênin mang tính chất cách mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ
Phan Thị Ngân Phương

9

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
phản ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà còn là công cụ hữu ích giúp con
người cải tạo hiện thực đó.
5.1.2 Chủ nghĩa duy tâm: Là những người cho rằng ý thức, tinh thần có
trước giới tự nhiên; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của
chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ
yếu là:
+ Duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn
tại khách quan của hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác
của cá nhân, của chủ thể.

+ Duy tâm khách quan: cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng
đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực
thể tinh thần khách quan này thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh
thần tuyệt đối; lý tính thế giới...
Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và
nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng
xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên
hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lượng
xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa
một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế
giới vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của tư duy
triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các giai
cấp đối lập trong xã hội.
5.1.3 Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm)
giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các
nhà triết học nhị nguyên luận.
Phan Thị Ngân Phương

10

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích mọi
hiện tượng của thế giới. Theo họ, vật chất và ý thức song song tồn tại, không có
cái nào có trước, cả hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới. Thế giới vật chất sinh

ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ
muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhưng cuối cùng
họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự
nó, không phụ thuộc vào vật chất.
5.2

Thuyết không thể biết

Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, đại đa số các nhà
triết học(cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người, nhưng với những cách lý giải trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật
xuất phát từ chỗ coi vật chất có trước, ý thức có sau và là sự phản ánh thế giới
vật chất đã thừa nhận con người có thể nhận thức được thế giới khách quan và
các quy luật của nó. Còn chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước và quyết
định vật chất nên nhận thức không phải là sự phản ánh thế giới, mà chỉ là sự tự
nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan là
nguồn gốc của nhận thức.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi
là thuyết không thể biết. Họ cho rằng, con người không thể hiểu được đối tượng
hoặc nếu có hiểu thì chỉ là hình thức bên ngoài; bởi vì tính xác thực của các hình
ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận
thức không đảm bảo tính chân thực. Tiêu biểu là quan niệm của Beccơly, Hium.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của
triết học như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, nhưng
quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
1. Vai trò thế giới quan
Trong cuộc sống của con người và xã hội loài người, thế giới quan đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con người
11

Phan Thị Ngân Phương
Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan như
một thấu kính, qua đó con người nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách
thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để
xác lập nhân sinh quan tích cực.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới
quan của triết học. Triết học chính là thế giới quan, là tổng hoà các quan điểm
của con người về thế giới nói chung và về mối quan hệ của nó với thế giới đó
nói riêng. Bản chất của triết học được thể hiện ở những suy tư về các vấn đề phổ
biến trong hệ thống "Thế giới - Con người". Từ đó cho thấy, vai trò của triết học
trong việc xây dựng ý thức toàn cầu hiện nay thể hiện ở hai chức năng cơ bản
của nó, chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. Chức năng
quan trọng nhất trong các chức năng thế giới quan là chức năng nhân văn. Triết
học không chỉ giúp con người có những phản tư chính xác về chính bản thân nó,
tức ý nghĩa cuộc sống của nó, và mối quan hệ của nó với thế giới xung quanh,
mà còn định hướng hoạt động cho con người, cho xã hội và cho cả loài người
tránh được những sai lầm trong mối quan hệ "xã hội - tự nhiên".
Chức năng thứ hai trong chức năng thế giới quan là chức năng giá trị học xã hội. Đó là chức năng xây dựng các giá trị, tức là nghiên cứu các quan niệm về
giá trị, như chân, thiện, mỹ, công bằng, từ đó, đưa ra quan niệm về lý tưởng xã
hội. Nguồn gốc của lý tưởng xã hội, theo P.I.Novogorodxev, một trong những
người sáng lập trường phái triết học pháp quyền Mátxcơva đầu thế kỷ XX, là ở
nhân cách sinh động của con người. Về lý tưởng xã hội, ông viết: "Một nguyên

tắc đương nhiên của nhân cách cần phải được quy về tư tưởng toàn nhân loại, về
tình đoàn kết toàn thế giới... Lý tưởng xã hội có thể xem là nguyên tắc phổ quát
cửa tự do". Đây có thể được xem là quan điểm đúng đắn về vai trò mấu chốt của
triết học trong sự hình thành ý thức toàn cầu.
Phan Thị Ngân Phương

12

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
Chức năng cơ bản tiếp theo là chức năng văn hoá - giáo dục. Đây là chức
năng quan trọng trong việc hình thành nhân cách có văn hoá của con người: sự
định hướng vào cái chân, cái thiện, cái mỹ. Triết học giúp con người tránh được
sự hời hợt, thiển cận của loại tư duy thường nhật, hiểu được đúng hơn những
mâu thuẫn và những diễn biến xảy ra trong thế giới để tìm cách giải quyết các
mâu thuẫn đó một cách có hiệu quả.
Cuối cùng, một trong những chức năng thế giới quan khác cần được đề cập
là chức năng phản ánh - thông tin. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
triết học là nghiên cứu thế giới quan trong sự phù hợp của nó với trình độ của
khoa học hiện đại, với thực tiễn lịch sử và những đòi hỏi về mặt trí tuệ của con
người. Cũng như một khoa học, triết học là một hệ thống thông tin năng động và
phức tạp được thiết lập để tập hợp, phân tích và xử lý thông tin với mục đích tìm
được thông tin mới.
2. Vai trò phương pháp luận
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh
vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết học - Đó là phương pháp luận.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ

đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét theo phạm vi tác dụng, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
+ Phương pháp luận ngành (hay phương pháp luận bộ môn) là phương
pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số
ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm
xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận
ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Bất kỳ phương pháp nào của khoa học cũng có những khả năng lý luận
nhận thức và logic của nó. Ngoài các giới hạn của những khả năng đó, hiệu quả
Phan Thị Ngân Phương

13

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
của nó bị suy giảm hoặc hoàn toàn bị mất. Phương pháp luận triết học theo quan
hệ với các phương pháp của khoa học cụ thể, có nhiệm vụ thiết lập mối liên hệ
logic giữa các nhóm phương pháp. Các khoa học cụ thể cần đến logic, nhận thức
luận và các phương pháp luận chung của nhận thức. Chức năng đó do phép biện
chứng với tư cách logic học đảm nhiệm. Nó tìm ra các phương tiện cho sự phản
ánh một cách đầy đủ, chính xác nhất về bản chất của khách thể đang phát triển
và không ngừng biến đổi.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai
trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp

luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên
tắc trong việc xác định phương pháp, là một lý luận về phương pháp.
3. Vai trò của triết học Mác - Lê nin
Triết học Mác - Lê nin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc
xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác - Lê nin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp
biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.
Nhờ đó, triết học Mác - Lê nin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên,
xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp
mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn,
trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của phương pháp luận.
Như vậy, trong triết học Mác - Lê nin, thế giới quan và phương pháp luận
thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật
hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa
học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học.
14
Phan Thị Ngân Phương
Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
Ngược lại, triết học Mác - Lê nin đem lại thế giới quan và phương pháp luận
đúng đắn cho sự phát triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa
triết học Mác - Lê nin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận

triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành.
Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư
duy biện chứng thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương hướng
và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững
triết học Mác - Lê nin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất
chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo của mỡnh, trỏnh những sai lầm
do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lê nin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể
giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn cần tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: hoặc xem thường triết học
hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem thường triết học sẽ rơi vào
tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất
phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo. Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của
triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, quy
luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng,
dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỒNG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Trong giai đoạn xã hội hiện nay, nhân loại đang chứng kiến những biến
động to lớn, phức tạp và có tác động sâu sắc, nhiều mặt, không chỉ đến con
người và xã hội, mà còn cả đến giới tự nhiên. Các sự kiện trong xã hội dồn dập
xảy ra làm cho những cái tưởng như hết sức vững chắc bỗng sụp đổ; cái mới có
khi chưa kịp phát huy tác dụng, thâm chí chưa định hình rõ rệt đã có những cái
mới nảy sinh bổ sung hoặc trực chờ để thay thế. Ngay cả giới tự nhiên dường
Phan Thị Ngân Phương

15

Lớp Cao học Văn hóa học - K20



Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
như cũng đối xử với con người khắc nghiệt hơn vài ba thập kỷ trước. Cùng với
tất cả những biểu hiện đó, các thành tựu to lớn mà nhân loại đặt được trong
nhiều lĩnh vực hoạt động khắc nhau, nhất là trong khoa học và công nghệ.
Nhưng dường như tồn tại một nghịch lý là trong lúc thế giới đang có những biến
chuyển về kinh tế, xã hội có thêm sức mạnh vật chất và tinh thần mới thì cũng
chính là lúc ở không ít nước, nghèo đói, bệnh tật vẫn là những gánh nặng khó
khắc phục, còn con người phải đối mặt với những đe dọa, thách thức và khó
khăn to lớn mới song chưa đủ sức để thoát ngay ra được. Rõ ràng là cả xã hội và
cá nhân đang phải chứng kiến không ít những bi kịch, thảm cảnh. Con người
vẫn phải đang tìm kiếm lời giả cho những câu hỏi muôn thủơ: ý nghĩa của cuộc
sống này là gì? Vô hình chung người ta lại quay về với triết học.
Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến thời đại ngày nay, dù tồn tại
ở phương Đông hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường
phái rất khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất định về thế giới mà
trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống, trào lưu, trường
phái triết học đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm
vụ là lý giải về thế giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải ấy, triết
học trở thành cái định hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành cái
định hướng cho con người trong hành động, triết học thực hiện một chức năng
khác - chức năng phương pháp luận.
Về nguyên tắc, giá trị định hướng này của triết học không khác với giá trị
định hướng của các nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận của các bộ môn khoa
học chuyên ngành nào đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực,
chẳng hạn, không khác với giá trị định hướng của định luật bảo toàn và chuyền
hoá năng lượng, của quy luật giá trị... Cái khác chỉ là ở chỗ, các nguyên lý, các

khẳng định của triết học là kết quả nhận thức những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ chung nhất của cả tự nhiên, xã hội lẫn tư duy, cho nên chúng
có tác dụng định hướng không phải chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy
Phan Thị Ngân Phương

16

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
như trong trường hợp các nguyên lý, quy luật do các khoa học chuyên ngành
nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các nguyên lý, các khẳng định triết học ấy giúp
cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật bao giờ
cũng có được một lập trường xuất phát nhất định. Lập trường xuất phát ấy giúp
cho chủ thể hành động thấy trước được phương hướng vận động chung của đối
tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động
cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là nó giúp cho con người xác định được về
đại thể con đường cần đi, có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết
vấn đề, tránh được những mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt
hết sức phức tạp mà không có tư tưởng dẫn đường. Xuất phát từ một lập trường
triết học nhất định, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn một phương hướng giải
quyết vấn đề theo một cách thức nhất định, và xuất phát từ những lập trường
triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương hướng và
cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, việc chấp
nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đấy sẽ không chi đơn
thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định, một
cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp nhận
một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.

Con người thường phải tựu trả lời các câu hỏi khi tự mình hành động,
chẳng hạn, làm sao để đạt được kết quả tốt nhất? Hành động như vật đúng hay
sai?,... Để trả lời những câu hỏi này, phương pháp luận triết học có vai trò rất
lớn. Nó là một hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc xuất phát, các nguyên tắc
chung nhất để tiến hành những hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Phương pháp luận triết học với tư cách là phương pháp luận chung nhất, như
nhà triết học Anh thế kỷ XVII Ph.Bêcơn nói “Triết học là ngọn đuốc soi đường
cho người ta đi trong đêm”, hoặc như nhà triết học nổi tiếng người Pháp Đề các
tơ khẳng định: “Thà không đi tìm chân lý còn hơn là đi tìm nó mà không có
phương pháp”. Phương pháp nhận thức biện chứng trong triết học mácxit càng
có vai trò quan trọng hơn vì nó giúp người ta xem xét cả tự nhiên, xã hội và tư
duy con người trong quá trình phát sinh, vận động, phát triển và chuyển hóa và
Phan Thị Ngân Phương

17

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
chính nó là học thuyết về các quy luật chung nhất của các lĩnh vực này. Với
phương pháp nhận thức biện chứng, người ta nhìn nhận sự vật một cách khách
quân, toàn diện và lịch sử - cụ thể. Đúng như Lê nin nói. “Triết học Mác là một
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”, “là công cụ nhận thức vĩ đại”.
Hơn nữa, trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, triết học với những mối
liên hệ chằng chịt, đan xen nhiều chiều thì phương pháp nhận thức biện chứng
duy vật giúp người ta nhìn nhận những gì đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của
thế giới đương đại, của đời sống xã hội một cách khách quan hơn, toàn diện và
cụ thể hơn, tránh được sự chủ quan, phiến diện, cứng nhắc, giáo điều và đồng

thời cũng tránh được cả sự thiếu nhất quán, chao đảo, ngả nghiêng từ thái cực
này sang thái cực khác. Khi triết học giúp cho con người có được cái nhìn tổng
quát, có cách lý giải đúng đắn về chiều hướng và về những biến động trên thế
giới, về xã hội, về bản thân mình thì chính triết học đó giúp con người có được
sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố sự quyết tâm hành động để
hoàn thành mục tiêu đã đề ra với kết quả cao nhất.
Trong kỷ nguyên toàn cầu, con người đang được đặt ở vị trí trung tâm của
mọi chiến lược phát triển, triết học lấy đối tượng nghiên cứu là sự phát triển bền
vững, sự tồn vong của mỗi con người, mỗi cá thể, mỗi cộng đồng dân tộc và cả
cộng đồng nhân loại, theo chúng tôi, trước hết cần phải hướng mỗi con người và
cả cộng đồng nhân loại đến chỗ nhận thức ngày một sâu sắc hơn vị thế “làm chủ
tự nhiên một cách thực sự và có ý thức”, “làm chủ đời sống xã hội của chính
mình”, sáng tạo ra và làm chủ tiến trình phát triển lịch sử của chính mình một
cách hoàn toàn tự giác trên cơ sở tự giải phóng mình khỏi sự khép kín về đẳng
cấp, về địa vị, về vị trí và vai trò của mình trong đời sống xã hội của mỗi cộng
đồng dân tộc. Triết học đó cần hướng con người đến chỗ thừa nhận “trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, đồng
thời lấy việc “phát triển sự phong phú của bản chất con người” làm “mục đích
tự thân”(4) như C.Mác đã khẳng định. Không chỉ thế, triết học trong kỷ nguyên
toàn cầu còn phải hướng bản chất nhân văn, tính nhân đạo, khát vọng dân chủ,
tự do và bình đẳng với tư cách thuộc tính nội tại, vốn có của con người được
Phan Thị Ngân Phương

18

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

thực hiện ngay ở mỗi con người và ở cả cộng đồng dân tộc, cộng đồng nhân
loại; hướng con người đến chỗ nhận thức và tổ chức “những lực lượng của bản
thân” thành “những lực lượng xã hội”, thành sức mạnh cải tạo của cả cộng đồng.
Và, triết học này cũng cần phải hướng mỗi con người đến chỗ tự tạo ra “bước
nhảy” cho mình “từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do” để cuối
cùng “làm chủ tồn tại xã hội của chính mình” và do vậy mà “làm chủ tự nhiên,
làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do”(5) để trên cơ sở đó, hướng
mỗi cộng đồng dân tộc và cả cộng đồng nhân loại phát triển bền vững theo mục
tiêu lấy “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”(6).
Đồng thời, toàn cầu hoá đang dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt của
thế giới, đang tạo ra những cơ hội cho các nước lạc hậu có thể nắm lấy để phát
triển và hội nhập. Tuy nhiên, để nắm được những cơ hội ấy, và hơn thế nữa, để
biến chúng thành hiện thực trong điều kiện mọi thứ đều đổi thay nhanh chóng
thì cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là biết thích ứng nhanh.
Nguồn nhân lực ấy luôn phải đối diện với vô vàn các sự kiện, các tình huống
phức tạp, các cách đánh giá khác nhau, thậm chí rất trái ngược nhau về bản chất,
đặc trưng và khả năng mà toàn cầu hoá có thể mang lại, phải tìm cho được câu
trả lời tốt nhất về những vấn đề đang được đặt ra trước đất nước mình. Nguồn
nhân lực như vậy không tự nhiên mà có, hơn nữa, nó không chỉ cần có trình độ
nghề nghiệp, có kiến thức chuyên môn hẹp vững vàng, mà còn phải được đào
tạo, bồi dưỡng cả về thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan và phương pháp
nhận thức. Nguồn nhân lực đó không chỉ phải có khả năng thích ứng nhanh với
các tiến bộ của khoa học và công nghệ, mà còn phải thích ứng nhanh với những
biến động nhiều mặt của xã hội. Chính triết học sẽ giúp con người rèn luyện khả
năng tư duy mềm dẻo, nhạy bén, vừa là để tự nhận thức bản thân mình, hiểu
được cả những khả năng vốn có lẫn cả những hạn chế của mình để tự vươn lên,
vừa là để nhận thức đúng đắn và chính xác hoàn cảnh khách quan và dự báo
được những sự biến động nhanh chóng của xã hội.


Phan Thị Ngân Phương

19

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
Đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta trong kỷ
nguyên toàn cầu hoá, triết học cũng có vai trò không nhỏ và nhiều mặt. ở đây,
chỉ xin nêu một vài điểm. Chẳng hạn, khi hoạch định các bước đi thích hợp cho
một giai đoạn thì không thể không nhìn lại quá khứ, không thể không phân tích
thế giới đương đại và nhất là không thể không dựa vào những dự báo về sự biến
đổi nhanh chóng, nhiều mặt và đầy mâu thuẫn của kỷ nguyên toàn cầu hoá. Nhìn
lại quá khứ chính là xem xét, phân tích các bài học kinh nghiệm, cả những kinh
nghiệm thành công lẫn những kinh nghiệm không thành công, của nước ta cũng
như của các nước khác.
Suốt một thời gian dài triết học ở nước ta có những đóng góp nhất định
trong việc giáo dục, mở mang kiến thức, rèn luyện con người và nhất là góp
phần tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có thể nói
rằng đó chính là giai đoạn triết học làm khá tốt nhiệm vụ thuyết minh đường lối,
phục vụ đắc lực cho việc đưa đường lối của Đảng vào trong quần chúng. Làm
tốt nhiệm vụ này chính là phục vụ đắc lực cho chính trị - một nhiệm vụ quan
trọng mà bất cứ lúc nào triết học cũng phải đảm nhận.
Khác với việc rút kinh nghiệm thông thường, triết học vừa rút ra các bài
học tổng quát hơn, chung hơn, sâu sắc hơn nhằm tìm ra cái tất yếu ở trong đó,
tìm ra cái đóng vai trò chi phối toàn bộ quá trình, cái nhất thiết phải được thực
hiện, vừa rút ra cái đặc thù, cái riêng của chúng ta, cái đặc thù của thời đại mà
chúng ta đang sống để tránh áp dụng máy móc cách làm và bước đi của các

nước khác, trong những điều kiện khác vào hoàn cảnh hiện tại của nước ta. Sự
phân tích khách quan xu thế toàn cầu hoá hiện nay cho thấy một điều tất yếu đầu
tiên, đó là mọi quốc gia muôn phát triển thì đều phải mở cửa với thế giới, phải
hội nhập với thế giới. Các nước đang phát triển nếu tự tách mình ra, tự cô lập
mình với thế giới thì có nghĩa là tự đào sâu thêm khoảng cách với các nước phát
triển và sẽ không bao giờ có thể tiến kịp họ.
Mặt khác, muốn thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở kỷ
nguyên toàn cầu hoá thì phải biết tiếp thu các giá trị mà nhân loại đã tích luỹ từ
Phan Thị Ngân Phương

20

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
trước cũng như các giá trị mới của thời đại, tuy nhiên phải phát triển văn hoá
trên cơ sở giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống
gắn với quá trình tiếp biến các giá trị văn hoá nhân loại chung, mang tính thời
đại để xây dựng “nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã được thừa
nhận là “quốc sách hàng đầu”, vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển
bền vững đối với mỗi quốc gia, khu vực và cả cộng đồng nhân loại. Để chiến
lược phát triển văn hoá này trở thành hiện thực trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay thì triết học, với tư cách thế giới quan, phương pháp luận phổ biến, theo
chúng tôi, cần phải trở thành cơ sở lý luận, phương pháp luận và thực hiện chức
năng định hướng phát triển cho chiến lược này. Thực hiện chức năng này, triết
học trong kỷ nguyên toàn cầu cần phải trở thành trung tâm cho quá trình thống
hợp văn hoá. Và, muốn vậy, bản thân triết học này, cũng cần phải thay đổi lối
triết lý một chiều truyền thống của mình, cả lối triết lý truyền thống phương Tây

lẫn lối triết lý truyền thống phương Đông. Việc dựa vào triết học và các khoa
học xã hội và nhân văn là vô cùng cần thiết, vì rằng, những kết luận do các khoa
học này rút ra không chỉ là sự đúc kết các giá trị lịch sử, mà còn là sự đối chiếu,
sự phân tích - so sánh với hiện tại.
Trong toàn cầu hoá những giá trị nhân loại, giá trị xã hội, giá trị dân chủ
toàn cầu và đoàn kết toàn cầu, giá trị sinh thái và đạo đức toàn cầu đã được
khẳng định và không hề loại trừ giá trị dân tộc, giá trị giai cấp và giá trị cá nhân.
Bài học về việc giữ gìn sự bền vững của gia đình có giá trị lớn đối với sự ổn
định và lành mạnh của cả gia đình lẫn xã hội cùng những tác hại của sự phá vỡ
gia đình trong quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra khá phổ biến ở nhiều
nước… là một dẫn chứng sinh động về việc bảo tồn và phát huy các giá trị
truyền thống phục vụ cho sự phát triển đất nước trong điều kiện mới.
Đồng thời, khi tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong kỷ nguyên
toàn cầu hoá, ngay từ đầu, chúng ta vừa phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế, vừa
phải tính toán, càng cụ thể càng tốt, đến hậu quả sinh thái và nhất là các hậu quả
xã hội do quá trình đó gây nên. Cần phải làm sao cho hiệu quả kinh tế không
làm triệt tiêu hiệu quả xã hội, và hơn nữa, cần cố gắng giảm đến mức thấp nhất
21
Phan Thị Ngân Phương
Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
các hậu quả xã hội có thể có. Dù rằng rất khó tính trước được tất cả các hậu quả
này, nhưng cú khú đến đâu chăng nữa thì chúng ta vẫn cần phải chủ động làm
việc đó, bởi nếu không làm rất có thể cái giá phải trả sẽ rất đắt.
Nói cách khác, để công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước nhà trong kỷ
nguyên toàn cầu hoá, cần có cách tiếp cận triết học chứ không chỉ dừng lại ở
cách tiếp cận kinh tế hay kỹ thuật đơn thuần. Không nên nghĩ rằng, cứ có kinh tế

tăng trưởng cao, cứ làm cho đất nước giàu có lên mạnh mẽ và nhanh chóng thì
tự khắc các vấn đề xã hội, nhất là các tệ nạn xã hội, sẽ tự động mất đi và mọi
người sẽ tốt hơn. Phó mặc cho kinh tế mà không quan tâm đến mặt xã hội,
không chú ý bảo tồn các giá trị văn hoá, đạo đức tất đẹp của dân tộc thì không
chỉ những giá trị truyền thống bị đe doạ, mà ngay cả cuộc sống bình thường của
từng con người, của từng gia đình và của toàn thể xã hội cả trong thời điểm hiện
tại lẫn trong tương lai cũng đều bị ảnh hưởng.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học không phải là một cái gì quá xa xôi,
khó hiểu, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn.
Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những
cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất
phát từ một lập trường triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành
động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị đinh hướng - một trong những biểu
hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học. Tiếc rằng, giá trị định
hướng này hiện nay chưa được khai thác triệt để. Có lẽ chính vì vậy mà cũn cú
những sự đánh giá chưa thoả đáng về vai trò của triết học trong việc giải quyết
các vấn đề của cuộc sống.

Phan Thị Ngân Phương

22

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

KẾT LUẬN


Cũng như trong quá khứ, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá, triết học không
mất chỗ đứng của nó dù là trong phạm vi một dân tộc hay trên bình diện nhân
loại. Triết học không chỉ giúp con người có được cách nhìn nhận đúng đắn thế
giới, mà còn giúp con người có được khả năng đánh giá những biến động đang
diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra liên
quan đến từng cá nhân cũng như đến toàn xã hội và trong quan hệ với thiên
nhiên. Triết học vạch ra những nghịch lý mà con người đang phải đối diện trong
bối cảnh toàn cầu hoá, đồng thời cũng góp phần chỉ ra lối thoát khỏi những
nghịch lý ấy. Nó vẫn vừa thực hiện chức năng giải thích thế giới và vừa góp
phần biến đổi thế giới hướng tới mục tiêu tất cả là vì con người và hạnh phúc
của con người trong kỷ nguyên toàn cầu hoá.
Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị
Phan Thị Ngân Phương

23

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học
Trường ĐH Văn hóa Hà Nội
trí vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý
luận của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Những vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành
các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương
pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương
pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong

nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công
cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con
người của những lực lượng xã hội tiến bộ./.

Phan Thị Ngân Phương

24

Lớp Cao học Văn hóa học - K20


Tiểu luận Triết học

Trường ĐH Văn hóa Hà Nội

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tạp chí triết học.
2. Tạp chí Lý luận chính trị.
3. Tạp chí Giáo dục lý luận.
4. Giáo trình triết học – NXB Lý luận chính trị.

Phan Thị Ngân Phương

25

Lớp Cao học Văn hóa học - K20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×