Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TÁI CƠ CẤU NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.17 KB, 32 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

ĐỀ ÁN
TÁI CƠ CẤU NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM
ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

HÀ NỘI – 2015


I. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ ÁN
Sau gần 30 năm Đổi mới, một trong những thành tựu lớn nhất của nông
nghiệp Việt Nam là sự phát triển của ngành lúa gạo. Từ một nước thiếu lương
thực trong thập niên bảy mươi và nửa đầu thập niên tám mươi của thế trước, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo vào năm 1989, chỉ bốn năm sau khi Đổi
mới và sau đó đến nay liên tiếp giữ vị trí là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
Sự phát triển của ngành lúa gạo đã đóng góp to lớn cho đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia và xoá đói giảm nghèo.
Mặc dù đã đạt được thành tựu to lớn nhưng ngành lúa gạo trong quá trình
phát triển đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế. Giá trị gia tăng của ngành lúa gạo
giảm dần do sản xuất và kinh doanh hiệu quả thấp, thu nhập của nông dân trồng
lúa giảm sút và không tương xứng so với các tác nhân khác tham gia kinh doanh
lúa gạo. Ngoài ra, sản xuất lúa đã tạo ra các tác động tiêu cực đến môi trường
sinh thái do sự lạm dụng các hoá chất như phân bón và thuốc trừ sâu trong thâm
canh. Thêm vào những hạn chế chủ yếu trên là những thử thách mới mà ngành
lúa gạo phải đương đầu trong thời gian tới như biến đổi khí hậu, sự suy giảm
nguồn tài nguyên (nước, đất,…) và sự gia tăng cạnh tranh ở thị trường xuất khẩu
gạo.
Trong bối cảnh trên, tái cơ cấu ngành lúa gạo là cần thiết để tạo ra
một bước phát triển mới mang tính bước ngoặt cho ngành trong thời gian
tới. Vì vậy, Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo đã được xây dựng trên tinh thần
tiếp thu các nội dung của Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 Phê


duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệ p theo hướng nâng cao giá trị gia tăng
và phát triển bền vững. Để thực hiện xây dựng Đề án Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành quyết định số 3648/QĐ-BNNTCCB ngày 21 tháng 8 năm 2014 về thành lập Ban chỉ đạo Tái cơ cấu ngành
lúa gạo Việt Nam và Quyết định số 3699/QĐ-BNN-TT ngày 16 tháng 9 năm
2014 về thành lập Tổ soạn thảo đề án Tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
1. Thành tựu và hạn chế của ngành lúa gạo Việt Nam
1.1. Thành tựu
Diện tích, năng suất và sản lượng lúa liên tục tăng từ 1986, năm bắt đầu Đổi
mới đến nay (2014) . Sản lượng lúa tăng từ bình quân 3,7%/năm từ 16 triệu tấn lên
1


45 triệu tấn, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1 triệu tấn. Năng suất lúa tăng
2,5%/năm từ 28 tạ lên 56 tạ (mức năng suất cao nhất trong các nước Đông Nam
Á). Diện tích gieo trồng tăng bình quân 1,2%/năm từ triệu 5,7 triệu ha lên 7,8
triệu ha. Sản xuất lúa gạo hiện đang đóng góp 30% giá trị sản xuất ngành trồng
trọt.
Sản lượng lúa tăng nhanh góp phần đảm bảo vững chắc an ninh lương thực,
xóa đói giảm nghèo, ổn định kinh tế xã hội và đưa lúa gạo trở thành một nông sản
xuất khẩu chủ lực của nước ta. Sản lượng lương thực bình quân đầu người/năm
của Việt Nam tăng từ 363 kg năm 1995 lên 546 kg năm 2013. Trong khi đó, tiêu
dùng lương thực của người dân giảm dần và hiện nay khoảng 130 kg/người/năm
(trong đó 90,5% là gạo). Sự phát triển của ngành lúa gạo đã giúp ổn định giá gạo
nội địa, tạo điều kiện cho những người thu nhập thấp đảm bảo nguồn lương thực
thiết yếu cho cuộc sống. Vì vậy những thành công trong sản xuất lúa gạo đã góp
phần quan trọng cho công tác xóa đói giảm nghèo, ổn định kinh tế - xã hội. Về
đóng góp cho xuất khẩu, trong giai đoạn 1989-2012, gạo xuất khẩu của Việt Nam
tăng bình quân 14%/năm về lượng và 10% về giá trị. Trong những năm gần đây

lượng gạo xuất khẩu hàng năm dao động từ trên 6 triệu tấn đến gần 8 triệu tấn.
Xuất khẩu gạo không những đóng góp tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần phát
triển hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới.
Các thành tựu to lớn trên đạt được trước nhất là do chính sách Đổi mới đã
tạo ra động lực to lớn nông dân phát huy sự cần cù và sáng tạo trong lao động để
phát triển kinh tế hộ theo cơ chế kinh tế thị trường. Song song, nhà nước ưu tiên
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất lúa, đặc biệt là hệ thống thủy lợi, phát
triển nghiên cứu khoa học và khuyến nông đối với ngành lúa gạo và ban hành
nhiều chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất lúa.
1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu trên, ngành lúa gạo của Việt Nam vẫn còn nhiều
các mặt hạn chế và tồn tại lớn, gồm (i) chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và tính
cạnh tranh của ngành lúa gạo thấp; xuất khẩu gạo khối lượng lớn nhưng giá trị thấp
(ii) thu nhập của nông dân sản xuất lúa thấp và không tương xứng so với thu nhập
của tác nhân trong kinh doanh, xuất khẩu gạo và (iii) sản xuất lúa thiếu tính bền
vững, tác động tiêu cực đến môi trường và biến đổi khí hậu.
Các nguyên nhân chủ yếu gây ra những tồn tại, hạn chế trên, gồm:
1.2.1. Sản xuất

`

2


- Quy mô sản xuất hộ nông dân nhỏ lẻ, diện tích đất lúa/nông hộ quá thấp,
trong khi đó các hình thức tổ chức liên kết nông dân (cánh đồng lớn, tổ hợp tác,
hợp tác xã mới…) chưa phát triển rộng.
- Sản xuất chưa theo yêu cầu từ thị trường; sử dụng nhiều loại giống trên cùng
cánh đồng và trong một vùng dẫn đến chất lượng các lô gạo xuất khẩu trộn lẫn
nhiều giống khác nhau nên chất lượng không đồng đều. Trong bộ giống lúa xuất

khẩu, chưa có các giống lúa thơm có giá trị xuất khẩu cao.
- Chất lượng vật tư đầu vào (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hạt giống)
chưa được quản lý tốt; tình trạng kinh doanh vật tư chất lượng kém còn phổ biến;
nông dân sử dụng vật tư trong sản xuất lúa còn lãng phí như bón thừa phân đạm,
lạm dụng các loại thuốc kích thích sinh trưởng và thuốc bảo vệ thực vật làm tăng
chi phí và gây ô nhiễm môi trường; tỷ lệ sử dụng cấp giống xác nhận thấp; việc
sử dụng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hữu cơ, sinh học
chưa nhiều.
- Nông dân sản xuất lúa dựa theo tập quán và kinh nghiệm; tỷ lệ nông dân áp
dụng các biện pháp thực hành nông nghiệp tốt trong sản xuất lúa (3 giảm - 3 tăng,
1 phải - 5 giảm, VietGAP,...) còn thấp.
- Tỷ lệ diện tích lúa áp dụng cơ giới hóa đồng bộ thấp, đặc biệt trong cơ giới
hóa khâu gieo trồng (sạ, cấy), chăm sóc (bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật),
thu hoạch làm tăng chi phí sản xuất và giảm chất lượng sản phẩm.
- Sản xuất lúa độc canh là chủ yếu, chưa chú trọng luân canh trên đất lúa và
chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa kém hiệu quả để nâng cao và đa
dạng hoá thu nhập của nông dân, và giảm áp lực sâu bệnh, áp lực tiêu thụ.
1.2.2. Sau thu hoạch, chế biến
- Thiếu hệ thống sấy lúa, nhất là cho vụ Hè Thu ở đồng bằng sông Cửu
Long, gây thất thoát, giảm chất lượng gạo xuất khẩu.
- Thu mua lúa do thương lái chi phối là chủ yếu; thương lai thu gom, trộn lẫn
nhiều loại gạo khác nhau nên không đảm bảo chất lượng,
- Tồn trữ dưới dạng gạo lức trước khi chà trắng, đánh bóng để xuất khẩu do
đó chất lượng gạo nhanh bị giảm.
- Chế biến sâu, đa dạng hóa các loại gạo và sản phẩm chế biến từ gạo còn
hạn chế; chưa chú trong sử dụng các sản phẩm phụ (trấu, cám, rơm rạ…) để nâng
cao giá trị gia tăng, tăng hiệu quả sản xuất.
1.2.3. Chuỗi giá trị lúa gạo
`


3


- Các thành phần trong chuỗi giá trị lúa gạo gồm nông dân, thương lái, hàng
xáo, lái lúa (hiện thu gom tới trên 90% lúa ở ĐBSCL), nhà máy xay chà đánh
bóng và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chưa liên kết, hỗ trợ lẫn nhau một cách
có hiệu quả cùng có lợi, còn nhiêu tác nhân trung gian, chưa hình thành liên kết
dọc trong chuỗi giá trị lúa gạo.
- Đa số doanh nghiệp xuất khẩu mua gạo từ thương lái không liên kết với
nông dân xây dựng cánh đồng lớn, vùng nguyên liệu dẫn đến chất lượng gạo xuất
khẩu thấp do doanh nghiệp thu gom từ nhiều nguồn khác nhau.
1.2.4. Thị trường, xúc tiến thương mại
- Gạo Việt Nam xuất khẩu không có thương hiệu nên không tạo giá trị gia
tăng.
- Công tác xúc tiến thương mại chưa được đầu tư tương xứng với vị trí của
ngành hàng và yêu cầu quảng bá sản phẩm, phát triển thị trường trong điều kiện
cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu trên thị trường gạo thế giới ngày càng gay
gắt.
- Chưa quan tâm đúng mức thị trường gạo trong nước; thị trường này rất ít
doanh nghiệp đầu tư, chủ yếu do tư thương, hàng xáo nhỏ lẻ nắm giữ, chất lượng
dịch vụ thấp.
1.2.5. Cơ sở hạ tầng và hậu cần phục vụ ngành lúa gạo
- Hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng, hệ thống đê bao ngăn lũ…chưa
được đầu tư hoàn thiện, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất; hệ thống giao thông kết
nối các vùng sản xuất đến đầu mối tiêu thụ, xuất khẩu chưa đáp ứng; hệ thống
thông tin và kết nối thị trường rất hạn chế…
1.2.6. Nghiên cứu khoa học và khuyến nông
- Nghiên cứu khoa học chưa tạo ra những đột phá như chưa chọn tạo được
giống lúa thơm có giá trị cao và thích nghi rộng (để sản xuất đủ lớn cho xuất
khẩu) hoặc thiếu các nghiên cứu cơ bản trong quản lý tài nguyên, biến đổi khí

hậu. Hoạt động nghiên cứu lúa gạo còn tập trung cho các Viện nhà nước, trong
khi sự tham gia của các trường Đại học và doanh nghiệp rất hạn chế.
- Cách tiếp cận công tác khuyến nông về lúa gạo còn chia cắt chưa theo
chuỗi giá trị và đáp ứng yêu cầu thị trường, trong khi việc quảng bá các loại vật
tư nông nghiệp kèm với hướng dẫn kỹ thuật của các công ty lấn át và ảnh hưởng
đối với nông dân hơn là các hoạt động khuyến nông chính qui.
1.2.4.Thể chế và chính sách
`

4


- Nông dân sản xuất nhỏ lẻ, yếu thế; vai trò của hợp tác xã hạn chế; các
doanh nghiệp chủ yếu tham gia khâu cuối của chuỗi giá trị, không gắn bó, ít quan
tâm đến lợi ích của nông dân.
- Hiệp hội lương thực chưa đại diện cho tất cả các tác nhân sản xuất và kinh
doanh trong chuỗi giá trị lúa gạo.
- Chính sách tích tụ ruộng đất, hạn điền, tín dụng, hỗ trợ liên kết, hỗ trợ
doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đủ mạnh
và rộng.
2. Cơ hội và thách thức đối đối với ngành lúa gạo Việt Nam
Trong hoàn cảnh mới, sản xuất lúa gạo đang đứng trước nhiều cơ hội và
thách thức. Nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới vẫn còn tiếp tục tăng lên trong 10
năm tới (với mức tăng bình quân 1,5%/năm); cơ hội mở rộng thị trường lúa gạo
khi nước ta tham gia các hiệp định thương mại mới như TPP, liên minh thuế
quan…; đầu tư của nhà nước, doanh nghiệp và người dân theo xu hướng ngày
càng tăng; cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện; sự phát triển của khoa học công
nghệ về giống, kỹ thuật canh tác, bảo quản, chế biến là những cơ hội tốt để đẩy
mạnh phát triển ngành sản xuất lúa gạo.
Bên cạnh cơ hội, sản xuất lúa gạo của Việt Nam có nhiều thách thức trong

thời gian tới. Các khó khăn, hạn chế nêu trên không dễ khắc phục được trong
ngắn hạn; ngoài ra đất cho sản xuất lúa bị cạnh tranh với các hoạt động sản xuất
khác và đô thị hóa; độ dinh dưỡng của đất giảm do thâm canh thiếu bền vững;
nguồn nước phục vụ sản xuất lúa gạo sẽ bị tranh chấp mạnh khi các nước thượng
nguồn xây dựng nhiều công trình thủy lợi và thủy điện, làm tổn hại hệ sinh thái tự
nhiên ở lưu vực và thay đổi chế độ thủy văn. Ngoài ra, ngành lúa gạo còn phải đối
mặt với những thách thức khác như sự thay đổi nhu cầu tiêu thụ, áp lực cạnh tranh
từ các nước xuất khẩu khác, chính sách tự cấp giảm nhập khẩu của các nước bạn
hàng, biến động giá gạo và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.
3. Triển vọng thương mại gạo thế giới
3.1. Cung-cầu gạo thế giới và dự báo
Sản lượng gạo của thế giới liên tục tăng từ mức 417 triệu tấn vào năm 2005
lên 479 triệu tấn vào năm 2013 (tăng 14,8%), chủ yếu nhờ năng suất tăng. Sau
khủng hoảng giá lương thực năm 2008, nhiều nước tăng đầu tư cho sản xuất lúa
gạo. Trên thế giới lúa hiện đang trồng hàng nghìn giống lúa khác nhau, nhưng về
gạo có thể xếp vào bốn nhóm chính: gạo trắng indica (từ lúa trồng tại Đông Nam
Á và Nam Á), gạo Japonica (từ lúa trồng ở Bắc Á, Bắc Mỹ), gạo Japonica nhiệt
`

5


đới (từ Nam Mỹ và một số vùng châu Phi), gạo thơm (tử các giống lúa thơm
trồng ở Đông Nam Á, Nam Á và Mỹ) và gạo nếp (các giống lúa nếp ở Đông Nam
Á). Gạo Indica chiếm khoảng 75% giao dịch gạo toàn cầu, gạo Japonica khoảng
10%, aromatic chiếm 12-13%. Dự báo 10 năm tới sản lượng gạo thế giới đạt trên
530 triệu tấn, tăng trên 10% so với hiện nay. Năm nước sản xuất gạo lớn nhất tập
trung tại châu Á gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam chiếm
70% sản lượng toàn cầu (OECD/FAO, 2014). Trong khi các nước sẽ vẫn phải
duy trì một lượng gạo chất lượng trung bình và thấp vừa đủ để đảm bảo an ninh

lương thực, do mức sống tăng lên nên gạo chất lượng cao sẽ được đầu tư sản xuất
nhiều hơn.
Lượng tiêu thụ gạo toàn cầu dự báo đạt khoảng 500 triệu tấn vào 10 năm tới
(tăng 10% so với hiện nay) và khoảng 535 triệu tấn vào năm 2030. Tiêu thụ gạo
của châu Á chiếm khoảng 2/3 tổng cầu về gạo của thế giới vào năm 2030
(OECD/FAO, 2014). Các loại gạo chất lượng cao sẽ được ưa chuộng hơn. Về
chủng loại gạo, cơ cấu nhu cầu theo thị trường như sau:
Thị trường Đông Bắc Á ưa chuộng các loại gạo ngắn, tròn, dẻo, dính, có mùi
thơm (nhóm japonica, aromatic hàm lượng amlylose rất thấp ), trừ một số tỉnh phía
Nam Trung Quốc tiêu thụ các loại gạo dài và mảnh trung bình nhưng mềm cơm.
Thị trường Đông Nam Á: Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippines,
phía Nam Việt Nam: Gạo hạt dài, thon, không dính (hàm lượng amylose trung
bình), có mùi thơm. Myanmar và một số tỉnh của Indonesia ưa chuộng gạo có
hàm lượng amylose cao.
Thị trường Trung Á, Nam Á: Pakistan và một số bang của Ấn Độ như Punjab
và Haryana: gạo basmati hạt siêu dài, có mùi thơm truyền thống của giống địa
phương. Ấn Độ: Gạo hạt dài, cơm rời hạt (gạo Indica). Sri Lanka ưa chuộng gạo
hạt dài, cứng.
Thị trường châu Phi (gồm cả Ai Cập), Trung Đông: gạo hạt dài, khi nấu rời
hạt; Ghana, Senegal ưa chuộng gạo cứng cơm.
Thị trường Châu Mỹ La tinh: gạo hạt dài, cứng.
Ước tính trong 10 năm tới, nguồn cung gạo toàn cầu sẽ dư nhẹ so với tiêu
thụ (30 triệu tấn), nhưng nếu xét cả nhu cầu cho dự trữ thì cung - cầu tương đối
cân bằng, thậm chí thiếu hụt trong giai đoạn các nước lớn tăng cường kho dự trữ.
3.2. Thương mại toàn cầu và triển vọng
Kể từ giữa những năm 1990, thương mại gạo thế giới chiếm khoảng 4% tiêu
`

6



dùng toàn cầu (phần còn lại là tự sản xuất phục vụ tiêu dùng nội địa), sau đó
liên tục tăng đến 7,5% như hiện nay và sẽ tăng lên mức 8,2% vào đầu thập kỷ tới.
Trong 10 năm tới, thương mại gạo toàn cầu sẽ tăng 1,5% mỗi năm (từ niên
vụ 2014/15 đến niên vụ 2023/24), nhờ tốc độ tăng trưởng ổn định của nhu cầu,
nhiều nước nhập khẩu không thể đẩy mạnh sản xuất do hạn chế về điều kiện tự
nhiên, nguồn lực và dịch bệnh (USDA, 2014).
Nhập khẩu gạo của Châu Phi và Trung Đông dự báo tiếp tục tăng do sự gia
tăng nhanh chóng của dân số và thu nhập, trong khi sản xuất bị hạn chế bởi điều
kiện tự nhiên. Đối với Trung Quốc, diện tích trồng lúa giảm nhưng có thể năng
suất lúa sẽ tăng nếu Chính phủ nước này cho phép sản xuất lúa biến đổi gen
(USDA, 2014). Tiêu thụ gạo/đầu người của Trung Quốc giảm do thu nhập tăng
lên, người dân giảm lượng gạo tiêu thụ trong khẩu phần, nhưng để đảm bảo an
ninh lương thực, Trung Quốc sẽ vẫn duy trì kho dự trữ lúa gạo ở mức cao.
Indonesia cũng sẽ cùng với Trung Quốc là hai nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế
giới (FAO, 2014).
Về xuất khẩu, trong 10 năm tới, Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm hơn 47%
xuất khẩu gạo thế giới và đóng góp 87% tăng trưởng xuất khẩu toàn cầu.
Tại Thái Lan, sản xuất tăng cộng với việc giải phóng kho lúa gạo, hệ quả
của chính sách trợ giá gạo trong những năm gần đây, sẽ đẩy xuất khẩu gạo tăng
4,4 triệu tấn, lên 13,9 triệu tấn vào niên vụ 2023/24. Ngoài Thái Lan, các đối thủ
cạnh tranh chính của Việt Nam sẽ gồm Ấn Độ, Pakistan, Hoa Kỳ. Myanmar cũng
có triển vọng trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn tại châu Á, nhưng khả năng
cạnh tranh với Việt Nam và Thái Lan chưa rõ ràng.
3.3. Biến động giá gạo toàn cầu và dự báo
Sau giai đoạn 2008-2012, giá gạo toàn cầu có xu hướng giảm, đặc biệt là khi
Thái Lan ngừng chính sách trợ giá thu mua lúa và xả kho dự trữ. Nhưng các loại
gạo chất lượng cao thường tăng hoặc giữ giá tốt hơn. Do nguồn cung dồi dào, giá
gạo duy trì ở mức thấp trong các năm 2015-2017 trước khi tăng trở lại từ niên vụ
2018/2019 và đạt khoảng 450 USD/tấn vào niên vụ 2020/2021 và 470 USD/tấn

vào niên vụ 2022/2023.
3.4. Chiến lược và xu hướng chính sách lúa gạo của các nước trên thế
giới
Trong lĩnh vực lúa gạo, Chính phủ các nước có nhiều mục tiêu khác nhau và
đôi khi mâu thuẫn với nhau như: tăng thu nhập của người trồng lúa, xuất khẩu,
cải thiện phúc lợi xã hội, dinh dưỡng cộng đồng, ổn định giá cả và an ninh lương
`

7


thực. Một số nước có nguồn cung gạo lớn còn sử dụng thương mại lúa gạo cho
các mục tiêu chính trị và ngoại giao. Các chính sách tác động nhiều đến giá gạo
trong thời gian tới gồm thương mại, dự trữ, hỗ trợ sản xuất và giá trong nước;
hợp tác quốc tế và khu vực về lúa gạo.
Chính sách thương mại và dự trữ: Về dài hạn, ổn định nguồn cung thông
qua thương mại sẽ hiệu quả hơn duy trì một kho dự trữ lớn trong thời gian dài.
Các nước sẽ cân đối giữa chính sách dự trữ và thương mại để vừa đảm bảo an
ninh lương thực, vừa đạt lợi ích kinh tế từ thương mại lúa gạo và điều hòa giá gạo
trong nước.
Hỗ trợ sản xuất: Các nước sẽ giảm dần các hình thức hỗ trợ trực tiếp (dễ dẫn
đến lãng phí tài nguyên và hiệu quả kinh tế thấp) để chuyển sang hỗ trợ gián tiếp
(khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và phát triển thị trường).
Trợ giá đầu ra: Hỗ trợ giá thu mua lúa gạo nội địa để tăng thu nhập cho
nông dân, khuyến khích sản xuất.
Hợp tác quốc tế về lúa gạo: Một số quốc gia tham gia thị trường lúa gạo
đang tiến hành một số hợp tác như: xây kho dự trữ chung, đầu tư sản xuất và chế
biến, chia sẻ thông tin thị trường, trao đổi quỹ gen và khoa học công nghệ.
4. Tầm nhìn, mục tiêu tái cơ cấu ngành lúa gạo đến năm 2030
4.1. Tầm nhìn đến năm 2030

Đến năm 2030, lúa gạo vẫn còn giữ vị trí quan trọng trong ngành trồng trọt
của Việt Nam do điều kiện sinh thái rất thuận lợi cho canh tác lúa nước cùng với
cơ sở hạ tầng và kinh nghiệm sản xuất đã được hình thành qua nhiều năm. Tuy
nhiên để phát huy lợi thế đó, ngành lúa gạo cần được tái cơ cấu để từ vai trò là
một ngành sản xuất vì mục tiêu an ninh lương thực là chủ yếu trở thành một
ngành kinh tế năng động và hiệu quả, đem lại lợi ích cho người sản xuất và người
tiêu dùng trong nước và có tính cạnh tranh cao trong xuất khẩu.
Do sự phát triển và tái cơ cấu của nền kinh tế, tỷ trọng đóng góp của lúa gạo
trong kinh tế nông nghiệp sẽ giảm dần do sự gia tăng của các ngành sản xuất có
giá trị tăng thêm cao hơn và nhu cầu tiêu dùng gạo trên đầu người cũng giảm do
thu nhập gia tăng. Vì vậy, ngành lúa gạo cần phát triển theo chiều sâu về chất
lượng hơn là theo chiều rộng về số lượng trong sản xuất cũng như xuất khẩu như
thời gian qua. Sự phát triển kinh tế cũng thu hút lao động ra khỏi nghề trồng lúa
và làm già hóa nông dân trồng lúa; xu hướng này đặt ra yêu cầu hiện đại hoá
ngành lúa gạo để thu hút lực lượng lao động trẻ, hình thành lớp nông dân mới sản
xuất lúa có tay nghề và kỹ năng kinh doanh cao.
`

8


Ngành lúa gạo đối với an ninh lương thực quốc gia và ổn định chính trị - xã
hội vẫn còn vị trí quan trọng trong tương lai, trong khi thu nhập của người trồng
lúa có xu hướng giảm dần, vì vậy nhà nước cần tăng cường hơn nữa sự đầu tư và
hỗ trợ cho ngành lúa gạo nói chung và đặc biệt cho nông dân trồng lúa nói riêng.
4.2. Mục tiêu
4.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu ngành lúa gạo nhằm (i) nâng cao hiệu quả
sản xuất và kinh doanh lúa gạo để trước nhất nâng cao thu nhập cho người trồng
lúa và đảm bảo lợi ích bình đẳng và tương xứng cho các tác nhân tham gia ngành

lúa gạo (ii) đảm nguồn cung đạt chất lượng cao cho toàn bộ dân số nước ta ở mọi
thời điểm, mọi vùng miền và luôn có đủ gạo dự trữ cho trường hợp thiên tai, dịch
bệnh (iii) xuất khẩu gạo có tính cạnh tranh trên thị trường thế giới và có giá trị
gia tăng cao và (iv) đảm bảo phát triển bền vững đối với môi trường, bảo vệ tài
nguyên, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
4.2.2. Một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2020 và 2030
a) Đảm bảo lợi nhuận cho người trồng lúa ở vùng sản xuất lúa hàng hóa đạt
từ 30% tổng thu trở lên.
b) Tỷ lệ gạo xuất khẩu chất lượng cao (gạo thơm/đặc sản, gạo 5%, 10%, gạo
japonica) đạt 60-70% tổng lượng gạo xuất khẩu, trong đó gạo thơm/đặc sản
chiếm 20-30%.
c) Diện tích lúa áp dụng các kỹ thuật sản xuất tốt (GAP) đạt 50% diện tích
vùng sản xuất lúa hàng hoá năm 2020 và 80% năm 2030.
d) Tỷ lệ diện tích áp dụng cơ giới đồng bộ (từ sản xuất đến thu hoạch và sau
thu hoạch) đạt 70% diện tích vùng sản xuất lúa hàng hoá năm 2020 và 80% năm
2030. Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch dưới 8% năm 2020 và 6% năm 2030.
đ) Tại các vùng chuyên canh sản xuất lúa hàng hóa, tỷ lệ diện tích nông dân
liên kết sản xuất (cánh đồng lớn, hợp tác xã,...) chiếm trên 20% năm 2020 và 50%
vào năm 2030.
e) Giảm phát thải gây ra hiệu ứng nhà kính từ sản xuất lúa giảm 10% so với
hiện nay vào năm 2020 và 20% vào năm 2030.
5. Nội dung chủ yếu
5.1. Tái cơ cấu sản xuất lúa
5.1.1. Quản lý, sử dụng đất lúa và chuyển đổi diện tích gieo trồng lúa
`

9


Quản lý, sử dụng đất lúa thực hiện theo Nghị định số 35/2015/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 13/4/2015, theo đó đất lúa được sử dụng linh hoạt để nâng cao
hiệu quả sử dụng như trên đất lúa có thể chuyển đổi sang trồng cây hằng năm
hoặc trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thủy sản nhưng không làm mất đi các điều
kiện phù hợp để có thể trồng lúa trở lại. Biện pháp linh hoạt này cơ bảo đảm quỹ
đất lúa 3,8 triệu ha đến năm 2020. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng lúa sẽ giảm ở
nhưng nơi sản xuất lúa không có lợi thế hoặc do chuyển gieo trồng lúa độc canh
sang luân canh với cây trồng khác hoặc nuôi trồng thuỷ sản (lúa - cá, lúa - tôm).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông đã ban hành Quyết định số 3367/QĐ-BNNTT ngày 11 tháng 7 năm 2014 phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng
trên đất trồng lúa giai đoạn 2014-2020, theo đó đến năm 2020 diện tích gieo
trồng lúa sẽ giảm khoảng 800.000 ha và diện tích gieo trồng lúa cả nước sẽ duy
trì khoảng 7 triệu ha.
5.1.2. Định hướng sản xuất lúa theo vùng
Đồng bằng sông Cửu là vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước, đây là
vùng có lợi thế nhất trong sản xuất lúa ở nước ta, đóng góp trên 50% sản lượng
lúa cả nước và 90% lượng gạo xuất khẩu. Sản xuất lúa ở ĐBSCL hướng đến thị
trường xuất khẩu và thị trường nội địa ở phân khúc gạo chất lượng cao. Ở các
vùng phù sa ngọt, phát huy thế mạnh hai vụ lúa/năm và có thể luân canh 2 lúa màu ở nơi có điều kiện. Vùng còn nhiều tiềm năng là vùng ven biển phù hợp cho
sản xuất lúa chất lượng cao hoặc lúa hữu cơ trong cơ cấu tôm - lúa. Chuyển đổi
diện tích sản xuất lúa ở các nơi có hiệu quả thấp sang cây trồng khác hoặc nuôi
trồng thủy sản, giảm diện tích lúa xuân hè và lúa vụ ba (thu đông) ở nơi không đủ
điều kiện. Hình thành vùng sản xuất lúa thơm phục vụ xuất khẩu ở các vùng phù
sa ngọt và vùng ven biển.
Đồng bằng sông Hồng là vựa lúa phía Bắc, tuy đất không rộng nhưng đây là
vùng sản xuất lúa có trình độ thâm canh cao. Cơ cấu hai vụ lúa (vụ Xuân - vụ
Mùa) ổn định, với các trà lúa chủ lực là Xuân muộn và Mùa sớm. Sản xuất lúa ở
ĐBSH hướng đến thị trường nội địa, bao gồm thị trường lớn là thủ đô Hà Nội và
các đô thị trong vùng, với xu thế tiêu dùng gạo đặc sản, gạo chất lượng. cao gia
tăng. Vì vậy, vùng ĐBSH sẽ chuyển hướng mạnh sang sản xuất lúa chất lượng
cao và quy hoạch các vùng sản xuất lúa đặc sản địa phương, lúa nếp, lúa
japonica.

Các đồng bằng ven biển miền Trung (Bắc Trung bộ - Nam Trung bộ), ổn
định sản xuất lúa 2 vụ ở các vùng chủ động được nguồn nước tưới và chuyển đổi
diện tích lúa ở các nơi khó khăn về nguồn nước, sản xuất bấp bênh sang cây trồng
`

10


khác (ngô, đậu, mè, cỏ chăn nuôi...) Sản xuất lúa chủ yếu phục vụ tiêu dùng nội
tỉnh.
Các vùng trung du miền núi, giữ diện tích lúa ở mức tối thiểu cho nhu cầu
lương thực tại chỗ, sử dụng giống năng suất cao, chuyển đổi diện tích lúa hiệu
quả thấp sang các cây trồng khác, nhất là ngô, đậu tương, cỏ chăn nuôi. Quy
hoạch sản xuất các giống đặc sản địa phương.
5.1.3. Phát triển giống lúa theo nhu cầu thị trường
Giống là yếu tố quan trọng nhất để nâng cao chất lượng lúa gạo. Việc xây
dựng cơ cấu giống được căn cứ trên cơ sở của nhu cầu thị trường. Đối với lúa
xuất khẩu, để chuyển sang phân khúc thị trường giá trị cao, cần có các giống lúa
thơm, giống chất lượng cao theo thị hiếu từng thị trường (hạt dài hoặc hạt tròn).
Đối với lúa tiêu thụ nội địa cần phát huy các giống địa phương đặc sản, lúa nếp
địa phương.
Trong ngắn hạn cần xác định, chọn lọc các giống lúa thơm và giống chất
lượng cao hiện có ở ĐBSCL để chọn thuần, nhân giống để cung ứng cho nhu cầu
xây dựng vùng nguyên liệu để sản xuất gạo có thương hiệu xuất khẩu. Trong dài
hạn cần đầu tư mạnh cho công tác nghiên cứu chọn tạo giống lúa thơm, lúa chất
lượng cao để hoàn thiện bộ giống lúa sản xuất gạo thơm, gạo chất lượng cao
mang thương hiệu quốc gia.
Các giống lúa mới được tạo chọn ngoài tính kháng sâu bệnh cần có tính
thích nghi trong điều kiện biến đổi khí hậu như kháng mặn, hạn, ngập úng và
nóng.

Các giống lúa địa phương đặc sản được bảo tồn, chọn lọc dòng thuần để
cung ứng giống sản xuất gạo đặc sản phục vụ thị trường nội địa hoặc xuất khẩu
diện hẹp, chuyên biệt.
Hệ thống nhân và cung ứng giống cần có sự phối hợp giữa Viện nghiên cứu
(giống tác giả) và các doanh nhiệp sản xuất, cung ứng giống để đảm bảo hệ thống
sản xuất giống đồng bộ từ giống tác giả, siêu nguyên chủng, nguyên chủng, đến
cấp xác nhận. Nâng cao năng lực hệ thống nhân giống cơ sở (câu lạc bộ hợp tác
xã, nông hộ sản xuất giỏi) để sản xuất, cung ứng giống xác nhận tại địa phương
dưới sự bảo trợ của doanh nhiệp hoặc cơ quan khuyến nông. Tỷ lệ sử dụng giống
xác nhận trong sản xuất đạt 75% ở vùng sản xuất lúa hàng hóa.
Cải tiến quản lý nhà nước về cơ chế công nhận, đưa giống vào sản xuất để
có các giống tốt nhất đáp ứng với nhu cầu thị trường, tăng cường phối hợp
chương trình chọn giống, ứng dụng kỹ thuật phân tử để nâng cao hiệu quả và rút
`

11


ngắn quá trình chọn tạo giống mới. Tạo điều kiện doanh nghiệp không phải thay
đổi giống hằng năm nhưng tập trung sản xuất giống cho các giống chiến lược, ổn
định nhiều năm đảm bảo khả năng cung cấp hạt giống chất lượng cao cho nhu
cầu phát triển vùng nguyên liệu.
Nhà nước và doanh nghiệp đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng
lực chọn tạo giống lúa cho đội ngũ khoa học ở các cơ sở khoa học và xây dựng
các phòng nghiên cứu hiện đại về chất lượng gạo.
5.1.4. Thâm canh sản xuất lúa theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và
bền vững
(i) Nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất lúa
Tiếp tục thực hiện dồn điền đổi thửa, kiến thiết lại đồng ruộng để mở rộng
quy mô thửa ruộng, san bằng mặt ruộng (có thể ứng dụng kỹ thuật tia lazer), bê

tông hoá kênh mương, hoàn thiện hệ thống thủy lợi và giao thông nội đồng, hệ
thống tưới bằng điện.
(ii) Ứng dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến theo hướng sử dụng ít hơn vật tư
đầu vào nhưng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Mở rộng diện tích ứng dụng thực hành sản xuất tốt (GAP) trên cơ sở các kỹ
thuật tổng hợp như “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, quản lý dịch bệnh tổng
hợp - IPM, quản lý dinh dưỡng tổng hợp - INM, kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI, hay sản xuất theo quy trình chứng nhận VietGAP, Global GAP, Lúa hữu cơ.
Cách tiếp cận của các biện pháp kỹ thuật trên là sử dụng nguồn vật tư đầu vào
(hạt giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới, lao động) một cách tiết
kiệm, chính xác và hiệu quả để giảm giá thành nhưng tăng năng suất, chất lượng
và giá trị sản phẩm. Kết quả là chi phí vật tư có thể giảm đến 30% và lợi nhuận
của nông dân có thể tăng thêm 20%, ngoài ra môi trường được bảo vệ tốt hơn.
Phát triển ứng dụng công nghệ thông tin để hướng dẫn nông dân thực hành
sản xuất tốt và canh tác chính xác phù hợp với điều kiện sản xuất của mình.
(iii) Quản lý chất lượng vật tư đầu vào

`

12


Giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật là những vật tư thiết yếu trong sản
xuất lúa. Cần thực hiện nghiêm quy định pháp luật về sản xuất, kinh doanh các
loại vật tư này, đặc biệt nghiêm cấm kinh doanh các vật tư giả, kém chất lượng.
Theo dõi biến động giá cả các loại vật tư để ngăn chận tình trạng đầu cơ, đẩy giá.
Tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên và xử lý nghiêm trường hợp vi phạm.
Phát triển hệ thống phân phối vật tư từ nhà sản xuất trực tiếp đến nông dân,
giảm các tầng nấc trung gian để đảm bảo chất lượng vật tư và giảm giá mua của
nông dân. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường vật tư và giám sát chất lượng.
5.1.4. Ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất

Đẩy nhanh ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất lúa để tiến đến hiện đại hoá,
công nghiệp hoá ngành lúa gạo nước ta, tạo ra sự chuyển dịch lao động (giảm lao
động trong sản xuất lúa, thu hút lao động trẻ), giảm thất thoát sau thu hoạch, tăng
hiệu quả sản xuất, giảm giá thành và tăng thu nhập cho nông dân.
Đối với vùng sản xuất lúa trọng điểm ở ĐBSCL, tiến đến cơ giới hoá đồng
bộ các khâu sản xuất lúa và sau thu hoạch; đối với các vùng khác đảm bảo 70%
diện tích được cơ giới hoá đồng bộ. Những khâu cơ giới hoá còn yếu như sấy lúa,
chăm sóc lúa (bón phân, phun thuốc), cấy, sạ bằng máy cần được quan tâm đẩy
mạnh ứng dụng, trong khi các khâu đã có bước phát triển khá trong thời gian qua
như làm đất, bơm điện, thu hoạch bằng máy cần tiếp tục cải tiến và tăng nhanh tỷ
lệ áp dụng.
Nhà nước tiếp tục bổ sung các chích sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển
và ứng dựng cơ giới hoá với các trọng tâm: hỗ trợ vốn vay cho nông dân để kiến
thiết đồng ruộng, mua máy móc thiết bị, tập huấn cho nông dân và công nhân kỹ
thuật lành nghề, phát triển dịch vụ làm thuê cơ giới và sửa chữa máy móc ở nông
thôn và hỗ trợ doanh nghiệp vốn để kinh doanh, chế tạo máy nông nghiệp và đổi
mới công nghệ.
5.1.5. Thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu đang và sẽ có những tác động bất lợi đến sản xuất lúa gạo ở
nước ta. Các tác động chính gồm: thời tiết cực đoan như hạn hán, bão, lũ lụt xảy ra
với tần suất và mức độ nghiêm trọng gia tăng; các vùng trồng lúa là đồng bằng nằm
ven biển, đặc biệt là ĐBSCL có nguy cơ bị ngập mặn do mực nước biển dâng; sự
tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà kính sẽ làm giảm năng suất lúa và tăng sự bộc phát,
lây lan sâu bệnh trên lúa. Các tác động này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự suy
giảm diện tích, năng suất và sản lượng lúa trong tương lai nếu thiếu các biện pháp
đối phó hữu hiệu.
`

13



Trong khi đó canh tác lúa lại là một trong các tác nhân gây hiệu ứng nhà kính
do phát thải khí methane (CH4) trong điều kiện ngập nước và khí nitrous oxide
(NO2) từ việc bón phân đạm. Khí CH4 và NO2 có tiềm năng gây hiệu ứng nhà kính
cao nhiều lần so với CO2 (CH4 cao hơn 25 lần, NO2 cao hơn 300 lần).
Vì vậy để đối phó hữu hiệu với biến đổi khí hậu, cần tổ chức nghiên cứu và
liên tục cập nhật diễn biến của biến đổi khí hậu đối với sản xuất lúa, đồng thời chủ
động thực hiện các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
(i) Giải pháp thích ứng
- Sử dụng giống lúa có thời gian sinh trưởng phù hợp để né hạn, mặn, lũ; phát
triển các giống lúa chống chịu các điều kiện ngoại cảnh bất lợi như mặn, hạn, ngập
úng, nóng và kháng sâu bệnh.
- Áp dụng các biện pháp kỹ thuật như quản lý hiệu quả nước tưới, quản lý tổng
hợp dinh dưỡng cây trồng và dịch bệnh.
- Luân canh lúa với cây trồng cạn, rau đậu, điều chỉnh thời vụ thích nghi với
diễn biến của thời tiết.
- Đầu tư phát triển hệ thống rừng phòng hộ và xây dựng cơ sở hạ tầng như
đê biển, cống điều tiết mặn, đập, hồ, hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi để chủ động và
nâng cao hiệu quả tưới tiêu.
(ii) Giải pháp giảm nhẹ
- Áp dụng các kỹ thuật tưới tiết kiệm như tưới ướt và phơi khô xen kẽ
(Alternate Wetting and Drying - AWD) để giảm phát thải CH4 từ đất ngập nước.
- Bón phân đúng liều lượng và phương pháp theo nhu cầu đất đai, mùa vụ để
giảm lượng đạm dư thừa làm tăng phát thải NO2.
- Sử dụng rơm rạ sau khi thu hoạch để chế biến ra các sản phẩm sinh học (phân
hữu cơ, biochar, năng lượng sinh học,…) hoặc sử dụng làm nấm ăn, thức ăn chăn
nuôi thay vì đốt đồng hoặc cày vùi trong đất ngập nước làm tăng phát thài CH4.
Cần lứu ý các tác động bù trừ khi áp dụng các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ
biến đổi khí hậu như:
- Giải pháp tưới tiết kiệm có thể gia tăng mật số cỏ dại, đòi hỏi tăng chi phí làm

cỏ, trường hợp tăng sử dụng hoá chất trừ cỏ sẽ ảnh hưởng đến môi trường.
- Giải pháp tưới tiết kiệm làm giảm lượng nước tưới và chi phí tưới, làm giảm
phát thải CH4 nhưng có thể gia tăng phát thài NO2.
- Giải pháp luân canh lúa với cây trồng cạn làm giảm phát thải CH 4 nhưng có
`

14


thể gia tăng phát thài NO2.
Vì vậy, các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ cần được kết hợp trong một hệ
thống sản xuất và điều kiện sinh thái, địa lý nhất định, trở thành giải pháp tổng hợp
canh tác lúa “thông minh” trước biến đổi khí hậu.
5.1.6. Quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro trước nhất nhằm hỗ trợ nông dân sản xuất lúa chủ động phòng
tránh những tác động bất lợi do thiên tai, dịch bệnh hoặc biến động trong tiêu thụ
lúa và giá cả ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân và ổn định xã hội.
Người nông dân cần được cung cấp thông tin về dự báo thời tiết, dự báo
diễn biến dịch bệnh hại lúa một cách kịp thời và chính xác để điều chỉnh sản xuất
phù hợp như điều chỉnh về thời vụ, điều chỉnh thời điểm thu hoạch lúa để né
thiên tai hoặc tổ chức phòng trừ dịch bệnh. Công tác nghiên cứu và khuyến nông
cần hỗ trợ nông dân áp dụng giống lúa chống chịu điều kiện bất lợi và kháng sâu
bệnh và quy trình canh tác bền vững đặc biệt là quy trình phòng trừ dịch bệnh
tổng hợp (IPM), hỗ trợ và khuyến khích nông dân đa dạng hoá sản xuất và đa
dạng hoá nguồn thu nhập. Trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên diện
rộng, nhà nước có chính sách hỗ trợ để chống dịch và phục hồi sản xuất sau thiên
tai, dịch bệnh (đặc biệt là hỗ trợ về giống).
Để hỗ trợ cho công tác dự báo, hệ thống giám sát cấp quốc gia được thiết lập
để cung cấp thông tin hàng tháng về diện tích lúa, thời gian gieo trồng, thời gian
thu hoạch, diễn biến sản xuất vào giữa vụ và cuối vụ đến cấp huyện, ước thiệt hại

do thiên tai, dịch bệnh,... Hệ thống giám sát được xây dựng trên cơ sở sử dụng
công nghệ viễn thám, mô hình hóa và công nghệ thông tin.
Chương trình bảo hiểm nông nghiệp nói chung, đặc biệt sản xuất lúa cần
được mở rộng thông qua hỗ trợ tín dụng cho nông dân mua bảo hiểm, khuyến
khích các công ty bảo hiểm tham gia tích cực vào thị trường bảo hiểm nông
nghiệp thông qua các cơ chế ưu đãi về thuế...
Củng cố quỹ dự trữ chiến lược gạo quốc gia để kịp thời cung cấp gạo cho
nơi bị thiên tai, dịch bệnh và đảm bảo hỗ trợ xã hội đối với những người nghèo
trong vùng thiên tai.
5.2. Xây dựng và phát triển chuỗi giá trị lúa gạo
5.2.1. Tái cơ cấu tổ chức sản xuất
Chuyển đổi sản xuất lúa dựa trên nông hộ nhỏ, lẻ sang các phương thức sản
xuất liên kết như cánh đồng lớn để mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra sản phẩm
`

15


đồng nhất về chất lượng tạo điều kiện nối kết với doanh nghiệp tiêu thụ. Phương
thức sản xuất này được thực hiện song song với tiến trình tích tụ ruộng đất,
chuyển nhượng, cho thuê đất lúa và chuyển dịch lao động từ trồng lúa sang các
ngành nghề khác.
Khuyến khích và hỗ trợ phát triển các hợp tác xã kiểu mới sản xuất kinh
doanh lúa gạo nhằm tập hợp nông dân sản xuất theo qui mô lớn. HTX đóng vai
trò đại diện cho nông dân ký hợp đồng, liên kết với doanh nghiệp; tổ chức các
dịch vụ chung như cung ứng vật tư nông nghiệp, dịch vụ BVTV, sấy, bảo quản,
tạm trữ, tìm đầu ra cho sản phẩm… nhằm tăng hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và
tăng thu nhập cho từng hộ nông dân. Hỗ trợ các tổ chức kinh tế hợp tác phát triển
thị trường, xúc tiến thương mại và các dự án phát triển nông thôn, gắn với các
chuỗi giá trị tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa.

Để phù hợp với phương thức sản xuất mới, năng lực của nông dân trồng lúa
được nâng cao thông qua các chương trình hỗ trợ của nhà nước và doanh nghiệp
như đào tạo nghề, khuyến nông, … để trở thành người sản xuất chuyên nghiệp.
Đồng thời nhà nước tạo điều kiện cho nông dân có thể tiếp cận dễ dàng nguồn
vốn vay, kể cả nguồn vốn tín dụng lãi suất thấp để chủ động đầu tư cho sản xuất,
qua đó giảm tình trạng nông dân phải vay nợ với lãi xuất cao.
5.2.2. Nâng cao năng lực doanh nghiệp
- Thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào việc xây dựng vùng nguyên liệu,
hình thành liên kết và lâu dài giữa các tổ chức liên kết sản xuất của nông dân, hợp
tác xã với các doanh nghiệp nòng cốt và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này
tham gia xuất khẩu. Thu hút đầu tư, liên doanh liên kết lâu dài với doanh nghiệp
từ các quốc gia khác có tiềm lực về vốn, công nghệ, thiết bị và kinh nghiệm kinh
doanh để phát triển và hiện đại hóa ngành lúa gạo nước ta.
- Tái cơ cấu và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tổng
Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) và Tổng Công ty Lương thực miền
Bắc (Vinafood 1) theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khuyến khích
doanh nghiệp tư nhân mở rộng kinh doanh, đầu tư vào ngành lúa gạo bằng các dự
án hợp tác công tư (PPP), ưu đãi thuế, vốn vay…; đặc biệt ưu tiên các doanh
nghiệp có vùng nguyên liệu, doanh nghiệp hoạt động nghiên cứu khoa học và
khuyến nông, doanh nghiệp kinh doanh vật tư đầu vào có liên kết với nông dân.
- Đổi mới Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) theo hướng mở rộng thành
viên của Hiệp hội để đại diện đầy đủ cho các tác nhân tham gia chuỗi giá trị lúa
gạo (tổ chức đại diện nông dân hoặc hợp tác xã sản xuất lúa, đại diện của địa
`

16


phương sản xuất lúa lớn, cơ quan quản lý nhà nước, các thành phần doanh nghiệp
tham gia chuỗi giá trị từ thu mua lúa đến xay chà, chế biến gạo, phân phối và

xuất khẩu, đại diện tổ chức khoa học và khuyến nông…). Hoạt động của Hiệp hội
theo cơ chế thị trường, cung cấp dịch vụ hỗ trợ và thông tin minh bạch để đảm
bảo sự bình đẳng và hài hòa lợi ích của các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo và
đóng góp cho phát triển ngành lúa gạo hoạt động.
5.2.3. Cải tiến công nghệ sau thu hoạch, tồn trữ
- Thực hiện thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp kỹ thuật cao, mức độ
gặt sót dưới 1,5% ở những vùng lúa lớn.
- Chuyển đổi hệ thống sấy lúa theo quy trình cải tiến từ sấy 2 bước sang 1
bước bằng sấy tầng sôi, sấy tháp. Sấy lúa tươi tới độ ẩm tiêu chuẩn 14-14,5% để
chuyển từ bảo quản gạo khô như hiện nay sang bảo quản lúa khô.
- Rà soát hệ thống kho (chương trình 4 triệu tấn kho), cân đối nhu cầu trữ
lúa - gạo tại các vùng sản xuất hàng hóa lớn để xây dựng mới và nâng cấp hệ
thống kho chứa thóc có hệ thống sấy, làm sạch, cơ giới hóa, tự động hóa vận
hành để nâng cao chất lượng bảo quản.
- Hỗ trợ mặt bằng, tín dụng, kết nối thị trường cho HTX, doanh nghiệp có
liên kết tại các vùng chuyên canh chính xây dựng kho, tạm trữ lúa khô.
5.2.3. Cải tiến công nghệ chế biến
- Đầu tư phát triển hệ thống chế biến gạo hiện đại, liên hoàn và khép kín
(sấy, xay xát, lau bóng, phân loại,vô bao), hình thành các cụm chế biến gạo công
nghệ cao tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa lớn, có cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu
cần để tăng hiệu quả kết nối sản xuất - thị trường.
- Tăng chế biến sâu, sản xuất các sản phẩm có giá trị cao từ gạo phục vụ cho
tiêu dùng như tinh bột, dầu ăn, bánh cao cấp, mỹ phẩm, các sản phẩm ăn liền
(bánh phở, mì gạo...), các loại rượu đặc sản truyền thống làm từ gạo...; tăng chế
biến các phụ phẩm lúa gạo (rơm rạ, trấu, cám) để tăng giá trị từ lúa gạo và bảo vệ
môi trường.
- Xây dựng chính sách ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp đầu tư hiện đại
hóa chế biến gạo, các doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, chế biến phụ phẩm từ
lúa gạo, hình thành các tổ chức dịch vụ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được các
nguồn lực chính sách, nhất là vốn và công nghệ; xây dựng sàn giao dịch trực tiếp

doanh nghiệp với doanh nghiệp để trao đổi công nghệ chế biến.
5.2.4. Đảm bảo chất lượng, giá trị dinh dưỡng và an toàn thực phẩm
`

17


Chất lượng, giá trị dinh dưỡng và an toàn thực phẩm của sản phẩm là kết
quả của các khâu trong chuỗi giá trị, mỗi khâu vận hành có trách nhiệm liên đới
chung để hình thành giá trị sản phẩm.
Chất lượng của sản phẩm được đánh giá theo thị hiếu của người tiêu thụ và
yêu cầu của thị trường. Các loại gạo chất lượng cao thường có mùi thơm, hạt dài,
trong, không bạc bụng, hàm lượng amylose thấp, trong khi thị hiếu tiêu dùng ở
một số nước ưa chuộng loại gạo japonica, hạt tròn, cơm dẻo. Có thể chọn tạo các
giống lúa có chất lượng theo yêu cầu của người tiêu dùng và thị trường.
Tiêu chuẩn an toàn thực phẩm quy định trong hạt gạo không chứa các chất
độc hại như tồn dư chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng (arsenic, cadmium) hoặc
aflatoxins. Các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm được quy định bởi Uỷ ban Codex
(gồm 186 quốc gia) và Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), ngoài ra hiệp định
về biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm (SPS) của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), các quốc gia có thể áp đặt thêm các yêu cầu về an toàn thực phẩm.
Chất lượng dinh dưỡng của gạo có thể được tăng cường bằng cách chọn tạo
các giống lúa giàu sắt và kẽm hoặc có chỉ số glycemic thấp để có thể ngừa bệnh
tiểu đường týp 2.
Chất lượng và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của gạo bị ảnh hưởng bởi kỹ
thuật canh tác và công nghệ sau thu hoạch. Toàn bộ các khâu từ hạt giống, chăm
sóc, thu hoạch, phơi sấy, xay chà, tồn trữ, vận chuyển, phân phối đều có tác động
trực tiếp đến chất lượng và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của gạo. Áp dụng kỹ
thuật thực hành nông nghiệp tốt (GAP), thực hành chế biến tốt (GMP) và kỹ
thuật tồn trử và khử trùng tốt (dùng các chất ít độc hại) có ý nghĩa quyết định đối

với an toàn thực phẩm. Chứng nhận sản phẩm đáp ứng các yêu cầu này sẽ tạm
niềm tin cho người tiêu dùng cũng như nâng cao tính cạnh tranh ở thị trường xuất
khẩu.
Đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền về an toàn thực phẩm đối
với lúa gạo cho nông sản xuất lúa, doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo và người tiêu
dùng.
5.2.4. Phát triển hạ tầng giao thông và dịch vụ logistics.
Hệ thống giao thông và dịch vụ logistics được cải thiện để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh lúa gạo.
- Về hệ thống giao thông, cần nạo vét hệ thống giao thông thủy lợi, xây
dựng hệ thống cảng tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa lớn, và cảng xuất khẩu
chính đặt tại Cần Thơ, đồng bộ với hệ thống kho bãi. Cải thiện chất lượng dịch
`

18


vụ vận chuyển đường sông nội địa, giảm tắc nghẽn vào mùa cao điểm. Xây dựng
hệ thống đường sắt kết nối đến ĐBSCL (TP Hồ Chí Minh - Mỹ Tho - Cần Thơ),
hệ thống đường bộ đủ tiêu chuẩn lưu thông xe container đến các vùng sản xuất
lúa hàng hóa. Quy định về quy cách lúa gạo khi vận chuyển để đảm bảo chất
lượng và hạn chế thất thoát.
- Cải tiến dịch vụ logistics, áp dụng công nghệ hiện đại về kỹ thuật và quản
lý để giảm thời gian lưu tàu tại cảng, giảm chi phí bốc dỡ.
5.3. Xây dựng thương hiệu gạo và phát triển thị trường
5.3.1. Xây dựng thương hiệu gạo
Xâ dựng thương hiệu gạo là một nhiệm vụ cấp bách trong tái cơ cấu ngành
lúa gạo. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 706/QĐ/TTg ngày 21
tháng 5 năm 2015 phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo Quyết định này, thương hiệu gạo sẽ được

phát triển ở các cấp độ: thương hiệu quốc gia, thương hiệu vùng, địa phương và
thương hiệu doanh nghiệp.
Đối với thương hiệu quốc gia, ưu tiên xây dựng thương hiệu cho lúa thơm
xuất khẩu qua các bước: xác định giống lúa thơm xuất khẩu, vùng trồng giống lúa
thơm xuất khẩu, ban hành tiêu chuẩn (quốc gia) lúa thơm Việt Nam và nhãn
chứng nhận lúa thơm Việt Nam, nhãn chứng nhận GAP, khuyến khích doanh
nghiệp đăng ký xuất khẩu lúa thơm theo tiêu chuẩn quốc gia để được cấp chứng
nhận nhãn. Lựa chọn một số doanh nghiệp để hỗ trợ xây dựng thương hiệu gạo
được chứng nhận lúa thơm Việt Nam. Thương hiệu quốc gia đầu tiên dành cho
gạo thơm xuất khẩu như Thái Lan và Ấn Độ đã áp dụng.
Đối với thương hiệu vùng, địa phương nên ưu tiên xây dựng thương hiệu
cho gạo đặc sản bản địa (từ lúa giống lúa đặc sản địa phương) cùng với chỉ dẫn
địa lý, chủ yếu cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu theo yêu cầu đặc thù của
khách hàng tuy số lượng không lớn. Đối với doanh nghiệp kinh doanh gạo, mỗi
doanh nghiệp đều nên xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp mình, thương
hiệu doanh nghiệp có thể cấp được chứng nhận quốc gia nếu đạt tiêu chuẩn quy
định. Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện một số thương hiệu gạo vùng, địa
phương và thương hiệu doanh nghiệp, tuy phần lớn chưa đạt yêu cầu về tiêu
chuẩn chất lượng. Vì vậy để thương hiệu gạo phát huy đúng nghĩa và bền vững,
cần thiết hình thành chuỗi giá trị của sản phẩm gắn với thương hiệu của sản phẩm
đó.
5.3.2. Phát triển thị trường
`

19


Đối với thị trường nội địa, phát triển thị trường đáp ứng nhu cầu đa dạng của
người tiêu dùng, trong đó chú ý phân khúc thị trường gạo đặc sản và chất lượng
cao để cạnh tranh với gạo nhập khẩu vì thị phần phân khúc này ngày càng tăng

do sự gia tăng thu nhập trên đầu người ở nước ta, đồng thời phát triển phân khúc
thị trường gạo chất lượng trung bình để đáp ứng nhu cầu của người thu nhập thấp
và phân khúc thị trường gạo phục vụ cho chế biến. Nâng cao chất lượng gạo nội
địa để đáp ứng các yêu cầu về sự ưa chuộng của người tiêu dùng, giá trị dinh
dưỡng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Tỷ lệ gạo nội địa được tiêu thụ
dưới hình thức đóng gói (có thương hiệu) sẽ đạt 20% năm 2020 và 35-40% năm
2030 trên tổng lượng gạo tiêu thụ để ăn.
Các giải pháp phát triển thị trường nội địa gồm:
- Đầu tư từ nhà nước (trung ương và địa phương) và doanh nghiệp cho công
tác chọn thuần, nhân giống lúa đặc sản có nguồn gốc bản địa (đặc sản địa
phương) để đủ số lượng hạt giống đạt chất lượng cung cấp cho sản xuất. Đẩy
mạnh công tác chọn tạo và nhân giống lúa thơm, lúa chất lượng cao phù hợp với
thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng. Vùng sản xuất cho từng loại gạo đặc sản
địa phương được xác định cụ thể để đảm bảo gạo cung cấp cho thị trường có tính
ổn định về số lượng và chất lượng.
- Hoàn thiện hệ thống phân phối gạo trong nước; hình thành các trung tâm,
chợ bán buôn tại các vùng sản xuất lúa trọng điểm và đô thị lớn và chuỗi bán lẻ
rộng khắp đến từng địa bàn kể cả địa bàn nông thôn, miền núi.
Đối với thị trường xuất khẩu, định hướng thị trường theo các phân khúc chủ
yếu gồm (i) gạo thơm, gạo đặc sản; phân khúc này chiếm khoảng 25% tổng
lượng gạo xuất khẩu (ii) gạo trắng, hạt dài chất lượng cao, tỷ lệ gạo gãy 5 và 10%
chiếm 40% tổng lượng gạo xuất khẩu (iii) gạo chất lượng trung bình chiếm 25%
tổng lượng gạo xuất khẩu (iv) gạo nếp, gạo đồ và gạo japonica chiếm 15% tổng
lượng gạo xuất khẩu.
Gạo thơm có thị trường rộng lớn tại Trung Quốc, châu Phi và có thể mở
rộng ở thị trường châu Âu, Mỹ và một số nước Đông Nam Á như Mã Lai,
Singapore. Gạo trắng chất lượng cao sẽ có thị trường lớn ở các nước nhập khẩu
truyền thống do tầng lớp trung lưu ngày càng gia tăng. Gạo gạo đồ được ưa
chuộng tại Nam Á, Trung Đông, Nam Mỹ và ngày càng phổ biến tại châu Âu,
Mỹ, Canada và châu Phi. Gạo Japonica có thị trường chính tại Trung Quốc, Hàn

Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Tăng tỷ trọng xuất khẩu ở các phân khúc thị trường này
sẽ giúp đa dạng hóa thị trường gạo xuất khẩu và tăng giá trị xuất khẩu.
`

20


Các giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu gồm:
- Quy hoạch vùng trồng lúa xuất khẩu chính ở đồng bằng sông Cửu Long.
Vùng xuất khẩu chính được đầu tư hoàn thiện toàn diện cơ sở hạ tầng đến tận
cánh đồng (thủy lợi, giao thông, điện, thiết kế đồng ruộng,…) và được hỗ trợ
trong ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa đồng bộ và công nghệ sau thu
hoạch tiên tiến để nâng cao chất lượng lúa gạo và giảm giá thành sản xuất. Đối
với vùng sản xuất lúa thơm cần xác định các địa bàn phù hợp như vùng phù sa
ngọt và vùng ven biển.
- Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển vùng nguyên liệu
bằng cách liên kết với nông dân (trong các tổ chức sản xuất liên kết, tập thể) ở
vùng trồng lúa xuất khẩu để sản xuất lúa theo yêu cầu của doanh nghiệp và được
tiêu thụ với giá thỏa đáng.
- Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị cho sản phẩm gạo Việt Nam; khuyến khích
doanh nghiệp phát triển thị trường mới nhằm khai thác hiệu quả của các cam kết
hội nhập, ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp tới các hệ thống phân phối nước
ngoài, tiếp cận hệ thống bán lẻ tại các thị trường nhập khẩu gạo chất lượng cao và
phát triển hệ thống phân phối tại các thị trường nhập khẩu.
- Chuyển từ buôn bán tiểu ngạch sang chính ngạch với các nước chung biên
giới thông qua các biện pháp thắt chặt quản lý buôn bán tiểu ngạch và khuyến
khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm, ký kết hợp đồng xuất khẩu với các đối
tác đáng tin cậy của nước ngoài.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các khách hàng nhập khẩu gạo lớn và ổn
định, tham gia đầu tư sản xuất - chế biến gạo tại Việt Nam, góp phần đảm bảo

đầu ra cho các vùng sản xuất lúa xuất khẩu chính.
- Xây dựng kho ngoại quan tại các thị trường chủ lực (như Philippines,
Indonesia, châu Phi) trong khuôn khổ được phép.
- Hạn chế tối đa các biện pháp quản lý xuất khẩu làm méo mó, gián đoạn thị
trường như tạm dừng xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu, trợ giá,...
- Tăng cường năng lực nghiên cứu phân tích, dự báo và cung cấp minh bạch
thông tin thị trường để các tác nhân trong ngành lúa gạo chủ động ra quyết định
sản xuất kinh doanh. Xây dựng hệ thống thông tin tự động về tình hình xuất nhập
khẩu lúa gạo của thị trường Việt Nam và thế giới, kết nối các tổ chức liên quan.
Điện tử hóa hệ thống thông tin, chứng từ xuất nhập khẩu để quản lý thanh toán,
giao dịch, tồn kho. Rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận sức khỏe (health
`

21


certificate). Thay đổi quy định đăng ký hợp đồng xuất khẩu tại VFA bằng hệ
thống thông tin điện tử để giảm thủ tục hành chính.
- Trong từng thời kỳ, tiến hành rà soát các chính sách quản lý nhà nước về
xuất khẩu gạo để điều chỉnh cho sự phù hợp với sự phát triển của đất nước và hội
nhập thế giới.
5.4. Bảo vệ tài nguyên và môi trường trong sản xuất lúa và bảo vệ di sản
lúa gạo
Bảo vệ tài nguyên và môi trường là hai nhiệm vụ quan trọng trong phát triển
bền vững ngành lúa gạo. Các hoạt động chủ yếu gồm bảo vệ nguồn nước, độ phì
của đất và đa dạng sinh học của hệ sinh thái lúa nước, và giảm thiểu tác động của
sản xuất lúa gây ra ô nhiễm, suy thoái môi trường.
5.4.1. Bảo vệ tài nguyên
(i) Bảo vệ nguồn nước
- Vận động sự ủng hộ quốc tế và kết hợp ngoại giao nhân dân để đẩy mạnh

hợp tác với các nước thượng nguồn sông Mê kông để không gây tác hại đến dòng
chảy tự nhiên của sông làm ảnh hưởng đến môi trường, sản xuất nông nghiệp và
sinh kế của người dân các nước trong lưu vực sông. Vận động sự minh bạch
thông tin về hoạt động sử dụng nguồn nước sông Mê Kông của các nước thượng
nguồn.
- Đối với ĐBSCL, cần hoàn thiện quy hoạch thủy lợi toàn vùng và áp dụng
chính sách quản lý thuỷ lợi để điều tiết hợp lý việc sử dụng nguồn nước giữa các
tỉnh, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng và hài hòa giữa các mục tiêu sử dụng
nước, đặc biệt giữa sản xuất lúa và nuôi trồng thủy sản. Đối với ĐBSH, cần nâng
cấp hệ thống thủy lợi và hệ thống trạm bơm để đảm bảo tưới, tiêu chủ động; điều
tiết hợp lý việc xả nước từ các công trình thủy điện phục vụ cho sản xuất lúa. Ở
các tỉnh miền Trung, Đông Nam Bộ, Tây nguyên và Trung du miền núi phía Bắc,
tiến hành rà soát các vùng sản xuất thiếu nước và vùng cần dự trữ nước cho mùa
khô. Tại các vùng này, trên cơ sở cân đối quỹ nước tưới lúa với các cây trồng khác,
bố trí hợp lý diện tích gieo trồng lúa với các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác;
ưu tiên nâng cấp, xây dựng mới hệ thống hồ đập để chứa ngọt trong mùa mưa;
phát triển hệ thống thủy lợi nhỏ ở các cánh đồng nhỏ, cánh đồng thung lũng, ruộng
bậc thang.
- Đảm bảo việc trồng và bảo vệ rừng theo quy định của pháp luật để giữ
nguồn nước .
`

22


- Thực hiện các biện pháp kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sử dụng nước như
thiết kế đồng ruộng gắn với hoàn thiện kênh mương nội đồng và hệ thống bơm
điện, bằng mặt ruộng, tưới tiết kiệm, mở rộng kích thước thửa ruộng, cải tiến hệ
thống sản xuất trên đất lúa và mùa vụ sản xuất lúa.
- Nâng cao năng lực quản lý nước cộng đồng ở các cánh đồng lớn, hợp tác

xã…
- Áp dụng phí sử dụng nước trong sản xuất nông nghiệp để tăng ý thức sử
dụng nước tiết kiệm; chuyển kinh phí hỗ trợ thủy lợi phí sang kinh phí xây dựng,
bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thủy lợi.
(ii) Bảo vệ tài nguyên đất
Tài nguyên đất cần được bảo vệ để giữ và tôn tạo độ phì, ngăn chận sự suy
thoái độ phì, xói mòn rửa trôi đất.
- Khi chuyển đổi đất lúa cho các mục tiêu phi nông nghiệp, tránh lấy đất lúa
có độ phì cao và hệ thống thủy lợi tốt, năng suất lúa cao; khi phải chuyển đổi thì
ngoài mức bồi hoàn thông thường, phải tính chi phí đã đầu tư cho hệ thống thủy
lợi và cơ sở hạ tầng khác trên đất lúa đó.
- Ở những vùng đất dốc, đồi núi, áp dụng các quy định kỹ thuật chặt chẽ
trong xây dựng các công trình thủy điện, sản xuất công nghiệp, … (như trồng
rừng thay thế, xây dựng ruộng bậc thang, xây dựng bờ chắn...), để giảm thiểu xói
mòn và gây ô nhiễm đất.
- Ngăn chặn tình trạng gia tăng đất nhiễm mặn ở các vùng ven biển bằng
trồng rừng ngập mặn, xây dựng hệ thống đê ngăn mặn, hệ thống cống điều tiết
nước mặn, ngọt để phục vụ nuôi trồng thuỷ sản (tôm) trong mùa khô và sản xuất
lúa trong mùa mưa. Ngăn chận việc tự phát đưa nước mặn vào vùng ngọt hóa,
không theo quy hoạch sản xuất thủy sản.
- Tuyên truyền phổ biến áp dụng các biện pháp kỹ thuật bảo vệ đất như
trồng cây che đất, tăng sử dụng phân bón hữu cơ
(iii) Bảo vệ đa dạng sinh học
- Bảo vệ tính đa dạng của nguồn gen giống lúa thông qua việc thu thập, đánh
giá và bảo tồn quỹ gen giống lúa tại Ngân hàng gen cây trồng quốc gia để khai
thác và sử dụng lâu dài và gia tăng tính đa dạng về di truyền của các giống lúa sử
dụng trong sản xuất thông qua chọn tạo giống, chọn thuần và sản xuất các giống
lúa đặc sản địa phương có giá trị thương mại cao.
`


23


- Bảo vệ đa dạng sinh học trong hệ sinh thái lúa nước thông qua các hoạt
động nhằm giảm thiểu tác động của thâm canh lúa đến các loài sinh vật có lợi
trong ruộng lúa, áp dụng các giải pháp thu hút tăng quần thể thiên địch ở ruộng
lúa…
5.4.2. Bảo vệ môi trường
- Xây dựng và giám sát các quy định về hạn chế ô nhiễm môi trường trong
sản xuất, bảo quản và chế biến lúa gạo.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn nông dân áp dụng các quy trình thực
hành tốt trong sản xuất lúa, đặc biệt sử dụng tiết kiệm phân bón, hạn chế sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật để giảm ô nhiễm môi trường sinh thái, giảm phát thải khí
gây hiệu ứng nhà kính và đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của gạo.
- Tăng cường quản lý nhà nước về chất lượng vật tư nông nghiệp, ngăn chận
việc kinh doanh, sử dụng vật tư độc hại, không rõ nguồn gốc nằm ngoài danh
mục được phép.
- Ngăn chận các chất thải công nghiệp xâm nhập vào ruộng lúa ở những
vùng sản xuất gần đô thị, khu công nghiệp.
5.4.3. Bảo tồn di sản văn hóa lúa gạo
- Tôn tạo và phát huy giá trị cảnh quan của các vùng sản xuất lúa gạo mang
tính đặc trưng riêng ở ĐBSCL, ĐBSH và các vùng trồng lúa ở trung du, miền
núi. Xây dựng các khu vực ruộng bậc than gắn với du lịch cảnh quan và văn hóa
ở các vùng này.
- Khai thác và phát triển các giá trị tinh thần trong sản xuất lúa gạo, gồm các
giá trị vật thể gắn liền với sản xuất lúa như các công trình kiến trúc, công cụ lao
động của người trồng lúa…; các giá trị phi vật thể như ẩm thực, âm nhạc, các hoạt
động lễ hội…; và các hình thức du lịch trải nghiệm tham gia vào các hoạt động sản
xuất lúa gạo; từ đó tạo ra sự gắn kết cộng đồng trong nước và quốc tế với những
giá trị tinh thần của sản xuất lúa gạo.

- Quảng bá các sản phẩm lúa gạo gắn với bản sắc văn hóa vùng, miền nhằm
tăng thêm thu nhập cho nông dân và cộng đồng địa phương để họ yên tâm sản
xuất các sản phẩm lúa gạo truyền thống và bảo tồn, canh tác các giống lúa đặc
sản địa phương có chỉ dẫn địa lý.
5.5. Vấn đề giới trong sản xuất lúa
- Đẩy mạnh cơ giới hoá trong sản xuất lúa để giảm nhẹ lao động nặng nhọc
cho nữ giới nhất là khâu cấy lúa, phơi lúa và thu hoạch.
`

24


×