Phân tích làng nghề rèn Đa Sỹ
Phần mở đầu
Làng nghề truyền thống phát triển không những thúc đẩy du lịch phát triển mà còn góp phần thúc
đẩy kinh tế địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân
dân, góp phần giảm bớt các tệ nạn xã hội. Đồng thời cũng góp phần quan trọng vào việc khôi phục,
bảo tồn phát triển một cách tốt nhất, tối đa nhất các giá trị của làng nghề.
Trong những năm gần đây, với xu thế phát triển và hội nhập kinh tế thế giới rất nhiều làng nghề ở
Việt Nam nói chung và Đa Sĩ nói riêng đã được khôi phục và phát triển đảm bảo được đời sống, đáp
ứng được mong muốn của nhân dân các làng nghề truyền thống đó là bảo tồn và phát triển tốt
nghề nghiệp của cha ông trao truyền và có thể làm giàu ngay trên mảnh đất của quê hương. Mặt
khác, làng nghề truyền thống là một trong số những đối tượng đang được quan tâm khai thác nhằm
đem lại hiệu quả kinh tế góp phần xây dựng đất nước. Một trong số những làng nghề đang được
quan tâm và xem xét đầu tư để đưa vào khai thác phục vụ làng nghề rèn truyền thống Đa sĩ. Đây là
một làng nghề chuyên chế biến và rèn các sản phẩm từ kim loại nơi có rất nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển. Chính từ những nguyên nhân trên đã khiến tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giới thiệu
làng nghề rèn Đa Sĩ từ góc độ triết học và đưa ra bình luận.” Đề tài này trước hết mong
muốn làm phong phú thêm sự hiểu biết về một làng nghề truyền thống- làng nghề rèn đồng thời
góp một phần nhỏ vào việc xây dựng và phát triển làng nghề truyền thống tại địa phương.
I)giới thiệu về làng nghề rèn đa sĩ
Nép mình bên dòng sông Nhuệ nên thơ, làng cổ Đa Sĩ xinh đẹp ngày nay được du khách biết đến là
vùng đất của nhiều danh y, danh tướng, tiến sĩ, trạng nguyên lẫy lừng thiên hạ một thời. Theo sử sách,
trước đây làng có tên là làng Sẽ, sau đổi thành Đan Khê, Huyền Khê, Đan Sĩ, và cuối cùng là Đa Sĩ (từ
giữa thế kỷ 18). Cái tên Đa Sĩ được dùng cho tới ngày nay mang ý nghĩa là vùng đất khoa bảng với
nhiều tiến sĩ. Quả thật, làng Đa Sĩ chưa đầy 3.000 dân là nơi sản sinh ra 11 Tiến sĩ, 1 Lưỡng quốc trạng
nguyên được lưu danh trên văn bia Quốc Tử Giám. Nổi bật trong số đó là Tiến sĩ Hoàng Trình Thanh làm
quan qua bốn triều vua, là người có công lập nên "Vườn học" duy nhất ở nước ta dưới thời nhà Lê, là
Lưỡng quốc trạng nguyên Hoàng Nghĩa Phú được người đời truyền tụng với Sớ 7 điều dâng vua. Hay
như danh y Hoàng Đôn Hòa được tôn vinh là "Lương y dược đại vương" dưới thời Lê, được hậu duệ đời
đời ghi ơn với 208 phương thuốc trị bệnh cứu người, được coi là ông tổ ngành quân y Việt Nam, và
được tôn thờ là Thành Hoàng làng.
Có 38 đạo sắc phong vua ban c ho các vị tiến sĩ làng Đa Sĩ được lưu giữ tới ngày nay. Không chỉ là vùng
đất có truyền thống hiếu học, Đa Sĩ còn tự hào là một làng nghề có sức sống mạnh mẽ được duy trì từ
hàng trăm năm nay: nghề rèn cổ truyền.
Theo lời các bậc cao niên trong làng và những tài liệu của cố giáo sư Trần Quốc Vượng, nghề rèn ở Đa
Sĩ có từ thời Hùng Vương thứ 18. Khi đó, những người dân trong làng rèn các vũ khí thô sơ như giáo
mác, gậy gộc cung cấp cho các lạc hầu, lạc tướng giữ yên bờ cõi và rèn các nông cụ phục vụ cho sản
xuất lao động như cuốc, xẻng…
Nhưng phải đến thời Trần thì Đa Sĩ mới chính thức trở thành làng rèn chuyên nghiệp khi hai cụ Nguyễn
Thuật và Nguyễn Thuần đến từ Thanh Hóa truyền dạy bí quyết nghề rèn để tạo ra những sản phẩm tinh
xảo cho dân làng. Thời kỳ kháng chiến, Đa Sĩ là nơi chuyên sản xuất và cung cấp giáo mác, dao kéo,
quân dụng phục vụ chiến đấu.
Các sản phẩm rèn của làng Đa Sĩ hiện diện ở mọi nơi, từ Bắc vào Nam, có mặt trong mọi gia đình, góp
phần tham gia vào rất nhiều khâu sản xuất, ngành nghề. Sản phẩm rèn Đa Sĩ phong phú về chủng loại,
kiểu dáng, kích thước, từ chiếc cày, bừa, cuốc, xẻng, liềm gặt… phục vụ nông nghiệp đến các chi tiết
máy phục vụ công nghiệp, các sản phẩm tràng, đục dành cho nghề mộc, dao quắm, búa kiểm lâm dùng
trong lâm nghiệp, hay đơn giản là những con dao, cái kéo dành cho các bà nội trợ. Ngoài những sản
phẩm truyền thống, thợ rèn Đa Sĩ còn sản xuất những công cụ chuyên dụng như cuốc dùng trong khảo
cổ, dao xén dành riêng cho ngành công nghiệp giấy. Có thời kỳ, sản phẩm rèn của Đa Sĩ được quân đội
đặt với số lượng lớn bao gồm các công cụ phục vụ tăng gia sản xuất như cuốc bàn, búa chim… Để có
được những sản phẩm tưởng chừng đơn giản ấy, những người thợ rèn Đa Sĩ đã phải trải qua rất nhiều
công đoạn gia công. Tùy thuộc vào từng loại sản phẩm nhưng nguyên liệu làm rèn phổ biến vẫn chỉ là gỗ
(để làm cán) và thép (sản phẩm). Theo anh Hoàng Văn Toàn - một thợ rèn trong làng thì trước đây
nguyên liệu được người dân tận dụng từ những chiếc nhíp xe bỏ đi, sau này là tôn, thiếc, lẹp (phần uốn
quanh cổ dao) phần lớn được nhập từ Nam Định.
Khoảng 10 năm về trước, sản phẩm của làng rèn Đa Sĩ hầu hết được làm thủ công. Đầu tiên là xẻ sắt
(cắt phôi). Những người thợ sẽ cắt các bản sắt thành hình dạng của sản phẩm, sau đó cho lên lò nung
với nhiệt độ gần 1.000 độ. Tùy thuộc vào từng loại nguyên liệu thép và sản phẩm tạo ra dày mỏng, thời
gian nung sẽ khác nhau. Khi phôi thép nung có màu đỏ trắng sẽ được những người thợ bỏ ra quai búa.
Dao kéo của làng rèn Đa Sĩ thường rất bền bởi kỹ thuật nung thép của người Đa Sĩ là không được để
"phát hoa" (nung quá lửa) vì như thế dao sẽ dễ bị mẻ, hay khi vừa rèn xong sẽ tôi qua nước đủ thời gian,
nếu không dao sẽ bị giòn, dễ vỡ như gang. Do yêu cầu thao tác quai búa phải nhanh, mạnh, dứt khoát,
đòi hỏi rất nhiều sức lực của người thợ, vì thế người đứng lò hầu hết là các thanh niên trai tráng trong
làng.
Khi những sản phẩm thô đã qua giai đoạn làm phôi, nung, rèn, thì đến giai đoạn "dẻo" (gọt bỏ những
phần sắt thừa) để tạo thành hình dáng hoàn chỉnh của sản phẩm, sau đó được cho vào lò nung lại cho
đỏ trắng rồi "tôi" qua nước trắng khoảng 10 - 15 độ hoặc dầu để lấy màu rồi đến công đoạn gọt cánh.
Người thợ gọt cánh phải gọt thẳng xuôi theo chiều lưỡi dao nghiêng 45 độ, tay gọt phải khéo, đều để lưỡi
dao hay lưỡi kéo có độ mỏng đều nhau, như thế sản phẩm mới có độ sắc. Các công đoạn tiếp theo mài
nước, gạt màu, đánh phớt bóng, bôi dầu, tra cán thường được người phụ nữ và thiếu niên đảm nhiệm
bởi khâu này chỉ đòi hỏi kỹ thuật chứ không cần đến sức lực. Trước đây, người dân Đa Sĩ mất rất nhiều
công sức để làm ra được một sản phẩm. Theo xu thế phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện nay
rất nhiều hộ gia đình ở Đa Sĩ đã đầu tư nhập máy móc nhằm giảm bớt sức người và tăng năng suất làm
việc. Giờ đây, máy móc đã thay cho bàn tay con người ở hầu hết các gia đình. Những khâu gia công yêu
cầu nhiều sức lao động đã được máy móc thay thế như rèn bằng búa máy, sạt lưỡi bằng máy... Nhờ vậy,
số lượng và chất lượng sản phẩm đã được nâng lên rõ rệt. Cũng nhờ có máy móc, rất nhiều gia đình ở
Đa Sĩ đã mở rộng sản xuất với quy mô lớn như xưởng Hương Tưởng chuyên làm dao chặt, xưởng
Chiến Đoán làm dao thái hay xưởng nhà ông Đạo làm dao nhỏ, dao nhọn.
Hiện nay, mỗi ngày thợ rèn Đa Sĩ có thể mài hàng trăm con dao chất lượng cao cùng với rất nhiều các
sản phẩm khác để bán rộng rãi trên khắp cả nước, và xuất khẩu đi các nước Lào, Campuchia. Sản phẩm
làm ra bao nhiêu đều được tiêu thụ hết, vì thế đời sống của người dân ngày càng khấm khá hơn.
Cùng với tiến bộ về kỹ thuật và lòng yêu nghề, người dân Đa Sĩ đã gìn giữ được những nét truyền thống
của làng nghề xưa và từng bước đưa nghề rèn phát triển mạnh mẽ cùng thời gian trong xu thế hội nhập
và phát triển của cả nước. Và cứ vào ngày 27 tháng 3 và 25 tháng tám âm lịch hàng năm, người dân
làng Đa Sĩ lại tổ chức cúng lễ hai cụ tổ nghề là Nguyễn Thuật và Nguyễn Thuần rất linh đình nhằm tưởng
nhớ những người khai nghiệp cho dân làng có được cuộc sống ấm no như ngày nay.
II)phân tích làng nghề rèn từ góc độ phương thức sản xuất.
Từ đầu làng cho đến cuối làng, tiếng quai búa ngày đêm nghe nhộn nhịp, đều đều và vang vọng, làm ra những sản
phẩm dao kéo nổi tiếng về độ bền và độ sắc. Thương hiệu hàng rèn thủ công Đa Sỹ nổi tiếng khắp nơi...
Làng Đa Sỹ, phường Kiến Hưng, quận Hà Đông, Hà Nội, nơi nổi tiếng cả làng làm nghề rèn, làm ra những sản phẩm
truyền thống các loại dao, kéo dùng trong đời sống hàng ngày; Cuốc, xẻng, liềm cắt lúa, lưỡi cày dùng cho việc nhà
nông; Hàng đục gỗ, tràng cho nghề mộc. Bí quyết gia truyền để làm ra sản phẩm sắt rèn được khách hàng tín nhiệm
là cách tôi thép và làm bóng mặt sản phẩm. Trong làng có nhiều thợ rèn sắt tên tuổi như: ông Đoán, Hải Tâm
chuyên làm dao phay và dao cắt chọc; ông Thú, Hậu, Đức chuyên làm kéo, ông Mộc chuyên làm dao cắt thuốc nam,
cắt nhựa.
Ngày xưa,Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, làng nghề đã rèn dao, kiếm và mã tấu cho du kích xã đánh giặc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, thợ rèn làng đã làm hàng nghìn loại dao đi rừng cho bộ đội hoạt động, chiến đấu ở
vùng rừng núi, do Nhà máy Z79 (Văn Điển, Thường Tín) đặt hàng.người dân cũng đã tham gia quân đội, nhập ngũ
tháng 4-1972, làm lính thợ sửa chữa xe tăng đơn vị M26, C11 thuộc miền Đông. Năm 1977, .Tiếp tục theo nghề rèn
truyền thống của gia đình. Người dân nơi đây chuyên nhận làm các loại dao thái thuốc nam và cắt nhựa; lưỡi dao
được làm từ thanh nhíp ô tô cũ mua về, cắt ra từng mảnh nhỏ, đem rèn và tôi thép thành dao cắt. Mỗi bộ dao cắt
gồm 10 lưỡi cắt. Làm dao cắt thuốc cũng phải có kinh nghiệm và bí quyết riêng, không phải thợ rèn nào cũng làm
được…”.
Ở làng Đa Sỹ, mỗi nhà làm nghề rèn đều có một lò rèn nhỏ thủ công trong nhà. Ngày trước ông bố ngồi rèn, con trai
đứng quai búa hoặc đứng thụt hơi (bơm hơi) bằng tay để đốt cho than đá trong lò rực lửa nung sắt. Thời nay, làng
đã có điện dùng quạt đốt lò nung sắt, dùng ga cắt sắt thành từng miếng nhỏ và dùng búa máy thay cho kiểu quai
búa thủ công, giảm bớt sức lao động, tăng thêm năng suất, mẫu mã sản phẩm rèn cũng tinh xảo và đẹp hơn. Phụ
nữ làng Đa Sỹ quai búa rèn sắt làm dao cũng giỏi. Bà Hiếu vợ ông Mộc khoe, mình bà đứng rèn cả ngày cũng làm
được chục con dao cắt các loại. Nhà ông Mộc cũng vừa mua thêm một máy dập sắt chạy bằng điện, giúp gia đình
ông có thêm nhiều sản phẩm rèn mới và tạo thêm thu nhập cho nhà mình.
Ông Đinh Công Đoán, nguyên Chủ tịch Hội làng nghề rèn Đa Sỹ, thợ rèn nổi tiếng chuyên làm dao bổ thép trong
làng, cho biết: “Thời còn hợp tác xã, làng Đa Sỹ đã có xưởng rèn Tiền Phong và xưởng rèn dụng cụ nông nghiệp. Xã
viên ngày đó làm công tính lương theo thóc, sản phẩm làm theo kế hoạch trên giao xuống, vật liệu sắt thép tỉnh cấp
cho. Thời đó làng nghề Đa Sỹ làm ăn cầm chừng vì có bỏ nhiều công sức ra làm cũng không giàu được, người làng
vẫn làm nông nghiệp, cấy lúa là chính. Đất nước mở cửa và hội nhập, làng nghề rèn Đa Sỹ được phép bung ra, mỗi
nhà mở một lò rèn riêng, tự sản xuất và tự lo tiêu thụ sản phẩm, đời sống của các hộ làm rèn được tăng lên rõ rệt,
nhiều nhà trở nên khá giả”.
Hiện nay làng Đa Sỹ có 850 hộ/1.300 hộ làm nghề rèn. Các nhà làm nghề rèn trong làng đã đầu tư mua máy khoan,
máy dập, máy cắt thay cho những công việc làm bằng tay. Cả làng đã đầu tư mua được 20 chiếc búa máy dùng để
rèn sắt. Hội làng nghề rèn Đa Sỹ hiện có 1.000 hội viên. Hằng năm, cứ vào dịp đầu năm, Hội đầu tư kinh phí từ 15
đến 20 triệu đồng để dạy nghề và nâng cao tay nghề cho con em trong làng. Sản phẩm dao kéo làng Đa Sỹ được
xuất đi các tỉnh, xuất sang thị trường Lào và Cam-pu-chia. Hội đã mượn nhà của đình làng Đa Sỹ làm nơi trưng bày
và giới thiệu sản phẩm rèn của làng, nơi đón tiếp du khách đến tham quan.
Nghề rèn Đa Sỹ đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho con cháu trong làng, giữ vững được thương
hiệu làng nghề rèn truyền thống vùng đất Thăng Long…
II)phân tích làng nghề từ góc độ ý thức xã hội
Ở Đa Sỹ, rất ít nhà có khuôn viên thật ngăn nắp, vì xưởng sản xuất đặt ngay trong khu vực sinh hoạt, chỉ cách phòng
ở chừng vài mét, ngồi trong nhà nói chuyện phải nói thật to, mà từng viên gạch dưới chân cứ rung lên theo nhịp đập
của búa máy.
Tờ mờ sáng những xưởng rèn đã bắt đầu hoạt động, đèn điện sáng choang. Người lạ đến làng đôi khi giật mình vì
âm thanh từ những xưởng rèn, nhưng người dân Đa Sĩ đã quen tiếng búa đập sắt từ lâu. Với họ đó chính là một
phần của cuộc sống.
Một trong những "cao thủ” trong làng rèn Đa Sĩ có thể kể ra đó là ông Nguyễn Hồng Phấn. Gia đình ông Phấn có nhà
ngay mặt đường chính của làng, làm nghề rèn đã 4 đời nay. Sản phẩm chính của gia đình ông là các loại dao thái,
chặt. Cầm trên tay con dao sắc lẹm ông chặt vào thanh sắt tóe lửa mà lưỡi dao vẫn y nguyên không sứt mẻ gì. Ông
bảo, dao này mà chặt xương bò, xương lợn thì ngọt như chặt chuối…Ở làng rèn Đa Sỹ, mỗi gia đình đều có ký hiệu
riêng để khẳng định thương hiệu sản phẩm của mình. Ông Phấn đóng dấu lên dao kéo chữ Khởi- đó là tên người
con trai đầu của ông.
Trong làng có rất nhiều nghệ nhân, mỗi người giỏi một thứ. Nghệ nhân Bính Nga giỏi rèn rừu, búa, còn nghệ nhân
Hoàng Văn Trụ thì chuyên về bào… Ông Sử cho biết: "Dao kéo mà chuốt bằng máy thì không thể sắc bằng đập búa
bằng tay”. Theo lời ông, suốt mấy đời làm rèn thủ công gia đình ông đã quen với tiếng đập búa rồi. Bản thân ông
cũng thế, mỗi một nhát đập búa xuống miếng phôi thép đỏ lừ nóng rực để rèn ra con dao cái kéo còn có tình cảm
của người làm nghề trong đó nữa, sản phẩm làm ra như thể có hồn. Nhiều người khuyên ông mua máy cho nhàn
nhưng ông muốn giữ nghề truyền thống này bằng chính những sản phẩm chất lượng chứ không chạy theo số lượng.
Gia đình ông Sử làm nghề rèn dao kéo đã 5 đời nay. Bố ông từng là thợ bậc cao, chuyên làm mẫu sản phẩm cho các
gia đình học tập, hoặc chế sản phẩm theo bản vẽ của khách hàng. Những người làm mẫu dao kéo ở làng Đa Sỹ rất
giỏi, khách hàng chỉ cần nói qua ý tưởng là họ có thể làm ra sản phẩm dao kéo giống y hệt.
Một ngày làm việc của gia đình ông Sử bắt đầu từ 6 giờ sáng. Bếp than được đốt lên, chiếc quạt điện mi ni thổi thay
cho cái bễ, phôi thép được nung hồng lên rồi đặt lên đe, vợ ông nâng búa tạ đập dẹt thành hình con dao. Ba lần
nung đập như vậy thì cơ bản rèn xong bản thô một con dao.
Làm nghề vất vả thế này thu nhập có khá không, tôi hỏi. Ông Sử bảo làm thủ công thế này năng suất thấp, trung
bình mỗi ngày cũng kiếm được trên trăm ngàn. Hôm làm nhiều thì vài trăm…
Tìm hiểu được biết, ngoài một số gia đình nghệ nhân sản xuất những sản phẩm chất lượng cao, phần lớn các hộ
còn lại trong làng vẫn chỉ làm sản phẩm bình dân, mẫu mã, hình thức chưa hấp dẫn, khó cạnh tranh. Thậm chí giờ
đây danh tiếng của làng cũng đã mai một, bởi nhiều hộ chạy theo lợi nhuận, sản xuất hàng kém chất lượng. Chính vì
vậy, dao kéo Đa Sỹ vẫn chưa thâm nhập được vào phân khúc thị trường hàng gia dụng cao cấp, ít bày bán trong hệ
thống các cửa hàng lớn hay những trung tâm thương mại.