MỤC TIÊU
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
2
1/ Tính cấp thiết của đề tài.
2
2/ Tình hình nghiên cứu của đề tài
4
3/ Mục đích nghiên cứu của đề tài
4
4/ Giới hạn đề tài
4
5/ Kết cấu đề tài.
5
II/ PHẦN NỘI DUNG.
6
Chương I: Lý luận chung về xây dựng, củng cố phát huy sức
mạnh đại đoàn kết tồn dân vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội
6
Chương II: Thực trạng và kết quả phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân của Thị Trấn Trà My trong những năm qua.
12
Chương III: Phương hướng giải pháp đề xuất việc phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của Thị Trấn Trà My trong giai
đoạn 2008 - 2012.
22
III/ PHẦN KẾT LUẬN:
Tài liệu tham khảo: Hoàn thành tiểu luận
31
33
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Đó là chân lý mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết và khái quát truyền thống
lịch sử của dân tộc ta. Nhờ có đồn kết mà 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên
mảnh đất không rộng lắm, trình độ phát triển về kinh tế cịn thấp kém, nhưng đã
vượt qua bao gian lao, thử thách, chống chọi được với thiên tai, dịch họa, bảo vệ
được giang sơn, bờ cõi, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, và đang chung sức,
xây dựng đất nước.
Để đi đến thắng lợi to lớn ngày nay, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã trải qua
những khó khăn, thử thách, những khúc quạnh với những ấu trĩ, sai lầm, khuyết
điểm. Hơn ai hết, dân tộc ta hiểu rõ giá trị của sự đoàn kết và quyết tâm làm tất cả
những gì có thể làm được để củng cố khối đại đồn kết tồn dân tộc, kiên quyết
những gì phá hoại, hoặc làm xói mịi, làm suy yếu khối đại đồn kết này, vì lịch sử
đã cho chúng ta bài học q giá “Đồn kết thì sống, chia rẽ thì chết” Điều đó cắt
nghĩa vì sao mọi thế lực thù địch muốn phá hoại sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc
ta, lại nhằm vào tiêu điểm là phủ nhận, xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc của nhân dân ta, vì đây chính là cuội nguồn, là bảo đảm cho thắng lợi cách
mạng của nước ta, là một động lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước hôm nay,
và mai sau. Đấu tranh để bảo vệ sự vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, tức
là đấu tranh làm thất bại về căn bản âm mưu phá hoại công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta được nâng lên ở tầm cao mới trong thời
đại Hồ Chí Minh, kết tinh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân
tộc. Thực tiễn cách mạng nước ta ngót một thế kỷ qua đã chứng minh một cách
hùng hồn sức sống mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại khơng gì chiến thắng nổi của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc, và Đảng đã quán triệt sâu sắc tư
tưởng đó thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng qua mọi
thời kỳ.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc trong thời kỳ mới, Nghị quyết
hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW khóa IX tiếp tục xác định mục tiêu: “Tăng
cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội”. Nhiều
chủ trương chính sách, cơ chế quản lý mới thơng thống hơn đã được Đảng,
Nhà nước ta ban hành và đang khơng ngừng hồn thiện, có tác dụng giải
phóng lực lượng sản xuất và hồn thiện quan hệ sản xuất mới tương ứng. Chủ
trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất đã khuyến khích và tạo điều kiện sản xuất kinh doanh. Các chính sách
xã hội mới đã góp phần khắc phục những hậu quả của chiến tranh để lại. Những
ngăn cách do chiến tranh để lại đã được dần dần khắc phục, làm cho tầng lớp xã hội
xích lại gần nhau hơn. Những tiến bộ trong sinh hoạt dân chủ trong xã hội, nhất là
những kết quả bước đầu của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cải tiến sinh
hoạt dân chủ của HĐND các cấp và Quốc hội ... là những tiến bộ, đã có tác dụng
tích cực nhất định đối với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Những thành tựu của 20 năm đổi mới là to lớn mang ý nghĩa lịch sử, là niềm
tự hào chính đáng của nhân dân ta, nó vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là kết quả của
việc tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn những
vấn đề làm cho các tầng lớp nhân dân băn khoăn, no lắng, đó là tăng trưởng kinh tế
chưa vững chắc và chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp do chưa có kế hoạch
lâu dài để phát huy nội lực, hiệu lực quản lý của Nhà nước còn hạn chế, nhiều vấn
đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày
càng ngay gắt,cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cuộc cải cách hành chính
chưa đem lại kết quả như mong muốn, cuộc đất tranh phòng chống tham nhũng
kém kết quả ...một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách đối với thành phần
kinh tế với một số vấn đề xã hội ... đều là những yếu tố tác động nhất định đến việc
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.
Thị trấn Trà My là trung tâm Chính trị, kinh tế xã hội của Huyện Bắc Trà My,
trong những năm qua tình hình đã có nhiều đổi mới và khởi sắc, an ninh chính trị,
trật tự an tồn xã hội, được giữ vững ổn định. Đảng bộ đã triển khai và tổ chức thực
hiện Nghị quyết TW 7 (khóa IX) của Đảng sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân thị trấn. Từ đó, sự đồn kết, đồng thuận của nhân dân thị trấn đã được
nâng lên, sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đã được thể hiện rõ nét, Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân đã phát huy mạnh mẽ vai trị của mình, chính quyền đã tổ
chức, điều hành thực hiện hoàn thành và vượt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh của cấp trên giao hằng năm.
Bên cạnh những kết quả cơ bản đã đạt được, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
đã được phát huy, thị trấn Trà My vẫn còn một số tồn tại hạn chế như: Định hướng
phát triển kinh tế - xã hội chậm đổi mới, đội ngũ cán bộ trẻ năng lực còn hạn
chế ...do đó chưa khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của địa phương để phát triển
tương xứng với điều kiện, khả năng các nguồn lực của địa bàn trung tâm.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp đổi mới của dân tộc, của đất nước nói chung, của thị trấn Trà My nói riêng
là địi hỏi và lý do cấp thiết mà bản thân tôi chọn đề tài: “Phát huy sức mạnh đại
đồn kết tồn dân tộc vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh” để làm đề tài tốt nghiệp của khóa học.
2/Tình hình nghiên cứu đề tài:
“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một đề tài mang tính truyền
thống và lịch sử của đất nước ta, Chủ Tịch Hồ Chí minh và Đảng ta nghiên cứu,
tổng kết, đánh giá ở tầm vĩ mô. Đối với thị trấn Trà My, trong 5 năm trở lại đây có
19 đồng chí đã học Trung cấp lý luận Chính trị tại Trường Chính trị Quảng Nam
nhưng có rất ít đồng chí đề cập nghiên cứu đề tài này, bản thân với cương vị Phó
Thị Đội thị trấn Trà My, phương diện là một học viên Trung cấp lý luận chính trị,
xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài này nhằm tổng kết lý luận và đưa ra những giải
pháp thiết thực để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở thị trấn Trà My, đồng thời
rút kinh nghiệm nâng cao nhận thức và góp phần xây dựng địa phương theo mục
tiêu Đại hội X đã đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
3/Mục đích nghiên cứu đề tài:
Xuất phát từ thực tiễn và quan điểm của Đảng ta qua các kỳ Đại hội, gần đây
nhất là Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị ...” Như vậy vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc đã
được nâng lên một tầm cao mới, rộng lớn và toàn diện hơn, có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng thúc đẩy cơng cuộc đổi mới, trở thành động lực chủ yếu để phát triển đất
nước.
Do vậy, thông qua những vần đề lý luận đã học để làm cơ sở nghiên cứu và
thuyết minh ở phần lý luận chung của đề tài, đồng thời nghiên cứu phân tích, khảo
sát đánh giá tình hình thực tiễn của địa phương để rút ra ưu điểm, khuyết điểm và
bài học kinh nghiệm để phân tích đề tài, qua đó, nêu ra những phương hướng, giải
pháp, những kiến nghị về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân của thị trấn
Trà My để tham mưu và cùng với lãnh đạo địa phương xem xét, vận dụng có hiệu
quả trong thời gian đến.
4/ Giới hạn đề tài:
Đề tài phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chủ nghĩa xã
hội là một vấn đề rộng lớn, toàn diện và bao trùm trên mọi lĩnh vực đời sống của xã
hội, nhưng do khuôn khổ của một tiểu luận, do điều kiện thời gian và năng lực có
giới hạn, bản thân tập trung nghiên cứu lý luận về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
tồn dân vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội gắn với thực tiễn của thị trấn Trà My.
5/ Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kèm theo danh mục nguồn tư liệu tham khảo,
nội dung đề tài kết cấu gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về xây dựng củng cố phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân.
Chương II: Thực trạng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân của thị
trấn Trà My trong 5 năm qua.
Chương III: Phương hướng, giải pháp và đề xuất việc phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân của thị trấn Trà My.
I/ PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG, CỦNG CỐ PHÁT HUY SỨC
MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TỒN DÂN VÌ MỤC TIÊU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
I/ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN VỀ VẦN ĐỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN TỘC:
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin chỉ rõ: Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định
lịch sử, bởi quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất, bảo đảm
sự tồn tại và phát triển xã hội; quần chúng nhân dân là nguồn duy nhất và vô tận
của mọi của cải, tinh thần nhân loại; quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của
mọi cuộc cách mạng xã hội.
Trong lịch sử xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội với
những cuộc cách mạng đấu tranh giai cấp để phát triển. Trong các giai cấp tầng lớp
nhân dân thì giai cấp cơng nhân là lực lượng tiên tiến nhất có vai trị quyết định
nhất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã chỉ ra rằng: Quần chúng nhân dân là cộng đồng
người hình thành và phát triển cùng với lịch sử của một dân tộc, một quốc gia, vấn
đề dân tộc phụ thuộc vào giai cấp, lập trường của giai cấp quy định sự phát triển
của dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc, vấn đề dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc sẽ góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp cơng nhân lợi ích của giai cấp cơng nhân là thơng nhất
với lợi ích dân tộc, giai cấp công nhân vừa là bản chất quốc tế, vừa có bản chất dân
tộc. để cuộc đấu tranh giai cấp cơng nhân thành cơng thì giai cấp cơng nhân phải có
chính Đảng lãnh đạo đó là Đảng cộng sản với đường lối đúng đắn để tập hợp đoàn
kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân của dân tộc tạo nên một sức mạnh tổng hợp
của cách mạng, đồng thời biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại để làm cuộc cách mạng vô sản.
II/ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT:
Kế tục và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đồng thời kết tinh, tinh
hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Dân là tối thượng”, “Cách mạng là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc một hai người”. Người luôn quan tâm đến vấn đề đồn kết, vì
đồn kết là sức mạnh của cách mạng và đoàn kết là truyền thống quý báu của Đảng
và dân tộc ta.
Đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là sự thống nhất đồng tâm, hiệp lực
tạo thành một sức mạnh vơ địch để thực hiện ý chí, mục đích và lý tưởng chung,
muốn đồn kết thì phải có tổ chức chỉ huy, do đó Người chỉ rõ:
“Việt minh là cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này,
hãy ra nhập Việt minh, ủng hộ Việt minh, làm cho Việt minh rộng lớn mạnh mẽ”.
Để tập hợp lực lượng sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, người kêu gọi: “Đồng
bào kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Nai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các
dân tộc tiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt, chúng ta
sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”.
Về phương pháp đồn kết Người nói:
“Tơi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi, năm ngón tay cũng có
ngón ngăn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người có có người thế này hay thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
của tổ tiên ta, nên ta phải khoan hồng đại độ ta phải nhận rằng đã là con cháu lạc
hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những người đồng
bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình nhân ái mà cảm hóa họ, có như thế mới
thành đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Để thực hiện mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng và của cả dân tộc Người
khuyên cần phải mở rộng và củng cố hơn nữa lực lượng đoàn kết, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết nhiều tầng lớp nhân dân, đoàn kết quốc tế ... Người khẳng định:
“ Về mặt trận dân tộc thống nhất, chúng ta cần mở rộng và củng cố hơn nữa,
từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì
chúng ta sẵn sàng đồn kết với họ dù từ trước đến nay họ đã theo phe nào.
Đồn kết là lực lượng vơ địch.
Lực lượng đồn kết đã giúp cách mạng tháng Tám thành công.
Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi.
Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực
hiện hịa bình, thống nhất độc lập, dân chủ trong cả nước”.
Tư tưởng về đại đoàn kết tồn dân của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trở thành
chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới và ngày càng ngời sáng như ánh mặt
trời.
III/ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG CỦNG CỐ PHÁT
HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC:
1/Quan điểm của Đảng ta về xây dựng củng cố phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập:
Ngay từ khi mới thành lập Đảng ta đã xác định vai trò tiên phong lãnh đạo giai
cấp vô sản. Đồng thời phải thu phục lãnh đạo cho được đại đa số dân cày để làm
thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đai địa chủ và phong kiến, bên cạnh đó, Đảng phải
hết sức liêm lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nơng, lợi dụng tầng lớp phú nông,
trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa rõ mặt phản cách mạng, đồng thời tuyên
truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới ... đó
chính là quan điểm đầu tiên của Đảng về tập hợp lực lượng đoàn kết để đấu tranh
chống kẻ thù chung, giải phóng dân tộc.
Tiếp thu và phát triển lý luận Chủ nghĩa Mác - Lê nin và vai trò sứ mệnh lịch
sử của quần chúng, trong thời kỳ này Đảng đã thành lập Mặt trận dân tộc thống
nhất Việt Nam để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Qua các giai đoạn của cách
mạng Đảng đã chủ trương thay đổi tên gọi của Mặt trận cho phù hợp với tình hình,
đồng thời có những hình thức về biện pháp mới về tổ chức để tập hợp, đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân, liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa
bình thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
trong thời kỳ đổi mới:
Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đại hội VI của
Đảng tổng kết thành bài học lịch sử trong đó nổi bật là 2 bài học lớn: Lấy dân làm
gốc và kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, thực hiện đoàn kết
quốc tế, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc đã được nâng lên một tầng cao mới.
Đến Đại hội VII, Đảng ta chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết, trước hết là
mở rộng nền tảng của khối đại đồn kết tồn dân tộc bao gồm cơng nhân, nơng dân,
trí thức đặt lợi ích dân tộc và lợi ích con người lên hàng đầu, coi đó là xuất phát
điểm của các chính sách, là cơ sở xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
trong thời kỳ mới.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm trên,
đồng thời đề ra các chính sách cụ thể đối với các dân tộc trong nước, nhằm tạo ra
những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân.
Tiếp tục cụ thể hóa và nâng cao hơn tầm vóc của chủ trương đại đoàn kết Đại
hội IX của Đảng ta đã khẳng định chủ trương và mở rộng biên độ của đại đoàn kết
tồn dân tộc, bao gồm các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế,
mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngồi
Đảng, người đang cơng tác và người về hưu, mọi thành viên trong mọi gia đình dân
tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu Chủ nghĩa xã hội, Hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành TW khóa IX đề ra bốn quan điểm như sau:
Một là: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là: Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất
của Tổ quốc vì dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh làm
điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành
phần, giai cấp xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương
lai.
Ba là: Bảo đảm cơng bằng và bình đẳng xã hội, chăn no lợi ích thiết thực,
chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ
gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không ngừng bồi dưỡng,
nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần
tự lực, tự cường xây dựng đất nước; xem đó là động lực củng cố và phát triển khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là: Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Tiếp tục cụ thể hóa và làm rõ hơn nữa biện pháp, hình thức chủ trương, chính
sách đại đồn kết tồn dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đại hội X của Đảng ta đề ra các quan điểm như sau:
Một là: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là: Đại đoàn kết là sự nghiệp của tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ba là: Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo của mình thơng qua đường lối và chính
sách, liên hệ mật thiết với nhân dân.
Bốn là: Thực hiện đồng bộ các chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm phát
huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng
dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội.
* Một số kinh nghiệm về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân ở một số
địa phương:
- Kinh nghiệm thứ nhất: Thực trạng và kết quả hoạt động của Ban công tác
Mặt trận ở Thạch Thất - Hà Tây.
Trong những năm qua, Ban công tác Mặt trận của 168 thôn đã đảm bảo tăng
cường mối đại đồn kết trong cộng đồng tính đến cuối năm 2006 đã thu hút được
75,72% số quần chúng tham gia các mơ hình câu lạc bộ, tổ tự nguyện, tổ tiết kiệm,
duy trì và phát huy hiệu quả 359 câu lạc bộ các loại; 453 tổ tiết kiệm với số tiền đã
huy động được là 3.988 tỷ đồng, đứng ra tín chấp với Ngân hàng chính sách, Ngân
hàng phát triển nơng thôn và vay các dự án với số tiền 58.298 tỷ đồng, hoạt động
của Mặt trận đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
(Theo thông tin công tác Mặt trận số 49 tháng 7/2007 của ủy Ban TW MTTQ
Việt Nam).
- Kinh nghiệm thứ hai: Khi mạch sống văn hóa làng q tn chảy.
Với sức mạnh của một vùng quê ruộng đồng, sông nước, 300 nghìn người dân
Hải Hậu đã đồng lịng phát triển mơ hình văn hóa làng, xã đáng kinh ngạc, một
huyện bé nhỏ mà đã “kỷ lục” với 460 tổ đội văn nghệ quần chúng, 800 hạt nhân
văn nghệ, 62 đội kèn đồng, 45 đàn nhạc dân tộc, hệ thống nhà văn hóa khang trang
từ 400 - 900 chỗ ngồi mà cả 36 xã đều có, “Văn hóa” đã trở thành máu thịt với
người dân nơi đây, đến mức bí thư Đảng ủy khi nói chuyện cũng tồn nói có vần,
Hội Phó phụ nữ cũng sáng tác kịch ngắn, hình mục cũng viết nhạc làm thơ, nhà sư
cũng hát chèo chẳng kém ai, đam mê đến mức ngày lễ huyện không tổ chức văn
nghệ thì dân chúng kéo lên kiến nghị, khát vọng tình u văn hóa của người dân
cùng với sự nỗ lực của chính quyền ở Hải Hậu đủ để thành mơ ước, thành tấm
gương cho nhiều vùng quê trên cả nước.
( Theo báo nhân dân cuối tuần sô 38 (660)ngày 23 - 9 - 2001)
- Kinh nghiệm thứ ba: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở thị trấn Gò
Quao tỉnh Kiên Giang.
Ủy Ban MTTQ thị trấn (Kiên Giang) luôn coi trọng phát huy dân chủ bằng cả
hai hình thức: Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Thời gian qua, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở thị trấn Gò Quao
được thể hiện rõ nét trong quá trình huy động sức dân phát triển KT - VH - XH; giữ
vững ANQP trong đó tiêu là công tác xây dựng cơ sở hạ tầng; điện; đường, trường,
trạm. đến nay hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn 6 ấp đã được làm bằng
vật liệu cứng với tổng chiều dài khoảng 37.000m nối liền thị trần Gò Quao với các
xã lân cận đảm bảo cho xe hai bánh giao thông trong cả mùa mưa. Có trên 98% hộ
dân sử dụng điện lưới quốc gia phục vụ sản xuất, sinh hoạt và 100% hộ dân sử
dụng nước hợp vệ sinh, hệ thống trường học đã được xây dựng kiên cố. Năm 2006
đã cất mới 14 căn nhà đại đoàn kết, tổng trị giá 14.70.000đ, trong đó nguồn vốn
huy động trong dân là 27 triệu đồng. Thị trấn Gị Quao có một trạm y tế với đội ngũ
cán bộ 3 y sĩ, 4 y tá hằng năm đã làm tốt chức năng nhiệm vụ khám chữa bệnh ban
đầu cho nhân dân.
Thực hiện cuộc vận động “Tồn dân đồn kết XDĐS văn hóa ở khu dân cư”
6/6 ấp đã xây dựng được quy ước hoạt động; 83,3% số ấp và 100% NDTQ giữ
vững danh hiệu đơn vị văn hóa 100% đơn vị đạt danh hiệu đơn vị văn minh ;
91,37% số hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa.
(Theo thơng tin cơng tác mặt trận số 57 tháng 3/2008 của Ủy Ban TW MTTQ
Việt Nam)
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN CỦA THỊ TRẤN TRÀ MY TRONG NHỮNG NĂM QUA
I/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC
MẶT TRẬN THỊ TRẤN TRÀ MY TRONG NHỮNG NĂM QUA:
1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của thị trấn Trà My:
Thị trấn Trà My là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội của huyện Bắc trà My
tỉnh Quảng Nam.
Phía Đơng giáp xã Trà Giang
Phía Nam giáp xã Trà Sơn
Phía Tây giáp xã Tiên Hiệp huyện Tiên Phước.
Phía Bắc giáp xã Trà Dương.
Tổng diện tích tự nhiên 1.700 ha đất canh tác nơng lâm nghiệp 1.115 ha trong
đó đất trồng lúa nước 92 ha, rất phong phú về đất nông nghiệp (trên 1.000 ha)
Địa hình chạy dọc theo quốc lộ 616 cách tỉnh lỵ 50 km về hướng Tây Nam hệ
thống giao thông trên địa bàn có nhiều thuận lợi, đường nội thị được bê tơng hóa,
sắp đến đường vào thủy điện Sơng Tranh II, chạy dọc theo hướng Tây thị trấn,
đường Trần Thị Lê Xuân nối quốc lộ 616 tại ngã tư bưu điện đi Trà Bồng Quảng
Ngãi, làm cho giao thông thêm thuận lợi hơn.
Dân số 8.282 khẩu với trên 1.636 hộ, mật độ dân số 98 người/1km 2, có 4.790
lao động trong đó người dân tộc thiểu số có 118 hộ và 588 khẩu gồm các dân tộc
anh em sinh sống như: Kinh, Ca zông, Xê Đăng, Mường, Tày, Kor ..., đồng bào
theo đạo giáo có 165 hộ,790 khẩu gồm có Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành và
Đạo cao đài, thị trấn Trà My sau khi chia tách thành hai đơn vị hành chính theo
NĐ33/CP ngày 08/03/2007 tồn thị trấn có 09 tổ dân phố 42 tổ đồn kết trong đó tổ
dân phố Mậu Cà Là 06 tổ; tổ Minh Đông 03 tổ; Tổ Đàng Bộ 06 tổ; tổ Đàng Nước
05 tổ; tổ Trung Thị 04 tổ;Tổ Đồng Bàu 06 tổ; tổ Đồng Trường I 04 tổ; tổ Đồng
Trường II 04 tổ; tổ Trấn Dương 04 tổ.
BẢNG THỐNG KÊ
TÌNH HÌNH DÂN SỐ, DÂN TỘC VÀ TƠN GIÁO THỊ TRẤN TRÀ MY
Tính đến tháng 05/2008
(Bảng biểu thu thập từ văn phịng HĐND - UBND)
TT
Tổ dân phố
Dân số
Dân tộc
Tơn giáo
Hộ
Khẩu
Hộ
Khẩu
Hộ
Khẩu
1
Mậu Cà
188
942
08
43
16
88
2
Minh Đông
116
625
01
02
08
36
3
Đàng Bộ
300
1.369
56
289
27
114
4
Đàng Nước
147
784
30
149
09
40
5
Trung Thị
195
920
06
29
23
125
6
Đồng Bàu
252
1.326
29
143
26
101
7
Đồng trường I
131
639
02
09
16
83
8
Đồng Trường II
165
883
05
28
15
81
9
Trấn Dương
142
794
06
34
25
122
Ghi
chú
- Đa số người dân tộc sống bằng nghề nông lâm nghiệp. Đời sống nhân dân
làm nghề nông nghiệp chuyển sang làm ngành nghề tiểu thủ công công nghiệp và
thương mại dịch vụ. Cơ cấu kinh tế thị trấn Trà My hiện nay là nông lâm nghiệp tiểu thủ công nghiệp thương mại dịch vụ với tỷ lệ 50 - 50.
- Tình hình kinh tế xã hội địa phương có xu hướng phát triển tốt kể từ khi thủy
điện Sông Tranh II được khởi công xây dựng và một số cơng trình của TW đầu tư
trên địa bàn huyện, cụ thể là:
a/ Về kinh tế:
Nông nghiệp đã đưa 100% giống lúa lai vào sản xuất, năng xuất bình quân ổn
định từ 8 tấn/ha/năm trở lên.
- Chăn nuôi phát triển manh đàn gia súc, tuy nhiên do dịch bệnh giá giống con
vật ni đắt lên đang được duy trì giữ đàn gia súc hiện có.
- Về lâm nghiệp: Trồng rừng đã đạt 900ha, hiện nay trồng mới mỗi năm
khoảng từ 100 ha trở lên chủ yếu cây keo lai và khai thác khoảng 500ha/năm cho
thu nhập khoảng 1,5 tỷ đồng.
b/ Về văn hóa xã hội
Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt, 95% hộ dân có 85% hộ dân có xe
máy, nhà mới xây liên tiếp được hoàn thành, đến nay 9/9 tổ dân số phát động xây
dựng thơn văn hóa, trong đó có 02 tổ đạt thơn văn hóa cấp huyện.
Cơng tác giáo dục học sinh ra lớp đạt tỷ lệ 100% kết quả dạy và học hằng năm
đạt kết quả khá trở lên, đã có 2/3 trường đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu hết năm
2008 phổ cập xong bậc trung học cơ sở, công tác y tế được quan tâm đúng mức,
cơng tác đền ơn đáp nghĩa “Ngày vì người nghèo” được quan tâm thường xuyên và
có kết quả tốt, đường giao thông nông thôn phần lớn đã được bê tông hóa, tỷ lệ hộ
nghèo 24,1% giảm so với năm 2007cơ sở hạ tầng đã đi vào xây dựng cơ bản, đời
sống nhân dân đang từng ngày khởi sắc.
2/ Những thuận lợi và khó khăn về cơng tác Mặt trận của thị trấn Trà My
trong những năm qua:
a/ Thuận lợi:
Công tác mặt trận của thị trấn Trà My trong những năm qua được Đảng bộ
quan tâm lãnh chỉ đạo bằng Nghị quyết hằng năm, 06 tháng quý và hằng tháng, đặc
biệt là kế hoạch của Đảng bộ triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết TW 7 khóa
IX và tăng cường sự lãnh đạo về công tác Dân vận của Đảng thì hoạt động cơng tác
Mặt trận ở cơ sở thực sự chuyển biến.
Ban công tác Mặt trận các khu dân cư đã được củng cố với đội ngũ cán bộ có
nhiệt huyết, có kinh nghiệm, có uy tín, cơng tác tổ chức tiến hành thực hiện chung
tương đối đồng đều. Ban thường trực UBMTTQ Việt Nam thị trấn được cơ cấu trẻ,
năng động, tổ chức thành viên được mở rộng thêm các gương điển hình tiêu biểu
trong sản xuất kinh doanh, hoạt động UBMT được duy trì đều đặn và có hiệu quả.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cuộc vận động “Tồn dân xây dựng
đời sống văn hóa” “Ngày vì người nghèo”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Vì
mơi trường sống”, an tồn giao thơng v.v... đã trở thành chìa khóa mở ra những
hành động thiết thực nhất đối với mọi người, đối với cộng đồng, và Mặt trận là cơ
sở để tập hợp, vận động tổ chức thực hiện.
Các chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước đã tác động tích cực đến phát triển
KT - XH của địa phương, nhân dân tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, tinh
thần đoàn kết cộng đồng khi dân cư ngày càng được nâng lên, kinh phí của trên hỗ
trợ cho các khu dân cư sinh hoạt văn hóa, sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng của
Mặt trận - Đồn thể với chính quyền đã tạo cho khơng khí dân chủ ở cơ sở đã tạo
thành một động lực phong trào tiến lên tự giác.
’b/ Khó khăn:
Trình độ của đội ngũ cán bộ mới trẻ hóa, (nhiều đồng chí vừa đi học nâng cao
trình độ vừa đi làm) do đó kinh nghiệm cịn nhiều hạn chế, đặc biệt là cán bộ chính
quyền phụ trách các lĩnh vực đất đai, chính sách xã hội, Cơng an, quản lý đô thị ...
giải quyết công việc chưa thấu tình hợp lý, gây phiền hà cho dân đã làm ảnh hưởng
đến niền tin của dân đối với chính sách của Đảng, Nhà nước.
Một số ý kiến, kiến nghị, tâm tư nguyện vọng của một số bộ phận cử tri đề
nghị với chính quyền nhiều lần, nhiều năm khơng được giải quyết đã gây tâm lý
hoài nghi dẫn đến nhân dân tham gia hội họp thiếu tập trung, không thống nhất như
trường hợp đường đi làm đồng và mương rẫy của nhân dân tổ Trấn Dương, Khi xây
dựng trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện đã bịt mất lối đi của bà con, nhân dân
kiến nghị nhiều năm nhưng chưa được giải quyết. Trường hợp nhân dân 4 tổ đóng
tiền xây dựng đường điện thắp sáng, năm 2002 sở điện lực thanh tốn 60% tiền
đóng góp, 40% cịn lại chưa được thanh tốn, nhân dân kiến nghị thì tỉnh và huyện
trả lời không rõ ràng và chưa được giải quyết.
II/ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VỀ XÂY DỰNG, CỦNG CỐ PHÁT HUY
SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN CỦA THỊ TRẤN TRÀ MY
TRONG NHỮNG NĂM QUA:
1/ Chủ trương và giải pháp thực hiện:
Quyết triệt Nghị quyết TW 7 (khóa IX) và chương trình hành động số 03/CT HU ngày 25/9/2003của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về phát huy sức mạnh đại
đồn kết tồn dân tộc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Ngay sau khi huyện ủy tổ chức quát triệt, Ban thường vụ Đảng ủy
đã xây dựng kế hoạch triển khai Nghị quyết đến tận cán bộ đảng viên và toàn thể
nhân dân trên địa bàn thị trấn, đồng thời xây dựng chương trình hành động cụ thể
để tổ chức thực hiện.
Qua 5 năm tổ chức thực hiện, Đảng ủy đã có các Nghị quyết chuyên đề về
“Trồng cỏ chăn ni bị”, “Trồng nấm rơm”, “Xóa nhà tạm”, “Phát triển kinh tế
rừng”và chương trình hành động về “Phát triển nơng nghiệp nông thôn”, “Làm
đường giáo thông nông thôn”, “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc”và các chủ trương cụ thể khác, trong đó chú trọng đổi mới nội
dung và phương thức tập hợp vận động quần chúng của hệ thống Chính trị, nâng
cao vai trị, vị trí, nhiệm vụ của Mặt trận và các Hội đoàn thể, xây dựng sự tin
tưởng tuyệt đối của nhân dân vào đường lối chủ trương của Đảng, tạo nên sức
mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2/ Kết quả đạt được:
Sau khi thực hiện Nghị quyết TW 7 (khóa IX) của TW Đảng, tinh thần thái độ
của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thị trấn đã có nhiều đổi mới, tin
tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tích
cực thi đua sản xuất đồn kết tương trợ giúp đỡ nhau, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, tình hình an ninh chính trị - trật tự an tồn xã hội trên địa bàn luôn
được giữ vững ổn định.
a/ Về mặt trận Tổ quốc:
Thường xuyên kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ làm cơng tác Mặt trận có
tinh thần trách nhiệm cao, có năng lực đổi mới phương thực hoạt động, tập hợp
được sự đoàn kết và nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Mặt trận thường xuyên phối hợp với các tổ chức thành viên tuyên truyền quán
triệt và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách, chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, của Mặt trận cấp trên đề ra. Bên cạnh việc tổ chức học tập, phát động
nhân dân thực hiện các phong trào thi đua yêu nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh các hoạt
động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo” xây
dựng nhà đồn kết an tồn giao thơng, phát huy dân chủ ở cơ sở, giữ gìn kỷ cương,
chấp hành pháp luật, thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cư, cán bộ, đảng viên, công chức ở khu dân cư ... Hoạt động của Ban công tác
Mặt trận và khu dân cư được duy trì đều đặn và đi vào chiều sâu, phong trào văn
nghệ, thể thao được duy trì thường xuyên, các ý kiến, kiến nghị chính đáng của
nhân dân đã được phản ánh kịp thời, cơng tác hịa giải đã có nhiều tiến triển ...
Mặt đã thực sự trở thành chỗ dựa trụ cột của chính quyền, góp phần xây dựng
Đảng bộ liên tục đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh nhiều năm liền.
b/ Về Hội nông dân:
Giai cấp nông dân thị trấn là lực lượng đông đảo chủ yếu trực tiếp lao động
sản xuất góp phần quan trọng vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn, lao
động nông nghiệp hiện nay chiếm 42,5% tổng số hội viên năm 2008 là 567 hội viên
(từ năm 2004 - 2008 phát triển được 153 hội viên mới). Hội đã trú trọng công tác
tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất (đã tổ chức 6 lớp 320 hội viên
tham gia), phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, điển hình tiên tiến đã
được nhân rộng, nhiều hội viên đã trở thành chủ trang trại hiện Hội nơng dân thị
trấn có 44 tổ vay vốn với số tiền 2.767 tỷ đồng để phát triển sản xuất chăn ni,
Hội đã góp phần thực hiện tích cực vào phát triển kinh tế, xóa đói giám nghèo,
củng cố khối đại đoàn kết ở địa phương.
c/ Về Hội phụ nữ:
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền vận động và thông qua nhiều hoạt động
phong trào thiết thực, Hội đã thu hút nhiều chị em tham gia (Năm 2004 có 937 hội
viên, đến nay có 1.262 hội viên) cơng tác đào tạo, bố trí cán bộ nữ được quan tâm
(Hiện cán bộ nữ trong cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận đồn thể thị trấn chiến
34,6%) có 19 cán bộ nữ đã cử đi đào tạo, một số giữ chức danh chủ chốt, trong 5
năm đã phát triển được 21 đảng viên nữ, số lượng đại biểu HĐND nữ là 9/29 đại
biểu (chiếm 31,3%), các phong trào thi đua yêu nước đã được Hội đẩy mạnh như
phong trào xây dựng gia đình “Ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”Phong trào
“Giúp nhau làm kinh tế”. Hội đã thành lập được 12 tổ quay vòng vốn với số tiền là
78 triệu đồng, tín chấp cho 350 chị em vay vốn gần 03 tỷ đồng, hầu hết số vốn vay
được chi em sự dụng đúng mục đích. Hội phụ nữ đã góp phần lớn xây dựng và
củng cố khối đại đại đoàn kết toàn dân thị trấn Trà My.
d/ Về đoàn thanh niên:
Là mái trường XHCN Đoàn thanh niên thị trân thường xuyên tổ chức các hoạt
động sôi nổi, thiết thực, phù hợp với giới trẻ nên có sức hút tập trung đơng đảo
thanh niên vào tổ chức Đồn (thanh niên từ 15-35 tuổi là 2.958 chiếm 33% dân số)
công tác giáo dục lý tưởng cách mạng trong thanh niên được quan tâm, các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, sinh hoạt truyền thống luôn được đẩy
mạnh, phong trào thi đua học tập được phát huy, tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp tăng lên hằng năm tính đến
cuối năm 2007đứng thứ 3 tồn tỉnh, phong trào thanh niên lập nghiệp được đẩy
mạnh và nhân rộng (hiện nay đã có 10 xưởng mộc do thanh niên làm chủ, mỗi cơ
sở có số vốn trên 50 triệu đồng) công tác phát triển đảng viên trẻ được địa phương
hết sức quan tâm, tỷ lệ cán bộ trẻ trong cơ quan Đảng , chính quyền, Mặt trận đồn
thể thị trấn chiếm 65,4%, Đoàn thanh niên thực sự là cánh tay đắc lực của Đảng, là
đội ngũ xung kích trong mọi phong trào hành động cách mạnh.
3/ Một số thành tựu chung từ sự phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
thị trấn Trà My trong 5 năm qua (2004 - 2008).
Cách mạng là sự nghiệp quần chúng có vị chiến lược lâu dài. Các dân tộc
trong gia đình Việt Nam nói chung của thị trấn Trà My nói riêng, bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước XHCN phát triển
kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình
độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc tiếng nói chữ viết, và truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc đang sinh sống trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng thị trấn
Trà My, sự đoàn kết của quần chúng nhân dân là sức mạnh vô địch, dưới sự lãnh
đạo chỉ đạo sáng suốt với chú trương, chính sách đúng đắn của Đảng bộ và chính
ơ
quyền thị trấn, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân của thị trấn đã được phát huy
và phấn đấu đạt những thành tựu như sau:
- Về kinh tế đã có sự tăng trưởng vượt bậc, rừng trồng đạt trên 900 ha, xe ô tô
chuyên chở hành khách và vận tải lớn nhỏ có 26 chiếc, sản xuất nơng nghiệp đang
từng bước chuyển hóa, tỷ trọng phát triển kinh tế về cơ cấu đã có nhiều thay đổi so
với 5 năm trước đây, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 6.300.000đ/người/năm,
tỷ lệ hộ đói nghèo năm 2006 là 29,8%, năm 2007 là 24,7%, năm 2008 cịn 24%,
xóa nhà tạm134 nhà, nhà tình thương là 15 nhà, nhà tình nghĩa là 07 nhà, nhà đại
đoàn kết 40 nhà.
- Về văn hóa xã hội, đã tu sửa được 13,9km đường giao thơng (trong đó bê
tơng hóa được 8,9km) các nhà trường các cấp đã được nâng cấp xây dựng mới, trụ
sở làm việc tổ dân phố đã có 03 nhà xây, 06 nhà gỗ, 100% hộ điện thắp sáng, 97%
hộ dân có ti vi 85% hộ có xe máy, số hộ sử dụng điện thoại 30% (chưa kể ĐTDĐ),
9/9 khu dân cư phát động xây dựng thôn văn hóa, trong đó 02 tổ dân phố được
cơng nhận là thơn văn hóa cấp huyện.
- Về an ninh chính trị, TTATXH được giữ vững ổn định, nhân dân đoàn kết,
tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, quyết tâm phấn đấu xây dựng địa bàn
trong sạch vững mạnh.
III/ ĐÁNH GIÁ CHUNG:
1/ Ưu điểm:
Đảng bộ nói riêng và hệ thống chính trị thị trấn Trà My nói chung có truyền
thống đoàn kết, dân chủ, hoạt động và làm việc theo quy chế, các nội dung quan
trọng đều được mở rộng bàn bạc trước khi trở thành Nghị quyết, các chủ trương,
Nghị quyết của cấp trên đều được vận dụng phù hợp với tình hình địa phương theo
từng giai đoạn cụ thể.
Vị trí vai trị nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng bộ được đặt lên hàng đầu chính
quyền nghiêm túc chấp hành Nghị quyết của Đảng bộ, của HĐND Thị Trấn Trà
My đã đề ra. Mặt trận Hội đồn thể tích cực nắm bắt tình hình, tuyên truyền vận
động nhân dân thực hiện đúng chủ trương Nghị quyết.
Các chủ trương đề ra luôn quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế địa phương,
nâng cao đời sống nhân dân và bảo đảm giữ vững ổn định tình hình ANCT TTATXH.
Nhân dân và lực lượng vũ trang thị trấn đã phát huy được truyền thống của
quê hương anh hùng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chủ động, tích cực phát
huy nội lực quyết tâm phấn đấu vươn lên xóa đói giảm nghèo với tinh thần cao nhất
để xây dựng quê hương xứng đáng với địa bàn trung tâm của huyện Bắc Trà My.
ơ
* Nguyên nhân ưu điểm:
- Có sự nỗ lực, chủ động của tồn Đảng, tồn qn, tồn thị trấn khắc phục
khó khăn, tranh thủ thuận lợi, đồn kết thống nhất về ý chí hành động,vận dụng hợp
lý Nghị quyết của Đảng cấp trên vào từng lĩnh vực một cách có hiệu quả.
- Biết khai thách thế mạnh của địa phương, từ đó mạnh dạn đề ra những
chương trình kế hoạch thiết thực, phù hợp với lịng dân, khơi dậy được động lực
của tồn gắn với việc khơng ngừng kiện tồn xây dựng hệ thống chính trị, chú
trọng nêu cao được vai trị trách nhiệm của từng tổ chức và cá nhân đối với quá
trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị đề ra của địa phương.
Địa bàn trung tâm của huyện, do đó thị trấn Trà My có nhiều thuận lợi về điều
kiện giao lưu, nắm bắt thời cơ, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đề ra Đảng bộ và
nhân dân thị trấn Trà My luôn được lãnh đạo huyện nhà quan tâm theo dõi lãnh
đạo, chỉ đạo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thị trấn Trà My hoàn thành các chỉ
tiêu, kế hoạch.
2/ Khuyết điểm:
a/ Về khách quan:
Dân số đơng, trình độ dân trí đời sống kinh tế khơng đồng đều, số lao động
chưa có việc làm ổn định còn nhiều, những diễn biến bất lợi của thời tiết dịch bệnh
đã tác động khơng nhỏ đến q trình sản xuất kinh doanh, làm hạn chế đến quá
trình huy động các nguồn lực vào việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Quy hoạch kết cấu hạ tầng kinh tế chưa phù hợp với vị trí địa bàn, chưa thật sự
đáp ứng nhu cầu của nhân dân về phát triển kinh tế xã hội giai đoạn mới.
Khả năng thực tiễn và trình độ chính trị, chun mơn của một số cán bộ trẻ
trong hệ thống chính trị thị trấn Trà My chưa đủ mạnh, chưa đủ khả năng đáp ứng
địi hỏi nhiệm vụ đề ra, do đó làm hạn chế đến hiệu quả của công việc.
b/ Về chủ quan:
Đảng bộ chưa đề ra được nhiều Nghị quyết định hướng, có tính đột phá trong
lĩnh vực tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, nhất là sự chuyển dịch theo
hướng cơng nghiệp hóa; vai trị quản lý điều hành của chính quyền cịn nhiều lúng
túng; chậm cụ thế hóa Nghị quyết của Đảng bộ, một số cán bộ chưa có trách nhiệm
cao trong cơng việc, thiếu năng động sáng tạo trong việc đề ra những giải pháp,
biện pháp khả thi để tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ
kết, tổng kết cịn thiếu và chậm.
Cơng tác Dân vận của Đảng và Mặt trận các hội đồn thể chưa có sự phối hợp
chặt chẽ với các ban ngành của chính quyền, phương thức vận động quần chúng
cịn mang tính “Nghị quyết, hành chính”; chưa gần gũi nắm bắt được việc
làm, mức độ khó khăn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhân dân nên đánh
giá phát triển kinh tế của địa phương chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa phản ánh
được mức độ tăng trưởng kinh tế để có định hướng mới.
Khả năng chủ động nỗ lực khắc phục khó khăn của một số bộ phận nhân dân
cịn yếu, cịn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng,
chưa thấy hết trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của công dân.
Tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng nhưng chưa có biện pháp ngăn chặn
hữu hiệu.
3/ Một số kinh nghiệm bước đầu:
Trên cơ sở kết quả đã đạt được từ những nguyên nhân đã rút ra, xin nêu ra một
số kinh nghiệm sau đây:
Một là: Không ngừng xây dựng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết
thống nhất trong Đảng bộ, trong hệ thống chính trị và tồn dân. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng phát huy cho được tinh thần tự chủ, linh hoạt, năng động, tự lực, tự
cường, quyết tâm khắc phục khó khăn thách thức, tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên,
vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ trương Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước với việc kết hợp sức mạnh mọi nguồn lực sẵn có của địa bàn là nhân tố quyết
định sự thắng lợi mọi nhiệm vụ của địa phương.
Hai là: Từ tinh thần Nghị quyết của Đảng cấp trên và tinh hình yêu cầu của
địa phương, Đảng bộ thị trấn Trà My từ những Nghị quyết tổng quát phải xây dựng
các Nghị quyết chuyên đề, chính quyền, Mặt trận hội đồn thể phải cụ thể hóa một
cách linh hoạt, kịp thời triển khai, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong từng lĩnh vực,
Nghị quyết và chương trình hành động đã được đề ra chỉ thật sự có hiệu quả khi
được kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và
có sự phối hợp một cách đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, sự nhận
thức một cách đầy đủ và sự hưởng ứng cao của mọi tầng lớp dân cư.
Ba là: Quá trình triển khai các chủ trương, Nghị quyết của Đảng Ban Dân vận
của Đảng và khối Mặt trận đoàn thể phải thường xuyên thay đổi phương thức hoạt
động, phương pháp tuyên truyền vận động tránh sự lập khn máy móc, phải làm
cho chủ trương, Nghị quyết của Đảng đến với mọi người dân một cách cụ thể, rõ
ràng, gần gũi, dễ hiểu, sát thực tế người dân để nhân dân đồng thuận trong nhận
thức và thống nhất trong hành động thì chủ trương Nghị quyết của Đảng mới biến
thành hiện thực. Trong quá trình điều hành phải duy trì chế độ kiểm tra, đánh giá
hiệu quả, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời.
Bốn là: Phải làm cho kinh tế dân chủ ở cơ sở trở thành dân chủ một cách thực
sự, dân chủ từ trên xuống, dân chủ từ dưới lên, nói cho dân nghe, và nghe cho dân
nó, phải biết tranh thủ ý kiến kinh nghiệm của các vị lão thành cách mạng về
phương pháp vận động quần chúng; phát huy cho được quyền làm chủ thật sự của
nhân dân lao động.
Năm là: Thường xuyên đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các Hội
đoàn thể, trong các tầng lớp nhân dân, thực sự khơi dậy được mọi tiềm năng thế
mạnh của địa phương và phát huy sức mạnh của nhân dân chính là yếu tố cần thiết
để góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị đề ra.