Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

đặc điểm kinh tế xã hội ĐBSCL thế kỷ XVII- XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.77 KB, 69 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Ngược lại dòng lịch sử gần 318 năm về trước, một sự kiện quan trọng đã xảy
ra, đánh dấu một bước ngoặt lớn lao trong lịch sử mở mang bờ cõi của dân tộc Việt
Nam. Nguyễn Hữu Cảnh, người con của vùng đất Quảng Bình xa xôi đã đặt dấu chân
của mình vào mảnh đất Nam Bộ, thiết lập những đơn vị hành chính đầu điên của
chính quyền chúa Nguyễn, tại một nơi hoàn toàn mới mẻ, để rồi từ đó những lớp di
dân người Việt có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp tục công cuộc khai phá, tạo nên vùng
Nam Bộ trù mật và giàu có, mang đậm dấu ấn của những nông dân người Việt xưa.
Nam Bộ là một vùng đất mới, mới về lịch sử cũng như mới về những đặc điểm
mà nó mang trong mình. Đến nay, chúng ta vẫn chưa thể xác định người Việt đã đến
vùng đất này từ khi nào, nhưng chúng ta chỉ biết được rằng, vào cuối thế kỷ XVII, đã
1


có hơn “40 vạn hộ” sinh sống và lập nghiệp tại đây. Có thể thấy, trong bối cảnh lịch sử
thế kỷ XVII – XVIII, khi đất nước có nhiều biến động, cuộc nội chiến gần 50 năm
giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đã gây ra biết bao đau thương cho những người
nghèo khổ. Như một xu thế khách quan để sinh tồn, những cư dân người Việt không
thể chịu đựng được cảnh sống đó, họ phải rời bỏ quê hương xứ sở để đi tìm một miền
đất mới. Nam Bộ chính là điểm hẹn lý tưởng để họ tìm đến. Mặc dù trước đây, vùng
đất này thuộc quyền cai quản của Chân Lạp, nhưng vào thời điểm thế kỷ XVII đó,
vùng đất này về cơ bản là không có người sinh sống. Chính vì vậy, với tinh thần chịu
thương chịu khó, không quản ngại khó khăn gian khổ, những lưu dân Việt đã đến và
biến Nam Bộ trở thành một vùng đất giàu có và phát triển. Có thể nói, nhân dân và
chính quyền Đàng Trong đã có một công trạng rất lớn trong việc khai phá, xác lập và
gìn giữ chủ quyền đối với miền đất phía Nam xa xôi này.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, vùng đất Nam Bộ đã tỏ ra là một
vùng phát triển năng động và có nhiều đặc trưng riêng so với các vùng đất miền Trung
và miền Bắc của nước ta. Dưới sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan


khác nhau, vùng đất Nam Bộ đã đi theo một con đường mới và để lại nhiều dấu ấn nổi
bật trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Việc tìm hiểu những đặc điểm của vùng đất này
nói chung, nhất là những đặc điểm về kinh tế - xã hội nói riêng là một công việc cần
thiết và hữu ích. Nó sẽ cung cấp cho chúng ta nhiều điều thú vị về mảnh đất này.
Chính vì thế, chúng tôi đã chọn đề tài “Đặc điểm kinh tế xã hội vùng đất Nam Bộ thế
kỷ XVII – XVIII” để nghiên cứu và tìm hiểu. Do còn nhiều hạn chế về mặt nhận thức
nên chắc chắn rằng chúng tôi còn nhiều thiếu sót trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình. Rất mong cô và các bạn sẽ bỏ qua và góp ý để chúng tôi có thể
hoàn thiện hơn nữa bài nghiên cứu của mình. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

2


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐẤT NAM BỘ
THẾ KỶ XVII - XVIII
1.1.

Một số chính sách của chính quyền chúa Nguyễn trong công cuộc khẩn
hoang và phát triển vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII – XVIII
1.1.1. Chính sách đối với việc khai khẩn đất hoang
“Người dân đi trước, nhà nước theo sau” đó chính là sự thật đã diễn ra trong
lịch sử khẩn hoang và sáp nhập vùng đất Nam Bộ của dân tộc ta. Từ trước khi
chính quyền Đàng Trong tổ chức kinh lý, vùng đất Gia Định đã có những lưu dân
Việt sinh sống và định cư ở đây rồi. Nhà nước chỉ cần làm một công việc để hợp
pháp hóa sự hiện diện của người Việt là tiến hành thiết lập các đơn vị hành chính
để dễ bề quản lý. Phủ biên tạp lục và sau này là Gia Định thành thông chí đã ghi
nhận sự kiện lịch sử đó, “Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698), thời Hiển Tông
Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (Lê Hy Tông nên hiệu Chính
Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lê
Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông

Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh
Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập
dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn)…” 1. Kể từ đó, cùng với nhân dân, chính
quyền các chúa Nguyễn đã cho tiến hành khai khẩn những phần còn lại của vùng
đất Nam Bộ.
Có thể thấy, những chính sách khẩn hoang của các chúa Nguyễn đều nhằm
hướng tới những mục đích chính sau: “trước hết là mở mang đất đai để khẳng định
chủ quyền trên vùng đất phía Nam; thứ hai là từ việc khẩn hoang sẽ tiến tới mở
rộng diện tích canh tác và tạo nên thế mạnh về kinh tế cho chính quyền của mình;
thứ ba, và cũng là mục đích quan trọng nhất, đó là nhằm củng cố sức mạnh quốc
phòng, đảm bảo việc giữ gìn an ninh và khẳng định chủ quyền trên vùng đất mới” 2.

1 Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, Quyển III, bản dịch của Lý Việt Dũng, nguồn: vanhoahoc.vn, Tr.
4.

2 Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008),

Vai trò của cộng đồng người Việt trong công cuộc khai phá vùng đồng
bằng sông Cửu Long (Thế kỷ XVII – XIX), Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 66 – 67.

3


Việc đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang đã thực sự đem lại những kết quả và
lợi ích vượt lên trên những mong đợi. Những chính sách đó đã góp phần vào việc
mở rộng diện tích trồng trọt, đẩy mạnh việc phát triển kinh tế ở khu vực đồng bằng
Nam Bộ. Ở đây, chúng tôi chỉ xin tập trung vào phần những chính sách cụ thể của
chúa Nguyễn mà thôi. Bởi lẽ, những chính sách khẩn hoang đó có tác động rất lớn
đối với sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội ở Nam Bộ trong thế kỷ XVII – XVIII.
Trước hết, chính quyền Đàng Trong đã tiếp tục lợi dụng sức lao động và khả

năng khai phá đất đai của các tầng lớp nhân dân nghèo. Thực tế lịch sử cho thấy
rằng trước khi chính quyền các chúa Nguyễn tổ chức việc khẩn hoang thì các cuộc
khai hoang do lưu dân xiêu tán tự tiến hành đã diễn ra rất mạnh mẽ và đạt được
những thành tựu hết sức đáng kể. Cho đến năm 1698, việc Nguyễn Hữu Cảnh vâng
lệnh chúa Nguyễn vào tổ chức chính quyền hầu như chỉ là “chính thức hóa một sự
kiện đã rồi, để thu thập vào bản đồ Việt Nam những phần đất được khai hoang bởi
sức lao động của chính nhân dân mình”3.
Nhận thấy được khả năng to lớn của những người nông dân nghèo này
trong công cuộc khẩn hoang cho nên sau khi đã nắm quyền kiểm soát vùng đất mới,
các chúa Nguyễn vẫn tiếp tục duy trì và khuyến khích hình thức tự khẩn hoang của
lưu dân tự do. Điều đó được thể hiện qua sự dễ dãi của chính quyền đối với việc
công nhận, việc đánh thuế đối với những phần đất đó, “chính quyền họ Nguyễn tỏ
ra rất dễ dãi đối với việc dân chúng chiếm đất để khẩn hoang đến mức theo Gia
Định thành thông chí, dân ở vùng này có thể tự do đến khai khẩn đất ruộng ở các
vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa
chọn đất đai rồi, chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ
khoanh đất hay khu đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc xem diện tích bao
nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào, người nghiệp chủ tùy theo khoảnh đất
mình chiếm rộng hay hẹp mà tự nguyện nạp thuế nhiều hay ít, và nạp thuế bằng
thóc, dùng hộc già hay hộc non đong cũng được” 4.
3 Nguyễn Văn Đúng (2001), “Nhìn lại lịch sử khai phá đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Khoa học xã hội, số
2, Tr. 92.

4 Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 60.
4


Có thể nói chính sách khuyến khích khẩn hoang này của các chúa Nguyễn đã
mang lại hiệu quả thực sự to lớn. “Những lưu dân vốn là những nông dân chân lấm
tay bùn, từ buổi đầu đã hết sức hăm hở trong công cuộc khẩn hoang, nay lại bắt

gặp chính sách dễ dãi của các chúa Nguyễn như vậy cho nên lực lượng lưu dân đi
vào vùng đất mới ngày càng đông và công cuộc khai thác ngày càng mang lại hiệu
quả cao hơn…”5.
Một biện pháp khác được các chúa Nguyễn sử dụng là đưa binh lính khai
phá đất đai ở khu vực cư trú và mộ dân lập đồn điền khẩn hoang. Tình trạng chiến
sự xảy ra liên miên ở khu vực phía Nam do các thế lực Chân Lạp và Xiêm gây ra đã
nhiều lần buộc các chúa Nguyễn điều binh vào để giải quyết và trấn giữ. Để có thể
đảm bảo lương thực cho những đội quân đông đảo, chắc hẳn phải gặp rất nhiều
khó khăn, chính vì thế, những binh lính này phải tiến hành khai phá đất hoang ở
khu vực cư trú để lấy đất canh tác sản xuất lương thực. Đất đai do binh lình khai
phá và canh tác mang hình thức là những quân đồn điền. Sử cách của nhà Nguyễn
đã ghi lại một số trường hợp như: năm 1698 khi kéo quân vào Đồng Nai Gia Định
dẹp cuộc nổi loạn của Hoàng Tiến và sự quấy phá của phong kiến Chân Lạp, gặp
mùa nước ngược các tướng đã chia binh vỡ đất cày cấy ở Mỗi Xung và Sầm Giang.
Năm 1700, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh sau cuộc hành quân ở Chân Lạp trở về,
trên đường rút quân đã dừng lại một thời gian tại cù lao ở Vòm Nao và binh lính
của ông đã khai phá vùng đất này, Năm 1705 Nguyễn Cửu Vân một viên tướng
chúa Nguyễn trấn đóng vùng Cù Né (còn gọi là vùng Vũng Gù) kéo dài từ tả ngạn
sông Vàm Cỏ Tây đến sông Bảo Định ngày nay 6. Sau khi làm chủ được vùng đất Gia
Định, Nguyễn Ánh cũng đã ra sức kêu gọi dân chúng và quan lại tiến hành lập đồn
điền để mở rộng diện tích canh tác, từ đó củng cố thế lực để có thể tiến công quân
Tây Sơn.
Biện pháp thứ ba mà các chúa Nguyễn sử dụng là lợi dụng những bộ phận
dân “có vật lực” ở miền Trung để đưa vào khai phá. Chúa Nguyễn đã “chiêu mộ
5 Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008), Vai trò của cộng đồng người Việt trong công cuộc khai phá vùng đồng bằng
sông Cửu Long (Thế kỷ XVII – XIX), Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 68.
6 Dẫn theo Trần Thị Thu Lương (2006), “Chế độ sở hữu ruộng đất ở Nam Bộ từ thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ
XIX”, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, tập 9, số 3, Tr. 24.

5



những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn
cho dời tới đây, phát chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng, đất nước mầu mỡ,
cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa” 7. Có thể thấy, các chúa Nguyễn đã sử
dụng những người giàu có ở miền Trung di cư vào nhằm tiến hành khai phá đất
Nam Bộ. Tình hình mất ổn định ở khu vực Thuận Quảng, diện tích đất trồng trọt
càng ngày càng thu hẹp,…, đã trở thành những động lực thúc đẩy tầng lớp “có vật
lực” này đi vào vùng đất xa xôi phía Nam. Vào thế kỉ XVII, Nam Bộ còn là vùng đất
khá hoang sơ, tiềm năng khai thác còn rất lớn. Do vậy, dưới chính sách khuyến
khích và ủng hộ của chính quyền, những người này đã hăng hái ra đi và trở thành
lực lượng to lớn đối với công cuộc khai khẩn vùng đất này. Chính quyền chúa
Nguyễn đã rất khôn ngoan trong việc thu hút những lực lượng nhằm đẩy mạnh
thực hiện những mục tiêu của mình đối với vùng đất phía Nam.
Như vậy, từ cuối thế kỉ XVII – đầu thế kỷ XVIII, chính sách của chúa Nguyễn
là “khuyến khích khai phá ruộng cỏ ở đồng bằng sông Cửu Long, ai khai khẩn được
đất hoang thì được công nhận là tư điền. Chính sách ấy đã thu hút những người
giàu có, quan binh, nhà khai điền và dân nghèo từ các xứ Đàng Trong kéo nhau vào
miền Tây Nam Bộ đi khai hoang, lập ấp, lập đồn điền ở Nam Bộ một cách triệt để
hơn và được gọi là “dinh điền”8. Những chính sách đó thực sự đã đem lại nhiều
thành quả to lớn thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của vùng đất này trong thời
gian từ thế kỉ XVII – XVIII.
1.1.2. Chính sách về ruộng đất
Một số tài liệu còn để lại cho chúng ta biết phủ Gia Định do Nguyễn Hữu
Cảnh thành lập gồm hai huyện Phước Long, Tân Bình có cương vực rất rộng lớn,
bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh,
thành phố Hồ Chí Minh, Long An ngày nay. Tên cương vực hết sức rộng lớn đó dân
số lúc bấy giờ chỉ có khoảng 4 vạn hộ (hoảng 200.000 người), có nghĩa là sự phân
bố dân cư còn rất thưa thớt, do đó đất đai chưa được khai phá bao nhiêu, khiến cho
7 Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, Tr. 442.


8 Mạc Đường (2009), “Vai trò của người Việt trong việc tổ chức và đoàn kết các cộng đồng cư dân khai phá
vùng đất Nam Bộ”, Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4 & 5 tháng 4 năm 2006, Nxb. Thế giới, Hà Nội, Tr. 164.

6


vùng đất này về cơ bản còn là một vùng đất hoang dã, như Lê Quý Đôn nhận xét
trong sách Phủ biên tạp lục: “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ,
Soài Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu, toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm…” 9.
Trong điều kiện đất rộng người thưa như vậy, nhằm động viên và khuyến
khích người khai hoang, các chúa Nguyễn đã có những chính sách khá cởi mở. Việc
“cho dân tự chiếm” là một hình thức công nhận đất đai mà dân khai phá được cho
phép là ruộng tư hữu. Như Lê Quý Đôn đã nhấn mạnh đến hình thức này, những
lưu dân từ vùng Thuận Quảng đã “dời tới đây, phát chặt mở mang, hết thảy bằng
phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa” 10. Đất Đồng
Nai, Gia Định đã nhanh chóng thu hút được đông đảo dân khai hoang đến lập
nghiệp, đặc biệt là lưu dân từ Bố Chánh trở vào 11. Chính sách của chính quyền Đàng
Trong là “không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất cho thành
ruộng, lập nên thôn xã mà thôi”12.
Sự dễ dãi trong việc cho phép lưu dân tự tiện chiếm hữu ruộng đất để khai
khẩn còn được thể hiện trong việc kê khai ruộng đất trưng khẩn. Điều này được
Trịnh Hoài Đức ghi lại rất rõ trong Gia Định thành thông chí: Địa phương Nông Nại
nguyên xưa có nhiều ao chằm rừng rú. Khi đầu thiết kế lập ba dinh mộ dân đến ở,
có đất ở hạt Phiên Trấn mà kiến trưng làm đất ở hạt Trấn Biên, hoặc có đất ở hạt
Trấn Biên mà kiến trưng làm đất ở hạt Phiên Trấn, như vậy cũng tùy theo dân
nguyện, không ràng buộc chi cả, cốt yếu khiến dân mở đất khẩn hoang chia thành
điền, lập thành thôn xã mà thôi13.
Sau khi chiếm lại được vùng đất Gia Định năm 1778, Nguyễn Ánh đã hết sức

quan tâm đến vùng đất này. Mùa đông năm 1779 Nguyễn Ánh đã xem đồ bản đất Gia
9 Lê Quý Đôn (2007), Sđd, Tr. 442.
10 Lê Quý Đôn (2007), Sđd, Tr. 442.

11 Đào Tố Uyên (2009), “Chính sách ruộng đất của nhà nước đối với vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến
giữa thế kỷ XIX”, Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4 & 5 tháng 4 năm 2006, Nxb. Thế giới, Hà Nội, Tr. 220.
12 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, Quyển III, nguồn: vanhoahoc.edu.vn,
Tr. 7.
13 Dẫn theo Huỳnh Lứa (2011), “Chính sách ruộng đất của các chính quyền chúa Nguyễn ở Đồng Nai – Gia
Định trong thế kỷ XVII”, nguồn: phatgiaobaclieu.com.

7


Định, chia đặt địa giới ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ, đặt các chức Lưu
thủ, Cai bạ, Ký lục để cai trị. Cuối năm 1790, theo lệnh của Nguyễn Ánh, đồn điền bắt
đầu được thiết lập ở đây. Và để khuyến khích việc khai hoang, phát triển nông nghiệp
đối với vùng đất Nam Bộ nhà nước cũng có những chính sách nhằm động viên nhân
lực để hết sức vào việc làm ruộng. Vì vậy tháng 12/1791 nhà nước lại có lệnh “cho
dân ở các dinh lãnh trưng ruộng đất bỏ hoang, ba năm bắt đầu thu thuế, ai xin trưng
thì hạn 20 ngày là thôi, ngoài hạn ấy cấp cho quan quân cày cấy, không được tranh
nữa”14.
Có thể nói từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII các chúa Nguyễn và chính quyền
họ Nguyễn đã rất quan tâm đến vùng đất Nam Bộ, đặc biệt là vùng Gia Định. Bằng
những chính sách ruộng đất, một mặt họ Nguyễn muốn đẩy nhanh sự phát triển kinh
tế nông nghiệp ở vùng này vì đây vốn là vùng đất tốt, rất thuận lợi cho việc trồng lúa.
Mặc khác đó cũng là để tăng nguồn lợi quốc gia, ổn định biên cương và xã hội.
Chính sách cho phép và khuyến khích việc khai khẩn đất hoang dưới dạng tư
điền của các chúa Nguyễn trên vùng đất Nam Bộ trong thế kỷ XVIII đã tạo điều kiện

cho bộ phận ruộng đất tư hữu phát triển nhanh chóng và chiếm tỷ lệ áp đảo trong
toàn bộ diện tích khai khẩn được. Chúng tôi sẽ phân tích kĩ chế độ tư hữu này ở
phần sau. Nhưng có thể thấy cùng với chế độ tư hữu, trong xã hội Nam Bộ lúc đó
còn tồn tại “bổn thôn điền, bổn thôn thổ” – ruộng đất của làng xã, và những thửa
đất thuộc sở hữu của nhà nước, chẳng hạn như đồn điền.
1.1.3. Chính sách về thuế
Khi bàn về chính sách thu thuế của chính quyền các chúa Nguyễn đối với
vùng đất Nam Bộ, các tác giả của bộ công trình Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh nhận xét: “Trước đây, dân chúng được tự do trưng chiếm (ruộng đất) chia
lập làng xóm phố chợ, nhưng khi Nguyễn Hữu Cảnh vào thì ông thiết lập xã thôn
phương ấp, chia cắt địa phận, qui định lại khai khẩn ruộng đất, chuẩn định thuế
đinh, thuế điền và lập sở bộ đinh điền. Nghĩa là thời lưu dân tự phát tự quản chấm
dứt, từ nay bị khép vào luật pháp, đinh hay điền phải ghi vào sổ bộ, dinh hay điền
đều phải đóng thuế theo qui định, xã thôn phường ấp phải chia ra địa phận có ranh
14 Đại Nam thực lục đã theo Đào Tố Uyên (2009), Sđd, Tr. 222.

8


giới rõ ràng, có bằng cấp, con triện và sổ bộ riêng” 15. Tuy chính quyền chúa Nguyễn
đã can thiệp vào việc tổ chức các bộ phận cư dân đi khai khẩn ruộng đất, nhưng
nhìn chung ở giai đoạn đầu này, sự can thiệp ấy chỉ ở mức tương đối, đời sống và
công cuộc khai hoang vẫn được tiến hành một cách khá độc lập. Điều này xuất phát
từ dụng ý của chính quyền muốn dựa vào người dân để góp phần mở mang thêm
ruộng đất. Trịnh Hoài Đức đã đề cập đến chính sách thông thoáng về thuế của
chính quyền với những người dân ở vùng đất mới khai phá: “Đất Nông Nại xưa vốn
nhiều đầm ao rừng rú, buổi đầu mới lập ra ba dinh, mộ đân đến lập nghiệp, phép
tắc hãy còn khoan dung, giản dị. Có khi đất ở hạt Phiên Trấn mà lập thuế ở hạt
Trấn Biên, và ngược lại đất ở hạt Trấn Biên mà trưng thuế ở Phiên Trấn ấy là tùy
theo lòng dân, không hề ràng buộc…”16.

Không những thế, do vào thời gian ấy, sự quản lý của chính quyền còn khá
lỏng lẻo, nên việc thu thuế chủ yếu dựa vào số người đóng thuế chứ không dựa vào
diện tích của thửa ruộng họ sở hữu. “… Đất Đàng Trong được tính không theo kích
thước hay mức độ phì nhiêu mà là theo miếng, theo thửa. Nói cách khác, chúng ta
thấy được là họ Nguyễn chú ý đến con số người phải nộp thuế hơn là tới đất đai,
bởi vì, vào thời này, đây là những thông tin duy nhất họ Nguyễn có được để có thể
dựa trên đó mà đánh thuế ở đồng bằng sông Cửu Long” 17. Dựa vào những ghi chép
của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục, chúng ta có thể phần nào hiểu được những
khoản thuế mà người dân Nam Bộ xưa kia phải đóng cho chính quyền.
Trong Phủ biên tạp lục, có rất nhiều loại thuế được nhắc đến như thuế đinh
thuế điền, thuế đầu nguồn, tuần ty, bến đò,…Nhưng ở đây, chúng ta chỉ cần tập
trung vào hai thứ thuế chính là thuế đinh và thuế điền mà thôi. Thêm nữa, trong
từng loại thuế lại phân ra rất nhiều hạng, loại khác nhau tạo thành một hệ thống
khá phức tạp. Bên cạnh đó, những ghi chép này chủ yếu Lê Quý Đôn nghe được từ
những lời kể của các thương nhân nên mức độ chính xác còn hạn chế. Ở đây, chúng
15 Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 222-223.
16 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, Quyển III, nguồn:vanhoahoc.edu.vn,
Tr. 7.

17 Li Tana (2014), Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỉ 17 – 18, Nguyễn Nghị dịch, Nxb.
Trẻ, Tr. 168.

9


tôi không đi sâu tìm hiểu những ghi chép đó, mà chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược, qua
đó cho thấy việc áp dụng chính sách thuế ở khu vực Gia Định trong thế kỉ XVII –
XVIII là khá cởi mở.
Một ví dụ cụ thể, vào thập niên 1770, ở Tân Bình (Sài Gòn ngày nay), Phước

Long (Biên Hòa ngày nay), Quy An, Quy Hòa (nay là Mỹ Tho), người nông dân “gieo
môt hộc thóc có thể gặt được 100 hộc nhưng chỉ phải để từ 4 đến 10 hộc để đóng
thuế đất mà thôi”. Hay như ở Tam Lạch hay Bả Canh trong tỉnh Vĩnh Long ngày
nay, vẫn theo nguồn tư liệu trên, “gieo một hộc thóc có thể gặt 300 hộc nhưng chỉ
phải đóng 2 hộc thuế đất (một thửa ruộng”. Nói tóm lại thuế đất chiếm khoảng từ
0,6% đến 10% mùa màng. Chỉ trong những điều kiện như thế mới có một số lượng
lớn thóc gạo được đem ra bán và chở từ đồng bằng Cửu Long xa xôi như một mặt
hàng có lời18.
1.1.4. Chính sách đối với việc phát triển thương nghiệp
Chính sách phát triển thương nghiệp đã được các chúa Nguyễn áp dụng từ
khá sớm. Đây có thể coi là một bước tiến quan trọng trong tư tưởng của người Việt
Nam thời bấy giờ. Nếu như trước đó, tư tưởng “trọng nông ức thương” đã hạn chế
sự phát triển của thương nghiệp quốc gia, thì trong giai đoạn này, đặc biệt là ở
Đàng Trong, tình hình thương nghiệp đã có những dấu hiệu đi lên, ở cả hai mặt nội
thương và ngoại thương. Trong đó “phát triển ngoại thương là một sự đổi mới
trong chính sách kinh tế của chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Coi ngoại thương là một
trong những cơ sở quan trọng phục vụ cho Đàng Trong và ngược lại chúa Nguyễn
Phúc Nguyên đã tận dụng tối đa những thuận lợi sẵn có để ngoại thương phát
triển”19.
Các thương cảng như Hội An, Thanh Hà, Nước Mặn,…đã thu hút nhiều
thương nhân các nước phương Đông cũng như phương Tây tập trung buôn bán.
Chính quyền Đàng Trong phát triển thương mại thông qua các biện pháp như: tận
dụng những thuận lợi mặt tự nhiên; tạo mọi điều kiện cho khách buôn đến Đàng
18 Li Tana (2014), Sđd, Tr. 175.

19 Đỗ Bang – Đỗ Quỳnh Nga (2002), “Ngoại thương đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1614 –
1635)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, Tr. 31 – 34.

10



Trong; đồng thời áp dụng biện pháp cứng rắn để điều hành thương mại. Những
chính sách này đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc khuếch trương nền
thương mại Việt Nam.
Quá trình mở rộng về phía Nam đã tạo ra nhiều cơ hội cho chính quyền các
chúa Nguyễn đẩy mạnh hơn nữa sự lớn mạnh của nền kinh tế, nhất là việc giao
thương trong nước và quốc tế. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ,
khí hậu ổn định, hệ thống sông ngòi chằng chịt thuận tiện cho đi lại bằng ghe,
thuyền,…, vùng đất Nam Bộ đã trở thành một địa điểm lý tưởng cho thương mại
phát triển. Thêm vào đó, việc cộng đồng người Hoa di cư đến đây lại góp một phần
quang trọng thúc đẩy việc giao thương, buôn bán trở nên nhộp nhịp. Vùng đất Gia
Định lúc đó, “trên thì có cửa biển Cần Giờ, ở giữa thì vào cửa biển Xoài Rạp, dưới
thì vào cửa Đại cửa Tiểu. Đến chỗ nào cũng là thuyền buồm tụ họp…” 20.
Để quản lý hàng hóa và thu thuế, chính quyền các chúa Nguyễn đã có lập
những sở Tuần ty (sở tuần) chẳng hạn21:
-

Tuần Đồng Tranh, tiền thuế 30 quan 5 tiền
Tuần Cổ Thác 40 quan
Tuần Soài Rạp 55 quan
Tuần cửa Mỹ Tho và tuần Ỷ Đào 64 quan
Tuần Ba Rơm và tuần cửa Cần Giờ 300 quan
Tuần cửa Tắc Khái 120 quan
Ba sở Sài Gòn, Phú Lâm Lò Rèn, chợ Bình An 210 quan 3 tiền

Thuế chợ, bến đò thu hàng năm như sau 22:
-

Chợ Rạch Cát tiền thuế 81 quan
Bến đò điện Quan Đế 373 quan

Đò dài từ An Lâm đến Sài Gòn 89 quan 3 tiền
Chợ và đò Đồng Nai 86 quan
Đò nhỏ Lò Giấy 55 quan 3 tiền
Chợ và đò Dinh Cả 30 quan 3 tiền
Chợ và đò Sài Gòn 178 quan
Bến đò Rạch Cát 78 quan

20 Lê Quý Đôn (2007), Sđd, Tr. 160.
21 Trần Đức Cường (chủ biên) (2014), Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ (từ khởi thủy đến năm
1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr. 154.
22

Phủ biên tạp lục dẫn theo Trần Đức Cường (chủ biên) (2014), Sđd, Tr. 155.

11


Với chủ trương phát triển thương mại của chính quyền chúa Nguyễn, nhiều
tụ điểm buôn bán sầm uất, các trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế nổi tiếng
đã xuất hiện ở Nam Bộ trong thế kỷ XVII – XVIII: Nông Nại Đại phố, Thương cảng
Bãi Xàu, Phố chợ Mỹ Tho, Đại cảng Hà Tiên,… Chính thương nghiệp đã làm cho
Đàng Trong nói chung và vùng Nam Bộ nói riêng chỉ trong một thời gian ngắn đã
trở lên giàu có, đối với chính quyền Đàng Trong “ngoại thương không chỉ đơn
thuần là vấn đề làm giàu nữa mà là vấn đề tồn vong của một chính quyền mới xây
dựng trên một mảnh đất giàu tài nguyên nhưng thiếu nhân lực, thiếu tiền bạc và
thiếu quan hệ bang giao với các nước bên ngoài” 23. Như vậy, Nam Bộ đóng một vai
trò rất quan trọng trong quá trình phát triển và tồn vong của toàn bộ khu vực
Đàng Trong từ khi nó được hình thành.

1.2. Khái quát tình hình kinh tế ở Nam Bộ thế kỷ XVII – XVIII

1.2.1. Sản xuất nông nghiệp
Đầu thế kỷ XVII hầu hết vùng Nam Bộ còn khá hoang vu, theo những mô tả
trong Chân Lạp phong thổ ký. Sau khi đặt chân đến vùng đất này những lưu dân người
Việt và một bộ phận người Hoa đã tỏ ra nhạy bén và thích ứng với điều kiện khí hậu
của vùng đất này. Họ đã biết lợi dụng những thuận lợi đồng thời khắc phục những khó
khăn của thiên nhiên nơi đây để biến Nam Bộ thành một vùng đất canh tác hiệu quả.
Bởi vì là một vùng đất sình lầy, ngập úng và cỏ lác, do vậy, để đảm bảo cho
việc canh tác có kết quả, những người khai hoang thuở ấy đã phải đối mặt với vấn đề
tổ chức việc tưới, tiêu, ngăn mặn và rửa phèn. Trong bối cảnh tình hình xã hội và trình
độ kỹ thuật lúc bấy giờ cũng như số lượng lưu dân tập trung còn chưa đông, lại thêm
đa phần trong số họ là những nông dân nghèo khổ, vì thế cách thức làm thuỷ lợi của
họ cũng chủ yếu là theo kiểu thuỷ lợi nhỏ.
Để kiểm soát được mực nước trong các thửa ruộng đồng đều ở mọi nơi và với
lượng nước tuỳ ý. Những người khai khẩn xưa đã tiến hành đắp bờ đất bao quanh
23 Dương Văn Huy (2007),

“Quản lý ngoại thương của chính quyền Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII”, Tạp
chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 12, Tr. 57.

12


mảnh ruộng của mình, hoặc đắp bờ chia mảnh ruộng ra thành các ô nhỏ đối với các
mảnh ruộng không bằng phẳng. Các bờ đất này đã giúp nông dân giữ lại được nguồn
nước mưa quý giá. Ở một số nơi như ở vùng Biên Hòa, ngoài những bờ đất còn có
một hệ thống những rãnh nhỏ trong ruộng và cửa cống thông với mương, rạch giúp
điều chỉnh mực nước được dễ dàng. Khi nước trong các mảnh ruộng quá nhiều thì
người dân lợi dụng các hệ thống kênh rạch xung quanh để tháo nước ra ngoài đồng
thời khi thấy nước trong các mảnh ruộng còn lại quá ít thì người nông dân có thể dãn
nước từ các sông rạch vào.

Tại những vùng trũng bị nhiễm phèn, mặn và ngập nước, những công trình
thuỷ lợi trên lại được sử dụng để làm hệ thống thoát nước dư thừa trong ruộng những
khi mưa nhiều. Đối với những nơi nước sông không bị phèn mặn, nông dân lại cho
nước sông vào ruộng. Đó là một trong những biện pháp cải tạo những vùng đất nhiễm
phèn, mặn hiệu quả nhất được lưu dân người Việt sử dụng trong quá trình khẩn hoang
vùng đồng bằng sông Cửu Long và những biện pháp đó vẫn còn sử dụng đến bây giờ.
Bên cạnh những công trình thuỷ nông do nhân dân tự lập, thì vào những năm
nửa cuối thế kỷ XVII, các chúa nguyễn cũng đã cho tiến hành đào một số con kênh để
phục vụ cho sản xuất như kênh Bảo Định (1765); kênh Thương Mại (1785) nối liền
Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang…
Cùng với việc làm thuỷ lợi, người Việt xưa còn biết vận dụng thêm những kinh
nghiệm sản suất vốn có của mình để chọn lựa và tìm ra những giống lúa khác nhau
thích nghi với thổ nhưỡng tại chỗ, như: giống lúa trồng ở ruộng nước, giống lúa trồng
ở vùng đất cao, giống lúa chịu được nước mặn, giống lúa sớm, giống lúa muộn…
Ở Gia Định, là vùng đất tốt lại rộng, lúa được trồng rất nhiều ở đây “Lúa đạo
có rất nhiều loại, đại thể có 2 loại lúa tẻ và lúa nếp trong đó có xen thứ lúa dẻo; Lúa
tẻ là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ mà mềm, mùi rất thơm, hạt lúa có cái mang; Nếp
là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn. Có loại lúa như lúa tàu, lúa sá, lúa móng tay, lúa
móng chim, lúa mo cải, lúa cà dông, lúa cà nhe, lúa tráng sẻ nhất, lúa chàng cô (co),
tùy tên khác nhau, và sớm, muộn, dẻo và xốp khác nhau, nhưng thứ thơm ngon nhất là
lúa tàu, nhì là lúa cà nhe”24.

24 Trịnh Hoài Đức (2006), Gia Định thành thông chí, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, Tr. 191-192.

13


Ngoài việc trồng lúa, thì các loại cây hoa màu như bầu, bí, cải, dưa, đậu, ngô,
khoai, sắn… cùng một số loại cây khác như cau, mía đường, lạc, dâu tằm… cũng
được người nông dân trồng nhiều. Tuy nhiên, như Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong

Gia Định thành thông chí thì “các thứ đậu, dưa, khoai, rau cải chỉ dùng để điểm tâm
hoặc nấu canh bóp xổi mà thôi, chưa từng phơi khô mài bột dành khi đói kém. Bởi vì
người Gia Định mỗi ngày ăn cơm 3 bữa, cháo còn ít ăn huống chi là các thứ khác, vì
lúa gạo quá nhiều, mà không năm nào bị mất mùa”25.
Để đảm bảo cho việc canh tác có hiệu quả, năng suất lớn, bên cạnh việc làm
thuỷ lợi tốt, lựa chọn giống cây trồng phù hợp, người dân còn phải biết áp dụng một
chế độ canh tác thích hợp với từng loại ruộng khác nhau. Cụ thể, trong buổi đầu mới
khai thác tại vùng Mỗi Xuy (Vũng Tàu) và Đồng Nai, là nơi đất tương đối cao, ruộng
ở đó được gọi là sơn điền. Loại ruộng này khi tiến hành khai khẩn thì ruộng núi khi
đầu khai khẩn thì phải đốn chặt cây cỏ, để khô đốt làm phân tro đợi khi mưa thì trồng
lúa, không cần cày bừa, đem sức ra ít mà lợi thì nhiều. Sau 3, 4 năm thì dời đi làm chỗ
khác… mà đó cũng là ý xưa để lại cấy bằng đao, bừa bằng lửa (tức chặt đốt cho cháy
cây cỏ rồi trồng lúa).
Tại những vùng đất thấp nơi lùng, lác, bùn lầy…, ruộng ở đây được gọi là thảo
điền. Thảo điền được chia làm hai loại: loại thứ nhất là ruộng thấp, dùng trâu cày, nơi
tốt nhất của loại ruộng này là ruộng ở Định Tường (Mỹ Tho) kế đến là ruộng Phiên
An (Gia Định) và ruộng Biên Hoà, loại ruộng này cứ “gieo một hộc lúa giống, thu
hoạch được 100 hộc lúa”; loại thứ hai là ruộng bùn sâu. Loại ruộng này chủ yếu phân
bố ở vùng Định Tường, Vĩnh Thanh (ngày nay thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang,
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cà Mau…). Đối với loại ruộng này thì không cần phải cày
bừa, chỉ cần cắt bỏ lùng, lác (trảm thảo, trảm phạt), cào cỏ đắp bờ rồi cấy mạ xuống là
xong.
Để làm công việc trảm thảo/trảm phạt nhằm “cắt bỏ lùng lác” đó, cái phảng và
cái cù nèo là thứ nông cụ đắc dụng - thay cho cày và bừa và trở thành công cụ “đặc
chủng” trong công cuộc khẩn hoang lập điền của người Việt. Do đặc điểm đó, trên các
loại ruộng sâu này việc khai hoang không quá vất vả và kỳ công, bình quân mỗi nông
dân có thể khai phá mỗi năm từ hai đến ba mẫu ruộng là chuyện thường. Đã thế, loại
25 Trịnh Hoài Đức (2006), Sđd, Tr. 192.

14



ruộng này lại cho thu hoạch gấp ba lần loại ruộng thứ nhất, “đất đây đúng là rất phì
nhiêu, cứ một hộc lúa giống ở đây thu hoạch được 300 hộc lúa”.
Ngoài hai loại Sơn Điền và Thảo Điền thì còn có loại ruộng sớm và ruộng
muộn. Theo Gia Định thành thông chí, ruộng ở chỗ thấp khi có mưa được dầm thấm
trước, gọi là ruộng sớm, còn ruộng chỗ cao khô ráo là ruộng muộn. Loại ruộng này
hầu như ở trấn nào cũng có, lại rất thích hợp cho việc trồng các loại cây trồng như
khoai, đậu, bắp, khoai lang, đậu phộng, dưa, mía… Tùy theo điều kiện cụ thể của từng
địa phương mà gieo cấy sớm hay muộn cho phù hợp.
Với những nỗ lực của mình, lưu dân người Việt, kể từ khi đặt chân lên mảnh
đất đồng bằng sông Cửu Long cho tới những năm cuối thế kỷ XVIII đã tạo ra được
một diện tích canh tác khá lớn. “Theo thống kê của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp
lục thì vào những năm thập kỷ bảy mươi của thế kỷ XVIII, huyện Tân Bình có ruộng
thực trưng hơn 1.454 mẫu; huyện Phước Long có ruộng thực trưng hơn 787 mẫu, đó
là chưa kể các khoảng ruộng sơn điền, đất trồng hoa màu và một số loại cây khác
cùng với rộng của họ tộc và ruộng quan điền. Ở Mỹ Tho thì 2 vùng thuộc Quy Nhân
và Quy Hoá, ruộng mỗi nơi đều ngoài 5000 sở; thuộc Tam Lạch có ruộng đất cũng
ngoài 5000 sở; thuộc Ba Trại (bao gồm cả Bả Canh, Bà Lài, Rạch Kiến) có ruộng đất
ngoài 4000 sở; trường Giang Thảo thuộc huyện Phước Long có ruộng đất ngoài 7000
sở. Đó là chưa kể số ruộng đã được khai khẩn ở Hà Tiên, Trà Vinh, Sóc Trăng, Sa
Đéc, Châu Đốc”26.
Với kinh nghiệm sản xuất sẵn có, những lưu dân người Việt đã góp phần mở
rộng diện tích đất đai, phát triển sản xuất nông nghiệp ở Nam Bộ ngay từ thế kỷ XVII
– XVIII. Nông phẩm sản xuất ngày càng nhiều, vượt quá khả năng tiêu dùng của xã
hội, chính vì lẽ ấy, những nông phẩm đó đã trở thành một thứ hàng hóa lưu thông trên
thị trường thời bấy giờ.
1.2.2. Thủ công nghiệp
Khi những lưu dân đặt chân đến vùng đất Nam Bộ, ngoài việc khai phá vùng
đất này, sản xuất thóc gạo để lấy lương thực thì họ cũng đã bắt đầu tự sản xuất lấy

những vật cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, đó chính là tiền đề tạo nên
những nghề thủ công của vùng đất Nam bộ.
263 Trần Đức Cường (chủ biên) (2014), Sđd, Tr. 145.

15


Cùng với quá tình khai phá vùng đất mới thì thủ công nghiệp cũng phát triển
nhanh chóng, mang những nét riêng của vùng đất Nam Bộ. Theo Gia Đình thành
thông chí ở vùng Đồng Nai – Gia Định đã xuất hiện rất nhiều ngành nghề thủ công
như dệt, nhuộm, nghề mộc, chạn bạc, đúc, làm gạch ngói, đóng ghe thuyền, đắp
tượng… Trong số đó có một nghề đặc biệt phát triển như nghề đóng ghe, thuyền, nghề
dệt vải, nghề chế biến đường. Và cũng đã xuất hiện những thợ thủ công chuyên
nghiệp, ít nhiều tách khỏi nông nghiệp.
Các ngành nghề thủ công ở Nam Bộ có điều kiện phát triển nhanh trước hết là
do áp lực của nhu cầu đa dạng đời sống. “Những lưu dân ngoài việc sản xuất lúa gạo
để đáp ứng cái ăn, đã nhạy bén khai thác những vật liệu tự nhiên của vùng đất mới,
để chuyển hóa chúng thành những vật dùng cần thiết hằng ngày… Sự sinh sôi và phát
triển nhanh chóng của các ngành nghề thủ công ở Nam Bộ còn có một nguyên nhân
nữa là trong số lưu dân có một bộ phận không nhỏ là thợ thủ công. Số này đã mang
theo trong hành trang của mình các kiến thức và kỹ xảo của các nghề thủ công cổ
truyền từ nơi quê hương bản quán. Với cái vốn nghề sẵn có, lại đứng trước nhu cầu
rất lớn về vật dụng, những người này đã biết tận dụng những nguyên liệu tại chỗ, vừa
tự mình hành nghề, vừa truyền nghề lại cho con cháu, cho người thân và những ai
thật sự tha thiết học nghề”27.
Đến cuối thế kỷ XVIII trình độ và quy mô sản xuất thủ công nghiệp ở Nam Bộ
đã phát triển mạnh, với minh chứng là chính quyền họ Nguyễn đã thiết lập ở xứ này
62 ty, cuộc, tượng, chuyên chế tạo các loại vật phẩm đáp ứng cho nhu cầu của triều
đình lúc bấy giờ.
Có rất nhiều nghề thủ công ở Nam Bộ có nguồn gốc từ miền Trung, do quá

trình di cư đến vùng đất mới họ đã mang theo đến đây. Ví như nghề đúc đồng ở vùng
chợ quán ra đời từ các phường thợ đúc Quy Nhơn – Bình Định vào lập nghiệp tại
vùng Nhân Giang (Chợ Lớn) đầu thế kỷ XVIII.
Dù quá trình khai phá miền đất tận cùng phía Nam của tổ quốc diễn ra khá
muộn nhưng do biết tận dụng những thuận lợi từ tự nhiên để không chỉ đưa nông
nghiệp phát triển mạnh mà còn cả thủ công nghiệp. Vùng Đông Nam Bộ phần lớn là
27 Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất nam bộ các thế kỷ XVII, XVIII,XIX, Nxb. Khoa học xã hội,
Tr. 139.

16


những cánh rừng già bao phủ, với nhiều loại gỗ tốt đặc biệt là sao, cẩm lai, gõ, mun…
đó là những nguyên liệu cho nghề mộc và đóng ghe thuyền. Đây cũng là vùng có
nhiều mây, tre, cây cói… là những nguyên liệu cần thiết cho nghề đan lát. Vùng Biên
Hòa, Thủ Dầu Một, có nhiều mỏ đất sét, cao lanh, tạo thuận lợi cho nghề gốm ra đời
và phát triển.
“Quá trình phát triển các ngành nghề thủ công đã hình thành các khu vực sản
xuất tập trung điển hình như: Trung tâm sản xuất đường cát tại huyện Phước Chánh
thuộc Biên Hòa, đây cũng là nơi trồng nhiều mía và là nơi duy nhất có thể sản xuất
được loại đường này. Chúng ta không có con số thống kê về lượng đường được làm
ra, nhưng nếu tính lượng đường bán cho các thuyền buôn thì mỗi năm lên đến trên
600.000kg. Điều đó cho thấy sản lượng mía được trồng ở đây rất lớn”28.
Một nét nổi bật là từ khá sớm, cùng với nông nghiệp, các nghề thủ công đã trở
thành một bộ phận tích cực của nền sản xuất hàng hóa ở vùng đất Nam Bộ. Sản phẩm
làm ra chủ yếu là để bán ở các chợ, các đô thị, thị trấn trong vùng. Một số mặt hàng
còn được bán ra các hạt phía ngoài, hoặc xuất khẩu ra ngoại quốc được nhiều người
ưa thích, như đồ mỹ nghệ bằng vàng bạc, vật dụng bằng đồi mồi, thuyền gỗ, cột buồm
bằng gỗ quý…
1.2.3. Thương nghiệp

“Trước hết dễ dàng nhận thấy sự ra đời và phát triển cũng như những bước
thăng trầm của nền kinh tế hàng hóa ở vùng này hầu như đều phụ thuộc, bị chi phối
bởi hoạt động kinh tế nông nghiệp..”29. Do tính “riêng” của vùng đất Nam Bộ, nên
trong quá trình khai phá, khẩn hoang, hình thức sở hữu tư nhân về ruộng đất đã sớm
hình thành và giữ vị trí chủ đạo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình tích tụ
ruộng đất vào tay những địa chủ đã biến bộ phận này thành những người nắm giữ
lượng nông sản lớn, những nông sản dư thừa đó được đưa ra thị trường và trở thành
hàng hóa trao đổi. Chính vì vậy mà kinh tế hàng hóa Nam Bộ lấy nông phẩm làm
nguồn hàng chính.

28 Trần Thị Mai (chủ biên) (2007), Sđd, Tr. 93
29 Lê Xuân Diệm (2009), “Kinh tế hàng hóa và đô thị ở Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến thể kỷ XIX)”, Một số vấn
đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4 và
5/4/2006, Nxb. Thế giới, Hà Nội.Tr. 243.

17


Nông sản được đem ra trao đổi nhiều nhất trên thị trường Nam bộ nói riêng, thị
trường trong nước và nước ngoài nói chung chính là lúa. Ở Nam Bộ lúa được trồng ở
hầu hết mọi nơi, nhờ làm thuỷ lợi tốt, kết hợp với kinh nghiệm và kỹ thuật canh tác
vốn có, năng suất sản xuất đạt rất cao. Cũng nhờ vậy mà đồng bằng sông Cửu Long đã
sớm trở thành một vựa lúa lớn của cả nước và còn là nơi xuất khẩu lúa gạo ra nước
ngoài lớn nhất lúc bấy giờ.
Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn từng nhắc đến người dân Thuận Hóa chủ
yếu sống nhờ thóc gạo của xứ Đồng Nai – Gia Định. Phủ Biên tạp lục cũng ghi nhận
rằng từ thế kỷ XVIII, Gia Định đã là nơi cung cấp lúa gạo chủ yếu không chỉ cho nội
vùng mà còn cả xứ Đàng Trong và vùng Thuận Hóa.
Sau lúa, cau được xem là loại nông sản quan trọng thứ hai trong các loại nông
sản. “Gia Định nhất thóc nhì cau”, câu tục ngữ Nam Bộ vào thế kỷ XVII ấy đã cho

chúng ta thấy được mức quan trọng của loại cây trồng này. Cau được trồng ở nhiều
vùng, nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến cau ở Kiến Đăng và Kiến Hưng thuộc trấn
Định Tường và nhất là cau ở Mỹ Lồng thuộc trấn Vĩnh Thanh, tại đây có vườn cau
đứng rậm như rừng quả lớn lại sai trái.
Ngoài hai mặt hàng quan trọng trên, những lưu dân người Việt còn biết khai
thác thêm những lâm thổ sản khác, một mặt để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, mặt
khác để làm hàng hoá trao đổi kinh tế.
Cho đến thế kỷ XVIII, ở Nam bộ đã xuất hiện các thị tứ, các trung tâm buôn
bán sầm uất, một số nhanh chóng trở thành những trung tâm thương mại giao dịch nổi
tiếng như: Nông Nại Đại Phố; thương cảng Sài Gòn; Mỹ Tho đại phố; chợ trấn Hà
Tiên; chợ Lương Phú (Định Tường); chợ Hưng Lợi; chợ Long Hồ; chợ Sa Đéc…
trong số đó đáng kể hơn cả là thương cảng Sài Gòn là nơi đô hội cả nước không đâu
sánh bằng. Vào cuối thế kỷ XVIII, Sài Gòn đã trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất
nước như Trịnh Hoài Đức đã viết Gia Định là chỗ để hội thương thuyền của cả nước
cho nên trăm món hàng hoá phải tụ hội ở đây. Không những ở Gia Định mà ở hầu hết
các phố thị, các chợ, nơi nào cũng đầy ắp những mặt hàng.
Sự giao thương tại đồng bằng sông Cửu Long diễn ra khá tấp nập. Các thương
gia đến đây thường là để mua các loại lâm thổ sản tại vùng này và bán các mặt hàng
mà nơi đây không có. Trong các loại hàng hoá mà họ thường xuyên thu mua thì nhiều
18


nhất là lúa gạo, ngoài ra còn một số mặt hàng nông sản khác như là cau, mía, muối,
vải, lụa… Trong thời kỳ này, việc giao lưu trao đổi buôn bán chủ yếu là sự trao đổi
giữa vùng này với vùng khác trong nước. Hoạt động ngoại thương cũng được diễn ra
nhưng chưa phát triển tương xứng với tiềm lực của vùng.
Qua ghi chép về cuộc trò chuyện của một thương nhân ở Nam Bố Chính tên là
Trùm Châm với Lê Quý Đôn mà ta biết được rõ hơn về cách thức buôn bán của người
Nam Bộ khi ấy như sau: “Người thôn Chính Hòa châu Nam Bố Chính tên là Trùm
Châm nói rằng trước y đi buôn bán ở phủ Gia Định hơn 10 chuyến, thường đi vào

tháng 9 tháng 10, về vào tháng 4 tháng 5, thuận gió không quá 10 ngày đêm là đến.
Mỗi chuyến đi thường qua cửa biển Nhật Lệ trình trấn quan, vào cửa Eo trình quan
tào vận, lĩnh giấy phép ra biển, đến xứ Vũng Tàu ở đầu cõi Gia Định là chỗ hải đảo
có cư dân thì thu buồm nghỉ ngơi một chút, hỏi thăm nơi nào được mùa, nơi nào mất
mùa, biết rõ nơi nào được mùa mới đến. Trước vào cửa Cần Giờ, rồi vào cửa Sài
Lạp, cuối cùng vào cửa Đại, cửa Tiểu. Đến nơi nào cũng thấy thuyền buồm đầy bến.
Khi mặc cả thành giá thì người bán tự sai người nhà chuyển thóc xuống thuyền cho.
Một tiền cổ mua được mười đấu lớn thóc, bằng ba bát ngang miệng của hộ phiên, tức
là 30 bát quan, tính ra một quan đong được 300 bát quan thóc. Không có nơi nào giá
thóc rẻ như thế. Ở đó, gạo rất trắng và mềm, cá tôm to và béo không thể ăn hết, nên
dân thường luộc chín phơi khô để bán”30
Nền kinh tế hàng hoá phát triển, gắn liền với một thị trường trong nước rộng
lớn đã trở thành yếu tố tác động lại kích thích sự phát triển của sản xuất nông nghiệp
và thủ công nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa gạo.
Như vậy, kể từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, với những nỗ lực lớn
lao, những lưu dân người Việt đã mang đến cho vùng đất này một bộ mặt hoàn toàn
mới, trước hết là đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên một cơ cấu kinh tế mới tại
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đó là một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề, bao
gồm nông nghiệp - thủ công nghiệp - thương nghiệp... Trong đó, nhờ nhận biết được
vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi của vùng đất mới đối với sản xuất nông nghiệp
theo lối sản xuất hàng hoá, vì thế, những người đi khai phá thuở trước đã sớm đẩy

30 Lê Quý Đôn (2007), Sđd, Tr 160.

19


mạnh sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế hàng hoá của nông dân vì vậy mà chiếm một
vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ.
Sự phát triển kinh tế đã kéo theo sự tập trung dân cư, ngày càng có nhiều cư

dân người Việt từ Bắc bộ, Trung bộ di cư vào đồng bằng sông Cửu Long để sinh sống
và làm ăn, nhờ đó mà quá trình khai hoang ở vùng đất này được diễn ra một cách
nhanh chóng hơn, chính quyền phong kiến cũng vì thế mà được thiết lập và củng cố
ngày càng vững mạnh.
1.3. Khái quát tình hình xã hội ở Nam Bộ thế kỷ XVII – XVIII
1.3.1. Tổ chức làng xã
Ngay từ những ngày đầu khi đặt chân đến vùng đất Nam Bộ, trong một môi
trường thiên nhiên mới đầy bí ẩn và hiểm nguy, với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng
khác hẳn với quê hương bản quán, lại đầy rẫy rắn rết, người lưu dân không thể
sống đơn độc. Vì vậy với nếp sống có tổ chức đã trở thành cố hữu, với truyền thống
tình làng nghĩa xóm, trong đó nổi bật ý thức cộng đồng, tương thân tương ái,
những người lưu đã nhanh chóng kết thành chòm xóm, lập ra thôn ấp – làng xã
truyền thống Việt Nam, để dựa vào nhau làm ăn sinh sống, đoàn kết trong lúc khó
khăn hoạn nạn chống lại trộm cướp, thú dữ và ác bá. Nhu cầu đó thúc đẩy những
lưu dân tiến hành lập làng để cùng nhau chia sớt những khó khăn trong cuộc sống.
Lúc ban đầu, thôn, xóm của những lưu dân này thường được hình thành dọc
theo ven sông, rạch – là những nơi cao ráo, phần lớn là ở trên các giồng, bởi những
nơi này dễ sinh sống, và quan trọng nhất là có thể đảm bảo được lượng nước ngọt
dùng cho người, gia súc và cây trồng. Bởi vậy, thôn xóm thời kỳ đầu thường được
kéo dài dọc theo những bờ sông hoặc là hai bên đường. Dân số ở các thôn, xóm
buổi đầu này tăng giảm rất thất thường, tùy theo điều kiện cho việc sản xuất và
sinh sống có thuận lợi hay không 31. Và thời gian đầu này, làng xã ở đây còn mang
tính tự lập cao, “do nhu cầu tương trợ đùm bọc lẫn nhau trong đời sống thường
ngày, các thôn ấp ở Đồng Nai – Gia Định đã hình thành một cách tự phát, mang
đậm tính chất tự trị, tự quản rộng rãi trước khi trở thành những đơn vị hành chính
cấp cơ sở của nhà nước phong kiến”32. Các thôn ấp đó mang nặng màu sắc của tổ
31 Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008), Sđd, Tr. 74.

32 Huỳnh Lứa (2000), Sđd, Tr. 129.
20



chức hương tế, tương trợ tự quản, rộng mở và phóng khoáng, dân số tăng giảm tùy
theo tình hình sản xuất và đời sống, làm ăn được thì trụ lại, không làm ăn được thì
chuyển đi.
Đến giai đoạn cuối thế kỉ XVII, triều đình bắt đầu tiến hành hỗ trợ, kiểm soát
các vùng đất, thôn ấp mà người Việt định cư, Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến hành “lập
ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh
điền bạ tịch”33. Chúa Nguyễn cho phép những người dân di cứ tự tiện lựa chọn khu
vực đất để khai phá với số lượng nhiều ít tùy theo sức lực của bản thân mỗi người.
Người dân di cư vẫn có quyền tự tiện lựa chọn khu vực đất đai để khai phá với số
lượng nhiều ít tùy theo sức lực của bản thân mỗi người. Người dân di cư vẫn tự
tiện phân chiếm ruộng đất, nhà nước không có quyền can thiệp, hạn chế hoặc ràng
buộc gì cả.
Đến giữa thế kỷ XVIII, “dân cư vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày càng
đông đúc, kinh tế - văn hóa cũng đã có những bước phát triển nhất định. Đến lúc
này, yêu cầu thiết lập hệ thống hành chính cấp cơ sở cũng được đặt ra một cách
cấp thiết. Hệ thống hành chính cấp cơ sở này cũng chính là các thôn, ấp do nhân
dân tự lập ra trước khai được hợp pháp hóa, trở thành các làng, xã” 34. Việc hình
thành các thôn, ấp mới, thường được thực hiện theo phương thức những người
giàu có (bá hộ), đứng ra đầu đơn xin mộ dân lập ấp. Phải là người giàu có đứng ra
đầu đơn, vì muốn mộ dân phải có vốn lớn để cho những người ứng mộ vay để làm
mùa trong mấy năm đầu (vay lúa để ăn và vay tiền để cất nhà) và như vậy người
đứng tên xin lập làng mặc nhiên trở thành địa chủ.
Khoảng nửa sau thế kỉ XVIII, tác giả Lê Quý Đôn cho biết số liệu về các thôn
nậu, đinh số và ruộng đất ở 3 dinh Trấn Biên, Phiên Trần và Long Hồ như sau 35:
Dinh Trấn Biên, số thôn huyện Phúc Long là hơn 250 thôn, dân số chừng
8000 người. Các nậu về các thuộc Canh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp chừng 40
33 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Lý Việt Dũng, Quyển III, nguồn:
vanhoahoc.edu.vn, Tr. 4.

34 Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008), Sđd, Tr. 80.

35 Dẫn theo Nguyễn Đức Nhuệ (2009), “Một số nét về sự hình thành các tụ điểm cư dân ở Nam Bộ thế kỉ
XVII, XVIII và đầu thế kỉ XIX”, Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX , Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4 & 5 tháng 4 năm 2006, Nxb. Thế giới, Hà Nội, Tr. 185.

21


thôn nậu, dân số 1000 (khoảng 1000 người, được miễn sưu, bổ sung vào lực lượng
tạm binh canh giữ các cửa biển, đầu nguồn). Các nậu về thuộc Ô Tất chừng 30 nậu,
dân số ước tính 500 đinh. Trường Giản Thảo, số ruộng có chừng 60 sở. Dinh Phiên
Trấn, số thôn thuộc huyện Tân Bình hơn 350 thôn, số dân hơn 15000 người. Số thôn
thuộc Quy An hơn 100 thôn, số dân hơn 3000 đinh. Số thôn thuộc Tam Lạch 100
thôn, số dân 4000 đinh. Số thôn 3 trại Bả Canh, Bá Lai, Rạch Kiến là 100 thôn. Dinh
Long Hồ, số thôn 8 châu Định Viễn 350 thôn, số dân 7000 người. Tổng số thôn lúc
đó khoảng 1200 thôn, cũng tương đương với số thôn mà Trịnh Hoài Đức ghi chép
lại trong Gia Định thành thông chí vào đầu thế kỉ XIX.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, đơn vị hành chính đầu tiên mà chúa Nguyễn đặt
ra nhằm quy tụ dân chúng theo nghề nghiệp để tiện quản lý và thu thuế chính là
các ấp hay trang, trại, man, nậu. “Ấp” là nơi dân cư ở đông đúc nhưng diện tích đất
đai ít. Lúc bấy giờ từ “ấp” có nghĩa là làng “khai hoang lập ấp” chứ không phải đơn
vị hành chính nhỏ hơn làng như hiện nay. “Trang, trại” là vùng đất tương đối tốt,
dân cư đông đúc. Đứng đầu trại có Cai trị, Quản tri phụ trách việc thu thuế và giữ
gìn an ninh. “Nậu” cũng là nơi đất tốt, dân cư cũng khá đông và chuyên về nghề
nông. Ở đây ruộng có rất nhiều cỏ và phải dùng bừa trong canh tác. Đứng đầu mỗi
nậu là chức Đầu Nậu. Ngoài ra lúc bấy giờ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kì
đầu mới thiết lập còn có một đơn vị hành chính nữa, đó là “thuộc”. Theo kiến giải
của một số học giả thì danh xưng “thuộc” xuất phát từ chữ “đất thuần thục” mà ra,
cho nên ta cũng có thể hiểu thuộc là vùng đất tốt, dân cư khá đông đúc. Tuy nhiên,

bên cạnh đó vào khoảng cuối thế kỉ XVII, ở một số địa phương vẫn tồn tại những
đơn vị hành chính khá đặc biệt, như ở Tiền Giang, bên cạnh sự hiện diện của thôn, ở
còn có phường và ấp36.
Thông thường, một làng muốn được thành lập thì phải có đủ số dân quy định
để đóng đủ số thuế. Số dân quy định thường cũng không nhiều lắm. Năm 1788, khi
Nguyễn Ánh thu phục lại vùng đất Gia Định đã ban hành quy chế lập làng, Theo đó,
nơi nào có từ 40 người trở lên thì được lập một làng, có một xã trưởng, một người
36 Xem Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008), Sđd, Tr. 78 – 79 hoặc Nguyễn Phúc Nghiệp (2008), “Sự hình thành
thôn ấp ở Tiền Giang dươi thời các vị chúa Nguyễn (Thế kỷ XVII – XVIII)”, Kỷ yếu Hội thảo chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Tr. 143 – 144.

22


khinh phu và con dấu, còn nơi nào không đủ số người quy định thì cũng lập được
làng nhưng không được cấp con dấu. Để việc lập làng được nhanh chóng hơn,
Nguyễn Ánh ngay sau đó đã tiếp tục ban hành thêm một quy chế nữa, cho phép 10
nhà thì được lập thành một làng nhỏ, 50 nhà thì được lập một làng lớn.
Nơi nào muốn lập làng thì phải cử người đứng tên làm đơn, gồm hai bản
nộp lên quan trên. Trong đơn phải ghi rõ ranh giới của làng, diện tích đất đai, họ
tên người đứng đầu, tên những người dân trong làng, tên làng và những đề nghị
kèm theo như xin miễn thuế, sưu dịch…Sau khi nhận được đơn xin lập làng, quan
trên cử người về điều tra thực tế, nếu như đã có đầy đủ điều kiện để lập làng thì
viên quan này sẽ làm tờ trình đăng lên chờ triều đình quyết đinh lần cuối cùng. Khi
đã có quyết định rồi thì làng mới được tách hoàn toàn khỏi làng cũ. Thông thường
việc lập làng như vậy được chấp thuận một cách khá dễ dãi. Sau khi có quyết định
thành lập làng thì người đứng ra lập làng được cử luôn làm hương chức và cũng
được đền đáp công lao một cách xứng đáng: khi mất thì được tôn làm Tiền Hiền,
được thờ cúng ở đình làng, con cháu của người ấy cũng được trọng vọng, được
biếu quà mỗi khi đình làng có đình đám, hội hè37.

Về việc tổ chức quản lý làng vào thế kỉ XVIII, theo “Minh điều hương ước” thì
thường do một ban hương chức đảm trách, bao gồm các chức 38:
-

Trùm cả: người đứng đầu làng
Trùm chủ: người đứng thứ hai trong làng
Trùm nghị: người tham gia đóng góp ý kiến cho làng
Xã trưởng: nơi giữ con dấu và thu thuế
Thủ khoán: người giữ quỹ và tài sản của làng
Câu đương: người hòa giải các vụ xích mích, thương kiện nhỏ trong làng
Tri thâu: người phụ trách việc thu thuế trong làng

Các hương chức của làng thường là những người có ruộng đất, tài sản, có
đức độ và thường là người đứng tuổi. Về tên làng thì thường do những người đứng
ra làm đơn xin đặt tên. Tên làng thường phản ánh được ý nguyện của dân làng là
mong muốn được an bình làm ăn, may mắn trong cuộc sống ấm no, sung túc. Về

37 Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008), Sđd, Tr. 81.
38 Nguyễn Phúc Nghiệp (2008), Sđd, Tr. 144 – 145.

23


những đặc tính nổi bật của làng xã Nam Bộ chúng tôi sẽ tập trung phân tích ở phần
sau.
1.3.2. Sự phân hóa các tầng lớp trong xã hội
Vùng đất Nam bộ khoảng thế kỷ XVII – XVIII gắn liền với quá trình khẩn
hoang của cư dân và chính quyền Đàng Trong. Như đã trình bày ở trên, xuất phát
từ những chính sách của các chúa Nguyễn, xuất phát từ những biến đổi về mặt kinh
tế, xã hội ở Nam Bộ cũng bắt đầu có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Các

tầng lớp trong xã hội bắt đầu được hình thành và dần định hình rõ nét. “Sự mở
rộng công cuộc khẩn hoang và sản xuất nông nghiệp trong các thế kỷ XVII, XVIII
cũng đã làm thay đổi phần lớn bộ mặt xã hội của đồng bằng Nam Bộ. Trong những
biến đổi về mặt xã hội, còn có một hiện tượng nổi bật là sự phát triển công cuộc
khẩn hoang đồng thời cũng là quá trình diễn ra sự phân hóa về mặt xã hội ngày
càng sâu sắc”39. Trong xã hội đã xuất hiện một số tầng lớp sau.
Tầng lớp địa chủ (đại địa chủ)
Ở Nam Bộ trong khoảng thế kỷ XVII –XVIII đã bắt đầu xuất hiện tầng lớp địa
chủ, tầng lớp này chiếm hữu nhiều ruộng đất, sở hữu nhiều phương tiện sản xuất.
Họ sản xuất ra lúa gạo với khối lượng lớn. Quan hệ xã hội của tầng lớp này là quan
hệ chủ tớ (với điền nô), chủ điền – tá điền (nông dân thuê ruộng), quan hệ giàu –
nghèo (với tầng lớp khác). Trong giai đoạn từ thế kỷ XVI - XVII, tầng lớp này đã có
sự phát triển mạnh về số lượng cũng như quy mô sở hữu ruộng đất 40.
Tầng lớp nông dân nghèo
Trong những đợt di cư tự phát từ trước năm 1698, phần đông những lưu
dân Việt có nguồn gốc nghèo khổ, chán ghét cảnh chiến tranh, loạn lạc, nghèo đói,
…, di cư đến mảnh đất phía Nam để tìm con đường sống mới. Nhiều người trong số
họ đã khai phá và sở hữu một thửa đất để cày cấy, trồng trọt tuy không rộng lớn
như những địa chủ giàu có. Có thể nói rằng, những người sở hữu nhỏ này chiếm
đại đa số trong xã hội.

39 Trần Thị Mai (chủ nhiệm) (2008), Sđd, Tr. 73.
40 Chúng tôi sẽ dành phần sau để giới thiệu nhiều hơn về giai cấp địa chủ. Bởi lẽ, sự tồn tại của tầng lớp đại địa
chủ là một nét đặc trưng của xã hội Nam Bộ.

24


Bên cạnh đó cũng có những nông dân di cư nghèo khổ thiếu tiền bạc thậm
chí hoàn toàn không có tiền bạc vốn liếng để mua sắm nông cụ, trâu bò, ghe xuồng

đi lại - ở đồng bằng sông Nam Bộ chằng chịt sông rạch, phương tiện đi lại chủ yếu
là ghe xuồng…, kể cả gạo ăn, buộc phải hoặc là làm nhân công cày thuê, cuốc
mướn hay làm tá điền cho lớp người giàu có, hoặc là vay mượn tiền bạc, nông cụ,
thóc ăn và thóc giống của họ để khai hoang vỡ đất. Nhưng những người nông dân
vay nợ đó thường là không thể nào trả nổi khoản nợ đã vay, họ chỉ còn một cách là
cầm cố mảnh ruộng hoặc khu đất nhỏ nhoi của mình cho tên địa chủ cho vay giàu
có đó. Thế rồi sau đó, họ chỉ còn mỗi một con đường cày thuê cuốc mướn hoặt làm
tá điền cho bọn điền chủ mà thường là cho chính tên tá điền chủ vốn là chủ nợ của
anh ta41.
Rất có thể, tình trạng những người nông dân nghèo phá sản ở Nam Bộ có xu
hướng tăng lên trong khoảng thời gian thế kỷ XVII – XVIII. Bởi lẽ, tình trạng kiêm
tính ruộng đất ngày càng trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến và ngày càng
trầm trọng, đã có những địa chủ sở hữu những mảnh ruộng rộng mênh mông, bạt
ngàn, “thẳng cánh cò bay”.
Tầng lớp nô tỳ
Ở trên chúng tôi đã dẫn ra một đoạn trong Phủ biên tạp lục, trong đó ông có
nhắc đến những “điền nô” sống trong các nhà giàu có. Như vậy, điền nô là những
người có nguồn gốc ở đâu, họ tham gia những công việc gì trong những gia đình
đó.

“Điền nô” mà Lê Quý Đôn nói đến ở đây phải chăng cũng giống như “nô tỳ”

mà Trương Hữu Quýnh đã đề cập: “Vùng Gia Định xuất hiện trở lại chế độ nô tỳ
cày ruộng vì các địa chủ lại di cư vào Đàng Trong theo chúa Nguyễn hay trước khi
có chúa Nguyễn vào lúc mà chế độ nô tỳ dần dần tàn lụi ở phía ngoài. Chế độ nô tỳ
mất đi, việc nuôi nô tỳ rải rác vẫn còn, vì vậy những người này đã du nhập nó vào
Đàng Trong và khi gặp điều kiện thuận lợi chế độ nô tỳ sống lại và phát triển” 42. Có
khả năng những “điền nô” đó là những người Mọi ở đầu nguồn bị đem bán làm nô
41 Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 92 –
93.

42 Trương Hữu Quýnh (1982), Sđd, Tr.67.

25


×