Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Khảo sát hiện trạng nước mặt trên sông nhu gia thuộc khu vực xã thạnh phú huyện mỹ xuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 67 trang )

1

Mục Lục


2

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.

Đặt vấn đề

Nước là một tài nguyên quan trọng của nước ta, nước đem lại những lợi ích
kinh tế xã hội không nhỏ, phục vụ đời sống nhân dân và cộng đồng xã hội. Là
thành phần quan trọng của mọi sự sống, quyết định sự tồn tại phát triển của đất
nước, nhưng cũng là một hiểm họa cho con người nếu khai thác quá mức. Là nguồn
tài nguyên có thể phục hồi nhưng cũng có thể cạn kiệt nếu chúng ta khai thác
không hợp lý.
Sự tăng nhanh về dân số và việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên nước,
cũng như tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước. Nước thải từ các nhà
máy, cụm công nghiệp, khu dân cư đô thị, nước thải sinh hoạt, chưa qua xử lý được
thải ra môi trường ngày càng nhiều đã gây tác động xấu đến chất lượng nguồn nước
mặt. Vấn đề ô nhiễm sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn trong tương lai nếu như tình
trạng này vẫn tiếp diễn.
Mỹ xuyên là một huyện trực thuộc tỉnh Sóc Trăng nằm ở phía Nam của
thành phố Sóc Trăng, là cầu nối thương mại giữa các vùng lân cận nhất là thành
phố Sóc Trăng. Trong những năm gần đây nền kinh tế của Mỹ Xuyên tăng theo
hướng công nghiệp hóa, khuyến khích đầu tư, tập trung phát triển đô thị. Vì vậy với
đặc thù là một đô thị trên đà phát triển, với mật độ dân số khá cao nên nguy cơ gây
ô nhiễm nguồn nước mặt là rất lớn. Mỹ Xuyên có nguồn nước dồi dào do có hệ
thống sông ngòi, kênh gạch chằng chịt với nhiều con sông lớn đáp ứng nhu cầu


sinh hoạt và sản xuất của người dân mà trong đó đáng kể đến nhất là hệ thống sông
Nhu Gia.
Sông Nhu Gia là một trong những con sông của huyện Mỹ Xuyên là nơi tiếp
nhận phần lớn nước thải phát sinh do các khu dân cư, sản xuất nông nghiệp, chợ và
việc nuôi trồng chế biến thủy sản làm cho nước có dấu hiệu ô nhiễm nghiêm trọng
hơn. Ô nhiễm nước mặt là một vấn đề đáng lo ngại gây tác động tiêu cực tới cuộc
sống người dân. Việc đánh giá chất lượng nước mặt thường xuyên góp phần phục
vụ tốt hơn cho canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản của người dân trong
huyện.
Xuất phát từ thực tế nêu trên nên đề tài là “ Khảo sát hiện trạng nước mặt
trên sông Nhu Gia thuộc khu vực xã Thạnh Phú huyện Mỹ Xuyên” được thực
hiện. Nhằm mục tiêu đánh giá chất lượng nước mặt, nắm bắt tình hình chất lượng
nước mặt hiện tại để có các biện pháp quản lý phù hợp, xử lý kịp thời các nguồn
gây ô nhiễm để không ảnh hưởng đến nguồn nước cho nước sinh hoạt, sản xuất và
tưới tiêu của người dân.


3
2.

Mục đích và mục tiêu chọn đề tài

Mục đích: Khảo sát hiện trạng nước mặt trên địa bàn xã Thạnh Phú huyện Mỹ
Xuyên tỉnh Sóc Trăng nhằm đánh giá hiện trạng chất lượng nước mặt và đề xuất
các biện pháp quản lý phù hợp.
Mục tiêu:
- Để hoàn thành các mục đích ở trên đề tài cần thực hiện các mục tiêu sau:
- Khảo sát hiện trạng nước sông Nhu Gia qua các chỉ tiêu như: pH, COD,
BOD, coliform…
- Đánh giá chất lượng nước sông Nhu Gia đoạn qua xã Thạnh Phú dựa trên

quy chuẩn Việt Nam 08:2015 để đánh giá nguồn nước có bi ô nhiễm hay
không từ đó để cung cấp thông tin cần thiết về chất lượng nguồn nước đến
người dân trong khu vực
- Đề xuất biện pháp khắc phục tại vùng ô nhiễm và đề ra các biện pháp quản lý
phù hợp.
3.

Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng nước mặt của sông Nhu Gia tại khu vực
xã Thạnh Phú.
Khách thể nghiên cứu: Các chỉ tiêu cơ bản của nước mặt quy định trong
QCVN 08:2015 như pH, COD, nitrat, hàm lượng coliform…
4.

Phạm vi nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu: thực hiện 1 tháng từ 23/03/2016 đến 23/04/2016.
Địa điểm nghiên cứu: Sông Nhu Gia khu vực xã Thạnh Phú huyện Mỹ
Xuyên tỉnh Sóc Trăng.
5.

Nội dung nghiên cứu

o Khảo sát hiện trạng chất lượng nước mặt tại một số điểm trên sông Nhu Gia

tại khu vực xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cần thực hiện
các nội dung:
o Tiến hành thu mẫu và phân tích các chỉ tiêu cơ bản như: pH, COD, BOD,
NO3-… tại khu vực nghiên cứu.

o Dựng đồ thị minh họa các chỉ tiêu đo được qua các lần lấy mẫu phân tích từ
đó đưa ra kết luận về hiện trạng ô nhiễm.
o Đánh giá chất lượng nước mặt trên địa bàn xã Thạnh Phú giúp các cấp quản
lý môi trường theo dõi diễn biến chất lượng nước mặt.
o Đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp nhằm giảm thiểu ô nhiễm


4
6.

Phương pháp nghiên cứu

o Phương pháp tìm kiếm dữ liệu: Sưu tầm các tài liệu sẵn có, chọn lọc phân

tích tổng hợp dữ liệu.
o Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực hiện khảo sát thực địa lấy mẫu,
thí nghiệm, phân tích.
o Phương pháp thống kê: Hệ thống hóa các chỉ tiêu cần thống kê, tiến hành
điều tra thống kê, tổng hợp thóng kê và phân tích.


5

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NƯỚC MẶT
1.1 Lược sử các vấn đề nghiên cứu
Nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa khí hậu và cho sự sống
trên Trái Đất. Nước là dung môi lý tưởng để hòa tan, phân bố các chất vô cơ, hữu
cơ, làm nguồn dinh dưỡng cho giới thủy sinh cũng như động, thực vật trên cạn, cho
thế giới vi sinh vật và cả con người. Nước giúp các tế bào sinh vật trao đổi chất

dinh dưỡng, tham gia vào các phản ứng hóa sinh và cấu tạo tế bào mới. Có thể nói
rằng ở đâu có nước là ở đó có sự sống và ngược lại (Lương Đức Phẩm, 2007).
Nước là một lọai nguyên liệu đặc biệt, không chất nào có thể thay thế được.
Nước cũng xem là tài nguyên nước của Quốc Gia. Tổng trữ lượng nước trên Trái
Đất rất lớn (1386 triệu km 3),nhưng nước ngọt và nước sạch dùng cho con người có
hạn vì sự tái tạo lại hầu như phân bố không điều và không kịp cho nhu cầu sử dụng.
Nước ngọt chỉ chiếm 2,7% trong đó giữ lại ở dạng băng là 77,2%, nước ngầm
22,4%, hồ đầm 0,35%, sông suối 0,01% ( Trịnh Lê Hùng, 2012).
Do nhu cầu đời sống và sản xuất, con người phải dùng nước cho sinh hoạt
bản thân mình cũng như phải dùng một khối lượng nước nhất định để tạo ra một
đơn vị sản phẩm. Trong đời sống động vật có thể chết nếu mất từ 10 đến 20%
lượng nước có trong cơ thể. Trung bình mỗi ngày, một người cần đưa vào cơ thể
(qua ăn, uống nước) từ 2,5 đến 4 lít nước. Còn nước dùng cho sinh hoạt của một
người lớn hơn rất nhiều. Xã hội càng phát triển nhu cầu nước cho sinh hoạt càng
tăng lên. Nhu cầu nước dùng cho sản xuất cũng rất lớn. Ví dụ, trong sản xuất thực
phẩm, để làm ra một tấn bún hoặc bánh phở trung bình cần 10 m 3 nước, trong sản
xuất công nghiệp, để tinh chế 150 lít dầu mỏ cần dùng 3m 3 nước (Trịnh Lê Hùng,
2012).


6

Cũng như các nguồn nước tự nhiên khác, thành phần và chất lượng nước bề
mặt chịu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, nguồn gốc, xuất xứ, các điều kiện môi
trường xung quanh và cả tác động của con người khi khai thác và sử dụng nguồn
nước.
Nước bề mặt là nguồn nước tự nhiên gần gũi với con người nhất và cũng
chính vì vậy mà nước bề mặt cũng là nguồn nước dễ bị ô nhiễm nhất. Ngày càng
chúng ta càng thấy hiếm có một nguồn nước bề mặt nào đáp ứng được chất lượng
tối thiểu cho nhu cầu sinh hoạt và công nghiệp mà không cần xử lý trước khi đưa

vào sử dụng. Do hàm lượng cao của các chất có hại cho sức khỏe và có nhiều vi
sinh vật có khả năng gây bệnh cho con người trong nước bề mặt mà ngày nay
người ta thường xuyên đặt ra vấn đề quản lý bề mặt, giám định chất lượng nguồn
nước, kiểm tra các thành phần hóa học, lý học, sinh học, mức độ ô nhiễm phóng xạ
nguồn nước và nhất thiết phải khử trùng nếu như nước cấp được dùng cho mục
đích sinh hoạt (Nguyễn ThịThu Thủy, 2003).
Nguồn nước chủ yếu của nước bề mặt là nước sông, chất lượng nước sông
phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh như mức độ phát triển công nghiệp, mật độ
dân số trong lưu vực, hiệu quả của công tác quản lý các dòng chảy vào sông. Ngoài
ra, chất lượng nước sông còn phụ thuộc vào điều kiện thủy văn, vận tốc dòng chảy,
thời gian lưu và tiết trong khu vực. Nơi có mật độ dân số cao, công nghiệp phát
triển và công tác quản lý các dòng thải công nghiệp, dòng thải nước sinh hoạt
không được chú trọng thì nước sông thì nước sông thường bị ô nhiễm bởi các chất
độc hại, các chất hữu cơ ô nhiễm… Nơi có lượng mưa nhiều, điều kiện xói mòn,
phong hóa dễ dàng thì nước sông thường bị ô nhiễm bởi các chất khoáng hòa tan,
độ đục cao do các chất huyền phù và các chất rắn, chất mùn có trong nguồn nước
(Nguyễn Thị Thu Thủy, 2003).
Hiện nay, các thành phố lớn mức độ ô nhiễm nước mặt xảy ra nghiêm trọng
với nhiều nguyên nhân như: nước thải sinh hoạt, nước từ rác thải. Nước thải sinh


7

hoạt không xử lý, nồng độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải điều vượt
quá tiêu chuẩn cho phép, các thông số chất rắn lơ lững (SS),BOD, COD vượt 5 –
10 lần, thậm chí có nơi vượt quá 20 lần tiêu chuẩn cho phép (Phạm Quốc Nguyên,
2011).
Kết quả quan trắc Trung tâm quy hoạch và điều tra tài nguyên nước quốc gia,
(12/2003). cho thấy nồng độ vi khuẩn E.coli tại các sông ngòi, kênh rạch ở ĐBSCL
đã vượt quá mức cho phép 2-5 lần; nồng độ BOD và COD3 vượt giới hạn cho phép

1-3 lần; nồng độ ammoniac và một số độc chất phát sinh từ hoạt động công nghiệp
và nông nghiệp vượt 5-10 lần tiêu chuẩn cho phép.
1.2 Tài nguyên nước mặt
Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập nước.
Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất đi khi chảy
vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất. Lượng giáng thủy này được thu hồi bởi
các lưu vực, tổng lượng nước trong hệ thống này tại một thời điểm cũng tùy thuộc
vào một số yếu tố khác. Các yếu tố này như khả năng chứa của các hồ, vùng đất
ngập nước và các hồ chứa nhân tạo, độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước
này, các đặc điểm của dòng chảy mặt trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc
độ bốc hơi địa phương. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến tỷ lệ mất nước.
Sự bốc hơi nước trong đất, ao, hồ, sông, biển, sự thoát hơi nước ở thực vật và
động vật..., hơi nước vào trong không khí sau đó bị ngưng tụ lại trở về thể lỏng rơi
xuống mặt đất hình thành mưa, nước mưa chảy tràn trên mặt đất từ nơi cao đến nơi
thấp tạo nên các dòng chảy hình thành nên thác, ghềnh, suối, sông và được tích tụ
lại ở những nơi thấp trên lục địa hình thành hồ hoặc được đưa thẳng ra biển hình
thành nên lớp nước trên bề mặt của vỏ trái đất.
Trong quá trình chảy tràn, nước hòa tan các muối khoáng trong các nham
thạch nơi nó chảy qua, một số vật liệu nhẹ không hòa tan được cuốn theo dòng


8

chảy và bồi lắng ở nơi khác thấp hơn, sự tích tụ muối khoáng trong nước biển sau
một thời gian dài của quá trình lịch sử của quả đất dần dần làm cho nước biển càng
trở nên mặn. Có hai loại nước mặt là nước ngọt hiện diện trong sông, ao, hồ trên
các lục địa và nước mặn hiện diện trong biển, các đại dương mênh mông, trong các
hồ nước mặn trên các lục địa.
Tài nguyên nước mặt ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú bao gồm nhiều
thủy vực tự nhiên và nhân tạo như sông, suối, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo (hồ chứa),

giếng khơi, hồ đập, ao, đầm phá. Trung bình hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận
được 1.944mm nước mưa, trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000mm, còn lại
941mm hình thành một trữ lượng nước mặt vào khoảng 310 tỷ m 3. Tính bình quân,
mỗi người dân Việt có thể hứng được một lượng nước bằng 3.870 m 3 mỗi năm,
hoặc 10.600 lít nước mỗi ngày. Trong khi đó tại các nước công nghiệp phát triển
nhất, tổng nhu cầu về nước trong một ngày bình quân theo đầu người, bao gồm cả
340 lít nước sinh hoạt, 2.540 lít nước cung cấp cho nông nghiệp và 4.520 lít công
nghiệp cũng chỉ vào khoảng 7.400 lít/người.ngày. Ở nước ta, tại các đô thị lớn,
lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi người hàng ngày hiện nay chỉ mới vào khoảng
100 ÷ 150 lít. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là cung cấp cho nhân dân nông
thôn khoảng 70 lít/người*ngày vào năm 2010 và 140 lít/người*ngày vào năm 2020.
Ở một số vùng đặc biệt khan hiếm nước vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc
tỉnh Cao Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay là cung cấp 15 lít nước/người*ngày.
Chỉ riêng nguồn nước ngọt từ mưa tiềm năng đã vượt khá xa yêu cầu về cấp nước
(Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
Ngoài nguồn nước mặt từ mưa, nước ta còn có nguồn nước rất lớn do các
con sông xuyên biên giới đem từ lãnh thổ các nước ngoài vào như sông Hồng, sông
Mã, sông Cả, sông Mê-Kông. Lượng nước này ước tính bằng 520 tỷ m3, gấp 1,7
lần lượng nước ngọt hình thành trong nước. Một số sông xuyên biên giới như sông
Kỳ Cùng ở Lạng Sơn, Bằng Giang ở Cao Bằng chuyển một lượng nước từ Việt


9

Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên lượng này không đáng kể so với tổng
lượng nước hình thành trên lãnh thổ Việt Nam. Các phụ lưu của sông Mê-Kông
như Nậm Rốm, Sê-Kông, Sê-Băng-Hiêng, Sê-San, Srê-Pok chuyển một lượng nước
khá lớn từ lãnh thổ Việt Nam vào các nước láng giềng như Lào, Campuchia, nhưng
rồi từ lượng nước đó lại chảy trở lại vào ĐBSCL (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
1.3 Vai trò của tài nguyên nước

Nước là khởi nguồn của sự sống trên trái đất, đồng thời cũng là nguồn để
duy trì sự sống tiếp tục tồn tại nơi đây. Sinh vật không có nước sẽ không thể sống
nổi và con người nếu thiếu nước cũng sẽ không tồn tại. Nước là vô cùng quan trọng
và hãy lưu ý tới vai trò của nó đối với sức khỏe của bạn. Con người cần một lượng
nước nhất định để duy trì cuộc sống nều không sức khỏe sẽ bị ảnh hưởng. Do nước
là một chất truyền dẫn cho hầu hết các phản ứng sinh hóa diễn ra trong cơ thể, các
phản ứng này phục vụ cho quá trình trao đổi chất trong cơ thể chúng ta và giúp thúc
đẩy quá trình hấp thụ thức ăn… nên vai trò của nước đối với cơ thể là hết sức quan
trọng.
Đối với nông nghiệp: Nước cần thiết cho cả chăn nuôi lẫn trồng trọt. Thiếu
nước các loài cây trồng, vật nuôi không thể phát triển được. Bên cạnh đó, trong sản
xuất nông nghiệp, thủy lợi luôn là vấn đề được ưu tiên hàng đầu. Trong công tác
thủy lợi, ngoài hệ thống tưới tiêu còn có tác dụng chống lũ, cải tạo đất.
Đối với công nghiệp: Mức độ sử dụng nước trong các ngành công nghiệp là
rất lớn. Tiêu biểu là các ngành khai khoáng, sản xuất nguyên liệu công nghiệp như
than, thép, giấy…đều cần một trữ lượng nước rất lớn.
Đối với du lịch: Du lịch đường sông, du lịch đường biển đang ngày càng
phát triển. Đặc biệt ở một nước nhiệt đới như ở nước ta có nhiều sông hồ và đường
bờ biển dài hàng ngàn kilomet.


10

Đối với giao thông: Là một trong những con đường tiềm năng và chiến lược,
giao thông đường thủy mà cụ thể là đường sông và đường biển có ý nghĩa rất lớn,
quyết định nhiều vấn đề không chỉ là kinh tế mà còn là văn hóa, chính trị, xã hội
của một quốc gia.
1.4 Khái quát về ô nhiễm nguồn nước
1.4.1 Định nghĩa ô nhiễm nước
Nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn liền với sự sống của mọi sinh

vật đang ngày càng bị giảm chất lượng do chính các hoạt động nhiều mặt của con
người gây ra. Khoa học kỹ thuật phát triển đã thúc đẩy quá trình sản xuất ra của cải
vật chất thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt cho con người. Cùng với lượng của cải vật
chất được tạo ra, một lượng to lớn các loại chất thải cũng hình thành. Các chất thải
này đã được xả vào hồ, sông, biển hay vào đất. Các thành phần có trong các loại
chất thải sẽ có mặt trong nước làm cho nước không còn sạch nữa, giá trị sử dụng
của nó giảm đi và ta nói rằng nước đã bị ô nhiễm (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
1.4.2 Nguyên nhân ô nhiễm
1.4.2.1 Nguồn nhiễm bẩn do sinh hoạt
Nước thải từ các hộ gia đình, bệnh viện, khách sạn, trường học, cơ quan chứa
các chất thải trong quá trình sinh hoạt, vệ sinh của con người được gọi chung là
nước thải sinh hoạt. Đặc điểm cơ bản của nước thải sinh hoạt là trong đó có hàm
lượng cao của các chất hữu cơ không bền vững, dễ bị phân hủy sinh học
(carbonhydrat, protein, mỡ...), chất dinh dưỡng (phospho, nitơ...), chất rắn và vi
trùng. Ngoài ra còn có những chất khó phân hủy cũng được tạo ra trong quá trình
xử lý. Từ số liệu tổng lượng trung bình của các tác nhân gây ô nhiễm do một người
hàng ngày đưa vào môi trường, ta dễ dàng tính được tổng tải lượng từng tác nhân ô
nhiễm cho một khu dân cư hoặc một đô thị. Từ đó phục vụ cho công tác đánh giá
tải lượng ô nhiễm nguồn nước và thiết kế hệ thống xử lý nước thải cho khu dân cư
hoặc đô thị đó. Tuy nhiên trong thực tế khối lượng trung bình của các tác nhân gây
ô nhiễm do con người là khác nhau ở các điều kiện sống khác nhau. Hàm lượng tác
nhân gây ô nhiễm trong nước thải phụ thuộc vào chất lượng bữa ăn, lượng nước sử
dụng và hệ thống tiếp nhận nước thải (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).


11

Chất thải dạng rắn là nguồn nhiễm bẩn nước. Trường hợp nước thải này bị xả
thải trực tiếp ra môi trường, chất thải rắn sẽ theo dòng chảy thấm vào đất, có khả
năng đi vào tầng nước ngầm làm giảm chất lượng nước. Việc xả các loại thải rắn

trên mặt đất hoặc xử lý bằng biện pháp lấp đất là nguồn gây ô nhiễm nước mặt và
nước ngầm quan trọng. Nước mưa, nước mặt từ các vùng lân cận thấm vào lớp chất
thải rắn có thể mang theo các chất ô nhiễm hòa tan đi sâu xuống đất tới mực nước
ngầm. Các chất được nước mang theo bao gồm các chất hữu cơ, các clorua, nitrat,
các muối hòa tan của các kim loại sắt, mangan, các thành phần gây độ cứng và các
nguyên tố vi lượng (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
1.4.2.2 Nguồn ô nhiễm do công nghiệp
Nước thải công nghiệp là nước thải từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, giao thông vận tải. Từng loại nước thải không có đặc điểm chung
mà phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành sản xuất. Nước thải của các xí nghiệp
chế biến thực phẩm chứa nhiều chất hữu cơ với hàm lượng cao; nước thải của các
xí nghiệp thuộc da ngoài chất hữu cơ còn có kim loại nặng, sulfur; nước thải của xí
nghiệp ắc quy có nồng độ acid, độ chì cao.(Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
1.4.2.3 Nguồn ô nhiễm do nông nghiệp
a. Chảy tràn do mưa

Đây là nguồn gây ô nhiễm nguồn nước sông hồ. Khối lượng và đặc điểm của
nước mưa chảy tràn phụ thuộc vào diện tích vùng mưa và thành phần, khối lượng
chất ô nhiễm trên bề mặt vùng nước chảy qua.
b. Nước tưới tiêu và chất thải động vật

Lượng nước tưới cây thường bị tiêu hao do bốc hơi mặt lá từ 1/2 ÷ 2/3, phần còn lại
được tiêu ra các kênh dẫn hoặc thấm vào bề mặt đất. Phần nước còn lại này có độ
mặn tăng từ 3 ÷ 10 lần so với độ mặn của nó trước khi tưới do hiện tượng hòa tan
các muối có trong phân bón và sự cô đặc bởi hiện tượng bay hơi. Những ion chủ


12

yếu trong nước sau khi tưới gồm Ca 2+, Mg2+, Na+, HCO3-, Cl- và NO3-. Vì quá trình

tưới được thực hiện trong các vùng khô cạn nên phần nước thấm xuống đất mang
theo các loại ion khác nhau có thể là nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm nước ngầm
trong các vùng đó.
Dòng chảy mặt khi có mưa chảy qua các chuồng trại chăn nuôi thường mang
theo những lượng lớn các chất gây ô nhiễm đối với nước ngầm và nước mặt.
Những chất gây ô nhiễm trong trường hợp này bao gồm các loại muối, các chất hữu
cơ khác nhau, các loại vi khuẩn được nước vận chuyển sâu xuống đất, trong đó có
nitrat, nitrit là thành phần gây ô nhiễm quan trọng nhất.
c. Phân bón và các loại thuốc trừ sâu

Khi bón phân cho cây trồng thường có một phần thấm qua đất đến mực nước
ngầm. Trong thành phần các loại phân bón có chứa các hợp chất của nitơ, phospho
và kali. Phosphat và những loại phân bón kali dễ dàng bị các hạt đất hấp phụ nên ít
gây các hiện tượng ô nhiễm. Ngược lại hợp chất nitơ trong dạng hòa tan chỉ được
thực vật sử dụng hay đất hấp thu một phần, phần còn lại di chuyển theo nước gây
nên tình trạng ô nhiễm (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
1.4.3 Các tác nhân gây ô nhiễm
Có nhiều tác nhân gây ô nhiễm nước để tiện cho việc kiểm soát và khống chế
ô nhiễm nước người ta chia thành:
♦ Các ion vô cơ hòa tan nhiều ion vô cơ có nồng độ rất cao trong nước tự
nhiên, đặc biệt là trong nước biển. Trong nước thải đô thị luôn chứa một lượng lớn
các ion Cl-, SO42-…
- Ion clo có trong nước do sự hòa tan các muối khoáng hoặc do quá trình phân hủy

các chất hữu cơ (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2003).
- Ion SO42- có trong nước do khoáng chất hoặc có nguồn gốc hữu cơ (Nguyễn Thị
Thu Thủy, 2003).


13


♦ Các chất dinh dưỡng (N, P): Muối của nitơ và photpho là các chất dinh
dưỡng đối với thực vật, ở nồng độ thích hợp chúng tạo điều kiện cho cây cỏ, rong
tảo phát triển. Amoni, nitrat, photphat là các chất dinh dưỡng thường có mặt trong
các nguồn nước tự nhiên, hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người đã làm gia
tăng nồng độ các ion này trong nước tự nhiên. Mặc dù không độc hại đối với người,
nhưng khi có mặt trong nước ở nồng độ tương đối lớn, cùng với nitơ, photphat sẽ
gây ra hiện tượng phú dưỡng. Theo nhiều tác giả, khi hàm lượng photphat trong
nước đạt đến mức 0,01 mg/l (tính theo P) và tỷ lệ P:N:C vượt quá 1:16:100, thì sẽ
gây ra hiện tượng phú dưỡng nguồn nước. Phú dưỡng chỉ tình trạng của một hồ
nước đang có sự phát triển mạnh của tảo. Mặc dầu tảo phát triển mạnh trong điều
kiện phú dưỡng có thể hỗ trợ cho chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái nước, nhưng sự
phát triển bùng nổ của tảo sẽ gây ra những hậu quả làm suy giảm mạnh chất lượng
nước. Hiện tượng phú dưỡng thường xảy ra với các hồ, hoặc các vùng nước ít lưu
thông trao đổi. Khi mới hình thành, các hồ đều ở tình trạng nghèo chất dinh dưỡng
nước hồ thường khá trong. Sau một thời gian, do sự xâm nhập của các chất dinh
dưỡng từ nước chảy tràn, sự phát triển và phân hủy của sinh vật thủy sinh, hồ bắt
đầu tích tụ một lượng lớn các chất hữu cơ. Lúc đó bắt đầu xảy ra hiện tượng phú
dưỡng với sự phát triển bùng nổ của tảo, nước hồ trở nên có màu xanh, một lượng
lớn bùn lắng được tạo thành do xác của tảo chết. Dần dần, hồ sẽ trở thành vùng
đầm lầy và cuối cùng là vùng đất khô, cuộc sống của động vật thủy sinh trong hồ bị
ngừng trệ.
♦ Các kim loại nặng. Hầu hết các kim loại nặng có độc tính cao đối với
người và động vật. Trong nước thải sinh hoạt thường có các kim loại nặng là chì
(Pb), thủy ngân (Hg), Crom (Cr), Cadimi (Cd), Asen (As).
-

Chì là kim loại nặng có độc tính đối với não và có khả năng tích lũy lâu dài trong
cơ thể. Trong môi trường nước, tính năng của hợp chất chì được xác định chủ yếu
thông qua độ tan của nó. Độ tan của chì phụ thuộc vào pH, pH tăng thì độ tăng



14

giảm và phụ thuộc vào các yếu khác như độ muối của nước, điều kiện oxy hóa khử
-

(Lương Đức Phẩm, 2007).
Thủy ngân là kim loại ở dạng lỏng dưới điều kiện nhiệt độ thường, có áp sức áp hơi
đáng kể. Thủy ngân kìm hãm khả năng tự làm sạch của các nguồn nước ngay ở
mức nồng độ 18 . Quá trình trao đổi chất của cơ thể vi sinh vật bị rối loạn do sự
kiềm hãm hoạt động của enzym khi có mặt thủy ngân. Một số vi sinh vật có khả
năng chuyển hóa hợp chất thủy ngân vô cơ thành dạng metyl, làm tăng thêm tính
độc của nó. Tảo và vi sinh vật nước biển có khả năng tích lũy thủy ngân với hệ số
500- 100.000 lần (Lương Đức Phẩm, 2007).
Các chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học: hidratcacbon, protein, chất béo…
nguồn gốc động vật và thực vật. Đây là những chất gây ô nhiễm chính có nhiều
trong nước thải sinh nước thải từ xí nghiệp chế biến thực phẩm. Trong thành phần
các chất hữu cơ từ nước thải các khu dân cư có khoảng 40-60% protein, 25-50%
hidratcacbon, 10% chất béo. Các hợp chất này sẽ làm giảm oxy hoà tan trong nước,
dẫn đến suy thoái tài nguyên thủy sản và làm giảm chất lượng nước cấp sinh hoạt
(Lương Đức Phẩm, 2007).
Các chất hữu khó bị phân hủy: Các chất loại này thuộc các chất hữu cơ có
vòng thơm, các chất đa vòng ngưng tụ, các hợp chất clo hữu cơ, phospho hữu cơ…
Trong số các chất này có nhiều hợp chất là các chất hữu cơ tổng hợp. Hầu hết
chúng là các chất có độc tính đối với con người và vi sinh vật. Chúng tồn lưu lâu
dài trong môi trường và cơ thể vi sinh vật gây độc tích lũy, ảnh hưởng nguy hại đến
cuộc sống (Lương Đức Phẩm, 2007).
Dầu mỡ: là chất khó tan trong nước, nhưng tan được trong các dung môi hữu
cơ. Dầu mỡ có thành phần hóa học rất phức tạp. Dầu thô có chứa hàng ngàn các

phân tử khác nhau, nhưng phần lớn là các hydrocacbon có số cacbon từ 2 đến 26.
Trong dầu thô còn có các hợp chất lưu huỳnh, nitơ, kim loại. Các loại dầu nhiên
liệu sau tinh chế và một số sản phẩm dầu mỡ khác còn chứa các chất độc. Do đó,
dầu mỡ thường có độc tính cao và tương đối bền trong môi trường nước. Độc tính


15

và tác động của dầu mỡ đến hệ sinh thái nước không giống nhau mà phụ thuộc vào
loại dầu mỡ.
Các vi sinh vật gây bệnh: Nhiều vi sinh vật gây bệnh có mặt trong nước gây
tác hại cho mục đích sử dụng nước trong sinh hoạt. Các sinh vật này có thể truyền
hay gây bệnh cho người. Các sinh vật gây bệnh này vốn không bắt nguồn từ nước,
chúng cần có vật chủ để sống ký sinh, phát triển và sinh sản. Một số các sinh vật
gây bệnh có thể sống một thời gian khá dài trong nước và là nguy cơ truyền bệnh
tiềm tàng. Các sinh vật này là vi khuẩn, virút, động vật đơn bào, giun sán.
Mùi: các chất khí và các chất hòa tan trong nước làm cho nước có mùi vị.
Nước thiên nhiên có thể có mùi đất, mùi tanh, mùi thối hoặc mùi đặc trưng của các
hóa chất hòa tan trong nước như mùi ammoniac, mùi sunfua hydro… theo thành
phần và hàm lượng các muối hòa tan trong nước (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2003).
1.5 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước
1.5.1 Độ pH
Độ pH đặc trưng bởi nồng độ ion H+ trong nước, nó phản ánh tính chất của
nước là axit, trung tính hay kiềm. Nguồn nước có tính acid hoặc kiềm rất cao không
thể khai thác cho các hoạt động giải trí như bơi lội, chèo thuyền và còn làm ảnh
hưởng đến hệ thủy sinh vật. Nồng độ acid sulfuric cao làm ảnh hưởng đến mắt của
những người bơi lội ở nguồn nước này, ăn mòn thân tàu thuyền, hư hại lưới đánh
cá nhanh hơn. Nguồn nước lân cận một số xí nghiệp công nghiệp có thể có pH thấp
đến 2 hoặc cao đến 11; trong khi cá chỉ có thể tồn tại trong môi trường có 4,5 < pH
< 9,5. Hàm lượng NaOH cao thường phát hiện trong nước thải ở các xí nghiệp sản

xuất bột giặt, thuộc da, nhuộm vải sợi... NaOH ở nồng độ 25ppm đã có thể làm chết
cá.
Các vi sinh vật phát triển trong môi trường háo khí cũng sản sinh ra acid.
Quá trình oxy hóa các hợp chất hữu cơ có thể tạo ra lượng CO 2 đủ để làm giảm các
giá trị pH một cách đáng kể. Các vi khuẩn phát triển trong điều kiện nồng độ oxy


16

thấp có thể chỉ oxy hóa từng phần chất tác dụng và thường giải phóng các sản phẩm
trao đổi chất trung gian mang tính acid. Ngay cả khi có đủ oxy trong thời kỳ phát
triển háo khí bình thường, một số vi khuẩn có thể tạo ra các sản phẩm hữu cơ mang
tính acid, sau đó những sản phẩm này được mang vào tế bào và tiếp tục quá trình
chuyển hóa. Trong một hỗn hợp các vi khuẩn, các sản phẩm do một loại vi sinh vật
tạo ra có thể sẽ được loài khác sử dụng. Một ít loài vi khuẩn sản sinh lượng acid
lớn gây nên giá trị pH thấp không thích hợp cho sự phát triển của những vi khuẩn
khác. Các vi sinh vật cũng có thể làm tăng pH của môi trường xung quanh do
chúng tạo ra các sản phẩm mang tính kiềm hay do chúng loại bỏ những ion nào đó
ra khỏi môi trường. Nguyên nhân chung nhất để pH tăng lên là sự chuyển hóa các
protein, các peptit hoặc các acid amin (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).
1.5.2 Nhu cầu oxy hóa học (COD)
Nhu cầu oxy hóa học (COD) là lượng oxy cần thiết (cung cấp bởi các chất
hóa học) để oxy hóa các chất hữu cơ trong nước tạo thành CO 2 và H2O. COD là
một đại lượng dùng để đánh giá mức độ ô nhiễm của nguồn nước. COD biểu thị cả
lượng chất hữu cơ không thể oxy hóa bằng vi khuẩn. Chất oxy hóa thường dùng ở
đây là permanganate hoặc bicromat (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2003).
1.5.3 Nhu cầu oxy sinh học (BOD).
Nhu cầu oxy sinh hóa là lượng oxy cần thiết để vi khuẩn có trong nước phân
hủy các chất hữu cơở điều kiện yếm khí. Trong môi trường nước, khi quá trình oxy
hóa sinh học xảy ra thì các vi khuẩn sử dụng oxy hòa tan. Phản ứng này xảy ra như

sau:
Chất hữu cơ + O2

vi khuẩn

CO2 +H2O

Vận tốc của quá trình oxy hóa nói trên phụ thuộc vào số vi khuẩn có trong nước và
nhiệt độ của nước.


17

BOD cũng là một chỉ tiêu dùng để xác định mức độ nhiễm bẩn của nước.
BOD có thể xác định bằng phương pháp hóa học khi sử dụng kali permanagat,
xanh metylen, xác định từ COD. Hoặc có thể dùng phương pháp sinh học, dùng
chai BOD hay phương pháp hô hấp. Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều
thời gian. Sau 5 ngày khoảng 70-80% các chất hữu cơ bị oxy hóa, do đó BOD5 biểu
thị một phần tổng BOD (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2003).
1.5.4 TSS (chất rắn lơ lững).
Chất rắn trong nước tồn tại ở dạng lơ lững và dạng hòa tan do các chất rửa
trôi từ đất, sản phẩm của quá trình phân hủy các chất hữu cơ, động thực vật và do
ảnh hưởng của nước thải sinnh hoạt và công nghiệp. Chúng có ảnh hưởng xấu đến
chất lượng nước mặt hoặc nước thải. Các nguồn nước có hàm lượng chất rắn cao
thường có vị và có thể tạo nên các phản ứng lý học không thuận lợi cho người sử
dụng. Nước cấp có hàm lượng lơ lững cao gây nên cảm quan không tốt. Ngoài ra
hàm lượng cặn lơ lững còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho việc kiểm soát quá
trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học.
Có thể xem tất cả các chất ngoại trừ nước có trong chất lỏng đều thuộc chất
rắn. Tuy vậy ở đây ta xem những thành phần tồn dư sau khi làm bay hơi và sấy ở

103 ÷ 105oC là chất rắn. Những chất rắn này được phân thành các loại chất rắn hòa
tan, chất rắn bay hơi, chất rắn không bay hơi và chất rắn lơ lửng.
Chất rắn lơ lửng là các hạt nhỏ (hữu cơ hoặc vô cơ) trong nước thải. Khi vận
tốc của dòng chảy bị giảm xuống (do nó chảy vào các hồ chứa lớn) phần lớn các
chất rắn lơ lửng sẽ bị lắng xuống đáy hồ; những hạt không lắng được góp phần tạo
thành độ đục của nước. Các chất lơ lững hữu cơ sẽ tiêu thụ oxy để phân hủy làm
giảm DO của nguồn nước.
Việc xác định chất rắn lơ lững đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu hiện tượng
ô nhiễm nước. Số liệu về chất rắn lơ lửng là một trong những thông số dùng để
đánh giá cường độ nước thải sinh hoạt và xác định hiệu quả của các thiết bị xử lý.


18

Trong kiểm soát ô nhiễm dòng chảy thì tất cả chất rắn lơ lững được xem là chất rắn
lắng đọng vì ở đây thời gian không phải là yếu tố giới hạn (Nguyễn Võ Châu Ngân,
2003).
1.5.6 Hàm lượng đạm nitrat (NO3-)
Nitrat là dạng oxy hóa cao nhất trong chu trình nitơ và thường đạt đên những
nồng độ đáng kể trong các giai đoạn cuối cùng của quá trình oxy hóa sinh học
(Nguyễn Khắc Cường, 2002). Ngoài ra nitrat tìm thấy trong các thủy vực là sản
phẩm của quá trình nitrat hóa hay do cung cấp từ nước mưa khi trời có sấm chớp.
Trong thủy vực có nhiều đạm ở dạng NO 3-, chứng tỏ quá trình oxy hóa đã
kết thúc. Tuy vậy, các nitrat chỉ bền trong điều kiện hiếu khí. Trong điều kiện yếm
khí NO3- bị khử thành nito tự do tách ra khỏi nước, loại trừ được sự phát triển của
tảo và các loại thực vật khác sống trong nước. Nhưng mặt khác khi hàm lượng
nitrat trong nước khá cao có thể gây độc hại với người, vì khi vào điều kiện thích
hợp, ở hệ tiêu hoa chúng sẽ chuyển hóa thành nitrit kết hợp với hồng cầu tạo thành
chất không vận chuyển oxy, gây bệnh xanh xao thiếu máu (Đặng Kim Chi, 2001).
1.5.6 Hàm lượng photphat ( PO43-)

Là một trong những nguồn dinh dưỡng cho thực vật dưới nước, gây ô nhiễm
và góp phần thúc đẩy hiện tượng phú dưỡng ở các thủy vực.
Hàm lượng photphat có thể là thừa trong nước thải làm cho các loại tảo, các loại
thực vật lớn phát triển mạnh làm gây tắc thủy vực. Hiện tượng tảo sinh trưởng
mạnh do nước thừa dinh dưỡng, thực chất là hàm lượng P ở trong nước cao. Sau đó
tảo và vi sinh vật bị tự phân,thối rửa làm nước ô nhiễm thứ cấp, thiếu oxy hòa tan
và làm cho tôm cá chết (Lê Đức Phẩm, 2007).
1.5.7 Coliform
Coliform là các vi khuẩn hình que gram âm có khả năng lên men lactose để
sinh khí ở nhiệt độ 35 ± 0.5 oC, coliform có khả năng sống ngoài đường ruột của


19

động vật (tự nhiên), đặc biệt trong môi trường khí hậu nóng. Nhóm vi khuẩn
coliform chủ yếu bao gồm Citrobacter, Enterobacter, Escherichia, Klebsiella và
Fecal coliforms. Chỉ tiêu tổng coliform không thích hợp để làm chỉ tiêu chỉ thị cho
việc nhiễm bẩn nguồn nước bởi phân trong khi việc xác định số lượng Fecal
coliform có thể sai lệch do có một số vi sinh vật (không có nguồn gốc từ phân) có
thể phát triển ở nhiệt độ 44oC. Do đó số lượng E. coli được coi là một chỉ tiêu thích
hợp nhất cho việc quản lý nguồn nước (Nguyễn Võ Châu Ngân, 2003).


20

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Tổng quan về huyện Mỹ Xuyên.
2.1.1 Lịch sử hình thành.
Mỹ Xuyên là tên làng thuộc tổng Định Chí, hạt Sóc Trăng từ ngày 18-041893, được thành lập do sáp nhập làng Vĩnh Xuyên với một phần làng Hoà Mỹ,
một phần làng Thạnh Lợi. Từ ngày 01-01-1900, hạt Sóc Trăng đổi thành tỉnh Sóc

Trăng. Năm 1916, làng Mỹ Xuyên thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Châu Thành,
tỉnh Sóc Trăng.
Ngày 07-03-1974, làng Mỹ Xuyên thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Bãi Xàu,
tỉnh Sóc Trăng. Ngày 01-01-1950, tổng Nhiêu Khánh thuộc quận Châu Thành. Sau
năm 1956, Mỹ Xuyên là xã thuộc quận Châu Thành, tỉnh Ba Xuyên, đồng thời
nhận thêm phần đất của làng Hoà Thuận vừa giải thể. Ngày 13-01-1958, quận Châu
Thành đổi thành quận Mỹ Xuyên, gồm có 2 tổng với 9 xã: tổng Nhiêu Khánh có 4
xã, tổng Nhiêu Hoà có 5 xã. Quận lỵ đặt tại xã Mỹ Xuyên. Ngày 27-08-1962, dời
quận lỵ đến Bãi Xàu và đổi tên là Trang Kỉnh.
Sau 30-04-1975, Mỹ Xuyên là huyện của tỉnh Hậu Giang. Ngày 16-09-1989,
huyện Mỹ Xuyên được xác định các đơn vị hành chánh trực thuộc, gồm thị trấn Mỹ
Xuyên và 15 xã: Tài Văn, Đại Tâm, Tham Đôn, Viên An, Thạnh Thới An, Viên
Bình, Thạnh Thới Thuận, Thạnh Phú, Hoà Tú 1, Hoà Tú 2, Ngọc Đông, Ngọc Tố,
Gia Hoà 1, Gia Hoà 2, Thạnh Quới. Ngày 26-12-1991, Quốc hội Việt Nam ban
hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện
Mỹ Xuyên thuộc tỉnh Sóc Trăng.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên
2.1.2.1 Vị trí địa lý.
Huyện Mỹ Xuyên nằm gần Trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Sóc Trăng, Phía bắc
giáp thành phố Sóc Trăng và huyện Mỹ Tú, phía nam giáp thị xã Vĩnh Châu và


21

huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Phía Đông giáp huyện Trần Đề, phía Tây giáp
huyện Thạnh Trị.
- Diện tích: 37.095,15 ha diện tích tự nhiên
- Dân số: 156.370 nhân khẩu
Huyện bao gồm 10 xã và 01 thị trấn: thị trấn Mỹ Xuyên và các xã Đại Tâm, Thạnh
Phú, Thạnh Quới, Tham Đôn, Hòa Tú 1, Hòa Tú 2, Gia Hòa 1, Gia Hòa 2, Ngọc Tố

và Ngọc Đông. Huyện Mỹ Xuyên có nhiều dân tộc sống hòa đồng với nhau gồm
có dân tộc Kinh 10.211 người, chiếm 65,36% dân số; dân tộc Khmer 51.807 người
chiếm 33,13% dân số; dân tộc Hoa 4.336 người, chiếm 2,77% dân số; dân tộc khác
16 người. Mật độ dân số 421 người/km2.

Hình 2.1: Bản đồ huyện Mỹ Xuyên

Địa hình huyện Mỹ Xuyên bằng phẳng, chênh lệch độ cao, thấp ít. Cao
trình đất biến thiên từ 0,3 - 1m. Nhiều nơi có giồng cát cổ trải dài như các giồng cát
ở Đại Tâm, Tham Đôn, Thạnh Phú, thị trấn Mỹ Xuyên. Đất đai của huyện đa phần
bị nhiễm phèn và mặn ở mức trung bình. Mỹ Xuyên có hệ thống kênh, rạch phát
triển, đan xen thành mạng lưới dày đặc vừa cung cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất
nông nghiệp, thau chua rửa mặn, vừa là tuyến giao thông thủy quan trọng.


22

2.1.2.2 Đặc điểm khí hậu
Khí hậu của tỉnh Sóc Trăng nói chung và huyện Mỹ Xuyên có đặc điểm khí
hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo và chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm giai đoạn 2011-2014 dao động trong
khoảng 27,0-27,4°C. Nhiệt độ cao nhất trong năm vào tháng 4 (36,4°C) và nhiệt độ
thấp nhất vào tháng 1 (18,2°C).
Nắng: Tổng giờ nắng bình quân trong năm giai đoạn 2011-2014 trong
khoảng 2.326,1-2.611,9 giờ.
Mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.540,2 – 1.893,2 mm, chênh lệch
lớn theo mùa, mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa, mùa khô rất ít, có tháng
không mưa.
Gió: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tỉnh Sóc Trăng có các

hướng gió chính như sau: Tây, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam và gió được chia
làm hai mùa rõ rệt là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Mùa mưa chịu ảnh
hưởng của gió mùa Tây Nam là chủ yếu. Mùa khô thì chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc là chủ yếu.
Các yếu tố khác: huyện Mỹ Xuyên cũng như khu vực tỉnh Sóc Trăng nằm
trong khu vực rất ít gặp bão. Theo tài liệu về khí tượng thủy văn ghi nhận, trong
100 năm qua chỉ có 2 cơn bão đổ bộ vào Sóc Trăng (năm 1952, 1997) gây thiệt hại
rất lớn. Những năm gần đây, lốc thường xảy ra ở Sóc Trăng. Lốc tuy nhỏ nhưng
cũng gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
2.1.2.3 Chế độ thủy văn
Nguồn nước mặt của huyện Mỹ Xuyên và tỉnh Sóc Trăng nói chung tương
đối dồi dào với hệ thống kênh rạch chằng chịt. Sông rạch tỉnh Sóc Trăng nằm trong
vùng ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều, cao độ mực nước của hai


23

đỉnh triều và hai chân triều không bằng nhau, biên độ triều trung bình từ 194 220cm. Nguồn nước trên hệ thống sông rạch tỉnh Sóc Trăng là kết quả của sự pha
trộn giữa lượng mưa tại chỗ, nước biển và nước thượng nguồn sông Hậu đổ về.
Dòng của sông Hậu khá mạnh vào mùa mưa, đây cũng là thời kỳ mùa lũ ở sông
Hậu. Do ảnh hưởng bởi dòng thủy triều và hải triều nên nước trên sông bị nhiễm
mặn vào mùa khô, vào mùa mưa nước sông được ngọt hóa.
Phần sông rạch giáp biển bị nhiễm mặn quanh năm, do đó không thể phục vụ
cho tưới nông nghiệp, nhưng bù lại nguồn nước mặn, lợ ở đây tạo thuận lợi trong
việc nuôi trồng thủy sản.Chế độ thủy văn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều biển Đông,
dòng chảy sông Hậu và mưa nội đồng. Thuỷ triều biển Đông có biên độ lớn nên
vùng ven biển, ven cửa sông Hậu có biên độ 1,5 m đến 3,0m. Tuy nhiên khi vào
sâu trong nội đồng biên độ giảm nên chỉ có biên độ khoảng 0,5 - 1,5m vào mùa khô
và 0,3m - 0,7m vào mùa mưa. Sự tác động mạnh của thuỷ triều đã kéo theo sự xâm
nhập mạnh mẽ của nước mặn vào tỉnh Sóc Trăng theo các hướng truyền chính là từ

sông Mỹ Thanh và vào các kênh rạch thông với cửa sông Hậu. Với chế độ thuỷ văn
này cũng tạo điều kiện cho việc tháu chua, rửa mặn và cải tạo môi trường nước
mặt. Tuy nhiên, nếu không có hệ thống công trình quản lý và vận hành tốt thì mặn
có thể xâm nhập sâu vào trong nội đồng.
2.1.3 Tình hình kinh tế xã hội
2.1.3.1 Kinh tế- xã hội
Kết quả nổi bật trong lĩnh vực phát triển kinh tế của huyện trong 5 năm
(2010-2015) đã nâng cao chất lượng sản xuất nông nghiệp, trong đó chuyển đổi cơ
cấu giống, đưa giống lúa thơm đặc sản ST có chất lượng cao vào sản xuất trên 74%
diện tích; tổ chức hội thảo, tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật được
1.201 lớp, thu hút 38.332 lượt nông dân tham dự; hỗ trợ vốn cho nông dân đưa cơ
giới hóa vào sản xuất, thu hoạch lúa đạt trên 90% diện tích canh tác. Huyện quy
hoạch, chỉ đạo các xã nằm cặp kênh Thạnh Mỹ: Hòa Tú 1, Hòa Tú 2, Gia Hòa 1,
Gia Hòa 2, Ngọc Tố, Ngọc Đông; liên xã dọc tuyến kênh 19-5: Tham Đôn, Đại


24

Tâm, Thạnh Phú, Thạnh Qưới xây dựng vùng sản xuất lúa thơm đặc sản tập trung
theo mô hình cánh đồng mẫu lớn; kết hợp nuôi trồng thủy sản, đưa cây màu xuống
ruộng, trồng màu trên bờ bao nuôi tôm... Đặc biệt là phát triển và giữ vững mô hình
tôm lúa bền vững với diện tích hơn 10 nghìn ha. Nhờ vậy, năng suất lúa tăng bình
quân 0,83 tấn/ha so với năm 2010, nâng tổng sản lượng lúa đến nay lên 156.773
tấn/năm, trong đó lúa thơm đặc sản chiếm 68%; tổng sản lượng tôm nuôi đạt
25.600 tấn, tăng 12.443 tấn so với năm 2010, đạt 169,54% chỉ tiêu Nghị quyết, góp
phần tăng giá trị sản lượng thu hoạch bình quân đạt 140 triệu đồng/ha. Mỹ Xuyên
xây dựng được 17 hợp tác xã, 108 tổ kinh tế hợp tác, 28 trang trại theo tiêu chí mới,
bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân, góp phần tạo nguồn thu lớn
cho địa phương.Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, trung bình hằng năm đạt
11,55%. Cơ chế chính sách về huy động nguồn lực và thu hút đầu tư bước đầu

được tạo lập và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tổng thu ngân sách trên địa bàn
huyện 5 năm qua đạt 219,8 tỷ đồng, hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết ;
GDP bình quân đầu người 1.400 USD, đạt 121,74% chỉ tiêu Nghị quyết. Năng lực
sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được cải thiện,
nhiều chỉ tiêu về phát triển kinh tế-xã hội đạt và vượt kế hoạch, tạo đà thuận lợi cho
phát triển ở những năm sau.
Một trong những thành tựu nổi bật nữa của Mỹ Xuyên là xây dựng cơ sở hạ
tầng, chăm lo tốt đời sống xã hội. 5 năm qua, từ nhiều nguồn lực, Mỹ Xuyên đã đầu
tư 3.824 tỷ đồng, thực hiện 241 công trình trọng điểm: trường học, trạm y tế, điện,
đường giao thông, trụ sở làm việc các xã... đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát
triển kinh tế-xã hội, phục vụ dân sinh. Đến nay, hàng chục công trình được đầu tư
xây dựng và đưa vào sử dụng hiệu quả, như tuyến đường huyện lộ 15 (Hòa Tú 1 Ngọc Đông), huyện lộ 20 nối dài (Cà Lăm - Gia Hội), đường 940, cầu Nhu Gia,
Chàng Ré, Chợ Kinh... Đầu tư xây dựng, nâng cấp chợ Dương Kiển - Hòa Tú 2, Cổ
Cò - Ngọc Tố, thị trấn Mỹ Xuyên, Hòa Khanh - Thạnh Qưới, khu phố chợ thương


25

mại Hòa Tú 1, Gia Hòa 1...làm cho bộ mặt làng quê đổi thay nhanh chóng
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo đạt được nhiều kết quả phấn khởi, mặt bằng dân trí
được nâng cao, tạo tiền đề phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn. Hằng năm, huyện
được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh và đạt nhiều tiến bộ, các loại
dịch bệnh nguy hiểm được kịp thời khống chế và dập tắt. Phong trào xây dựng gia
đình, khu dân cư, cơ quan văn hóa tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, khơi dậy
những giá trị văn hóa của dân tộc và nét bản sắc của vùng đất Mỹ Xuyên giàu
truyền thống anh hùng cách mạng. Toàn huyện có 91,62% số hộ gia đình, 70,87%
số ấp, 100% số cơ quan, trường học được công nhận danh hiệu văn hóa. Các chính
sách xã hội, công tác chăm sóc, giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, Bà Mẹ Việt
Nam Anh hùng được đặc biệt quan tâm và đạt kết quả tốt. Công tác xóa đói, giảm

nghèo, tạo việc làm, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội có tiến bộ. Tỷ lệ hộ nghèo
hằng năm giảm rõ rệt, năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới là 27,93%, đến
nay chỉ còn 10,63%. Đời sống vật chất và tinh thần đại bộ phận nhân dân không
ngừng được cải thiện, nâng cao. Quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội luôn được giữ vững.
Xác định đầu tư hạ tầng là “đòn bẩy” cho phát triển kinh tế, những năm qua
huyện Mỹ Xuyên đã tranh thủ mọi nguồn vốn để nâng cấp hệ thống hạ tầng. Từ
đầu năm 2009, huyện đã thực hiện chuyển tiếp 17 công trình; khởi công mới 67
công trình, bao gồm 6 công trình cầu giao thông, 17 công trình đường giao thông, 6
kênh thủy lợi, 21 trường học và 17 công trình hạ tầng kỹ thuật khác, ngoài ra còn
thực hiện dự án hỗ trợ sản xuất, đào tạo cán bộ thông qua nguồn vốn Chương trình
135.
2.1.3.2 Giáo dục
Năm 2009, Mỹ Xuyên tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo
dục tiểu học, trung học cơ sở. Đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình trường học


×