Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.92 KB, 3 trang )
Chữ quốc ngữ
Trước khi chữ Quốc Ngữ ra đời, chúng ta đã dùng chữ Hán, chữ Nôm. Chữ Hán là chữ
Tàu nhưng đọc theo giọng Việt, khác hẳn giọng của những người Tàu mặc dù nước Việt đã trải
qua hàng ngàn năm đô hộ. Vì truyền thống dân tộc không thể để bị đồng hóa, chữ Nôm ra đời.
Chữ Nôm dùng những chữ Hán ghép lại để ghi tiếng Việt vì vậy chữ Nôm có rất nhiều nét. Chữ
Quốc Ngữ mà ngày nay chúng ta dùng là loại chữ dùng những mẫu tự La Tinh ghép thành. Trong
tất cả những nước Á Châu, chỉ có Việt Nam và Phi Luật Tân là hai nước dùng mẫu tự La Tinh
trong chữ viết.
Tên gọi hệ thống chữ viết tiếng Việt hiện nay là do các nhà truyền giáo phương tây
đặt ra từ thế kỉ XVII. "Chữ quốc ngữ" nghĩa đen là "chữ viết của tiếng nói nước ta". Cách
gọi này không chính xác, vì như đã nói, chữ nôm cũng là thứ chữ để ghi tiếng nói nước ta,
có đâu chỉ riêng hệ thống chữ viết Latin? Chẳng qua đó chỉ là thủ thuật vận động quần
chúng của các vị thừa sai nhằm triệt hạ uy tín cũng như địa vị của chữ hán, chữ nôm lúc bấy
giờ (thế kỉ XVII).
Chữ Quốc Ngữ được chế tác từ năm nào, đến nay vẫn chưa rõ. Chỉ biết rằng, năm
1593 đã có một giáo sĩ Portugal là Diego Aduarte đến đất Quảng nam và ở đây ba năm.
Năm 1615, một giáo sĩ người Ý là Busomi đến cửa Hàn (Quảng nam) giảng đạo mãi đến
năm 1639. Rất nhiều tài liệu viết tay hiện còn lưu trữ trong các thư viện giáo hội Thiên Chúa
ở Portugal, Pháp, vàVatican. Những mảng tài liệu tìm được cho đến nay đã bước đầu cho
thấy là Chữ Quốc Ngữ đã manh nha từ những năm đầu thế kỉ XVII, qua một vài tiếng Việt
xuất hiện rải rác trong các bản tường trình hàng năm của của Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản do
một linh mục Portugal tên là João Rioz soạn vào khoảng năm 1621. Tiếng Việt được ghi
trong những văn kiện tiếng Bồ này đều không có dấu giọng và cách ghi âm chỉ tương
đối: Cacham (Cả chăm),Ungue (Ông nghè), Ontrũ (Ông trùm)…
Cũng khoảng thời gian này, một vị thừa sai trẻ tuổi người Portugal là Francsisco de
Pina đến giảng đạo ở Hội An năm 1623. Tại đây, vị giáo sĩ này đã học tiếng Việt, và chẳng
bao lâu là có thể giảng đạo bằng tiếng Việt. Vị thừa sai dòng Tên này đã mở đầu cho thời kì
kiện toàn lối viết tiếng Việt bằng chữ cái Latin.
Vào đầu năm 1625 thì giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Hội An giảng đạo. Vị thừa
sai dòng Tên người Pháp này cùng vị giáo sĩ Ý khác là Christoforo Borri đến đất Việt năm
1618 trước đó đều là những học giả, nhất là A. de Rhodes, chăm chỉ học tiếng Việt trong