Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Một số biện pháp xử lý – cải tạo ao nuôi và kiểm soát chất lượng môi trường nước trong ao nuôi thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.58 KB, 21 trang )

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Tổng cục Thủy sản
Trung tâm Thông tin Thủy sản

CHUYÊN ĐỀ:
“Một số biện pháp xử lý – cải tạo ao nuôi và kiểm soát
chất lượng môi trường nước trong ao nuôi thủy sản”

Người thực hiện: Trần Xuân Điểm

Năm 2013

1


MỤC LỤC
1. Giới thiệu chung ............................................................................................................. 1
1.1. Nuôi trồng thủy sản ..................................................................................................... 1
1.2. Thiệt hại do dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản ....................................................... 1
1.3. Vai trò của công tác xử lý – cải tạo ao nuôi và kiểm soát chất lượng môi trường nước
trong ngăn ngừa, giảm thiểu dịch bệnh thủy sản ............................................................... 1
2. Một số biện pháp xử lý – cải tạo ao nuôi thủy sản ......................................................... 2
2.1. Các biện pháp xử lý ao chung ..................................................................................... 2
2.1.1. Chuẩn bị ao nuôi ...................................................................................................... 2
2.1.2. Xử lý nước ................................................................................................................ 3
2.1.3. Sử dụng chế phẩm sinh học...................................................................................... 4
2.1.4. Kỹ thuật cải tạo ao đầm sau lũ ................................................................................ 4
2.2. Các biện pháp xử lý ao nuôi tôm ................................................................................ 5
2.2.1. Cải tạo đáy ao ........................................................................................................... 5
2.2.2. Xử lý nước trong ao nuôi tôm .................................................................................. 5
2.2.2.1. Diệt tạp .................................................................................................................. 5


2.2.2.2. Diệt trùng............................................................................................................... 5
2.2.2.3. Bón phân gây màu ................................................................................................. 6
2.2.3. Xử lý ao nuôi tôm bị bệnh ....................................................................................... .7
2.3. Các biện pháp xử lý ao nuôi cá ................................................................................... .7
2.3.1. Cải tạo đáy ao ........................................................................................................... .7
2.3.2. Xử lý nước ................................................................................................................ 7
3. Một số biện pháp quản lý chất lượng nước trong ao nuôi thủy sản ............................... 8
3.1. Kiểm soát nguồn nước ................................................................................................ 8
3.2. Kiểm soát các loài tảo độc trong ao ............................................................................ 8
3.2.1. Tảo giáp .................................................................................................................... 10
3.2.2. Tảo khuê ................................................................................................................... 10
3.2.3. Tảo lục ...................................................................................................................... 10
3.2.4. Tảo mắt ..................................................................................................................... 10
3.2.5. Tảo lam ..................................................................................................................... 11
3.3. Kiểm soát độ pH trong ao ........................................................................................... 13
3.4. Nồng độ Oxy trong nước............................................................................................. 14
2


3.5. Đảm bảo nhiệt độ nước ............................................................................................... 15
3.6. Kiểm soát lượng thức ăn trong môi trường nước ........................................................ 15
3.7. Xử lý nước thải ao nuôi thủy sản ................................................................................ 17
4. Kết luận .......................................................................................................................... 17
Danh mục tài liệu tham khảo.............................................................................................. 18

3


1. Giới thiệu chung
1.1. Nuôi trồng thủy sản

Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Thuỷ sản đóng
vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho con người. Thực phẩm thuỷ sản có giá
trị dinh dưỡng cao rất cần thiết cho sự phát triển của con người. Không những thế nó còn là
một ngành kinh tế tạo công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng
nông thôn và ven biển. Không những là nguồn thực phẩm, thuỷ sản còn là nguồn thu nhập
trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận dân cư. Theo ước tính có tới 150 triệu người trên thế
giới sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào ngành thuỷ sản .
Thuỷ sản là ngành xuất khẩu mạnh của Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản hàng
năm đã mang về cho ngân sách nhà nước một khoản ngoại tệ lớn. Các sản phẩm được xuất
khẩu ra nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam nói
chung và ngành thuỷ sản Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.
Nuôi trồng thuỷ sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng
hoá chủ lực, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước ta, hướng
đến mục tiêu xây dựng các vùng sản xuất tập trung mang lại năng suất cao và giá trị lớn. Các
đối tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu đã được tập trung đầu tư, khuyến khích phát
triển và mang lại hiệu quả tốt. Phát triển ngành nuôi trồng thủy sản không chỉ phuy được tiềm
năng tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và ngư dân mà nuôi
trồng thủy sản còn góp phần hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp cũng như thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các vùng miền của đất nước.
1.2. Thiệt hại do dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Dịch bệnh là một trong những bài toán nan giải đối với tất cả các trang trại, các hộ
nuôi trồng thủy sản trên toàn thế giới. Chúng không chỉ tác động đến sức khỏe và sản lượng
các loài thủy sản được nuôi mà nghiêm trọng hơn, dịch bệnh còn gây ra một khoản thiệt hại
lớn về kinh tế, không chỉ cho các hộ nuôi mà còn ảnh hưởng tới ngân sách chính phủ khi phải
khống chế và ngăn chặn dịch bệnh. Do vậy, kiểm soát được dịch bệnh sẽ giúp người nuôi
trồng thủy sản có được lợi thế cạnh tranh rất lớn khi đảm bảo được sản lượng và mức độ an
toàn trong các sản phẩm nông sản của mình. Nhờ những thay đổi đơn giản trong công tác
quản lý, các trại nuôi có thể dễ dàng kiểm soát được sự bùng phát và lây lan dịch bệnh trên
các ao nuôi của mình.
1.3. Vai trò của công tác xử lý – cải tạo ao nuôi và kiểm soát chất lượng môi trường

nước trong ngăn ngừa, giảm thiểu dịch bệnh thủy sản
Theo Tổng cục Thủy sản, mỗi năm, ngành thủy sản nước ta mất hàng nghìn tỷ đồng vì
dịch bệnh. Do vậy, công tác phòng chống dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản là một khâu
then chốt, góp phần quyết định sự thành bại của vụ nuôi. Trong những năm vừa qua, dịch
bệnh liên tục xảy ra ở một số vùng nuôi thủy sản tập trung ở nước ta. Do đó, công tác phòng,
chống dịch càng phải được quan tâm, chú ý. Bên cạnh nguyên nhân chủ yếu do chất lượng
con giống, môi trường nước trong ao nuôi thủy sản cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
tình hình dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Các loài thủy sản hoàn toàn sống trong môi trường nước. Do chúng hoàn toàn phụ
thuộc vào môi trường nước để thở, ăn, phát triển, bài tiết chất thải, nên việc duy trì sự cân
bằng các yếu tố lý - hóa của nước là điều kiện rất quan trọng để nuôi trồng thủy sản thành
công. Nói cách khác, chất lượng nước ao nuôi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự
thành công hay thất bại của hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Trong những năm qua, việc phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là mô hình thâm
canh đã mang lại thu nhập lớn cho bà con nông dân, song cũng làm suy giảm chất lượng
4


nước, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Số liệu quan trắc ở các ao, đầm nuôi cho thấy
nồng độ các chất ô nhiễm như oxy sinh hóa (BOD5), oxy hóa học (COD), tổng lượng chất rắn
lơ lửng (TSS), đạm tổng số (TKN), H2S, NH3, tổng số Coliform, ... vượt xa mức cho phép của
tiêu chuẩn Việt Nam. Nước ô nhiễm cũng đã dẫn đến sự gia tăng nguồn bệnh chính cho người
và thủy sản. Vì vậy, việc xử lý nước trong quá trình nuôi trồng thủy sản có ý nghĩa rất quan
trọng.
2. Một số biện pháp xử lý – cải tạo ao nuôi thủy sản
2.1. Các biện pháp xử lý ao chung
2.1.1.Chuẩn bị ao nuôi
Người nuôi có thể sử dụng ao mới đào hoặc tận dụng ao cũ với hệ thống cấp và thoát
nước chủ động. Bờ ao phải vững chắc tránh bị sạt lở và không bị ngập nước vào mùa lũ. Đối
với ao mới xây dựng đưa vào nuôi lần đầu, cần san bằng nền đáy, thay nước vài lần cho hết

nước chua, dùng vôi (Ca(OH)2) để vệ sinh, khử chua nền đáy. Đối với ao đã nuôi thủy sản,
sau mỗi vụ nuôi, có nhiều chất thải tồn đọng ở đáy ao. Do vậy, sau mỗi vụ nuôi, cần tháo cạn
nước ao, nạo vét bớt lớp bùn đen ở đáy ao, chỉ để lại lớp bùn đáy dày từ 15 – 20cm, đồng thời
gia cố, sửa chữa bờ ao; bón lót phân và vôi bột. Vôi có tác dụng làm thay đổi tính lý, hoá học
của ao. Bón vôi còn có tác dụng diệt trùng, loại bỏ các mầm bệnh có sẵn trong ao. Sau khi
bón vôi, phơi nắng ao từ 2-3 ngày để khử phèn và diệt mầm bệnh. Ao bị nhiễm phèn không
nên phơi nắng lâu tránh hiện tượng nứt nẻ đất gây xì phèn đáy ao; bước cuối cùng là cho
khoảng 50-60cm nước vào rồi bón phân gây màu nước. Chú ý, với ao nuôi đã bị nhiễm bệnh
từ vụ trước, cần giữ nước trong ao và xử lý bằng chlorine, formol và benzalkonium chloride
hoặc sử dụng thuốc thành phẩm có bán trên thị trường dùng để chuyên diệt vi khuẩn, virus,
nấm và một số ngoại ký sinh trùng, bào tử trước khi xả nước và nạo vét đáy ao.
Đối với ao nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, công tác dọn tẩy ao nuôi có thể được
thực hiện theo 2 phương pháp: dọn tẩy khô và dọn tẩy ướt. Trong phương pháp dọn tẩy khô,
lớp bùn đáy sau khi được phơi khô sẽ được dọn bỏ bằng cơ giới hay bằng tay. Phương pháp
dọn tẩy ướt được thực hiện bằng cách dùng máy bơm nước áp lực mạnh để rửa trôi lớp bùn
đáy còn ướt.
Phương pháp dọn tẩy khô
Thời gian dọn tẩy

Lâu và không làm được trong
mùa mưa

Hiệu qủa dọn bỏ chất
Không ổn định
thải
Dọn tẩy chất thải trong
Không ổn định
nền cát

Phương pháp dọn tẩy ướt

Nhanh chóng và làm được mọi lúc
Tốt
Tốt

Dạng chất thải

Rắn, dễ làm

Bùn lỏng, khó làm

Đất phèn

Phải thực hiện cẩn thận

Ao ít bị xì phèn

Khả năng tẩy trùng

Tốt

Cần bón thêm vôi

Thu gom chất thải

Cần có chổ đổ

Cần có ao lắng bùn

Đối với ao nuôi dạng mương trảng, vật chất hữu cơ thường lắng tụ nhiều trong mương
bao nên việc dọn tẩy đáy ao được thực hiện bằng cách sên vét bùn đáy mương bao và phơi

trảng kết hợp với bón vôi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân huỷ hữu cơ tự nhiên trên
trảng.

5


Nên hạn chế lượng vôi bón vào giai đoạn chuẩn bị ao bởi vì vôi sẽ được bón thêm
trong quá trình nuôi. Việc bón vôi quá liều gây nên hiện tượng pH cao kéo dài trong quá trình
nuôi và rất khó điều chỉnh trong ao nuôi ít thay nước. Bón vôi nhiều trong quá trình cải tạo ao
sẽ làm giảm tác dụng của Chlorin khi khử trùng nước ao hoặc làm tăng độ độc của sản phẩm
tạo thành từ thuốc tím (dioxyt mangan MnO2) đối với vật nuôi trong ao nếu sử dụng thuốc tím
(KMnO4) để khử trùng nước.
2.1.2. Xử lý nước
Yếu tố quyết định thành công trong nuôi thủy sản phải kể trước tiên đó là nguồn nước.
Nhiều yếu tố hóa học và môi trường tiêu cực liên quan trực tiếp tới nguồn nước sử dụng trong
nuôi thủy sản. Các nguồn nước được sử dụng phổ biến nhất cho nuôi trồng thủy sản là nước
giếng, nước suối, sông, hồ, nước ngầm và nước sinh hoạt. Trong số những nguồn nước kể
trên, nguồn nước an toàn nhất cho nuôi trồng thủy sản chính là nước bơm trực tiếp từ giếng
hoặc suối vào trong ao nuôi. Nước đã qua xử lý từ các ao nuôi khác ít có khả năng gây ra
những dịch bệnh mới, song lại tiềm ẩn mầm bệnh đã xảy ra ở các ao nuôi trước đó do cá hoặc
các loài vật chủ trung gian tồn tại trong nguồn nước được tái sử dụng. Nước sông là nguồn
nước không phù hợp nhất cho nuôi trồng thủy sản bởi nó tiềm ẩn nhiều dịch bệnh lạ, chưa
xuất hiện ở các ao nuôi thủy sản trước đó. Nếu buộc phải sử dụng nước sông, người nuôi nên
xử lý nước thật kỹ, sau đó đưa nước vào ao ít nhất là 21 ngày trước khi tiến hành thả nuôi.
Cách này sẽ giúp tiêu diệt các sinh vật mang mầm bệnh còn tồn tại trong nước (làm gián đoạn
chu kỳ sống của vi khuẩn do không có sinh vật chủ sinh sống trong một khoảng thời gian). Có
thể sử dụng các thiết bị xử lý nước chuyên dụng như sử dụng ozone và khử trùng tia cực tím
để xử lý nước sông trước khi nuôi thủy sản. Tuy nhiên, công nghệ này có giá thành cao và chỉ
mang lại hiệu quả kinh tế khả thi khi áp dụng cho các mặt hàng có giá trị cao.
Nước được lấy vào ao qua hệ thống túi lọc mịn làm bằng vải để ngăn chặn ấu trùng và

con non của các sinh vật khác xâm nhập vào ao nuôi. Chúng có thể là những vật chủ trung
gian mang mầm bệnh hoặc cạnh tranh thức ăn với các đối tượng nuôi trong ao. Nếu việc ngăn
chặn sinh vật khác bằng túi lọc không thực hiện được, bắt buộc phải dùng hoá chất để tiêu
diệt chúng. Hoá chất dùng phổ biến nhất là Chlorin do ưu điểm của nó là tiêu diệt được cả
động vật có xương sống và không xương sống.
Nước dùng trong nuôi trồng thủy sản hiện nay thường chứa nhiều tác nhân gây bệnh.
Chính vì vậy, việc xử lý và quản lý nguồn nước được người nuôi đặt lên hàng đầu. Để xử lý
nước trước khi đưa vào nuôi trồng thủy sản, có thể áp dụng một trong số các biện pháp sau:
Phương pháp cơ học: Đưa nước vào ao chứa để lắng lọc (có thể sử dụng lục bình, rau
muống; bèo tây, thả một ít cá ăn lọc...) hay cho nước chảy qua các bể lọc xuôi hoặc ngược (sử
dụng than hoạt tính, cát, đá nhỏ), để loại bỏ các chất hữu cơ lơ lửng có trong nước. Đây là
hình thức lọc thô, chủ yếu là lọc làm trong nước, mà thường bám trên các chất hữu cơ lơ lửng
đó có nhiều tác nhân khác nhau như vi khuẩn, nấm, nguyên sinh động vật, cho nên muốn tiêu
diệt các loại tác nhân gây bệnh này phải kết hợp với các phương pháp khác.
Phương pháp vật lý: Dùng đèn cực tím để sát trùng nước. Dùng đèn cực tím để kìm
hãm vi khuẩn và nấm tốt hơn so với dùng các loại hóa chất diệt khuẩn và diệt nấm. Hiệu quả
tiệt trùng của tia cực tím trong nước phụ thuộc rất lớn vào các hạt vật chất hữu cơ lơ lửng có
trong nước và màu sắc tự nhiên của nước biển. Người ta khuyến cáo rằng có thể dùng phương
pháp lọc cơ học trước khi sát trùng nước bằng đèn cực tím thì hiệu quả sẽ cao hơn.
Phương pháp hóa học: Đây là phương pháp dùng các loại thuốc sát trùng khác nhau
cho vào nguồn nước để tiêu diệt mầm bệnh thông qua các phản ứng oxy hóa - khử, như dùng
Iodine, chlorine, thuốc tím, formol... Phương pháp này có tác dụng diệt trùng khá tốt nhưng
dư lượng của hóa chất có thể ảnh hưởng xấu tới điều kiện môi trường và sức khỏe vật nuôi.
Ngoài ra, các chất diệt trùng có thể tiêu diệt luôn cả hệ vi sinh vật có lợi trong nguồn nước và
6


quan trọng là ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe con người, đặc biệt là người đang làm việc
trực tiếp trong nuôi trồng thủy sản.
Phương pháp sinh học: Phương pháp này thường áp dụng trong các hệ thống nuôi

tuần hoàn và bán tuần hoàn. Nước đã sử dụng có thể được làm sạch nhờ sự tồn tại và phát
triển của một số vi sinh vật (thường là vi khuẩn) có lợi như Nitrobacter có khả năng sử dụng
nitơ thừa và cạnh tranh chỗ, chúng kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh tồn tại
trong môi trường nước trước khi nguồn nước này được tái sử dụng.
Phương pháp sinh thái: Dựa vào nhu cầu sinh thái của từng loại tác nhân gây bệnh mà
có thể sử dụng phương pháp sinh thái để tiêu diệt chúng. Ví dụ, trong trại sản xuất tôm sú
giống, để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh phát sáng (vibrrio harvyei,
V.parahaemolyticus...) có thể giảm độ mặn xuống <20%o bắt đầu vào cuối giai đoạn mysis,
đầu giai đoạn postlarvae. Ở độ mặn thấp, một số loài vi khuẩn gây bệnh phát sáng có thể bị
kìm hãm phát triển, nên khi mật độ vi khuẩn thấp, bệnh sẽ không xảy ra. Trong các ao chứa
nước dùng cho nuôi tôm sú thương phẩm, nếu ta dùng hóa chất diệt hết giáp xác tự nhiên là
các sinh vật mang virus gây bệnh đốm trắng (WSBV) của tôm sú, sau 4 - 5 ngày người nuôi
có thể yên tâm là trong nguồn nước cấp vào ao nuôi sẽ không có virus đốm trắng, vì ở trạng
thái tự do WSBV không tồn tại được lâu.
2.1.3. Sử dụng chế phẩm sinh học
Chế phẩm sinh học giúp hỗ trợ các vi sinh vật có lợi sinh sôi, phát triển nhanh chóng,
qua đó giúp phân hủy các chất hữu cơ trong nước; Giảm các chất độc trong nước (khí NH3 ,
H2S .. ) làm giảm mùi hôi trong nước, giúp tôm, cá phát triển tốt; Nâng cao khả năng miễn
dịch cho tôm, cá; Ức chế sự phát triển của vi sinh vật có hại; Giúp ổn định độ pH nước, ổn
định màu nước, tăng lượng oxy hòa tan trong nước. Không những vậy, chế phẩm sinh học còn
giúp nâng cao hiệu quả kinh tế, gia tăng giá trị cho sản phẩm.
2.1.4. Kỹ thuật cải tạo ao đầm sau lũ
Mưa lũ không chỉ cuốn trôi tôm cá mà còn để lại hậu quả xấu đối với môi trường ao
nuôi. Cải tạo ao đầm sau bão lũ đúng kỹ thuật sẽ giúp việc tái sản xuất được thuận lợi hơn. Do
bị ngập trong nước lũ nên ao đầm nuôi cá tôm sẽ bị đọng lại lớp bùn dày đặc, nước trong ao
đầm sẽ bị ngọt hóa. Đây là hai vấn đề cần phải giải quyết triệt để trong quá trình chuẩn bị ao
cho vụ nuôi mới.
Đầu tiên cần vớt hết rác, bèo nổi trên mặt ao. Dùng bơm bơm cạn nước ao. Khi ao đã
được bơm cạn tiến hành hút bùn loãng và sên vét đáy ao cho sạch. Lớp bùn này là nơi chứa
nhiều chất độc hại, chất thải, thậm chí là nơi ẩn chứa mầm bệnh. Sau khi sên vét, đáy ao cần

được phơi nắng 5 - 7 ngày để giúp đáy ao được khoáng hóa, phân hủy các chất độc còn tồn
đọng. Dùng vôi (CaO, Ca(OH)2) rải đáy và bờ ao để diệt tạp và mầm bệnh, trung hòa độ pH.
Nếu đáy ao có nhiều mùi hôi, bùn đen thì có thể dùng Cloramin để diệt khuẩn, sau đó thau rửa
ao nhiều lần. Đối với những ao tôm lót bạt thì cần kiểm tra và xử lý những chỗ bạt rách, bạt
phồng. Cọ rửa vệ sinh bạt trước khi cấp nước vào ao.
Sau mưa lũ, cá nuôi cũng thường hay mắc một số loại bệnh nên người nuôi cũng cần
phải phải chủ động phòng trị bệnh cho cá: Cá nuôi ở những vùng bị ngập lụt thường mắc các
bệnh như: xuất huyết do nhiễm virus, đốm đỏ do vi khuẩn gây hại, trùng bánh xe, sán lá gan.
Do vậy, trong quá trình nuôi, cần chủ động phòng ngừa. Ngoài ra, trong các ao nuôi cá sau
ngập lụt thường xuất hiện nhiều loại cá tạp từ nơi khác đến, đồng thời cá nuôi cũng bị cuốn
trôi đi nơi khác. Số cá còn lại sống trong môi trường nước bị ô nhiễm, thiếu thức ăn, nguy cơ
đối diện với dịch bệnh. Vì vậy, cần kiểm tra, tuyển chọn lại đàn cá và bổ sung cá giống. Đối
với cá được chọn để nuôi lại, nhất thiết phải tẩy trùng trước khi thả sang ao khác. Đối với cá
giống thả bổ sung, chọn cá không bị nhiễm bệnh, khỏe mạnh, bảo đảm kích cỡ.
7


2.2. Các biện pháp xử lý ao nuôi tôm
2.2.1. Cải tạo đáy ao
Ao nuôi tôm sau mỗi vụ cần cải tạo theo các bước sau: Vét bớt lớp bùn trong ao; Sử
dụng oxy già (H2O2) pha với nước ao (xả bớt nước, chỉ để lại khoảng 30 – 40 cm) để loại bỏ
các chất hữu cơ. Sau đó xả hết nước trong ao, tiếp tục lấy nước vào ao khoảng 30 – 40 cm để
sử dụng chế phẩm sinh học phân hủy nốt các chất hữu cơ còn lại. Rải vôi khắp đáy ao và bờ
ao, liều lượng 20 - 50 kg/1000m2 (Tùy thuộc vào độ pH và độ phèn của ao bón cho phù hợp).
Sau khi dọn sạch chất thải trong ao, dùng vôi tăng độ kiềm, khử phèn trong đất và
nước, diệt tạp, sát khuẩn bờ ao, đáy ao, làm trong nước, giảm CO2, phân hủy mùn bã đáy ao,
tạo môi trường kiềm giúp tôm cứng vỏ...
Vôi bao gồm các loại:
- Vôi nông nghiệp CaCO3: Là dạng đá vôi, vỏ sò, san hô được xay nhuyễn thành bột.
Vôi nông nghiệp làm tăng pH đất nhưng ít tăng pH nước nên dùng tốt trong cải tạo ao.

- Vôi tôi Ca(OH)2: Dùng cải tạo ao, tăng pH đất và có ảnh hưởng lớn đến pH nước nên sử
dụng chủ yếu để cải tạo ao, nhất là khi pH đất < 5.
- Đá vôi, vôi sống CaO: Có tác dụng tăng pH mạnh nên chỉ dùng cải tạo ao, không dùng
cho ao đang nuôi tôm.
- Vôi đen Dolomite CaMg(CO3)2: Nguồn gốc từ đá vôi đen Dolomite có khoảng 4%
magiê nên có tác dụng tăng hệ đệm trong ao nuôi tôm mà ít ảnh hưởng đến pH của môi
trường, thường được sử dụng đối với những ao có độ kiềm thấp. Tuy nhiên, do giá thành
cao nên loại vôi này ít được sử dụng. Liều lượng sử dụng thường là 200 kg/ha. Rải vôi đều
khắp đáy ao và bờ ao, rải nhiều hơn ở những chỗ còn nước hoặc còn vết bùn đen (Tùy
thuộc vào từng loại vôi và pH đất, môi trường đáy ao mà có liều lượng sử dụng phù hợp).
Sau khi cải tạo ao, cần xử lý hóa chất bằng cách: Lấy nước vào ngâm 1 - 2 ngày, mực
nước 1,2m sục khí để trứng cá, trứng tôm nở, một số nơi bà con thường sử dụng nước giếng
ngầm, trong nước có kim loại nặng nên xử lý EDTA liều lượng 3 - 5 ppm. Xử lý Chlorin
(ngày thứ 3) liều lượng 25 - 30 ppm, pH thấp hiệu quả tốt. Chlorin không cho hiệu quả cao
trong môi trường nước đục, nhiều chất hữu cơ lơ lửng. Nếu muốn gây màu nước sớm và an
toàn cho tôm giống thả, sau 24h xử lý cần loại bỏ Chlorin tự do dư thừa bằng ThioSunfat
(Na2S2O3.5H2O) liều lượng 10 - 15 ppm, hòa tan rải đều chạy quạt nước. Xử lý Saponin (ngày
thứ 5) liều lượng 10 - 15 kg/1000m3. Gây nuôi động vật phù du, màu nước (ngày thứ 7).
Sinh vật phù du phát triển sẽ giảm các chất có hại trong ao, không gây sốc cho tôm. Đến ngày
thứ 9, ổn định môi trường nuôi. Sau khi kiểm tra tổng thể các yếu tố môi trường và xử lý vi
sinh, có thể thả tôm kể từ ngày thứ 15 trở đi.
2.2.2. Xử lý nước trong ao nuôi tôm
Sau khi lấy nước vào ao đủ yêu cầu, cần xử lý nước trước khi thả giống với các loại
hoá chất và phân bón sau:
2.2.2.1. Diệt tạp:
Saponin: Có nhiều trong bã hạt trà, là chất độc đối với cá nhưng không gây tác hại trên
các loài giáp xác nên được dùng để diệt cá tạp trong ao nuôi tôm. Saponin sẽ giảm độc tính
nhanh trong điều kiện ánh sáng mạnh hoặc trời nắng và độc tính của saponin sẽ tỷ lệ nghịch
với độ mặn của nước trong ao nuôi tôm. Cách dùng: Trước khi sử dụng, ngâm saponin vào
nước 12-24 giờ sau đó rải đều vào ao. Sử dụng vào buổi sáng (8-10 giờ) khi thời tiết tốt. Liều

lượng từ 70-100 kg/ha (nếu độ mặn >200/00) và 100-170 kg/ha (nếu độ mặn <200/00).
2.2.2.2. Diệt trùng:
Sử dụng một trong các loại hoá chất sau:
8


- Thuốc tím (KMnO4): Là một trong những hóa chất được sử dụng khá phổ biến trong
nuôi trồng thủy sản, có khả năng oxy hóa chất hữu cơ, vô cơ và diệt vi khuẩn nên được
dùng nhiều trong cải tạo ao nuôi tôm. Ngoài ra thuốc tím còn có tác dụng tăng hàm lượng
oxy trong nước, giảm chất hữu cơ trong ao nuôi. Cách dùng: Khi cải tạo ao sử dụng từ 20 50kg/ha, tạt đều khắp ao và để ít nhất sau 24 giờ mới tiến hành gây màu nước.
- Formol: Là hóa chất khử trùng mạnh. Bằng cách làm đông cứng protein formol có tác
dụng diệt khuẩn với hầu hết các loại sinh vật như nấm, vi khuẩn, ngoại ký sinh trùng nên
được dùng diệt khuẩn trong quá trình cải tạo ao. Cách dùng: Tạt đều xuống ao với liều
lượng khoảng 300 lít/ha.
- BKC (Benzalkonium Chlorinde): Là chất độc đối với vi khuẩn, virus, nấm và một số
ngoại ký sinh trùng, hiệu quả nhanh hơn Formol. BKC cũng có thể diệt được các bào tử.
Cách dùng: Liều lượng sử dụng khi cải tạo ao là 3-5 ppm (30-50 kg/ha).
- Chlorine: Là hợp chất oxy hóa mạnh, có tính độc đối với tất cả các sinh vật, có thể diệt
tất cả các vi khuẩn, virút, tảo, phiêu sinh động vật trong môi trường nước. Trong môi
trường nước mặn, lợ Chlorine hiện diện dưới hai dạng HOCl và OCl- ; HOCl độc đối với
sinh vật gấp một trăm lần OCl-. Khi pH môi trường thấp, dạng HOCl chiếm ưu thế, ngược
lại khi pH môi trường cao, OCl- chiếm ưu thế. Vì thế, trong môi trường có pH thấp
Chlorine có hiệu quả cao hơn môi trường có pH cao. Cách dùng: Liều lượng từ 20 - 30
ppm (200 - 300 lít/ha). Khi sử dụng, hoà Chlorine vào nước ngọt, lọc qua lưới rồi té đều
khắp ao.
- Iodine: Iodine giống Chlorine là một chất oxy hóa mạnh có thể diệt các sinh vật, vi
khuẩn. Tuy nhiên, dung dịch Polyvinyl Pyrrolidone Iodide 10% vẫn có tác dụng diệt khuẩn
khi trong môi trường có nhiều chất hữu cơ (không bị bất hoạt). Cách dùng: Iodine là chất
khử trùng được sử với liều lượng 1-5g/m3 nước.
Lưu ý: Chỉ sử dụng một trong các loại hoá chất trên (hoặc thuốc tím, hoặc Formol

hoặc Chlorine, hoặc BKC, hoặc Iodine) và nếu sử dụng Chlorine để diệt trùng thì trước đó
mấy ngày không nên sử dụng vôi vì vôi làm tăng pH, giảm khả năng diệt trùng của Chlorine.
2.2.2.3. Bón phân gây màu:
- Phân vô cơ (như urê, NPK, DAP, lân) để gây màu nước cho ao, tạo nguồn thức ăn tự
nhiên ban đầu cho tôm và hạn chế sự phát triển của rong đáy. Hoà tan phân vô cơ vào nước
rồi tạt đều khắp ao vào buổi sáng (8-10 giờ sáng). Loại phân urê (45: 0: 0), liều lượng
20kg/ha; NPK (20: 20: 0) liều lượng 20kg/ha; DAP liều lượng 10-15kg/ha bón 1 lần/ngày
và liên tục đến khi gây được màu nước tốt. Trong trường hợp ao nuôi bị lên phèn, nghèo
dinh dưỡng, tảo khó gây màu, có thể dùng thêm lân với liều lượng 0,8ppm (8kg/ha).
- Phân hữu cơ: Có nhiều loại phân hữu cơ có thể dùng để gây màu nước hiệu quả như
phân bò, phân gà, cám sống, bột cá, bột đậu nành…Các loại phân chuồng phải ủ hoai,
ngâm trong nước qua đêm rồi tạt đều khắp đáy ao với liều lượng 200-300kg/ha. Tuy nhiên
hiện nay, dùng các loại phân chuồng gây màu nước thường không an toàn, dễ mang theo vi
khuẩn gây bệnh cho ao nuôi tôm nên phương pháp này ít được sử dụng.
- Chế phẩm sinh học: Sử dụng chế phẩm sinh học như MD BIO CAPGA, MD BIO
PROTEIN, BLUEMIX,... gây màu nước, nuôi các phiêu sinh là đặc dụng nhất, vì nó chủ
động đưa vào nước ao nuôi một hệ vi sinh vật có lợi, nhằm giúp các loại tảo có ích phát
triển và hạn chế các loại tảo có hại. Liều lượng sử dụng theo yêu cầu của nhà sản xuất. Lưu
ý: Không được sử dụng chế phẩm sinh học cùng một lúc với các loại hoá chất có tính diệt
khuẩn như BKC, thuốc tím, Chlorine, Iodine, kháng sinh.

9


2.2.3. Xử lý ao nuôi tôm bị bệnh
Trong quá trình nuôi tôm thương phẩm khi gặp trường hợp tôm nuôi bị bệnh, nhất là
những loại bệnh nguy hiểm như Bệnh Hoại tử gan tụy hoặc Bệnh đốm trắng. Để hạn chế phát
tán, lây lan mầm bệnh ra môi trường xung quanh người nuôi cần làm tốt các khâu kỹ thuật xử
lý ao nuôi như sau:
Nếu tôm mắc bệnh Hoại tử gan tụy, có thể thu hoạch nếu tôm lớn và còn tươi sống.

Ngược lại nếu tôm còn nhỏ và chết nhiều có thể ngưng cho ăn, ngưng quạt nước hoặc thổi
khí, dùng hoá chất sát khuẩn mạnh (như Formol, GDA, BKC…) để sát khuẩn ao nuôi, có thể
2 – 3 ngày lặp lại 1 lần, ít nhất sau 15 ngày mới rút nước khỏi ao chứa và ao chứa nước thải.
Vớt sạch tôm chết ra khỏi ao để tiêu huỷ, tiến hành cải tạo đáy ao và bón vôi nung (CaO) hoặc
vôi tôi Ca(OH)2 với liều 50 – 70kg/1.000m2, sau đó tiến hành phơi ao khoảng 1 tháng. Dùng
hoá chất để tiêu diệt mầm bệnh còn lại trong ao như formol với hàm lượng 100 ppm phun đều
khắp ao và phun vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối. Việc phun hoá chất có thể lặp lại 2 – 3 lần
trong thời gian phơi ao. Sau quá trình cải tạo, cách ly ít nhất 1 tháng có thể tiến hành thả nuôi
trở lại. Chú ý cần ngâm rửa đáy ao cho đến khi độ PH ổn định trước khi lấy nước vào ao.
Trường hợp ao nuôi bị Bệnh đốm trắng: Dùng chlorin để xử lý ao nuôi với hàm lượng
30ppm (với chlorin có hàm lượng 70%), ít nhất sau 15 ngày mới rút nước khỏi ao chứa vào ao
chứa nước thải. Vớt sạch tôm chết ra khỏi ao để tiêu huỷ, sau đó tiến hành cải tạo đáy ao và
phơi ao, thời gian 1 tháng. Dùng hoá chất để tiêu diệt mầm bệnh còn lại trong ao như formol
với hàm lượng 100 ppm phun đều khắp ao và phun sáng sớm hoặc chiều tối, hoặc phun
chlorin với hàm lượng 50 ppm phun đều khắp ao vào sáng sớm hoặc chiều tối. Việc phun hoá
chất lặp lại như đối với xử lý ao tôm bị bệnh gan tuỵ.
Lưu ý: Tuyệt đối không sử dụng các chất diệt giáp xác có nguồn gốc là thuốc bảo vệ
thực vật, thuốc trừ sâu trong quá trình cải tạo ao, xử lý nước. Không nên lấy nước trực tiếp
vào ao nuôi để xử lý. Chỉ nên lấy vào ao lắng xử lý xong mới cấp qua ao nuôi để tránh tình
trạng kim loại nặng, hóa chất độc hại tích tụ dưới đáy ao nuôi. Không xả nước thải, bùn lắng
ra môi trường khi chưa được xử lý; Không nuôi thả con giống khi chưa được kiểm nghiệm
chất lượng; Phải có ao lắng trong nuôi tôm thâm canh và khu vực ao lắng xử lý nguồn nước
cấp; Có qui chuẩn thực hành nuôi thủy sản tốt.
Đối với tôm đang nuôi, người nuôi cần thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết, môi
trường, tình hình dịch bệnh để có biện pháp xử lý ao nuôi phù hợp, bổ sung một số khoáng
chất cần thiết nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm nuôi, đặc biệt thương xuyên theo dõi
kết quả quan trắc môi trường để có biện pháp quản lý ao nuôi cho tốt. Có thể thả cá rô phi,
nuôi hàu hoặc trồng rong cỏ trong ao thay thế hóa chất xử lý.
2.3. Các biện pháp xử lý ao nuôi cá
2.3.1. Cải tạo đáy ao

Trong quá trình nuôi hoặc chuẩn bị ao nuôi cá nước ngọt thường gặp một số hiện
tượng như nước ao đục, ô nhiễm, thả cá vào bị chết hoặc nước ao có màu sẫm, cá chậm lớn…
Khi ao nuôi cá có hiện tượng nước bị đục và xuất hiện váng, cần rửa đáy ao (rửa chua) từ 2 3 lần, mỗi lần rửa chua cần bón vôi nung (CaO) với liều lượng 3.000 - 5.000 kg/ha hoặc 1.000
- 1.500 kg/mẫu. Để tiến hành rửa đáy ao, cần tát cạn đáy ao, giữ lại từ 5 - 10cm, tiếp tục bón
vôi và ngâm ao từ 7 - 10 ngày, tháo nước sau đó lặp lại 3 lần như trên. Sau khi thau rửa ao,
cấp nước vào ao đủ mức yêu cầu (gây màu nước nếu cần thiết), kiểm tra độ pH, nếu độ pH đạt
từ 7 - 7,5 là có thể thả cá được.
2.3.2. Xử lý nước
Với những ao nuôi bị ô nhiễm, cá bị nhiễm độc, thiếu ôxy, nổi đầu chết thì phải dùng
máy quạt nước, hóa chất làm tăng ôxy để làm tăng lượng ôxy hòa tan và đẩy các khí độc ra
10


khỏi ao. Tiến hành khử trùng nước ao bằng hóa chất khử trùng (ví dụ như dùng Vicato với
liều lượng 0,5 - 0,8 g/m3 nước). Sau khi khử trùng nước, dùng các chế phẩm sinh học như
Bio DW, EMC… theo hướng dẫn của nhà sản xuất để phân hủy các chất dư thừa, giảm chất
độc đồng thời khôi phục hệ vi sinh có lợi trong nước. Dùng men tiêu hóa, vitamin và khoáng
chất tăng cường sức khỏe cho cá nuôi.
Trường hợp ao nuôi có màu đục (phù sa), ao nuôi xuất hiện bọt, cá chậm lớn, cần hòa
nước vôi trong té khắp ao nhằm kết tủa bùn ao, sau đó tìm nguyên nhân để giải quyết triệt để.
Với những loại ao nuôi cá có hiện tượng bị rêu xanh trên mặt nước (mặc dù nước sâu), cần
giảm và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, thay nước nếu có thể. Sử dụng một số loại
thuốc diệt tảo để hạn chế sự phát triển của rêu, tảo.
Việc sử dụng chế phẩm sinh học là một ưu tiên đối với nuôi cá tra. Có thể sử dụng chế
phẩm sinh học làm sạch nước và nền đáy. Những chế phẩm này có tác dụng phân hủy chất
thải và bùn đáy, phân hủy khí độc, cải thiện chất lượng nước, tăng cường ôxy hòa tan cho ao
nuôi. Một số chế phẩm sinh học có tác dụng kích thích cá tiêu hóa thức ăn tốt hơn, thông qua
việc tăng cường hệ vi sinh trong đường ruột. Trộn chế phẩm sinh học cho cá ăn sẽ giúp cá tiêu
hóa thức ăn, giảm hệ số sử dụng thức ăn, đồng thời cá mau lớn hơn.
3. Một số biện pháp quản lý chất lượng nước trong ao nuôi thủy sản

3.1. Kiểm soát nguồn nước
Nguồn nước an toàn nhất cho nuôi trồng thủy sản chính là nước bơm trực tiếp từ giếng
vào trong ao nuôi. Nước đã qua xử lý từ các ao nuôi cá khác ít có khả năng gây ra những dịch
bệnh mới, song lại tiềm tàng mầm bệnh xuất hiện ở các ao nuôi trước hoặc từ các dịch bệnh
đã xảy ra do cá hoặc các loài vật chủ trung gian tồn tại trong nguồn nước được tái sử dụng.
Nước sông là nguồn nước không phù hợp nhất cho nuôi trồng thủy sản bởi nó tiềm ẩn nhiều
dịch bệnh lạ, chưa xuất hiện ở các ao nuôi thủy sản trước đó. Nếu buộc phải sử dụng nước
sông, người nuôi nên xử lý nước thật kỹ, sau đó đưa nước vào ao ít nhất là 21 ngày trước khi
tiến hành thả nuôi. Cách này sẽ giúp tiêu diệt các sinh vật mang mầm bệnh còn tồn tại trong
nước (làm gián đoạn chu kỳ sống của vi khuẩn do không có sinh vật chủ (cá) sinh sống trong
một khoảng thời gian). Có thể sử dụng các thiết bị xử lý nước chuyên dụng như sử dụng
ozone và khử trùng tia cực tím để xử lý nước sông trước khi nuôi thủy sản. Tuy nhiên, công
nghệ này có giá thành cao và chỉ mang lại hiệu quả kinh tế khả thi khi áp dụng cho các mặt
hàng có giá trị cao.
Nguồn nước cấp cho ao phải sạch, không có nhiều bùn hay màu nâu đen. Nước đục có
màu bùn do có nhiều hạt phù sa, sẽ hạn chế ánh sáng vào ao làm cho tảo không phát triển.
Hơn nữa, các hạt phù sa bám vào mang cá làm cá khó thở. Nước có màu nâu đen có nghĩa là
trong nước có nhiều xác động, thực vật thối rữa, chúng sẽ sinh ra nhiều khí độc trong ao.
Nguồn nước phải ít đục hay độ trong cao. Cách đo độ trong đơn giản nhất là đưa bàn tay vào
trong nước đến khuỷu tay (cùi chỏ) và nhìn theo bàn tay, nếu còn nhìn thấy bàn tay là nguồn
nước có độ trong thích hợp.
Nếu muốn đo độ trong chính xác, có thể dùng đĩa hai màu (Secchi). Đĩa có dạng hình
tròn, đường kính 20 phân (cm), được chia làm 4 ô trong đó 2 ô sơn trắng và hai ô sơn đen.
Gắn đĩa vuông góc với một thanh gỗ tại tâm điểm của đĩa hoặc dùng dây treo để thao tác dễ
dàng. Khi đo, thả đĩa chìm vào nước chầm chậm đến khi mắt thường không còn phân biệt
giữa hai màu đen trắng trên mặt đĩa, sau đó hơi kéo nhẹ đĩa lên đến khi có thể phân biệt giữa
hai màu đen trắng trên mặt đĩa thì dừng lại. Đo khoảng cách từ mặt nước đến mặt đĩa chính là
độ trong của nước. Nếu nguồn nước có độ trong lớn hơn 30 là nguồn nước tốt.
3.2. Kiểm soát các loài tảo độc trong ao
Độc tố tảo là độc tố sinh học được sản sinh ra từ tảo, chủ yếu thuộc 3 ngành: tảo hai

rãnh (Dinophyta), tảo lam (Cyanobacteria), tảo silic (Diatom). Ngoài ra, tảo lông roi bám
11


(Haptophyta) và tảo vàng kim (Chrysophyta) cũng được phát hiện có chứa các độc tố. Ở Việt
Nam, đã xác định 61 loài tảo độc hại ở các vùng ven biển Bắc bộ,Trung bộ, riêng Nam bộ có
khoảng 20 loài.
Ngoài vai trò là mắt xích đầu tiên của chuỗi thức ăn trong thủy vực và giúp cân bằng
hệ sinh thái ao nuôi, tảo còn là nguồn cung cấp oxy chính cho hoạt động hô hấp của các loài
sống trong ao nuôi, làm giảm độ trong của nước, hấp thu muối dinh dưỡng dư thừa, hấp thu
chất hữu cơ trong môi trường nước. Tính đa dạng về thành phần loài tảo thường thấp hơn các
thủy vực tự nhiên và bị chi phối bởi quy luật ưu thế, khi ao nghèo dinh dưỡng thường có
thành phần loài phong phú nhưng số lượng cá thể trong một loài thì ít, khi đó mật độ tảo trong
ao tương đối ổn định, ngược lại ở ao giàu dinh dưỡng thì một số loài phát triển ưu thế về số
lượng sẽ lấn át các loài khác nên thành phần loài trong ao kém phong phú, lúc này hiện tượng
nở hoa sẽ xảy ra, đặt biệt là tảo lam và tảo mắt.
Mối đe dọa duy nhất từ những loại tảo chính là các loại độc tố mà chúng sản sinh ra,
trong đó có các chất độc thần kinh, độc tố ảnh hưởng tới gan, độc tố tế bào và độc tố gây hại
cho da. Một vài loại độc tố đã được nghiên cứu rộng rãi, chẳng hạn như micromicrocystins và
nodularin có thể gây tổn thương gan, geosmin làm mất vị giác, beta- metylamino -L- alanine
(BMAA) có liên quan đến một số ảnh hưởng nghiêm trọng ở não, bao gồm cả bệnh Xơ cứng
teo cơ bên (ALS ) và bệnh Alzheimer. Để điều chỉnh được mật độ tảo trong quá trình nuôi, thì
việc nắm vững các đặc điểm phát triển của mỗi loài tảo là hết sức cần thiết, có như vậy mới
kịp thời khống chế hiện tượng chiếm ưu thế và hiện tượng nở hoa trong nước ao.
Tảo phổ biến trong ao nuôi tôm thâm canh gồm tảo lục, tảo silic, tảo lam, tảo giáp và
tảo mắt. Mỗi ngành đều có đặc điểm phát triển riêng và tác động của chúng đến sức khỏe tôm
nuôi cũng khác nhau. Tảo lục và tảo silic được xem là tảo có lợi, bản thân chúng không chứa
độc tố, khi chúng phát triển nhiều trong ao ít gây hiện tượng nở hoa. Ngược lại, tảo lam, tảo
giáp, tảo mắt được gọi là tảo có hại vì khi chúng phát triển quá nhiều (chiếm ưu thế) trong
nước sẽ gây hiện tượng nở hoa, làm nước nhờn, sản sinh nhiều chất độc trong nước ảnh

hưởng lớn đến sức khỏe tôm hoặc làm ức chế sự hô hấp của tôm.
Các loài tảo không chứa độc tố, khi nở hoa có thể tăng đến mật độ rất cao ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng nước như làm cho pH, oxy hòa tan dao động lớn theo chu kỳ ngàyđêm, tăng hàm lượng ammonia, cạnh tranh dinh dưỡng, khi tảo tàn dễ gây hiện tượng thiếu
oxy cục bộ trong ao nuôi, tăng hàm hàm lượng các khí độc gây chết trực tiếp đối với các đối
tượng nuôi thủy sản.Một số loài thường gặp là: Gonyaulax polygramma, Noctiluca
scintillans (tảo hai rãnh),Trichodesmium erythraeum (tảo lam)...
Các loài tảo sản sinh ra các độc tố mạnh gây tác động trực tiếp đến đối tượng nuôi và
cả con người. Các dạng độc tố này thường gặp ở nhóm tảo hai rãnh, tảo silic và tảo lam:
+ Đối với tảo 2 rãnh và tảo silic(độc tố thường tích lũy trong nhóm hai mảnh vỏ) có thể
gây ra 4 dạng hội chứng: ASP (Amnesic Shellfish Poisoning) gây mất trí nhớ, DSP
(Diarrhetic Shellfish Poisoning) gây tiêu chảy, NSP (Neurotoxic Shellfish Poisoning) gây
bệnh trên hệ thần kinh và PSP (Paralytic Shellfish Poisoning) gây liệt cơ, độc tố được tiết
ra từ các loài Alexandrium acatenella, A. catenella; Dinophysis acuta, D. acuminata, D.
fortii; Pseudonitzschia multiseries…Ở loài tảo 2 rãnh sống đáy như là Gambierdiscus
toxicus, Ostreopsis spp., Prorocentrum spp.... (độc tố tích lũy trong nhóm cá sống trong
rạnsan hô) thường gây ra hội chứng CFP (Ciguatera Fish Poisoning) là độc tố gây bệnh cả
trên hệ thần kinh và hệ tiêu hóa.
+ Độc tố tảo lam được chia thành 2 nhóm chủ yếu là độc tố gan (hepatotoxin) và độc tố
thần kinh. Độc tố gan được tìm thấy trong các loài tảo như Microcystisaeruginosa, M.
ichthyoblabe, M. novaceki, M. viridis, M. Wesenbergi. Trong tự nhiênhơn 65% các đợt nở
hoa của tảo lam có độc tố là do Microcystis aeruginosa gây ra. Ngoài ra, Oscillatoria
nigroviridis vừa có khả năngsản sinh ra độc tố gan hepatotoxin, vừa sản sinh ra độc tố thần
12


kinh. Đối vớigiống Nostoc có các loài sản sinh ra độc tố gan dạng hepta và pentapeptide
như là:N. linckia, N. paludosum, N. rivulare, N. zetterstedtii.Trong khi đó, một số loài chỉ
sản sinh ra độc tố thần kinh như là:Oscillatoriaformosa,Anabaena circinalis, A. flosaquae,
A. hassallii, A. variabilis, A. lemmermannii, A. spiroides var. Contracta.
Một số loài tảo không độc với người nhưng lại độc với cá và các động vật không

xương sống (đặc biệt trong các hệ thống nuôi thâm canh) do phá hủy hoặc làm tắc nghẽn
mang của chúng như là Chaetoceros convolutus (tảo silic), Gymnodinium mikimotoi (tảo 2
rãnh)…
3.2.1. Tảo giáp
Tảo giáp sống chủ yếu ở nước mặn, khoảng 10% sống trong nước ngọt. Chủ yếu tồn
tại ở dạng đơn bào hình cầu hay hình sợi, có roi. Nhiều loài có các tấm celuloze bao phủ. Tảo
giáp di chuyển rất nhanh trong thủy vực nhờ các tiêm mao xung quanh cơ thể. Nguyên nhân
dẫn đến tảo giáp chiếm ưu thế trong ao nuôi là do nguồn nước cấp từ bên ngoài vào, trong qúa
trình nuôi do sự mất cân bằng khoáng đa vi lượng hoặc do nền đáy ao quá bẩn dẫn đến sự
phát triển quá mức của loài tảo này. Khi tảo giáp phát triển với mật độ cao trong ao nước sẽ
có màu nâu đỏ, đồng thời mặt nước xuất hiện nhiều váng màu nâu đỏ. Thời điểm nắng gắt
chúng tập trung nổi trên mặt nước và xuống đáy ao khi ánh sáng mặt trời giảm. Tôm không
tiêu hóa được loài tảo này do chúng có vách tế bào cứng, một số trường hợp tôm bị tắt ngẽn
đường ruột hoặc phân bị đứt đoạn khi có quá nhiều tế bào tảo giáp trong ruột. Sự xuất hiện
với mật độ cao của loài tảo này thường dẫn đến tôm nổi đầu về đêm và lúc sáng sớm do thiếu
oxy trong nước và nước ao bị phát sáng ảnh hưởng nhiều đến tập tính sống của tôm nuôi.
3.2.2. Tảo khuê
Tảo khuê hay còn gọi là tảo silic hoặc tảo cát, đây là nhóm tảo có giá trị dinh dưỡng
cao.
Nhóm
tảo
khuê
thường
xuất
hiện
trong
ao
nuôi
tôm


là Cheatoceros sp., Skeletonemasp., Nitzschia sp. và Navicula sp., đây là những nhóm tảo có
thành phần dinh dưỡng tương đối cao và là nguồn thức ăn rất tốt cho ấu trùng của các loài
thủy sinh vật giai đoạn sống đáy. Khi quẩn thể tảo này chiếm ưu thế nước ao sẽ có màu vàng
nâu hay vàng lục. Tảo silic có thể phát triển tốt khi hàm lượng chất dinh dưỡng trong ao nuôi
ở mức thấp, tỉ lệ N/P lớn hơn 15/1. Tảo silic có cấu tạo đơn bào, sống đơn độc hay thành tập
đoàn. Tảo Chaetoceros sp. ở dạng đơn bào thì rất tốt cho ao nuôi, nhưng ở dạng đa bào, dạng
chuỗi hoặc dạng xoắn khi xuất hiện với mật độ cao trong ao thì thường vướng vào mang tôm
gây cản trở đến quá trình hô hấp của tôm. Vì vậy cần hạn chế sự phát triển của giống tảo đa
bào này trong ao nuôi tôm.
3.2.3. Tảo lục
Màu nước ao nuôi là do quần xã tảo này quyết định, khi tảo lục chiếm ưu thế nước sẽ
có màu xanh nhạt. Một số loài xuất hiện nhiều trong ao nuôi tôm như: Scenedesmus sp.,
Chlorella sp., Nannochloropsis sp.,Dunaliellasp., Oocyctis sp.,…Chúng là quần xã tảo không
có tính độc, kích cỡ tảo nhỏ, không gây mùi cho vật nuôi. Đồng thời Chlorellasp. có khả năng
sản sinh ra được chất ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn Vibrio sp..Điều kiện cho nhóm tảo
này phát triển là hàm lượng chất hữu cơ và hàm lượng muối dinh dưỡng ở mức trung bình, tỉ
lệ N/P là từ 7-14/1 là điều kiện lý tưởng cho chúng phát triển bền vững.
3.2.4. Tảo mắt
Tảo mắt là sinh vật chỉ thị của môi trường nhiễm bẩn hữu cơ, chúng sống trong môi
trường phú dưỡng. Tảo mắt chủ yếu phân bố ở các thủy vực nước ngọt, một số ít loài sống ở
nước lợ mặn. Tuy nhiên, trong các ao nuôi tôm cá khi đáy ao nhiễm bẩn thường tìm thấy một
số loài như Euglena sp., Eutrepteilla sp., Phacus sp., Trachaelomonas sp. Các váng màu
xanh, vàng, đỏ, nâu trong các ao tù thường là váng tảo mắt. Sự xuất hiện của tảo mắt trong ao
nuôi báo hiệu nền đáy ao bắt đầu nhiễm bẩn, trong nuôi thâm canh là do thức ăn dư thừa
13


nhiều, với các mô hình ít cho ăn khi xuất hiện nhóm tảo này là do nguồn nước bị ô nhiễm
hoặc do nền đáy đã nhiễm bẩn từ trước. Trong điều kiện thuận lợi nhiều hữu cơ, tảo mắt tăng
sinh khối rất nhanh ảnh hưởng đến hàm lượng oxy hòa tan trong ao và làm nhiễm bẩn thêm

môi trường nước ao. Khi tảo mắt phát triển với mật độ cao chiếm ưu thế trong ao nước sẽ có
màu xanh rau má, một số trường hợp có màu nâu đen.
3.2.5. Tảo lam
Đối với thủy sản tảo lam được xem là tảo độc hại vì một số loài tiết ra chất độc và một
số loài thường gây hiện tượng nở hoa trong nước. Trong ao nuôi, khi hàm lượng muối dinh
dưỡng cao là điều kiện lý tưởng cho nhóm tảo lam phát triển. Trong ao nuôi tôm thường chỉ
tìm thấy vài loài tảo lam, dựa vào đặc điểm hình thái, để đơn giản hơn tảo lam được chia
thành 2 dạng là tảo lam dạng sợi và tảo lam dạng hạt. Tảo lam dạng sợi thường thấy
như: Nostoc sp., Anabaena sp., Oscillatoria sp.,... Tảo lam dạng hạt thường thấy
là Microcystis sp.,… Khi tảo lam xuất hiện nhiều trong ao nuôi sẽ làm cho tôm nuôi có mùi
hôi, đồng thời còn là nhóm thải ra chất nhờn ở màng tế bào có thể gây tắc nghẽn mang của
tôm. Một số trường hợp tôm bị phân trắng thường tìm thấy nhóm tảo này trong đường ruột
tôm ở dạng chưa tiêu hóa.
Tảo lam là dạng tảo có kích thước lớn, nhiều loài dài đến vài milimet. Khi xuất hiện
nhiều trong ao nuôi (chiếm ưu thế) quan sát bằng mắt thường nước có màu xanh đậm, xanh
nước sơn, nổi ván xanh trên mặt nước, lúc trời nắng gắt thường nổi thành từng đám trên mặt
nước và phía cuối gió, khi tảo già thì nổi ván xanh ở cuối gió, lúc này có thể nhận biết được
tảo lam dạng hạt hay dạng sợi bằng mắt thường. Tính độc của tảo lam dạng hạt và dạng sợi
đều như nhau, nhưng dạng sợi thường độc hơn do vướng vào mang tôm và tôm cũng thường
ăn phải nhưng không tiêu hóa được.
Tảo lam Cyanobacteria có mặt hầu hết các thủy vực nước ngọt, lợ, mặn và kể cả môi
trường trên cạn. Tảo lam phát triển được ở cả những vùng có khí hậu ấm áp đến cả những
vùng bắc cực giá rét. Chúng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tuần hoàn hóa sinh của
nhiều yếu tố, tham gia vào cấu trúc, chức năng và đa dạng sinh học của cộng đồng thủy sinh
vật (từ vi sinh vật đến động vật xương sống). Một số tảo lam có thể làm giảm cả 2 khí
carbonic (CO2) và ni tơ (N2), một số có thể chuyển hóa Ni tơ tự do (N2) thành ammonia và
cuối cùng thành amino a xít và protein. Tảo lam có cấu trúc đơn giảm kiểu Prokaryotic
(không nhân) và thiếu các phần cơ bản của màng tế bào (nhân, ti thể, lục lạp) cùng với hình
thức sinh sản nhân đôi thì tảo lam trông giống như các vi khuẩn gram âm về mặt cấu trúc và
sinh lý nhưng chúng lại thực hiện quá trình quang hợp như thực vật. Tảo lam có kích thước

lớn hơn vi khuẩn và tham gia chủ yếu vào quá trình quang hợp và cố định ni tơ. Tảo lam tồn
tại ở dạng đơn bào, dạng khối, dạng sợi và đa số ở dạng màng nhầy ngay cả khi tồn tại dạng
đơn bào hay dạng khối. Các khối đơn bào lớn hoặc dạng sợi của tảo lam có thể bùng nổ trong
các lĩnh vực giàu dinh dưỡng, khi nở hoa chúng có thể phủ thành lớp màu xanh lơ – xanh biển
trên bề mặt thủy vực.
Nhiều loài tảo lam ở vùng Đông Nam Á có thể sản xuất ra những chất gây mùi hôi
trong ao nuôi và trong sản phẩm thủy sản. Một số loài tảo lam, đặc
biệt Anabaena và Mycrocystis sản xuất ra các độc tố đối với tôm cá và động vật trên cạn khi
chúng uống phải nguồn nước nhiễm độc tố. Các độc tố từ tảo lam đe dọa đến sức khỏe của
không chỉ các loài thủy sản mà còn có thể khiến người tiêu dùng bị ngộ độc nếu sử dụng các
loại thực phẩm bị nhiễm độc. Các loài vật nuôi ăn phải loại tảo này có thể không chết, song
độc tố từ tảo lam sẽ khiến cơ thể vật nuôi bị suy yếu, khiến cho chúng dễ bị các tác nhân từ
bên ngoài tấn công. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước góp phần quan trọng giúp loài tảo này
sinh sôi nhờ vào lượng thức ăn dư thừa trong nước. Nguồn thức ăn này được bổ sung liên tục
nhờ hàng tỷ tấn nước thải sinh hoạt, chất thải nông nghiệp và công nghiệp chưa được xử lý.

14


Tảo lam là loại tảo có sức sống tốt, có chu kỳ phát triển dài. Đại bộ phận tảo lam sống
trong nước ngọt, một số phân bố trong nước mặn hoặc nước lợ. Đặc tính nổi bậc của tảo lam
là khả năng chịu nhiệt tốt. Tảo phát triển mạnh vào các tháng nóng trong năm (tháng 5). Một
số tảo lam có thể tiến hành quang hợp trong môi trường yếm khí tương tự như vi khuẩn.
Độc tố do tảo lam tiết ra có thể phân loại hóa học gồm: peptid vòng (mycrocystins và
nodularin), hoặc alkaloids (anatoxin-a, anatoxin-a(s), saxitoxin, cyclindrospermopsin,
aplysiatoxins, lyngbiatoxin-a) và lypopolysacharides. Tuy nhiên, các độ tố tảo lam thường
được gọi với các thuật ngữu độ tố liên quan đến động vật nhiễm độc. Trong khi có nhiều loại
độc tố da (dermatoxins: chẳng hạn như lyngbyatoxin và aplysiatoxins) được sản xuất từ các
tảo lam đáy thì hầu hết các loại độ tổ của tảo lam khác là độc tố thần kinh và gan tụy.
Độc tố thần kinh:

Độc tố thần kinh là các phân tử hữu cơ có thể tấn công hệ thống thần kinh của động
vật xương sống và không xương sống. Các loại độ tố thần kinh này gồm: 1) anatoxin-a,
alkaloid ức chế quá trình vận chuyển giữa các liên kế cơ thần kinh do cấu trúc tương tự của nó
với chất vận chuyển thần kinh acetylcholine; 2) anatoxin-a(s) sẽ khóa enzyme esterase của
acetylcholine (tương tự nhóm thuốc trừ sâu organophotphate pesticides); 3) saxitoxin là
carbamate alkaloid là chất hoạt động tương tự nhóm thuốc trừ sâu carbamate pesticides bằng
cách khóa các kênh vận chuyển muối trong cơ thể.
Độc tố thần kinh sản xuất bởi nhiều loài tảo lam như Anabaena, Aphanizomenon,
Mycrocystis, Planktothrix, Raphidiopsis, Arthrospira, Cyclindrospermum, Phormidium và
Osillatoria. Độc tố thần kính sản xuất do sự bùng nổ các loài tảo lam Anabaena spp.
Osillatoria spp. và Aphanizomenon flos-aquae được cho là chịu trách nhiệm nhiễm độc đối
với các loài động vật nuôi. Độc tố thần kinh thường ảnh hưởng cấp tính lên động vật có
xương sống làm tê liệt các cơ lưng và cơ của cơ quan hô hấp.
Độc tố gan tụy:
Độc tố gan tụy được sản xuất bởi nhiều loài tảo lam và gây chết nhiều loài động vật
thủy sản, chim, các động vật hoang dã, vật nuôi và cả con người. Độc tố Mcrocystins và các
peptide chuỗi vòng ức chế các enzyme phophatase Kiểu 1 và Kiểu 2A của protein các loài
hữu nhân (Eukaryotic) làm mất chức năng gan. Những độc tố tấn công gan bằng cách khóa hệ
thống vận chuyển chất hữu cơ của màng tế bào gan tụy. Mycrocystins là nhóm lớn nhất của
độc tố tảo lam với hơn 70 dạng cấu trúc khác nhau. Trong nước ngọt, Mycrocystins được sản
xuất bởi các loài tảo lam Mycrocystis và Anabaena và Plantothrix. Cá bị nhiễm độc tố này sẽ
bị hư mang làm cá khó thở, yếu và mất khả năng bơi lội. Loài tảo Ictalurus punctatus có thể
gây độc ở liều 50 đến 75 microgam Microcystin/L và có thể giết chết cá trong vòng 24 giờ.
Một loại độ tố gan mạnh có tên Cylindrospermopsin do loài tảo Cylindrospermopsis
raciborskii tiết ra là một loài tảo tương đối nhỏ trong nhóm tảo lam. Cylindrospermopsin là
một loại alkaloid ức chế quá trình tổng hợp glutathione và protein. Cylindrospermopsis
raciborskii có phổ biến ở các nước Đông Nam Á và các loài động vật có vú rất nhạy cảm với
độ tố Cylindrospermopsin khi chúng ăn phải cá nhiễm độc tố này. Một nghiên cứu báo cáo về
bằng chứng sự tích lũy sinh học của độc tố này trong mô của loài cá Crayfish và cá hồi đốm.
Các giải pháp kiểm soát đối với tảo lam:

Các biện pháp ngăn ngừa sự xuất hiện và phát triển của tảo lam luôn mang lại lợi ích
to lớn cho người nông dân. Tuy nhiên, thay vì tiêu diệt chúng hoàn toàn, các biện pháp quản
lý hệ thống sản xuất để đảm bảo các chất dinh dưỡng trong nước luôn ở mức cân bằng sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn. Hiện nay, hệ thống xử lý chất thải từ mô hình nuôi thâm canh nhìn
chung còn rất kém. Do vậy, các chất thải nên được thu gom và xử lý bằng công nghệ đang
được áp dụng để xử lý nước thải hiện nay.
15


Ngoài ra còn có thể áp dụng các biện pháp như:
* Đảo trộn nước và tăng cường sục khí: Đảo trộn nước và gia tăng sục khí trong ao
giúp gia tăng hàm lượng oxy hòa tan, thay đỗi hàm lượng khí carbonic trong ao và thay đổi
pH của ao theo hướng có lợi cho các loài tảo có lợi cạnh tranh với tảo lam.
* Gia tăng dòng chảy bằng công nghệ race-way trong ao để làm giảm thời gian đứng
nước trong ao.
* Phẩm màu bón vào ao cùng với việc đảo trộ nước nhằm hạn chế cường độ sáng để
giảm sự tăng trưởng quang hợp của tảo.
* Vi sinh và enzyme: vi khuẩn và enzyme sẽ phân hủy nhanh chất hữu cơ, tiêu thụ
nguồn carbon, phosphor, potassium và nitrogen giúp chất lượng nước tốt hơn loại bỏ các điều
kiện có lợi cho tảo lam.
* Tilapia: cá rô phi được sử dụng để kiểm soát tao lam và tảo sợi trong ao.
* Kết tủa: Aluminum sulfate được sử dụng để keo tụ chất vẩn của ao, tảo và
phosphorous đồng thời tăng độ đệm pH của nước. Tuy nhiên cần đo lượng phosphor trong ao
để biết lượng Aluminum sulfate cần dùng thêm.
3.3. Kiểm soát độ pH trong ao
Độ pH của các hệ sinh thái nước ngọt có thể dao động khá lớn trong hàng ngày cũng
như theo mùa. Hầu hết các loài động vật nước ngọt đã tiến hóa để thích nghi với biên độ
chênh lệch pH tương đối rộng ở ngoài môi trường. Tuy nhiên, chúng vẫn có thể bị chết nếu độ
pH ngoài môi trường thay đổi đột ngột. Ngoài những tác động trực tiếp của pH lên vật nuôi
thủy sản, nồng độ ion hydro còn ảnh hưởng đến cân bằng dung dịch nước liên quan đến

amoniac, hydrogen sulfide, clo và các kim loại hòa tan. Sự tương tác của pH với các biến này
gây ra những tác động mạnh hơn lên các loài vật nuôi thủy sản.
Nước tinh khiết khi tiếp xúc với không khí sẽ có nồng độ pH khoảng 5,6. Tuy nhiên,
nước tự nhiên phải là nước tinh khiết do nước là một dung môi mạnh mẽ. Nó có thể hòa tan
một số chất rắn hoặc khí trong quá trình tiếp xúc. Những chất hòa tan này sẽ ảnh hưởng đến
độ pH của nước. Bicarbonate và cacbonat ( CO32 - ) mang điện tích âm ion ( anion ) phổ biến
ở hầu hết các nước . Các anion cơ bản có nguồn gốc từ sự tan rã của đá vôi và chúng làm tăng
độ pH của nước. Bicarbonate và cacbonat cũng là anion chủ yếu chịu trách nhiệm quy định
tính kiềm trong nước, có tác dụng để trung hòa axit.
Tương tác hóa học giữa carbon dioxide (CO2), các ion hydro và các anion tạo ra độ pH
khoảng 6-8,5 trong hầu hết các vùng nước tự nhiên. Trong trường hợp nồng độ CO2 thay đổi,
độ pH ban đầu của nước tiếp xúc với không khí phụ thuộc vào độ kiềm của nó. Nước có tính
kiềm thấp có nồng độ pH thấp , trong khi nước có tính kiềm cao sẽ có độ pH cao hơn.
Hoạt động sinh học dưới nước kiểm soát nồng độ CO2 trong hầu hết các vùng nước,
bao gồm cả ao nuôi trồng thủy sản. Trong quá trình hô hấp, tất cả các sinh vật sống liên tục
sản sinh ra CO2. Ban ngày, CO2 còn được sản sinh trong quá trình quang hợp của tảo và thực
vật dưới nước. Ban ngày, quang hợp cao hơn hô hấp nên nồng độ pH trong nước tăng lên.
Đến đêm, quang hợp giảm dần và ngừng lại giúp nồng độ pH giảm. Do vậy, độ kiềm trong
nước liên tục thay đổi theo chu kỳ trong ngày.
Tuy nhiên, khi các loại tảo hoặc thực vật phát triển nhanh chóng, lượng CO2 bị tiêu thụ
do quang hợp lớn hơn lượng sinh ra nhờ hô hấp sẽ khiến độ pH tăng cao bất thường vào buổi
chiều và tối. Tình trạng nồng độ pH cao phổ biến trong ao ương cá bột và trong ao được sử
dụng để nuôi tôm nước ngọt. Song, giai đoạn đầu đời của cá và động vật giáp xác đặc biệt
nhạy cảm với độc tính pH và khả năng tự di chuyển đến những nơi có đọ pH thấp hơn (như
vùng nước sâu) trong ao nuôi cũng kém hơn các sinh vật trưởng thành.
16


Kiểm soát độ pH trong ao nuôi trồng thủy sản luôn là công việc khó khăn do không có
biện pháp quản lý nào mang lại hiệu quả 100%. Có thể việc kiểm soát nồng độ pH cao được

thực hiện bằng cách thêm một lượng axit nhất định vào ao nuôi thủy sản. Ngoài ra, cũng có
thể giảm độ pH bằng cách loại bỏ CO2. Nhưng giải pháp lâu dài cho vấn đề pH cao trong ao
nuôi thủy sản là thay đổi sinh học ao để cân bằng nồng độ CO2 trong ao nuôi. Điều này có thể
được thực hiện bằng cách giảm hoặc tăng quang hợp hoặc hô hấp. Tuy nhiên, rất khó để thay
đổi sự trao đổi chất trong ao nuôi. Bởi vậy, công tác chuẩn bị, cải tạo ao nuôi đóng vai trò
quan trọng trong việc kiểm soát độ kiềm trong ao.
Cải tạo ao trên vùng đất phèn tiềm tàng: Khoáng pyrite sắt dễ oxy hóa để tạo ra hợp
chất sắt hydroxit và giải phóng ion H+ làm cho nước ao có pH thấp và nước ao bị phèn đỏ.
Do đó, chúng ta không nên cải tạo khô và phơi đáy ao quá lâu đối với những ao phèn tiềm
tàng. Những vết nứt trên nền đáy tạo điều kiện cho Oxy xâm nhập và oxy hóa Pyrit sắt, khi
cấp nước vào hợp chất này giải phóng làm cho nước ao bị phèn và đỏ, rất khó xử lý. Giải
pháp cải tạo tốt nhất cho những vùng đất này là cải tạo ướt và xổ xả liên tục. Nếu có cày đáy
ao thì nên cày ướt và ngâm nước ngay, sau đó xổ xả phèn. Nếu có phơi thì cũng chỉ nứt châm
chim là vừa.
- Bón Lân đáy ao: Giải pháp bón phân lân với mục đích để các ion sắt kết hợp, khử sắt,
giảm phèn và tăng lượng phospho giúp dễ gây màu thường được áp dụng ở những vùng đất
phèn tiềm tàng. Tuy nhiên, một nguy cơ cũng rất dễ xảy ra là khi gây màu tảo bất lợi như
tảo lam, tảo giáp sẽ phát triển chiếm ưu thế. Như vậy sẽ phát sinh vấn đề khác cần xử lý,
chúng ta cần cân nhắc khi bón lót phân lân đáy ao.
- Bón vôi đáy ao: mục đích bón vôi đáy ao để nâng pH đáy, khử phèn, tạo hệ đệm cho
ao…Tuy nhiên, lưu ý khi bón vôi đá (vôi nung cục) hoặc vôi nóng bột, chúng ta rải vôi lúc
chiều mát và cấp nước ngay ngày hôm sau, không nên rải vôi và phơi ao quá lâu.
- Gây màu nước và xử lý phèn:
+ Sau khi cấp nước hòan chỉnh, quạt nước để trứng tạp nở và tiến hành sát trùng nước,
diệt tạp…
+ Quy trình xử lý gây màu nước đối với ao phèn (nước bị phèn) cần thực hiện thêm các
bước sau:
Ngày 1: Sáng POLYZYME 50cc/1.000m3 mục đích phân cắt nhanh giải phóng phèn
nhanh chóng, hỗ trợ tăng kiềm…
Chiều CLINZEX - DS hoặc AQUAZEX - DS 5-7kg/1.000m3 mục đích kết

lắng nhanh ván phèn, hạ phèn, bổ sung khóang chất giúp tảo dễ phát triển.
Ngày 2: Lặp lại nếu nước chưa giảm phèn nhiều, thêm vôi Dolomite + vôi nóng ngâm
lấy nước tạt vào ban đêm để nâng kiềm.
Ngày 3: BLOOM STARTER 1kg/5.000m2 đánh vào buổi sáng.
Ngày 4: Lập lại BLOOM STARTER. Nếu kiềm <80 thì tiếp tục vôi ban đêm. Khi đã có
màu thì duy trì BLOOM STARTER liều 1kg/1ha xen kẽ khoáng ENVOMIN 2kg/1.000m3,
cách ngày xử lý 1 lần, tăng quạt. Xử lý Vi sinh liều cao trước khi thả để giải quyết đáy ao
bị ô nhiễm do quá trình xử lý kết lắng phèn tạo ra.
3.4. Nồng độ Oxy trong nước
Trừ các loài cá đồng có thể lấy oxy từ trong không khí như cá Lóc, cá Rô... tất cả các
loài cá khác đều thở khí oxy hòa tan trong nước qua mang. Ngoài thức ăn, oxy cũng là yếu tố
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá. Thiếu oxy cá sẽ bỏ ăn và chậm lớn. Lượng oxy trong
nước thay đổi liên tục. Vào ban ngày, lượng oxy trong nước cao do có ánh sáng giúp tảo
quang hợp và tạo ra nhiều oxy trong nước. Ban đêm không có ánh sáng tảo không quang hợp
17


được nên không tạo ra oxy. Hơn nữa, ban đêm tảo phải hô hấp nhiều nên lượng oxy giảm thấp
nhất là sáng sớm (5-6 giờ sáng). Một vài nhân tố ảnh hưởng đến lượng oxy trong nước gồm:
Mật độ tảo; Phân bón hóa học và hữu cơ; Ánh sang; Màu nước.
Nồng độ Oxy hòa tan (DO) là tham số quan trọng nhất trong nuôi trồng thủy sản.
Nồng độ oxy hòa tan thấp có thể trực tiếp hoặc gián tiếp khiến cá bị chết. Giống như con
người, cá cần oxy để hô hấp. Lượng oxy tiêu thụ của cá phụ thuộc vào mức độ hoạt động và
nhiệt độ. Cá nhỏ tiêu thụ nhiều oxy hơn so với cá trưởng thành do tỷ lệ trao đổi chất cao hơn.
Để có được sự tăng trưởng tốt, cá phải được nuôi trong môi trường có nồng độ oxy
hòa tan ở mức tối ưu. Do vậy, cần phải tuân thủ nguyên tác luôn duy trì mức DO bão hòa
hoặc ít nhất là 5 ppm. Nếu nồng độ oxy hòa tan dưới 55 ppm có thể khiến cá bị áp lực, nếu
nồng độ dưới 2 ppm sẽ dẫn đến tử vong.
Ðể tăng cường lượng oxy hòa tan trong ao nuôi người ta sử dụng các loại thiết bị như:
máy quạt nước, máy thổi oxy đáy, máy sục khí… Tuỳ theo mật độ thả nuôi, thời gian nuôi mà

có biện pháp bố trí và vận hành các loại máy cho phù hợp đảm bảo cung cấp đầy đủ oxy trong
ao, vừa giảm được chi phí sản xuất. Ngoài ra oxy hòa tan trong ao còn liên quan mật thiết đến
sự phát triển của tảo, bị tiêu hao do quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong ao. Khi mật độ
tảo trong ao nhiều vào ban ngày do quá trình quang hợp sẽ cung cấp một lượng lớn oxy hòa
tan trong ao, nhưng ngược lại vào ban đêm tảo lại sử dụng oxy cho quá trình hô hấp, do đó
oxy thường giảm thấp vào ban đêm, nhất là vào lúc 4-5 giờ sáng nên cần tăng cường hoạt
động các loại máy cung cấp oxy ở những thời điểm này. Ngoài việc cung cấp đầy đủ oxy
trong ao còn tạo điều cho các vi sinh vật có lợi phát triển thúc đẩy quá trình phân hủy các chất
hữu cơ làm sạch đáy ao.
Oxy hòa tan vào nước chủ yếu thông qua sự khuếch tán trực tiếp và quang hợp của
thực vật, song quá trình khuếch tán trực tiếp xảy ra không đáng kể, trừ khi có gió lớn và tác
động của sóng. Bởi vậy, người nuôi thủy sản thường sử dụng các biện pháp thông khí cơ học
để tăng nồng độ oxy hòa tan. Biện pháp thường được áp dụng nhất là sử dụng quạt nước tại
các ao nuôi thủy sản.
3.5. Đảm bảo nhiệt độ nước
Sau khi oxy, nhiệt độ nước có thể là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sản lượng
của cá. Cá là sinh vật máu lạnh và giả định khoảng nhiệt độ tương tự như môi trường xung
quanh. Nhiệt độ của nước ảnh hưởng đến hoạt động, hành vi, tốc độ ăn, phát triển và sinh sản
của các loài cá. Nhiệt độ cũng xác định lượng khí hòa tan ( oxy , carbon dioxide , nitrogen ,
vv) trong nước. Nhiệt độ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phân tầng nhiệt. Nồng
độ oxy hòa tan ở lớp nước dưới cùng thấp hơn so với các tầng nước mặt. Ngoài ra, nồng độ
oxy còn giảm do nguyên nhân phân hủy chất thải dưới đáy ao.
Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất bên trong cơ thể tôm, ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự lột xác, liên quan đến khả năng bắt mồi và sự sinh trưởng
của tôm. Nhiệt độ tối ưu cho tôm sinh trưởng từ 28 – 32oC, nếu nhiệt độ cao hơn 33oC hoặc
thấp hơn 25oC khả năng bắt mồi của tôm giảm đi 30 – 50%.
Do đặc điểm thổ nhưỡng của vùng đất cát nên khi xây dựng công trình ao nuôi phải kè
bạt bờ và lót bạt đáy ao cho nên khả năng hấp thụ nhiệt vào ban ngày rất lớn, do đó nhiệt độ
nước trong ao có khả năng tăng lên rất cao >36oC nếu mực nước trong ao < 1m. Ðể khắc phục
được việc tăng cao của nhiệt độ nước, biện pháp kỹ thuật tốt nhất là nâng cao mực nước trong

ao từ 1,2m trở lên, độ dày lớp cát phủ đáy ao >0,5m.
3.6. Kiểm soát lượng thức ăn trong môi trường nước
Thức ăn thừa được coi là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường, gây bệnh cho
cá. Bên cạnh đó, thuốc và hóa chất phân hủy không hết và tồn tại trong môi trường nước cũng
18


làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của cá nuôi. Việc cấp nước vào ao thay nước
cho cá trong suốt quá trình nuôi cũng mang vào ao một lượng phù sa lớn, nhất là thời điểm
mùa lũ, nước xấu.
Đối với nuôi cá tra: Theo các nhà khoa học, trung bình 1 ha nuôi cá đạt 300 tấn cá tra
và phải dùng 450 - 480 tấn thức ăn. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 75% lượng thức ăn này được cá
sử dụng, phần còn lại là thức ăn thừa, thối rữa lắng đọng xuống đáy ao (nuôi ao đất) hoặc các
con sông. Lượng thức ăn thừa kết hợp với chất thải của cá nếu không được quản lý và xử lý
tốt sẽ gây ảnh hưởng không chỉ với cá nuôi mà còn tác động rất lớn đến môi trường sinh thái.
Theo nhiều chuyên gia, có thể áp dụng biện pháp hạn chế khẩu phần cho cá ăn (nhằm
tránh ô nhiễm môi trường nước), như: cá tra, basa có trọng lượng 12 - 200 g cho ăn lượng
thức ăn bằng 8 - 10% trọng lượng đàn cá, cá 200 - 300 g cho ăn 6 - 7%, từ 300 - 700 g cho ăn
4 - 5%, cá 0,8 - 1,1 kg cho ăn 1,5 - 3% trọng lượng đàn cá. Với công thức này, có thể giảm
lượng thức ăn cho cá, giảm chi phí, hạn chế ô nhiễm môi trường nước mà cá vẫn phát triển
bình thường, đảm bảo trọng lượng khi thu hoạch.
Đối với nuôi tôm: Cho tôm ăn theo bảng hướng dẫn. Ngoài ra, tùy vào thực tế (sức
khỏe của tôm, chu kỳ lột xác, thời tiết,…) và theo dõi sàng ăn/chài khi tôm từ 20 ngày tuổi trở
lên để điều chỉnh, quản lý thức ăn cho phù hợp, tránh tình trạng cho ăn thiếu hoặc thừa thức
ăn sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và sức khỏe của tôm.
- Tháng nuôi thứ nhất: Sử dụng thức ăn cỡ nhỏ cho giai đoạn mới thả.
+ Ngày thứ 10 sau khi thả giống, cho ít thức ăn vào sàng/nhá/vó để tôm làm quen, dễ
cho việc kiểm tra lượng thức ăn dư sau này. Sàng ăn đặt nơi bằng phẳng, cách bờ ao 1,5 - 2
m, sau cánh quạt nước 12 - 15m, không đặt ở các góc ao, khoảng 1.600 - 2.000 m2 đặt 1
sàng.

+ Sau 15 ngày có thể sử dụng các chất bổ sung cung cấp vitamin, khoáng chất theo chỉ
dẫn của nhà cung cấp giúp tôm tăng cường sức khỏe.
+ Tôm sú: Ngày đầu tiên cho 1,2 - 1,5 kg/100.000 giống, cứ 2 ngày tăng 0,2 - 0,3
kg/100.000 giống.
+ Tôm chân trắng: Ngày đầu tiên cho 2,8 - 3 kg/100.000 giống. Trong 10 ngày đầu tiên,
cứ 1 ngày tăng 0,4 kg/100.000 giống. Từ ngày thứ 10 - 20, cứ 1 ngày tăng 0,5 kg/100.000
giống.
- Tháng nuôi thứ hai đến khi thu hoạch:
+ Điều chỉnh thức ăn trong ngày qua theo dõi lượng thức ăn thừa trên sàng ăn.
+ Chuyển đổi loại thức ăn phù hợp theo giai đoạn phát triển, cỡ miệng tôm và nhu cầu
dinh dưỡng như hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì. Khi chuyển đổi thức ăn, nên
trộn lẫn 2 loại thức ăn cũ và mới cho ăn ít nhất 3 ngày.
Chú ý:
- Những ngày thay đổi thời tiết, mưa, nắng gắt chỉ cho 70 - 80% lượng thức ăn đã định,
tránh dư thừa gây ô nhiễm nước. Theo dõi kỳ lột vỏ để giảm lượng thức ăn và tăng sau khi
tôm lột vỏ xong.
- Đối với các cơ sở nuôi tôm dùng thức ăn có chứa Ethoxyquin:
+ Với hàm lượng # 90 ppm: Chuyển sang dùng các loại thức ăn không chứa Ethoxyquin
04 ngày trước khi thu hoạch; Không dùng các loại thức ăn bổ sung như: Dầu gan mực, dầu
cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish meal 66%.

19


+ Với hàm lượng 90 - 120 ppm: Chuyển sang dùng các loại thức ăn không chứa
Ethoxyquin 05 ngày trước khi thu hoạch; Không dùng các loại thức ăn bổ sung như: Dầu
gan mực, dầu cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish meal 66%.
+ Với hàm lượng 120 - 150 ppm: Chuyển sang dùng các loại thức ăn không chứa
Ethoxyquin 06 ngày trước khi thu hoạch; Không dùng các loại thức ăn bổ sung như: Dầu
gan mực, dầu cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish meal 66%.

3.7. Xử lý nước thải ao nuôi thủy sản
Mục tiêu cơ bản của xử lý nước thải chính là để giảm số lượng các chất hữu cơ dễ
phân hủy nhờ vi khuẩn. Quá trình này dẫn đến việc tạo ra CO2 và suy giảm hàm lượng oxy
trong nước. Trong khi các phương pháp xử lý nước thải sinh hoạt có thể được áp dụng để xử
lý nước thải từ nuôi tôm, song quy trình xử lý cụ thể có thể khác nhau, tùy thuộc vào lượng
vật chất hữu cơ có trong nước thải. Cụ thể, sự khác biệt đáng kể giữa chất thải nuôi tôm và
nước thải sinh hoạt là nước thải sinh hoạt là nước ngọt, trong khi nước thải nuôi tôm là nước
biển. Muối biển có chứa hàm lượng cao của sulfate, do vậy cần sử dụng vi khuẩn xử lý sulfate
trong môi trường yếm khí. Nhóm vi khuẩn này thường đóng một vai trò quan trọng trong việc
phân hủy chất hữu cơ trong hệ thống xử lý nước mặn kỵ khí, nhưng lại không phổ biến trong
hệ thống xử lý nước ngọt. Do vậy, tỷ lệ phân hủy chất hữu cơ có thể thay đổi giữa nước ngọt
và hệ thống biển phụ thuộc vào các loại vi khuẩn khác nhau.
Thông thường, nước xả từ hệ thống nuôi trồng thủy sản thường chứa rất nhiều chất
dinh dưỡng. Đây là nguồn thức ăn rất tốt cho tảo biển. Nhờ vậy, việc sử dụng tảo biển để làm
sạch nước thải cũng là biện pháp hữu hiệu. Với việc nuôi tảo biển bằng nước thải ao nuôi thủy
sản, số lượng tảo biển này có thể được sử dụng để làm hóa chất sử dụng trong ngành công
nghiệp thực phẩm và dược phẩm. Đây là công nghệ đang được thử nghiệm tại dự án
INTERREG IIIC. Công nghệ này được áp dụng thử nghiệm với tảo Porphyra và Ulva. Cả hai
loại tảo có tốc độ tăng trưởng cao và được sử dụng làm chất tẩy rửa.
4. Kết luận
Là một trong những ngành kinh tế mang lại giá trị thu nhập cao cho nước ta, thủy sản
nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời
sống nhân dân, góp phần làm giàu cho đất nước. Tuy nhiên, một vài năm trở lại đây, dịch
bệnh xảy ra trên thủy sản đã khiến nông dân điêu đứng, nhà nước chịu thất thu hàng nghìn tỷ
đồng. Do vậy, để phát huy tốt thế mạnh của một nước nông nghiệp, được thiên nhiên ưu đãi
về điều kiện tự nhiên và khí hậu, công tác phòng chống dịch bệnh trên các loài thủy sản phải
được chú ý nhiều hơn nữa.
Giống như con người cần không khí trong lành để được sống lâu, các loài thủy sản cần
nước có chất lượng tốt để sống khỏe mạnh. Con người sẽ bị bệnh khi sống trong môi trường
không khí bị ô nhiễm, nước bẩn sẽ làm cá bị sốc và dễ bị mắc bệnh. Hơn nữa, cá không thể

lớn nhanh trong môi trường có nhiều chất độc, thiếu oxy và nhiệt độ biến động. Vì vậy, duy
trì chất lượng nước là điều kiện cần thiết để nuôi trồng thủy sản thành công. Cần chủ động
khắc phục những nhân tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng ao nuôi như sử dụng nguồn nước
chất lượng kém để cấp cho ao, bón phân quá liều, cho ăn quá dư thừa và mật độ thả cao. Nếu
kiểm soát được các yếu tố trên và thực hiện chăm sóc tốt thì có thể tránh khỏi hầu hết các trở
ngại về môi trường nước, từ đó, nông dân mới có thể tránh được thiệt hại do dịch bệnh gây ra.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> /> /> />02&Itemid=83
/> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> />
21



×