Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tổng hợp một số đề văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.95 KB, 7 trang )

Tổng hợp một số đề văn
A. Đề bài:
1. Trong vai bà hàng xóm, em hãy kể lại câu chuyện “ Tức nước vỡ bờ bằng lời của em”.
2. Thuyết minh về chiếc kính đeo mắt.
3. Thuyết minh về danh thắng Yên Tử.
4. Dàn ý thuyết minh về Vịnh Hạ Long.
5. Dàn ý cảm nhận về 8 câu thơ đầu bài “ Quê hương” – tác giả Tế Hanh.
B. Bài làm:
Đề 1: Trong vai bà hàng xóm, em hãy kể lại câu chuyện “ Tức nước vỡ bờ bằng lời của em”.
Tiếng trống đánh , tiếng tù và thổi vang lên giữa sân đình rộng lớn , cả làng chạy ra xem thì thấy cả gia đình chị
Dậu đã quỳ ở đó chờ quan ra xét xử vì tội chống đối người thi hành công vụ . Tôi thương họ quá , là một người
hang xóm ngay cạnh nhà họ , tôi đã chứng kiến toàn bộ câu chuyện , khi đó tôi đã thấy đc sức mạnh ẩn chứa trong
tâm hồn chị Dậu.
Hơn một tháng nay là mùa sưu thuế , khắp trong làng ngoài xóm , đâu đâu cũng vang lên tiếng khóc than ai
oán , lính tráng lùng sục , bắt bớ những người thiếu sưu ở khắp mọi nơi . Mới hôm trước , anh Dậu bị đánh trói
ngoài đình trong khi đang ốm thập tử nhất sinh , vừa đc tha về , nhìn anh rũ rượi như một xác chết , chị Dậu đau
đớn vô cùng , nước mắt lăn dài trên hai má . Thấy chị Dậu khổ cực quá nên dù không thuộc diện khá giả gì , tôi
cũng vét bát gạo đầy mang cho chị Dậu nấu cháo . Bước qua cánh cổng tre , tôi nhìn thấy căn nhà tồi tàn , cũ nát
của chị , cảm tưởng như một trận mưa lớn là có thể kéo bay mái nhà . Tôi bước vào nhà chị mà thấy thương xót , ái
ngại vô cùng . Anh Dậu nằm trên chiếc chiếu đã cũ , thỉnh thoảng lại rên lên một cách đau đớn . Lũ trẻ con thì nheo
nhóc , mặt mày nhem nhuốc , đôi mắt sưng lên vì khóc , quàn áo rách rưới , vá chằng vá đụp . Chỉ có một mình chị
Dậu là tất tả , chạy ngược chạy xuôi , hết chạy bên này lại đến bên kia , vừa chăm sóc chồng con vừa lo nấu cháo
cho chồng . Cháo chín , chị bắc ra giữa nhà , ngả mâm bát múc ra la liệt rồi chị lấy mo cau quạt cho chóng nguội .
Nhìn thấy cảnh này sự thương cảm của tôi ko để đâu cho hết . Tôi cảm động trước hình ảnh người phụ nữ đảm đang
, dịu dàng chăm lo cho chồng , động viên chồng ngồi đậy ăn cháo . Anh dậu đã kiệt sức do đòn roi và mấy ngày qua
vàcũng chưa có miếng gì trong bụng. Sức đâu mà chịu nổi. Tôi thầm nghĩ ăn hết bát cháo này thì anh Dậu sẽ khỏe
lại thôi . Nhưng thật quá trớ trêu , anh Dậu vừa bưng bát cháo lên miệng thì bọn đòi sưu kéo đến , chúng hùng hổ
tiến vào , đạp cánh cổng tre , tay cầm roi , tay cầm thước . Cai lệ gõ đầu roi xuống đất làm tôi giật nảy mình , vội
vàng đứng thu mình lại ,sau đó , cai lệ quát bằng giọng khàn khan của người hút nhiều xái cữ: “ Thằng kia . Ông
tưởng mày chết dêm qua , còn sống đấy à , nộp tiền sưu mau.” Hoảng quá , anh Dậu vội để bát cháo xuống chiếu và
nằm lăn đùng ra , sợ quá , không dám nhìn thẳng vào bọn họ. Người nhà lí trưởng thấy vậy thì cười một cách mỉa


mai : anh ta lại sắp phải gió như đem qua đấy . Rồi anh ta chỉ luôn vào mặt chị dậu nói những lời không thương tiếc
: chị khất tiền sưu đến chiều mai phải ko , đấy …một giờ nào nữa . Anh ta nói thế làm chị Dậu mặt xanh xao tái mét
, cúm lúm , quỵ lụy , van xin tha thiết, giọng chị run run: “nhà cháu … ông li cho chau khat.”Tôi thấy thương chị
vô cùng , tôi tự hỏi ng nông dân trong xh này còn phải chịu biết bao áp lực bất công nữa đây? Ăn còn chưa no, lại
còn bị chúng thu cả thuế thân , người sống đã đành , ng chết vẫn phải nộp. thân phận của chúng tôi chẳng khác nào
con sâu cái kiến . CHị dậu cho dù đã van xin như thế nhưng cai lệ nào để cho chị đc nói hết câu . Hai mắt hắn long
song sọc , trợn ngược lên , hắn vỗ đùi cái đét , quát cùng sự lạnh lùng , vô cảm , khiến ai cũng phải khiếp sợ : “mày
định…xin khất.” Chị Dậu dù cũng biết là vậy nhưng vẫn thiết tha : “ khốn nạn…trông lại.”Tôi thấy chị Dậu đã rất
nhẫn nhịn , vì chồng con nên mới phải như thế , trong sự thiết tha kia là cả một sự khẩn cầu , mong mỏi , ánh mắt
kia chờ đợi một tia hy vọng nhỏ nhoi , có thể giúp gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc . Có lẽ ai nhìn vào cũng thấy chị
Dậu thật là đáng thương nhưng cai lệ thì đâu có thấy vậy , hắn không có cảm xúc , giọng vẫn hầm hè : “ nếu ko…
thôi à.” Rồi hắn bực dọc quay ra bảo với anh người nhà lí trưởng : “ko hơi…điệu ra đình kia”. Nhưng hình như anh
này không dám hành hạ một người sống dở , chết dở , sợ hoặc xảy ra sự gì , hắn lóng nga long ngóng , ngơ ngơ
ngác ngác , miệng ấp úng muốn nói điều gì đó nhưng không thể cất nổi một lời . Nóng ruột , tên cai lệ không chờ


anh ta ấp úng mãi thế , hắn bực dọc giật phắt cái dây thừng của anh ta rồi sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu đang run
như cầy sấy . Chị Dậu mặt xám xịt hết cả , cuống cuồng bỏ đứa con đang bế ẵm trên tay xuống đất , vội vàng chạy
đến đỡ lấy tay hắn : “ cháu van ông ... ông tha cho”. “ tha này , tha này” – Bốn tiếng của tên cai lệ làm cho người
tôi mềm nhũn , kinh sợ , tôi quay mặt đi để khỏi phải thấy cảnh thương tâm , hắn ta dã man đánh vào ngực chị Dậu
để tiếp tục sấn đến trói anh Dậu . Từ nãy đến giờ , những lời van xin tha thiết của chị Dậu như nước đổ lá khoai ,
chúng chẳng khác nào loài cầm thú là mấy , chúng không thể hiểu tiếng người cũng như là lòng nhân hậu , tình
nhân nghĩa mà mỗi con người đều phải có , hắn chỉ biết la hét , quát mắng , hành hạ những người nông dân nghèo
khổ và coi đó như là một trò vui , một trò giải trí . Tôi đang mải mê trong dòng suy nghĩ thì giật mình bởi tiếng chị
Dậu cãi lại bọn chúng : “ chồng tôi đau ốm ông ko dc phép hành hạ”. Có lẽ tức nước thì phải vỡ bờ , chị Dậu như
dòng nước tràn bờ đê , đứng lên bắt đầu phản kháng lại bọn chúng.Tên cai lệ thấy vậy thì cũng hơi bất ngờ rồi
chuyển sang thành tức giận bởi chị đã không tôn trọng hắn , hắn lại gần tát vào mặt chị một cái đánh bốp đau điếng
như là một lời cảnh cáo rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu mà cố ý trêu tức chị Dậu . Chị nghiến hai hàm răng kêu ken
két , đôi mắt từ hiền lành trở nên sắc sảo . Chị quát lớn : “ mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”. Nói rồi chị túm
lấy cổ hắn , ấn dúi ra cửa . Vì hắn loẻo khoẻo như cây gậy không có điểm tựa nên không thể đánh lại sức xô đẩy

của người đàn bà lực điền , ngày ngày lam lũ vất vả , nắng mưa lầy lội trên đồng . Thế là hắn ngã chổng kềnh trên
mặt đất , mặt tái xanh tái đỏ không kịp hoàn hồn nhưng miệng thì vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng anh chị Dậu .
Người nhà lí trưởng chộp nhanh lấy cây gậy của tên cai lệ , giơ lên chực đánh chị đậu . Nhưng đáng tiếc cho hắn
chị Dậu đã nhanh như chớp nắm đc gậy của hắn rồi họ cứ du đẩy , giằng co nhau , không đc liền áp vào vật nhau.
Hai đứa trẻ con sợ quá kêu khóc om sòm , ầm ĩ hết cả lên , tôi thương chúng quá bèn chạy đến dỗ dành chúng , thì
nhìn thấy cảnh tưởng anh Dậu nằm không yên , cứ nhấp nhổm mãi , muốn đứng dậy ngăn vợ nhưng vì không đủ
sức nên không gượng dậy nổi. Kết cục , anh chàng hầu cận ông lí yếu hơn chị Dậu nên cũng bị chị túm tóc lẳng cho
một cái ngã nhào ra bậc thềm , hắn ta thở hổn hển , vừa xoa đầu vừa kêu oai oái . Phải nói thật khi nhìn thấy cảnh
này , trong lòng tôi hả hê vô cùng vì từ trước đến nay có ai dám chống lại người “ thi hành cv” đâu , ho còn chẳng
dám , van xin còn sợ bị đánh , chứ nói gì đến cãi lại họ. Chị dậu lúc này ko còn là một ng phụ nữ dịu dàng hiền lành
nữa mà trở nên sắc sảo mạnh mẽ trong tư thế đứng trên đầu thù . Tôi biết sm ấy xuất phát từ tình yêu thương chồng
con tha thiết và hoàn cảnh bị đẩy đến mức đường cùng mà như vậy. Dâng hân hoan trong niềm vui sướng tôi lại
cảm cảm thấy lo lắng cho gia đình chị dậu khi bọn chúng chạu đi mà hét lớn : “ hãy coi chừng , chúng mày sẽ phải
trả giá”.
Tôi ra về mà lòng không yên , tôi cảm phục trước chị Dậu đảm đang , mạnh mẽ , dũng cảm chống lại bọn tay
sai nhưng cũng lo cho gđ chị . Không biết số phận của những người nông dân chúng tôi sẽ phải chịu đựng những gì
trong cái xã hội thực dân nửa pk thối nát này nữa đây.
Đề 2: Thuyết minh về chiếc kính đeo mắt.
Trong đời sống của chúng ta , chiếc kính đeo mắt là ko thể thiếu , nó là một thứ vật dụng rất quen thuộc , Không
chỉ có khả năng điều trị các tật khúc xạ,kính còn đem lại thẩm mỹ qua nhiều lọai có kiểu dáng, màu sắc phong phú.
Không ai biết tên của người làm ra cặp kính đầu tiên , chỉ biết rằng chúng ra đời đầu tiên ở Ý vào năm 1920
nhưng lúc đầu chỉ có giới thầy tu và quý tộc sử dụng nó . Người Pháp và người Anh cho rằng kính đeo mắt chỉ nên
đeo ở nhà nhưng người Tây Ba Nha tin rằng kinh đeo mắt khiến họ trờ nên quan trọng hơn , nhờ vậy kính đeo mắt
được nhiều người biết đến và dần dần được phổ biến như ngày nay . Kể từ khi ra đời tới giờ kính đeo mắt luôn luôn
được cải tiến để phù hợp với người dùng . Thiết kế của mắt kính chỉ nối với nhau bởi cầu mũi nên rất bất tiện .
Trước đó người Tây Ba Nha đã thử sử dụng dây ruy-băng để buộc mắt kính với hai tai để nó khỏi bị rơi nhưng cái
dáng đấy chẳng bao giờ được chấp nhận cả vì trông nó tạm bợ quá . Mãi đến năm 1930 một chuyên gia quang học
người Lôn-đôn mới chế ra hai càng để kính có thể gá lên mặt một cách chắc chắn . Ngoài loại kính có gọng đeo
người ta còn phát minh ra một loại kính không sử dụng gọng gọi là kính áp tròng . Danh họa Leonardo da Vanci đã



phác thảo ra chiếc kính áp tròng . Năm 1987 thợ thổi thủy tinh người Đức là Muller đã làm ra chiến kính áp tròng
đầu tiên vừa khít với mắt .
Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ
phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá
kính vào vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt. Gọng kính có thể được làm
bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính - tròng kính - thì
không thể thay đổi cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong phú, nó phụ
thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật... Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh
nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho
mắt). Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít, hạt na,… tuy có kích thước nhỏ
nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của chiếc kính.
Từ khi ra đời cho đến nay, chiếc kính đeo mắt đã có hành trăm loại khác nhau, phù hợp với nhu cầu và
chức năng của chúng đối với người dùng. Những người bịcận, viễn sẽ có những chiếc kính có thấu kình lối lõm
thích hợp đểnhìn rõ hơn. Nếu không muốn chiếc gọng kính gây vướng víu, ta có thểlực chọn chiếc kính áp
tròng, vừa tiện lợi vừa mang tính thẫm mĩ. Hay các loại kính râm bảo vệ mắt khi đi đường, có thểthay đổi
màu khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Ngoài ra, có 1 sốloại kính đặc biệt chỉdùng trong 1 sốtrường hớp như
kính bơi, kính của những người trượt tuyết, kính của những nhà thám hiểm vùng cực...khuyết điễm mà vẫn
làm nối bật những đường nét riêng. Không nên đeo loại kính có độ làm sẵn vì loại kính này được lắp hàng loạt
theo những sốđo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo
quản riêng đểtăng tuổi thọcho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùnhh cả2 tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn
thận và bỏvào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính tiếp xúc trực
tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏmắt từ6-8 lần trong vòng từ10-12 tiếng đểbảo vệ mắt.
Kính là một vật không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Nếu biết cách sử dụng và bảo
quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình. Kính mắt vừa để trang sức, vừa
giúp con người bảo vệ đôi mắt của minh. Hãy cùng biến “lăng kính”của “cửa sổ tâm hồn”
mỗi người cùng trở nên phong phú và hoàn thiện hơn.
Đề 3: Thuyết minh về danh thắng Yên Tử.
Nhắc đến những danh lam thắng cảnh , ta không thể không nói đến danh thắng Yên Tử - một nơi linh
thiêng , thu hút nhiều du khách thập phương đến vãn cảnh , cầu phúc cho con cháu , đất nước.

Yên Tử cách thị xã Uông Bí. Tỉnh Quảng Ninh 14 km về phía tây bắc. Núi Cánh Gà phía nam, dãy núi Bảo Đài
ở phía bắc như những thành quách cổ xưa mở rộng cánh cửa dẫn khách hành hương bước vào thế giới Yên Tử. Suối
Giải Oan nước trong veo uốn khúc, sỏi trắng và đá cuội rải đều. Đến xuân, rừng Yên Tử nẩy lộc đơm hoa, hoa dành
và hoa bướm vàng tươi, hoa hải đường và hoa thủy tiên nở bung những cánh mỏng phớt tím. Dân gian gọi núi Yên
Tử là núi Voi; sách xưa gọi là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng) vì quanh năm đỉnh núi bao phủ một lớp mây mù.
Phạm Sư Mạnh đã từng vịnh thơ cảnh sắc Yên Tử hữu tình nên thơ: "Lối đi có trúc, khe suối đầy hoa”.
Vào thời Ngô Quyền và dưới thời Lý, Yên Tử đã có chùa Yên Kì Sanh, Huệ Quang Thiền Sư đã từng tu luyện
nơi đây nhưng phải đến năm 1299, sau khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành để tìm đến
sự thanh tịnh , thoát vòng tục lụy, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm của Đại Việt, thì nơi đây mới trở thành cõi linh
thiêng của xứ sở.


Vượt dốc núi men theo bờ suối cheo leo ta đến với suối Vàng và Thác Tử uốn vòng theo chùa Vân Tiêu,
hợp lưu dưới gốc cây sung già rồi đổ vào suối Giải Oan. Những linh hồn các cung nữ ngày xưa như đã nhập thiền
vào chùa Giải Oan. Những cây cổ thụ xòe tán che rợp mái chùa, hoa loa kèn trắng mịn phơn phớt màu hoàng yến,
những khóm hoa rừng nở xòe năm cánh với màu xanh, chùm nhị tím bao bọc lấy 6 ngọn tháp, trong đó có tháp mộ
vua Trần Nhân Tông; cảnh suối, chùa Giải Oan càng trở nện u huyền, trầm lịch.Vượt qua một sườn núi độ 400m. ta
đừng lại am Lò Rèn, leo qua những bậc đá ta vươn tới Hòn Ngọc. Trải qua hơn 700 năm, am xưa chùa cũ đã trờ
thành phế tích, chỉ còn lại những hàng tùng cổ thụ. Hai trăm bảy mươi tư cây tùng với ba loại chính: thành tùng,
thúy tùng và xích tùng, thân cây bạc phếch mà lá cành vẫn sum suê, đứng trầm mặc như những chứng nhân của cửa
Thiền qua năm tháng.Cao hơn Hòn Ngọc độ 100 mét là khu tháp Tổ thờ Huệ Quang Thiền Sư. Ở đây có cây thông
già trên nghìn tuổi. Thân cây to tròn, ba người ôm khóng xuể. Những cây đại già, nở hoa bốn mùa hương hoa tỏa
ngào ngạt bao lấy 45 ngọn tháp với nhiều quy mô, kiểu dáng sắc màu tựa như những bông sen xòe cánh .Chùa Hoa
Yên ở phía sau Tháp Tổ trên độ cao 8 m. Cúc vạn thọ nở vàng rực hoa dong đỏ tía nở khắp sân chùa, vườn chùa và
bờ suối. Cây đại gốc sù sì đã có dư 700 tuổi nở bung những chùm hoa trắng dâng hương. Cuối thế ki 15 vua Lê
Thánh Tông lên chơi, nhìn thấy rừng hoa nở mà cảm khái đổi tên chùa từ Vân Yên thành Hoa Yên. Chùa Hoa Yên
có hơn 10 pho tượng, lớn bằng đồng, có quả chuông đúc từ thời Lê mặt khác bài minh hàng nghìn chữ nói về lịch
sử phái Thiền Sư Trúc Lâm. Bên phải chùa là suối Ngự Đội (nơi vua tắm nước trong mát và có mùi thơm của các
loài hoa rừng).
Vượt lên ta tới chùa Phổ Đà có Tháp Độ Nhân và 4 cây lão tùng; tiếp theo là am Ngọa Vân và Thác Tử. Nước Thác

Tử sôi réo trong các khe đá, mát lạnh về mùa hè ấm nóng về mùa đông. Lội qua Thác Tử, ta đến am Ngọa Vân. Cả
khu rừng trúc phủ mờ sương khói. Cảnh suối rừng, am chùa ẩn hiện trong làn mây trắng mòng nhẹ, bổng bềnh như
thực như mơ.Dừng lại am Ngọa Vân chênh vênh bên sườn núi, ở đây còn có am Thung và am Dược, nơi các tăng ni
ngày xưa giã thuốc và chế thuốc.Vượt qua am Ngọa Vân khách hành hương leo lên chùa Bảo Sái. Dốc cheo leo gần
như thẳng đứng. Với chiếc gậy trúc cầm tay. ai cũng cảm thấy lâng láng. Sen dát nở xòe 5 cánh hồng tươi, phong
lan trắng, phong lan tía. hoa loa kèn nở rọ lurơng hoa lan mát dịu. Những cây vạn tuế lá xanh biếc bốn mùa, xòe tán
như những chiếc õ xinli xinh. Cạnh giếng Thiêng là cây gạo lớn, thân tròn cao vụt, nở hoa đò rực vào tháng ba.
Dưới gốc gạo có con hổ đá, quỳ hai chân trước, nhìn vào am đá, hiền lành và chăm chú như đang trầm mặc và kính
cẩn nghe kinh.Phía trên chùa Bảo Sái là chùa Vân Tiêu, suối Hàm Long và rừng trúc bao la. Về mùa xuân, dưới
những cơn mưa bụi, măng trúc, măng mai, măng giang Yên Tử mọc lên tua tủa, nhọn hoắt như tháp bút. Giữa rừng
trúc là thế giới của loài chim, nào là cu xanh, cu đất, chào mào, cà cưỡng, cò lửa, chim chích... bay lượn làm mồi,
tiếng kêu chao chác inh ỏi. Thỉnh thoảng xuất hiện vài con hạc, mấy chú đại bàng đất, dăm ba anh bồ nông hoặc
đứng trên các mô đất cao, hoặc vắt vẻo trên ngọn thông, hiền lành và tư lự.Rời chùa Vân Tiêu ta luồn qua cổng
Trời, len lỏi trong rừng sú. Sú lộng cổ thụ cao chừng 2 m, gốc sần sùi cong queo kì dị, lưa thưa vài chiếc lá nhỏ. Ở
đây có nhiều loài chim vẹt, mỏ đỏ, đuôi xanh kêu cheo chét nghe rất vui tai. Khỏi rừng sú, du khách đặt chân tới
Chùa Đồng, chỏm cao nhất của Yên Tử. Khi tiếng chuông Chùa Đồng ngân vang ba hồi, hàng trăm con chim nhạn
bay lên lượn vòng; tức thì mây trắng ùn ùn xô tới. Cuối canh tư đầu canh năm đứng trên Chùa Đồng, khi trời quang
có thể nhìn thấy một vùng đông bắc bao la. Thích thú nhất là được ngắm mật trời đỏ rực lúc rạng đông nhô dần trên
ngấn bể màu lam.
Với những mái chùa rêu phong, những am cổ, những suối, những khóm tùng cổ thụ, rừng trúc và trăm nghìn
loài hoa,... mỗi bước chân của du khách khi leo lên sườn non vách động, tưởng như lạc lối vào cõi Phật Yên Tử
mênh mông bao huyền tích. Phật tích cùng hoa rừng như ướp hương hồn người.Đến với Yên Tử càng thấy rõ tâm
đức của ông cha, càng yêu thêm cảnh trí hùng vĩ của giang sơn gấm vóc. Hội xuân Yên Tử là một lễ hội rất lớn và
đông vui; được tổ chức hàng năm bắt đầu từ ngày 10 tháng giêng và kéo dài hết tháng 3 (âm lịch),năm nào cũng có
hàng vạn người trẩy hội. Ngày nay đã có cáp treo lên Yên Tử, nhưng leo núi lên chùa Hoa Yên, với tới Chùa
Đồng... mới thật là thích thú.


Trước đây , danh thắng vẫn chưa đc chú ý , bảo vệ nhưng đến ngày nay , sau khi đc tôn tạo lại thì nơi đây đã đc
mọi ng để ý hơn, quan tâm hơn đến việc bảo vệ môi trường, làm đẹp cảnh quan. Là học sinh chúng ta cũng nên tìm

hiểu , đọc sách báo , giới thiệu cho gia đình , bạn bè biết về nơi đây , cùng giữ gìn một danh thắng đẹp và vô cùng
linh thiêng.
Danh thắng yên tử là một niềm tự hào không chỉ với Qn mà còn toàn dân tộc . Chúng ta yêu và sẽ luôn cố gắng
giữ gìn muôn đời sau.
Đề 4: Dàn ý thuyết minh về Vịnh Hạ Long.
Mở bài:
- Giới thiệu Vịnh Hạ Long

Thân bài
1/ Vị trí địa lí + nguồn gốc:
Vị trí:
Thuộc tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội 151km về phía Đông Bắc.
Là một phần của vịnh Bắc Bộ gồm vùng biển thuộc thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần huyện đảo
Vân Đồn.
Tiếp giáp quần đảo Cát Bà phía Tây Nam; phía Đông giáp biển Đông; phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long; phía
Tây và Tây Bắc giáp đất liền chạy dài khoảng 120km bờ biển.
Diện tích: 1553km2 .Gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ.
989 đảo có tên và 980 đảo chưa được đặt tên.
b) Nguồn gốc:
- Hạ Long có nghĩa là rồng đáp xuống => vịnh Hạ Long: vịnh nước nơi rồng đáp xuống.
- Theo truyền thuyết: khi người Việt mới lập nước đã bị nạn giặc ngọai xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo
một đàn Rồng Con hạ giới giúp người Việt đánh giặc.
- Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống gọi là Hạ Long, nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long, chỗ đuôi đàn rồng quẫy
nước trắng xóa là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay).
2/ Đặc điểm – cấu tạo:
Có hai dạng: đảo đá vôi và đảo phiến thạch hình thành cách nay trên 500 triệu năm.
Trên đảo là hệ thống hang động phong phú với những nhũ đá có hình dáng và màu sắc đa dạng, huyền ảo.


Một số hang có dấu tích của người tiền sử: hang Đầu Gỗ, Bồ Nâu, Sửng Sốt, Mê Cung,….

* Vẻ đẹp của Hạ Long là một bức tranh thủy mặc được tạo nên từ ba yếu tố: đá, nước và bầu trời.
Hòn Đỉnh Hương toát lên ý nghĩa tâm linh
Hòn Gà Chọi có một triều sâu triết học
Hòn Con Cóc ngàn năm vẫn đứng đó kiện trời
Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ
Động Thiện Cung như một đền đài hoành tráng, mĩ lệ.
- Cảnh hoàng hôn ở vịnh Hạ Long một bức tranh lãng mạn và rất thơ mộng.
3/ Vai trò + ý nghĩa:
Vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1994 và 2000.
Thu hút nhiều khách du lịch trong và ngòai nước, các nhà đầu tư,….
Là nơi thích hợp để nghiên cứu thạch nhũ; nghiên cứu hệ sinh thái.
-> Mang lại nhiều nguồn lợi cho đất nước, giúp đất nước ngày càng phát triển.
Cần được khai thác một cách hợp lí và bảo vệ đặc biệt.
______
Kết bài
Vịnh Hạ Long là niềm tự hào của người dân Việt Nam.
Giữ gìn và phát huy cái đẹp, nét văn hóa của một danh lam thắng cảnh nổi tiếng là nhiệm vụ của mọi người dân
Việt Nam

Đề 5: Dàn ý cảm nhận về 8 câu thơ đầu bài “ Quê hương” – tác giả Tế Hanh.
a) Mở bài:
- Giới thiệu tác giả , tác phẩm : “ Quê hương”- Tế Hanh
- Khái quát nội dung đoạn thơ: Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá
- Trích thơ:
“ Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
……
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.”
b) Thân bài:
* Hcst: năm 1939, khi tác giả rời xa quê hương.
* Cảm nhận từng nội dung:

- 2 câu thơ đầu:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
+ “ Làng tôi” : cách nói giản dị tự nhiên
+ Nơi ấy làm nghề chài lưới, bốn bề sông nước.
-Hình ảnh thiên nhiên:
“ Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”
+ Biện pháp liệt kê, nhịp 3/2/3


+ Buổi sáng đẹp trời, báo hiệu một chuyến ra khơi thuận buồm, xuôi gió.
- Hình ảnh người dân chài:
“ Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”
+ Người dân lao động khỏe mạnh , vạm vỡ.
+ Khí thế sôi nổi, trẻ trung.
- Hình ảnh những chiếc thuyền:
“ Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã”
+ Chiếc thuyền như con tuấn mã hừng hực, phấn khởi .
+ Động từ, tính từ mạnh: “ hăng “, “ phăng” , “vượt”.
- Hình ảnh cánh buồm:
“ Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.”
+ Biện pháp so sánh bất ngờ, độc đáo.
+ Nhân hóa, đảo động từ mạnh lên đầu câu.-> khát khao chinh phục và chế ngự thiên nhiên.
* Đánh giá nội dung, nghệ thuật , mở rộng:
- Tế Hanh như họa sĩ tài ba…
- Nghệ thuật hay đặc sắc với ngôn từ rung cảm mãnh liệt.
c) Kết bài:
- Đọc những vần thơ lai láng và dạt dào cảm xúc, tôi thấy nhớ quê hương mình biết mấy!




×