A.
Giới thiệu chung.
Hiện nay phong trào nuôi kỳ nhông đang phát triển rất mạnh ở các vùng
duyên hải nam trung bộ và đặc biệt là ở các tỉnh thành Quảng Trị đến
Bình Thuận.theo các chyên gia, thịt kỳ nhông có hàm lượng đạm cao,
giúp bồi bổ sức khỏe đặc biệt là cho người ốm, phụ nữ mới sinh con.Kỳ
Nhông cũng là món nhậu khoái khẩu của dân nhậu, Kỳ nhông có tác
dụng bổ thận, tráng dương tăng cường chức năng sinh lý vì vậy các món
ăn từ kỳ nhông đang được các thực khách lựa chọn làm món ăn khoái
khẩu mỗi khi có dịp ăn uống tiệc tùng cho bữa ăn. Các món ngon từ kỳ
nhông phải kể đến như Dông nướng, gỏi Dông, chả Dông, cháo Dông…
Do đó thì nhu cầu tiêu dùng kỳ nhông ngày càng tăng cao trong khi đó
lượng cung hiện nay vẫn còn rất hạn chế..bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư
cho nuôi kỳ nhông không quá cao và lợi nhuận thu được tương đối lớn.
với giá mua 1kg dông giống khoảng 10 con, giá 450.000đ. Đầu tư 45
triệu mua 100kg dông giống được 1000 con, nếu nuôi tốt khoảng 8 tháng
dông đạt 300g/con sẽ cho 300 kg dông. Giá dông thương phẩm
300.000đ/kg, sẽ thu được 90 triệu đồng.
Do kỹ thuật nuôi kỳ nhông cũng khá là đơn giản không cần đòi hỏi các
phương tiện kỹ thuật hiện đại do đó rất phù hợp với nuôi trồng tại các hộ
gia đình.Cùng với đó các hộ gia đình có thể tận dụng được các nguồn
nhân lực trong chính gia đình mình cũng như thừa hưởng được kinh
nghiệm của các người đi trước.
Từ những thực trạng trên chúng ta có thế mở một mô hình nuôi kỳ nhông
phù hợp nhất với các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Ninh Thuận do nơi đây có
điều kiện sống rất phù hợp với mô hình nuôi kỳ nhông và đem lại lợi
nhuận cao nhất.
B. Kỹ thuật nuôi Kỳ Nhông ( Dông)
I.
Giới thiệu về nhông và cách chọn giống.
1
a.Tên gọi: Tên Việt Nam gọi là nhông, nhông có nhiều giống, nhông
vùng đất gọi là nhông cát benly.
Nhông cát (Leiolepis belliana Gray) tên khác là dông cát, nhông biển,
nhông cát sử nữ sinh... là một loài bò sát giống thằn lằn. Thân hơi dẹt,
chân mảnh, lưng nhẵn bóng, có vảy nhỏ, bụng màu nhạt có vảy lớn
hơn.Đuôi dài, thuôn nhọn.Da có màu sắc biến đổi tùy lúc. Nhông cát có
loại to gọi là nhông thềm và loại nhỏ bằng ngón tay là nhông que. Nhông
con được gọi là nhông cắc ké. Nhông cát chỉ có ở các tỉnh miền Trung và
là đặc sản từ Quảng Trị đến Bình Thuận.Loài này sống ở những cồn cát
dọc bờ.
b. Vóc dáng:
Giống nhông này có đặc điểm là có các đốm nhỏ trên lưng không liền
nhau để tạo ra một mạng lưới hoặc những đường dọc và dọc theo hông
có các vệt lớn màu đen, cam
c. Tập tính sinh hoạt và môi trường sống:
- Loài bò sát rất đẹp này thường ra khỏi hang để sưởi ấm vào buổi sáng
để điều hoà nhiệt độ cơ thể (chúng thuộc loài máu lạnh), tìm thức ăn và
gây ấn tượng đối với các con cái xung quanh cả ngày, rồi rút vô hang vào
xế chiều, đóng cửa hang lại bằng cát.
- Kỳ nhông sống và làm tổ trên đất cát, từ khi còn nhỏ cho tới khi thành
phẩm khoảng 8-10 tháng. Kỳ nhông ăn lá cây, rau quả, nụ hoa quả và
chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn trứng bọ cánh cứng, bướm và các côn
trùng khác như sâu, giun. . . uống nước it, phân không đáng kể, môi
trường sống tự nhiên không có dịch bệnh, ít tốn công chăm sóc. Đặc biệt,
chúng leo trèo rất giỏi và có thể nhảy.
* Hoạt động theo mùa:
- Mùa hoạt động: Dông thường hoạt động vào mùa nắng ấm, từ tháng 4
đến tháng 10. lúc đó điều kiện nhiệt độ không khí thường 27-38 độ C,
2
nhiệt độ mặt đất 27-39 độ C và độ ẩm 30-80%. Dông ngừng hoạt động
hoàn toàn vào những ngày mưa. Thậm chí khi có giông hay trời âm u là
chúng tìm đường trú ẩn. Không bao giờ thấy dông hoạt động vào lúc trời
mưa hay mưa vừa tạnh.
- trú đông: Mùa trú đông của dông cát thường là tháng 11 đến tháng 3
năm sau. Vào thời kỳ này, nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 25 độ C và độ
ẩm có lúc cao tới 85-90% . Dông lấp của hang và nằm lì trong hang. Tới
mùa xuân khi nắng ấm về nhiệt độ lên cao dần, dông mới chui ra khỏi
hang để kiếm ăn.
* Hoạt động ngày, đêm:
- Dông hoạt động vào ban ngày, buổi sáng chúng ra khỏi hang lúc 8-9
giờ, tới 13 giờ, 13 giờ 30 trưa thì chúng lại vào hang. Dông rất cảnh giác,
nó không bao giờ nhảy ngay lên mặt đất.
- Nó thường thò đầu ra khỏi hang nghe ngóng rất kỹ, có khi tới 5, 10
phút sau đó mới chui ra. Lúc này nó phơi nắng, đó là đặc điểm của loài
bò sát. Chúng phải tăng cường tích nhiệt dưới ánh sáng mặt trời. Một lúc
sau nó mới đi kiếm ăn. Thời gian hoạt động của dông không nhiều, trung
bình một ngày chúng chỉ chui ra khỏi hang 4-5 giờ đồng hồ để đi kiếm
ăn. Thời gian còn lại chúng ằm yên trong hang để tiết kiệm năng lượng
d. Sinh trưởng, phát triển và sinh sản:
- Đặc điểm: dông gần giống con tắc kè, da hồng đỏ, trên lưng có lớp gai
chạy dọc theo xương sống. Nuôi khoảng 8 - 10 tháng thì bán thịt, đạt
trọng lượng 13 – 15 con/kg, thịt dông trắng như thịt gà.dông trưởng
thành đạt 6 tháng tuổi, sinh sản rất nhanh, thời gian mang thai 10 ngày,
một lần đẻ từ 3 – 6 trứng, 45 ngày sau trứng nở ra dông con, tiếp tục nuôi
thêm 1 tháng nữa là có thể bán giống.
- Trong chăn nuôi nhân tạo, trứng kỳ nhông sau khi đẻ ra phải có đủ độ
3
ẩm mới nở ra con. Thực tế cho thấy, trứng đẻ dưới đất thì nở ra con, còn
những trứng đẻ ở trên sàn thì chết khô do thiếu ẩm.
- Dông dễ nuôi, ít bệnh tật, tỷ lệ nuôi sống 95% trong khi chi phí đầu tư
thấp, ít tốn công chăm sóc hơn các loài vật khác nên hiệu quả kinh tế
cao. Đặc biệt chúng leo trèo rất giỏi và có thể nhảy xa cả mét từ cành cây
này sang cành cây khác.
- Kỳ nhông nói riêng và côn trùng nói chung như bọ xít, bọ cạp, bọ hung,
sâu đục thân, kiến, dế mèn... là những loại côn trùng phổ biến trên các
loại cây trồng, chỉ cần nghe tên thôi cũng làm cho nhiều người "ghê sợ".
Thế nhưng, trong những nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học đã phát
hiện ra rằng côn trùng có rất nhiều tác dụng bổ ích đối với con người,
đặc biệt có thể sử dụng chúng như những món ăn thuộc hàng "đặc sản"
với những tác dụng như "cải lão hoàn đồng"...
- Tương tự, một số loài khác cũng có thể chế biến thành những món ăn
ngon như món dế mèn pha áu trừng, sâu chít ngâm rượu, bột vỏ xác ve
sầu, bọ hung hại rễ cây nướng. Đặc biệt nhất là món trứng kiến với tác
dụng "cái lão hoàn đồng" (giữ da đẹp, người trẻ lâu). Từ trứng kiến có
thể chế biến thành các món ăn độc đáo như xôi trứng kiến, bánh kim
cương, mướp đắng xào trứng kiến...
- Giá trị và thị trường:
Hiện nay, thịt kỳ nhông đang là món "đặc sản" được các nhà hàng, quán
nhậu tiêu thụ rất mạnh.
* Tầm quan trọng của Kỳ Nhông
-Là một nghề mới đầy triển vọng
-Lợi ích kinh tế cao
-Giá trị dinh dưỡng cao
-Ứng dụng trong y học
e. Thời kỳ sau khi lột xác: (20-31 ngày) Thời gian này được tính từ lúc
hoàn thành lần lột xác trước đến lần lột xác tiếp theo. Sau khi lột da
xong, da của nó bóng đen, các hoa văn ở cổ, đầu , lưng và hai bên sườn
4
đều có màu vàng cam. Điều này quan sát thấy rõ ở con đực. Phần da
dưới bụng của chúng sẽ chuyển sang màu sáng trắng. Dông đi kiếm ăn
ngay, nó ăn khỏe và hoạt động rất sôi nổi.
- Tóm lại ta có thể thấy toàn bộ chu kỳ lột xác của dông cát kéo dài từ
30-45 ngày. Nó thường lột xác vào khoảng tháng 4 đến tháng 11.lúc đó
nhiệt độ thường là 28-330C và độ ẩm không khí từ 80-85%. Dông sẽ lột
xác 7-8 lần/năm.Vào thời điểm ngủ đông dông cát không lột xác.
f. cách chọn giống.
Phong trào nuôi dông phát triển mạnh cũng đặt ra vấn đề cung cấp giống
cho hộ nuôi. Trước đây giống dông thường đi bắt tự nhiên, tuy nhiên bắt
trong tự nhiên không thuần nhất, có con đã lớn, con còn nhỏ, trung bình
1 kg dông chỉ khoảng 30 con. Dông có khả năng sinh sản trong điều kiện
nuôi nhốt nên thường các hộ chỉ thả giống ban đầu, còn sau đó tự gây
giống để duy trì và phát triển đàn.
Loại nhân giống nhân tạo trong hố nuôi, loại này đồng cỡ, chăm sóc nuôi
dưỡng dễ hơn.Nguồn giống dông hiện rất hiếm, cung chưa đủ cầu. Chọn
những con dông khoẻ mạnh, không bị thương tật, dị hình để nuôi.
II. cách nuôi kỳ nhông.
1. Chuồng nuôi: dùng gạch xây tường rào xung quanh cao 1.2m, bên trên
có viền tole láng 30cm để dông không bò được ra ngoài, dưới đáy
chuồng đổ 1 lớp xi măng dày khoảng 2cm (để con dông không thể đào
hang chui ra) nhưng phải đảm bảo không bị ứ nước khi trời mưa.
Sau đó, đổ lớp cát dày 1m lên đáy chuồng (loại cát có màu đỏ mà loài
dông ưa sống); đắp gò, trồng cỏ tạo khoảng trống cho con dông chạy
nhảy, đào hang. Do dông thích sống trong hang nên nó tự đào hang sâu
30cm để sống. Mùa mưa nó chui lên xuống liên tục, mùa nắng trú ẩn ở
dưới hang cho mát.
Chuồng nuôi phải cách xa khu dân cư, tránh sự rượt bắt của mèo và
5
chuột cống. Trong khuôn viên nuôi nên trồng vài cây trứng cá khi quả
chín rụng xuống làm thức ăn cho dông.
2. Thức ăn:
Thức ăn chủ yếu của kỳ nhông là thực vật, lá cây, rau, quả, nụ hoa quả
và chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn trứng bọ cánh cứng, bướm và các côn
trùng khác như sâu, giun...
Nguồn thức ăn "bình dân" này rất dễ kiếm, dễ đáp ứng. Điều này, tạo ra
công ăn việc làm cho một số hộ gia đình, đồng thời phòng tránh được
sâu rầy phá hoại mùa màng...
3. Chuồng nuôi, hồ nuôi:
Việc làm chuồng cho kỳ nhông nói riêng và côn trùng nói chung không
hề đơn giản, mỗi loại thú đều có cách thiết kế riêng nhưng tựu trung lại
là chuồng phải luôn có cây xanh, ánh nắng, hồ nước, cát… như môi
trường tự nhiên.
III. Chăm sóc nuôi dưỡng:
Chăm sóc nuôi dưỡng kỳ nhông rát đơn giản, chủ yếu canh giữ là chính,
buổi sáng ra chợ xin hoặc mua rau, quả... về bỏ vào chuồng cho chúng ăn
và phun nước tạo ẩm đất cát là xong.
1. kĩ thuật nuôi dông
- Kỳ nhông sống và làm tổ trên đất cát, từ khi còn nhỏ cho tới khi thành
phẩm khoảng 8-10 tháng. Kỳ nhông ăn lá cây, rau, quả, nụ hoa quả và
chồi cây, ngoài ra chúng còn ăn trứng bọ cánh cứng, bướm và các côn
trùng khác như sâu, giun... uống nước ít, phân không đáng kể, môi
trường sống tự nhiên không có dịch bệnh, ít tốn công chăm sóc.
- Nuôi kỳ nhông đơn giản, ít vốn, ít dịch bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế
cao và an toàn dịch bệnh, trong khi công lao động không cần nhiều, thị
trường đang hút hàng...
2. Phòng trị bệnh:
Kỳ nhông là loài bò sát có sức đề kháng rất tốt. Tuy nhiên cần lưu ý
thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, thức ăn phải khô ráo không bị
6
ẩm ướt.
IV. Thu hoạch:
Lứa đầu từ khi thả giống tới lúc thu hoạch khoảng 6-7 tháng, trọng lượng
đạt 0,5kg/con trở lên.
Hiệu quả kinh tế: 1kg dông giống khoảng 10 con, giá 450.000đ. Đầu tư
45 triệu mua 100kg dông giống được 1000 con, nếu nuôi tốt khoảng 8
tháng dông đạt 300g/con sẽ cho 300 kg dông. Giá dông thương phẩm
300.000đ/kg, sẽ thu được 90 triệu đồng.
Các món ăn được chế biến từ thịt nhông là những món rất ngon, lạ, hấp
dẫn và là những món không thể thiếu trên bàn của dân "sành" nhậu.
Trên đây là mô hình nuôi kỳ nhông rất hay và mang lại lợi ích kinh tế
lớn cho nông dân nuôi trồng mà dễ chăn nuôi và không tốn nhiều công
chăm sóc của bà con.
Xin chân thành cảm ơn.
7