MỤC LỤC
.
A. MỞ ĐẦU
Giao dịch dân sự rất phổ biến trong hiện tại. Ngoài những giao dịch dân sự
thông thường còn có giao dịch dân sự có điều kiện. Đây không phải là loại giao
dịch hiếm gặp trong đời sống, tuy nhiên không phải ai cũng nắm rõ về loại giao
dịch này. Trong bài này, để trình bày kĩ hơn về giao dịch dân sự có điều kiện em
xin lấy một tình huống và phân tích tình huống đó theo đề 7 bài tập học kì môn
Luật Dân sự 1.
Bài làm còn nhiều hạn chế, mong thầy cô góp ý để em hoàn thiện hơn. Em
xin cảm ơn!
1
B. NỘI DUNG
I. GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
1. Khái quát về giao dịch dân sự
Theo điều 121, BLDS 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự là giao dịch hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự.”
Từ khái niệm nói trên ta có thể xác định được hậu quả pháp lí của giao dịch
dân sự là làm phát sinh thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của một chủ
thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí làm
phát sinh hậu quả pháp lí. Giao dịch dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể
nhằm đạt được mục đích nhất định cho nên dân sự là hành vi mang tính ý chí
của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.
Trong giao dịch dân sự có sự thống nhất giữa ý chí và thể hiện ý chí của
chủ thể. thiếu sự thống nhất này giao dịch có thể bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ
vô hiệu.
Mục đích của giao dịch chính là hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch mà
các bên muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Mói cách khác, mục đích ở đây
luôn mang tính pháp lí và sẽ trở thành hiện thực nếu như các bên trong giao dịch
dân sự thực hiện đúng nghĩa vụ của giao dịch.
Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch
dân sự, các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác
trong đời sống của mình.
1.
Giao dịch dân sự có điều kiện
Giao dịch có điều kiện là giao dịch dân sự mà hiệu lực của nó phát sinh
hoặc hủy bỏ phụ thuộc vào sự kiện nhất định, khi sự kiện đó xảy ra thì giao dịch
phát sinh hoặc hủy bỏ. Theo khoản 1 Điều 125, BLDS 2005 quy định:
“Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy
bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc
hủy bỏ.”
2
Sự kiện được coi là điều kiện của giao dịch do chính người xác lập giao
dịch định ra. Nó phải là sự kiện trong tương lai. Sự kiện đó xảy ra hay không
xảy ra không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các chủ thể trong giao dịch. sự
kiện làm phát sinh hay hủy bỏ giao dịch phải hợp pháp.
Như vậy, giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh hiệu lực là giao dịch dân
sự đã được kí kết nhưng chưa có hiệu lực cho đến khi sự kiện đó xảy ra. Giao
dịch dân sự có điều kiện hủy bỏ hiệu lực, giao dịch dân sự này có hiệu lực cho
đến khi sự kiện là điều kiện hủy bỏ giao dịch đó diễn ra.
Giao dịch dân sự có điều kiện cũng tương đối phổ biến và được các chủ thể
áp dụng để thoả mãn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
II.
TÌNH HUỐNG GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
Cụ Nguyễn Văn Huyên ( sinh năm 1945) trú tại thôn 5 xã Phúc Sơn, huyện
Anh Sơn Tỉnh Nghệ An có hai người con là bà Nguyễn Thị Thơm và bà Nguyễn
Thị Thắm. Gia đình cụ có 3 mẫu đất có diện tích lần lượt là 300m 2 và hai mẫu
còn lại rộng 500m2 cũng nơi cư trú trên. Bà Thắm lấy chồng và sinh sống trong
Nam, bà Thơm vì thương cha nên quyết định sinh sống ở gần nhà cho tiện bề
chăm sóc.
Năm 2013, vì tuổi cao sức yếu, cụ lập di chúc để lại cho mỗi người con của
mình một mảnh đất có diện tích 500m 2. Còn mảnh đất 300m2 cụ có viết trong di
chúc: sau khi cụ mất, nếu một trong hai người con của cụ chịu thờ cúng, chăm
sóc mồ mả tổ tiên thì sẽ được hưởng mảnh đất đó. Người đó không được phá
ngôi nhà của cụ mà phải dùng làm nơi thờ cúng để sau này con cháu về có nơi
thờ tự.
Tháng 2/2015, cụ Huyện mất, thừa kế được mở, bà Thơm và bà Thắm nhận
phần thừa kế của mình. Bà Thắm vì lấy chồng xa nên không trông coi, chăm sóc
mộ cha mẹ tổ tiên được. Bà Thơm thực hiện phần di chúc này và được hưởng
phần đất có trong di chúc.
Ngày 26/7/2015, bà Thơm hoàn thành thủ tục liên quan đến quyền sử dụng
đất và chính thức trở thành người có quyền sử dụng mảnh đất rộng 300m 2 của
cụ Huyên
3
III.
1.
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Điều kiện của giao dịch là điều kiện làm phát sinh hiệu lực giao dịch dân sự.
Thừa kế cũng là một hình thức giao dịch dân sự bởi nó là một hành vi pháp
lí đơn phương. Chính vì vậy, thừa kế cũng có thể là giao dịch dân sự có điều
kiện.
Thực tế, sự kiện phát sinh trong đời sống xã hội được chọn hoặc do các bên
thỏa thuận làm điều kiện của giao dịch dân sự, theo đó việc thực hiện giao dịch
dân sự phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất
định.
Trong trường hợp này, điều kiện thừa kế mảnh đất 300m2 được cụ Huyên
ghi rất rõ trong di chúc:
“sau khi cụ mất, nếu một trong hai người con của cụ chịu thờ cúng, chăm
sóc mồ mả tổ tiên thì sẽ được hưởng mảnh đất đó” ở đây chính là mảnh đất
rộng 300m2.”
Như vậy sự kiện trong thực tế được lựa chọn là cụ Huyên mất và một trong
2 người con chăm lo hương hỏa. Khi cả hai điều kiện đồng thời xảy ra thì giao
dịch có hiệu lực.
Giao dịch dân sự có điều kiện là giao dịch được giao kết hợp pháp nhưng
hiệu lực của giao dịch còn phụ thuộc vào sự kiện là điều kiện do các bên thỏa
thuận và theo đó khi sự kiện phát sinh hoặc chấm dứt là điều kiện đề giao dịch
được thực hiện, được thay đổi hoặc được chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia giao dịch.
Đây là điều kiện phát sinh hiệu lực của giao dịch dân sự mà cụ thể là thừa
kế. Mảnh đất được đề cập đã được định đoạt cho người chăm sóc, thờ cúng ở
trong di chúc được lập vào năm 2013. Thế nhưng chưa xác định đó là ai và cụ
Huyên chưa mất, tức là chưa mở thừa kế, vì vậy phần thừa kế này chưa có hiệu
lực. tháng 2 năm 2015, cụ Huyên mất, bà Thơm thực hiện phần di chúc này:
chăm sóc, thờ cúng cha mẹ, tổ tiên nên trở thành chủ sở hữu của mảnh đất. Có
thể thấy rằng, giao dịch dân sự đã được xác lập từ trước nhưng chỉ đến khi bà
Thơm – một người con của cụ, đứng ra thực hiện nghĩa vụ trông nom hương hỏa
4
thì hiệu lực của giao dịch dân sự mới phát sinh, bà Thơm mới có quyền nhận
phần thừa kế này. Trường hợp giả định, nếu không có ai chịu thực hiện phần
thừa kế này thì sẽ không được hưởng phần đất được nêu trên.
Như vậy, không phải mọi nội dung của thừa kế phát sinh từ thời điểm mở
thừa kế, trong trương hợp này, một phần nội dung thừa kế phát sinh hiệu lưc khi
sự kiện được nhắc đến trong di chúc xảy ra.
Sau khi điều kiện xảy ra, quyền sử dụng đất của người thừa kế đồng thời
phát sinh cùng nghĩa vụ chăm nom hương hỏa cho tổ tiên ông bà.
Kết luận lại, sự kiện được nhắc đến là điều kiện phát sinh hiệu lực của giao
dịch dân sự.
2.
a.
Điều kiện của sự kiện làm phát sinh hiệu lực dân sự
Do chính người xác lập định ra.
Giao dịch dân sự thể hiện ý chí của chủ thể, chính vì vậy, phải do chính chủ
thể định ra. Có nghĩa là phụ thuộc vào mục đích, mong muốn của chủ thể tham
gia giao dịch dân sự. Chỉ khi do người xác lập định ra mới có thể có sự thống
nhất giữa ý chí và sự thể hiện ý chí của chủ thể. Đối với hành vi pháp lí đơn
phương thì đó là do chủ thể định, còn với giao dịch là do các bên chủ thể thỏa
thuận với nhau hình thành.
Định đoạt ở đây không đơn thuần là thể hiện về mặt hình thức. Định đoạt
tức thể hiện về cả ý chí và việc thể hiện ý chí, mà phần nhiều là căn cứ vào ý chí
của người xác lập giao dịch. Người xác lập định ra dưới nhiều hình thức, văn
bản, bằng miệng hoặc hành động. Như ở trường hợp này, định đoạt của cụ
Huyên là cho người thờ tự hưởng phần đất. Dù cụ thực hiện việc định đoạt bằng
hình thức nào thì chỉ cần phù hợp với ý chí của cụ là được.
Đây có thể là căn cứ để xác định giao dịch dân sự có điều kiện có vô hiệu
hay không. Nếu không có điều kiện này thì không thể đảm bảo quyền và lợi ích
các bên cũng như không thể thực hiện ý chí của người xác lập. Một giao dịch có
nội dung không phải do người xác lập định đoạt là một giao dịch hiệu.
Ở đây, chia thừa kế là hành vi pháp lí đơn phương, chính vì vậy, điều kiện
đặt ra phải mang tính ý chí của cụ Huyên mà không phải ai khác. Nếu cụ Huyên
5
nghe theo người khác mà đặt ra điều kiện này thì vẫy tính là ý chí của cụ bởi cụ
được lựa chọn có thêm điều này vào di chúc hay không.
Điều kiện này để tránh trường hợp điều kiện phát sinh hay hủy bỏ giao dịch
bị thay đổi nội dung bởi bên thứ ba làm ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của
các bên chủ thể. Chỉ có những gì được viết trong di chúc hợp pháp mới được
công nhận và thực hiện. Mọi điều kiện khác hay sự thay đổi điều kiện không
được ghi trong di chúc hoặc thực hiện không đúng điều kiện cụ Huyên đặt ra
đều không thỏa mãn điều kiện này.
b.
Điều kiện chưa xảy ra trong thực tại và có khả năng xảy ra trong tương lai.
Không thể định đoạt một giao dịch dân sự bằng một sự kiện đã xảy ra hoặc
đang xảy ra vì đã thấy được kết quả của nó. Điều kiện phát sinh hay hủy bỏ giao
dịch dân sự phải chưa được xảy ra tức là không biết được nó có xảy ra hay
không. Hay nói cách khác là điều kiện đó có khả năng nhưng không chắc sẽ xảy
ra.
Đồng thời, cũng không thể định đoạt bằng một sự kiện không có khả năng
xảy ra trong tương lai. Bởi vì, nếu các bên thỏa thuận về một sự kiện là điều
kiện để xác lập giao dịch hoặc hủy bỏ hợp động là những sự kiện không thể xảy
ra hoặc chưa từng có trong xã hội, trong tự nhiên và mang nặng tính chất hoang
tưởng thì sự kiện đó không thể được xem là điều kiện để xác lập hoặc hủy bỏ
hiệu lực giao dịch dân sự.
Hiệu lực của giao dịch dân sự có điều kiện khá “bấp bênh” bởi chính điều
kiện này. Không thể chắc chắn giao dịch dân sự sẽ có hiệu lực chính là một đặc
điểm của giao dịch dân sự có điều kiện.
Trong trường hợp này, điều kiện của cụ Huyên chưa xảy ra vì cụ chưa mất,
chưa bắt buộc phải có người chăm nom hương khói. Nhưng cũng không chắc có
xảy ra hay không vì hai người con của cụ đều là con gái. Theo truyền thống của
người Việt thì con trai mới là người chăm sóc mộ tổ. Nếu hai người đều không
nhận nghĩa vụ này thì cụ cũng không cách gì để tác động.
Nhưng không có nghĩa là không thể xảy ra do quá vô lí. Bởi thực tế, hai
người đều là con của cụ, đều mang dòng máu của dòng họ. Theo lẽ thường tình,
6
dù đã về nhà chồng thì hai người vẫn là con cháu, vẫn có bổn phận thờ tự mặc
dù không thể so sánh với con trai. Không có luật nào buộc con gái phải “đoạn
tuyệt” với bên nhà mình để một lòng “thờ phụng” nhà chồng, ngay cả hương
hỏa cũng không cho phép.
Có thể thấy, điều kiện của cụ Huyên chưa xảy ra trong thực tế và có khả
năng xảy ra trong tương lai, đồng nghĩa với việc thỏa mãn điều kiện này.
Như vậy, một sự kiện có khả năng xảy ra trong tương lai được chủ thể chọn
mới trở thành điều kiện phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự được.
c.
Có xảy ra hay không không phụ thuộc ý chí chủ quan của bất kì bên chủ
thể nào
Điều kiện trong giao dịch dân sự phải là những sự kiện mang tính dự liệu,
có khả năng nhưng không chắc có thể xảy ra trong tương lai. Chủ thể hoặc bên
thứ ba không can thiệp, gây ảnh hưởng tới kết quả có xảy ra hay không của sự
kiện để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
Bởi nếu chắc chắn xảy ra trong tương lai thì đó là sự định đoạt có kết quả
đã biết trước, Như vậy cũng giống như giao dịch dân sự bình thường. Nhưng
nếu nhìn theo một góc độ khác, nếu đã biết chắc sự kiện đó có thể xảy ra hay
không, chủ thể của giao dịch có thể lợi dụng điều đó để mang lại điều bất lợi cho
bên còn lại hoặc làm ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của các bên. Lúc này,
giao dịch dân sự vô hiệu có thể do giả tạo.
Khoản 2 Điều 125, BLDS 2005 quy định rất rõ về hậu quả pháp lí của yêu
cầu này:
“Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một bên hoặc của người thứ
ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu có sự tác động của một bên 3 hoặc
của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hoặc huỷ bỏ giao
dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra”
Có thể hiểu rằng mọi hoạt động nhằm ảnh hưởng đến điều kiện phát sinh,
hủy bỏ của giao dịch dân sự do ý chí của một bên hoặc bên thứ 3 đều ảnh hưởng
đến hiệu lực của giao dịch theo hướng trái chiều với ý chí đó. Hoạt động cố tình
7
ngăn cản, làm sự kiện không xảy ra, gắn với mong muốn giao dịch dân sự không
phát sinh hoặc hủy bỏ thì mặc nhiên coi như điều kiện giao dịch đã hoàn thành,
giao dịch sẽ được phát sinh hoặc hủy bỏ. Ngược lại, nếu cố ý thúc đẩy, tạo dựng
sự kiện pháp lí là điều kiện nhằm làm cho giao dịch dân sự phát sinh hay hủy bỏ
thì coi như điều kiện ấy không xảy ra, giao dịch dân sự sẽ không phát sinh hay
hủy bỏ. Như vậy sự kiện là điều kiện phải xảy ra tự nhiên, không có sự can
thiệp ý chí của chủ thể hay bên thứ ba.
Trong trường hợp này, cụ Huyên là chủ thể của hành động pháp lí đơn
phương là chia thừa kế. Cụ không tác động, thúc ép bất cứ ai trong hai người
con của cụ phải thực hiện nội dung thừa kế này để nhận mảnh đất. Chính trong
điều kiện của cụ cũng chỉ định chung chung, “nếu một trong hai người con của
cụ”, tức không xác định ai trong hai người có thể thừa kế mảnh đất nên có thể
thấy cụ Huyên không hề có ý định áp đặt ý chí của mình cho ai. Hơn nữa, ở đây
cũng không hề xuất hiện bên thứ ba cố tình ngăn cả không cho bà Thắm nhận
chăm sóc hương hỏa mà vì điều kiện gia đình sống trong Nam, xa quê không
cho phép bà nhận phần thừa kế này. Tình huống cũng không đưa ra bà Thắm tác
động gì đến bà Thơm ảnh hưởng tới quyết định của bà Thơm. Có thể thấy tình
huống này không có can thiệp ý chí của chủ thể hay bên thứ ba nào với điều
kiện được định ra.
d.
Không vi phạm điều cấm của pháp luật, đạo đức xã hội
Điều 128 BLDS định nghĩa điều cấm của pháp luật là những quy định của
pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện hành vi nhất định. Trên thực tế,
trong nhiều văn bản luật, các giao dịch vi phạm các quy phạm bắt buộc phải làm
một việc vẫn bị coi là vô hiệu. Hơn nữa, còn có một cách hiểu khác, điều luật
quy định phải làm một việc, vậy vế ngầm của điều luật này là không được phép
làm trái với quy định của điều luật đó, nếu như vậy, điều luật này vẫn có thể bị
xem là điều cấm.
Ngoài ra, giao dịch dân sự còn vô hiệu nếu vi trái đạo đức. Đạo đức xã hội
là những chuẩn mực ứng xử chung của người với người trong đời sống xã hội,
được công đồng công nhận và tôn trọng. trái đạo đức cũng có nghĩa là làm
8
những việc không thể chấp nhận được, gây phẫn nộ cho xã hội. để đảm bảo tính
công bằng, minh bạch cũng như để duy trì trất tự xã hội, không thể để một giao
dịch vi phạm đạo đức có hiệu lực bởi chắc chắn sẽ vấp phải sự phản đối dữ dội
của dư luận.
Nếu vi phạm một trong hai điều này thì giao dịch dân sự vô hiệu theo điều
128. Như vậy, giao dịch dân sự không phải là một ngoại lệ. Sự kiện là điều kiện
thực chất là một nội dung trong giao dịch, bởi vậy cũng không thể vi phạm điều
cấm của pháp luật, đạo đức của xã hội nếu không sẽ bị coi là vô hiệu.
Thừa kế là hành động tự do định đoạt tài sản của mình để dịch chuyển cho
người hoặc tổ chức khác. Pháp luật không buộc người có di sản phải chia thừa
kế theo di chúc như thế nào nhưng không có nghĩa là không điều chỉnh nội dung
của thừa kế. cũng như mọi điều kiện khác, nếu vi phạm điều cấm hay trái đạo
đức đều không được công nhận.
Trong trường hợp này, ông Huyên ra điều kiện là chăm sóc, trông nom
phần mộ tổ tiên. Đây là một nét đẹp truyền thống của người Việt, như vậy,
không có lí gì để nói nó vi phạm điều cấm hay trái đạo đức xã hội. Ngược lại,
điều kiện trên còn thể hiện nét văn hóa tinh thần cần lưu giữ của người dân nước
ta.
Như vậy, có thể thấy điều kiện của ông Huyên thỏa mãn yêu cầu này.
Kết luận:
Điều kiện được ghi trong di chúc là do chính ông Huyên định ra, chưa xảy
ra trong thực tế, không có sự can thiệp ý chí của bên chủ thể hoặc bên thứ ba
đồng thời không vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức của xã hội. Qua
những phân tích trên, có thể thấy rằng điều kiện của cụ Huyên hoàn toàn chấp
nhận được và đáp ứng được các yêu cầu để trở thành điều kiện phát sinh hiệu
lục giao dịch dân sự.
3. Đánh giá khoản 1 điều 125 Bộ luật dân sự 2005
Khoản 1 điều 125 Bộ Luật Dân Sự 2005 quy định:
9
“Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy
bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc
hủy bỏ”
Quy định này có những ưu điểm cũng như những tồn tại, hạn chế nhất định
cần phải sửa chữa, thay đổi.
a. Ưu điểm
khoản 1 điều 125 là quy định chung về giao dịch dân sự có điều kiện, là căn
cứ duy nhất của loại giao dịch này trong bộ Luật Dân sự Việt Nam. Chính điều
đó tạo nên vai trò vô cùng đặc biệt, góp phần giúp những chủ thể của giao dịch
dân sự có điều kiện thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình.
Ngôn ngữ giải dị, súc tích, tạo điều kiện thuận lợi cho người tìm hiểu,
nghiên cứu luật hiểu một cách rõ ràng, không hiểu sai nghĩa của quy định. Từ
đó, góp phần nhận định, phân loại cũng như giúp việc áp dụng pháp luật được dễ
dàng hơn.
b. Hạn chế
Các quy định về giao dịch dân sự có điều kiện còn thiếu mà hiện nay chỉ
mới quy định rất chung tại Điều 125 về giao dịch dân sự có điều kiện. điều này
dẫn đến thiếu cơ sở pháp lí khi giải quyết những vụ việc liên quan đến giao dịch
dân sự có điều kiện.
Đồng thời, chúng ta cũng thấy rằng, tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật dân sự
ghi: "Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy
bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc
hủy bỏ"; điều luật có ý chỉ dẫn tới hợp đồng dân sự có điều kiện, vì nói "thỏa
thuận" tức là nói tới hợp đồng, mà thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ
thì nói tới giao dịch dân sự có điều kiện. Như vậy, thực chất ở đây chưa phù hợp
với hành vi pháp lí đơn phương (vì không có thỏa thuận) mặc dù đây cũng là
một dạng giao dịch dân sự.
Chưa có quy định rõ ràng về điều kiện cần thỏa mãn của sự kiện là điều
kiện của giao dịch dân sự.
4. Giải pháp khắc phục hạn chế
Dựa trên những hạn chế đã nêu, em xin trình bày ý kiến của mình để khắc
phục những tồn tại, hạn chế ở Khoản 1 này:
10
-
Cần xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành hoặc bổ sung thêm căn cứ pháp lí cho
-
giao dịch dân sự có điều kiện
Cần quy định rõ ràng về điều kiện, phân biệt điều kiện của giao dịch dân sự có
-
điều kiện với “điều kiện” có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Cần thay cụm từ “thỏa thuận” trong khoản 1 điều 125 để tránh mâu thuẫn, áp đặt
cho hợp đồng có điều kiện.
C. KẾT LUẬN
Qua tình huống đã trình bày ta thấy rõ hơn các khía cạnh của giao dịch dân
sự có điều kiện đồng thời nắm được những yêu cầu với sự kiện là điều kiện của
giao dịch dân sự. Qua đó, tác giả đã đưa ra những đánh giá của mình về khoản 1
điều 125 và nêu ra một vài giải pháp khắc phục khuyết điểm. Tuy nhiên, tất cả
chỉ mang tính chủ quan nên có thể còn nhiều hạn chế, rất mong nhận được đóng
góp của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn!
11
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, nxb Công An nhân dân,
2. Bộ Luật Dân sự 2005, nxb Lao Động
3. Bộ Luật Dân Sự 2015, nxb Lao Động
4. Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, PGS.TS Hoàng Thế Liên
(Chủ biên), Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp,
5. />6. />7. />
12