B GIO DC V O TO
B Y T
TRNG I HC Y H NI
======
Lấ ANH T
ĐáNH GIá LãO KHOA TOàN DIệN
ở BệNH NHÂN ĐáI THáO ĐƯờNG TYP 2 CAO TUổI
TạI BệNH VIệN LãO KHOA TRUNG ƯƠNG
Chuyờn ngnh : Ni khoa
Mó s
: 60720140
CNG LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
TS. V TH THANH HUYN
H NI - 2015
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
CHƯƠNG 1......................................................................................................3
TỔNG QUAN..................................................................................................3
1.1. Đại cương về đánh giá lão khoa toàn diện..............................................................................3
1.1.1. Định nghĩa và vai trò của đánh giá lão khoa toàn diện....................................................3
1.1.2. Lịch sử Đánh giá lão khoa toàn diện................................................................................4
1.1.3. Các thành phần của đánh giá lão khoa toàn diện ...........................................................6
1.2. Đái tháo đường typ 2 ở người cao tuổi................................................................................11
1.2.1. Bệnh sinh.......................................................................................................................11
1.2.2. Đặc điểm lâm sàng ........................................................................................................12
1.2.3. Các biến chứng .............................................................................................................13
1.2.4. Chẩn đoán và theo dõi...................................................................................................14
1.2.5. Mục tiêu điều trị............................................................................................................15
1.2.6. Lựa chọn điều trị............................................................................................................16
1.2.7. Phòng bệnh ...................................................................................................................18
1.3. Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi............................18
1.3.1. Suy giảm chức năng và khuyết tật ở bệnh nhân đái tháo đường..................................19
1.3.2. Rối loạn chức năng nhận thức và bệnh đái tháo đường................................................22
1.3.3. Trầm cảm và bệnh đái tháo đường................................................................................25
1.3.4. Đánh giá chức năng ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi..................................25
1.4. Một số nghiên cứu đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi
trên thế giới và tại Việt Nam...............................................................................................29
1.4.1. Các nghiên cứu trên thế giới..........................................................................................30
1.4.2. Nghiên cứu tại Việt Nam................................................................................................31
CHƯƠNG 2....................................................................................................31
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................31
2.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................................32
2.2. Địa điểm nghiên cứu.............................................................................................................32
2.3. Thời gian nghiên cứu............................................................................................................32
2.4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................32
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu.......................................................................................................32
2.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu........................................................................................................32
2.4.3. Quy trình nghiên cứu, kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin......................................32
2.4.4. Các biến số nghiên cứu..................................................................................................39
2.4.5. Sơ đồ nghiên cứu...........................................................................................................39
2.5. Phương pháp khống chế sai số.............................................................................................40
2.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu........................................................................................40
2.7. Phương pháp xử lý số liệu....................................................................................................41
2.8. Dự kiến tiến độ thời gian nghiên cứu...................................................................................41
CHƯƠNG 3....................................................................................................42
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.........................................................42
3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân............................................................................................42
3.1.1. Các thông tin chung của bệnh nhân...............................................................................42
3.1.2. Đặc điểm kiểm soát một số yếu tố nguy cơ bệnh đái tháo đường typ 2 của bệnh nhân
..................................................................................................................................43
3.2. Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi............................43
3.2.1. Đặc điểm đánh giá chung...............................................................................................43
3.2.2. CGA theo tuổi, giới, thời gian mắc bệnh đái tháo đường typ 2.....................................45
3.3. Liên quan giữa đánh giá lão khoa toàn diện với thực trạng kiểm soát bệnh đái tháo đường
typ 2 ở người cao tuổi.........................................................................................................46
3.3.1. CGA theo Glucose máu và HbA1c..................................................................................46
3.3.2. Liên quan giữa đánh giá lão khoa toàn diện với tuổi và kiểm soát đường máu, HbA1c ở
bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi................................................................47
3.3.3. Liên quan giữa các thành phần của đánh giá lão khoa toàn diện..................................47
CHƯƠNG 4....................................................................................................47
DỰ KIẾN BÀN LUẬN..................................................................................47
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu..........................................................................48
4.2. Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi............................48
4.3. Mối liên quan giữa đánh giá lão khoa toàn diện với tuổi, thời gian mắc bệnh, glucose máu,
HbA1c ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi............................................................48
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..................................................................................49
DỰ KIẾN KIẾN NGHỊ.................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADA
ADL
Anti GAD
BMI
CGA
ĐTĐ
EGS
GDS
GEM
IADL
ICA
IDF
MNA
PACE
SDD
WHO
American Diabetes Association
(Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ)
Activities of Daily Living
(Hoạt động sống hàng ngày)
Anti glutamic acid decarboxylase Antibodies
(Kháng thể kháng GAD)
Body mass index (Chỉ số khối cơ thể)
Comprehensive Geriatric Assessment
(Đánh giá lão khoa toàn diện)
Đái tháo đường
European Geriatrics Society
(Hội lão khoa Châu Âu)
Geriatric depression Scale
(Thang điểm trầm cảm dành cho người cao tuổi)
Geriatric Evaluation and Management units
(Đơn vị đánh giá và quản lý lão khoa)
Instrumental Activities of Daily Living
(Hoạt động sống hàng ngày có sử dụng dụng cụ phương tiện)
Islet Cell Antibodies
(Kháng thể kháng tế bào tiểu đảo)
International Diabetes Federation
(Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế)
Mini Nutritional Assessment
(Đánh giá dinh dưỡng tối thiểu)
Program of All-Inclusive Care for the Elderly
(Chương trình chăm sóc tổng thể dành cho người cao tuổi)
Suy dinh dưỡng
World Health Organization
(Tổ chức Y tế Thế giới)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Mục tiêu của Đánh giá lão khoa....................................................5
Bảng 1.2. Các thành phần của đánh giá lão khoa toàn diện........................7
Bảng 1.3: Mục tiêu đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi. .15
Bảng 1.4: Mục tiêu huyết áp và lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường
cao tuổi............................................................................................................16
Bảng 1.5: Lợi ích của việc phát hiện sớm suy giảm nhận thức ở bệnh
nhân đái tháo đường.....................................................................................24
Bảng 1.6: Lợi ích của đánh giá chức năng ở người cao tuổi......................26
Bảng 1.7: Lợi ích của Đánh giá chức năng liên quan bệnh Đái tháo đường
.........................................................................................................................27
Bảng 1.8: Tiêu chí mục tiêu của đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân
đái tháo đường typ 2......................................................................................28
Bảng 1.9: Các phương pháp đánh giá chức năng ở bệnh nhân đái tháo
đường typ 2 cao tuổi......................................................................................29
Bảng 2.1. Phân loại rối loạn lipid máu theo NCEP, ATP III.....................38
Bảng 3.1. Các thông tin chung của bệnh nhân...........................................42
Bảng 3.2. Đặc điểm kiểm soát bệnh đái tháo đường typ 2 của bệnh nhân
.........................................................................................................................43
Bảng 3.3. Đặc điểm đánh giá lão khoa toàn diện chung............................43
Bảng 3.4. CGA theo tuổi...............................................................................45
Bảng 3.5. CGA theo giới...............................................................................45
Bảng 3.6. CGA theo thời gian mắc bệnh đái tháo đường typ 2.................45
Bảng 3.7. CGA theo Glucose máu................................................................46
Bảng 3.8. CGA theo HbA1c..........................................................................46
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa CGA và tuổi, Glucose máu, HbA1c...........47
Bảng 3.10. Liên quan giữa các thành phần của CGA................................47
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa gây tăng đường
huyết mạn tính do khiếm khuyết bài tiết insulin, khiếm khuyết hoạt động
insulin, hoặc cả hai . Tăng glucose máu mạn tính gây ra tổn thương biến
chứng cấp và mạn tính ở nhiều cơ quan trong cơ thể, đăc biệt là mắt, thận,
thần kinh, tim và mạch máu…có thể gây tử vong hoặc tàn phế .
Trong bệnh đái tháo đường, bệnh đái tháo đường typ 2 chiếm từ 8595% và có tốc độ gia tăng nhanh. Theo Tổ chức Y tế thế giới (World Health
Organization – WHO) năm 2000 trên toàn thế giới có 151 triệu người mắc
bệnh Đái tháo đường và dự báo đến năm 2025 thì con số này sẽ lên đến
khoảng 330 triệu người . Theo báo cáo của Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế
(International Diabetes Federation – IDF) năm 2014 thì số người mắc Đái
tháo đường trên toàn thế giới đã là 387 triệu người, ước đoán đến năm 2035
sẽ tăng lên 592 triệu người .
Số người cao tuổi trên toàn thế giới ngày một tăng, hiện chiếm khoảng
8,3% dân số thế giới và dự kiến sẽ lên đến 30% vào năm 2050 . Bệnh đái tháo
đường typ 2 là bệnh thường gặp trên người cao tuổi và được xếp thứ 6 trong
các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người cao tuổi . Theo WHO, đến
2030 sẽ có hơn nửa số mắc đái tháo đường trên thế giới là dân châu Á và hơn
phân nửa số bệnh nhân này trên tuổi 60 (53%) .
Việt Nam là nước đang có xu hướng già hóa về dân số, tỉ lệ người lớn
tuổi theo báo cáo năm 2009 là 9,5% ; dự báo có thể lên tới 16,8 % vào năm
2029 . Bệnh Đái tháo đường ở người cao tuổi có tỷ lệ mắc cao (>10%). Bệnh
nhân cao tuổi bị bệnh Đái tháo đường có tỷ lệ tử vong cao gấp đôi so với
người không bị đái tháo đường và là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất liên quan
đến suy giảm chức năng ở người cao tuổi . Ngoài các biến chứng vi mạch và
mạch máu lớn, thì người cao tuổi mắc đái tháo đường cũng có thể phải chịu
các ảnh hưởng xấu khác như trầm cảm, suy giảm nhận thức, teo cơ, ngã và
gãy xương….
2
Trong điều trị và chăm sóc bệnh nhân đái tháo đường typ 2 thì vấn đề
xác lập mục tiêu đường huyết, cá thể hóa điều trị là rất quan trọng . Ở bệnh
nhân đái tháo đường cao tuổi thì các hội chứng lão khoa gồm sử dụng thuốc,
trầm cảm, giảm nhận thức, tiểu tiện không tự chủ, té ngã và đau nên được ưu
tiên xem xét đồng thời cùng mục tiêu đường huyết . Vì vậy, vấn đề đánh giá
lão khoa toàn diện ở người cao tuổi mắc đái tháo đường typ 2 là rất cần thiết
và quan trọng trong chiến lược điều trị và chăm sóc cá thể hóa bệnh nhân cao
tuổi mắc đái tháo đường typ 2.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về đánh giá lão khoa toàn diện ở
bệnh nhân cao tuổi. Theo A. Araki và cộng sự nghiên cứu năm 2013 tại Nhật
Bản cho thấy việc đánh giá lão khoa toàn diện (Comprehensive Geriatric
Assessment - CGA) bao gồm 5 lĩnh vực quan trọng: chức năng thể chất, chức
năng tâm lý, chức năng tâm thần, điều kiện kinh tế-xã hội, và sở thích của
bệnh nhân có thể được sử dụng cho tiên lượng và là một công cụ chẩn đoán
sớm của bệnh mất trí nhớ, công cụ đánh giá năng lực của bệnh nhân đối với
tự tiêm insulin, và công cụ đánh giá kết quả điều trị đái tháo đường. CGA
cũng rất hữu ích trong việc thực hiện một cách tiếp cận bệnh nhân làm trung
tâm để cải thiện các chức năng thể chất, tâm lý và tinh thần cũng như cá nhân
hóa mục tiêu điều trị HbA1c ở bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường .
Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có nghiên cứu về đánh giá các yếu tố
lão khoa toàn diện trên bệnh nhân cao tuổi mắc đái tháo đường typ 2 được
công bố. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá lão khoa
toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi tại Bệnh viện Lão
khoa Trung Ương” với các mục tiêu:
1.
Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi.
2.
Nhận xét mối liên quan giữa đánh giá lão khoa toàn diện với tuổi, thời
gian mắc bệnh, nồng độ glucose máu và HbA1c ở bệnh nhân đái tháo
đường typ 2 cao tuổi.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Đại cương về đánh giá lão khoa toàn diện
1.1.1. Định nghĩa và vai trò của đánh giá lão khoa toàn diện
Đánh giá lão khoa toàn diện (CGA) là phương pháp chẩn đoán liên
ngành, đa chiều để xác định khả năng về y tế, tâm lý và chức năng của một
người cao tuổi để phát triển một kế hoạch phối hợp đầy đủ để điều trị và theo
dõi lâu dài . Trong khi phối hợp các đánh giá chẩn đoán y tế cơ bản, CGA
nhấn mạnh chất lượng cuộc sống và tình trạng chức năng, tiên lượng, kết quả
đòi hỏi công việc có chiều sâu rộng hơn. Do đó, điểm nổi bật của CGA là
những việc làm của các nhóm liên ngành và sử dụng các công cụ tiêu chuẩn
để đánh giá các khía cạnh hoạt động của bệnh nhân, các khiếm khuyết, và hỗ
trợ xã hội.
Đánh giá toàn diện lão khoa được thực hiện trong nhiều cơ quan và
cộng đồng khác nhau. Trong các hình thức phong phú nhất của nó, nó củng cố
chăm sóc tại bệnh viện lão khoa và các đơn vị có thể đóng một vai trò quan
trọng trong các dịch vụ dựa vào cộng đồng như Mô hình chăm sóc mạn tính
(Chronic Care Model) và Chương trình chăm sóc tổng thể cho người cao tuổi
dễ bị tổn thương và tàn tật . Nó cũng có thể được thực hiện như là một sự bổ
sung cho các đánh giá y tế tiêu chuẩn ở các cơ sở chăm sóc cơ bản. Một đánh
giá lão khoa đa chiều - một hình thức viết tắt của CGA nhưng trong đó cũng
bao gồm các lĩnh vực y tế, chức năng, tâm lý và xã hội - được thực hiện bởi
các chuyên gia trong việc kiểm tra sức khỏe cộng đồng và các nhà cung cấp
dịch vụ chăm sóc cơ bản là những người có thể sử dụng kết quả để chuyển
bệnh nhân đến các chuyên khoa lão khoa để được đánh giá và quản lý toàn
diện hơn. Trong bối cảnh lâm sàng, CGA được sử dụng để xác định các vấn
4
đề chức năng và khuyết tật của bệnh nhân cao tuổi với mục đích cung cấp
dịch vụ chăm sóc dài hạn tiếp theo.
Trọng tâm phổ biến của CGA là những người cao tuổi dễ bị tổn thương
(tức là có nguy cơ mất cân bằng nội môi và suy nhược) hoặc tàn tật hoặc cả
hai. Hội chứng dễ bị tổn thương là một hội chứng lâm sàng phổ biến ở người
cao tuổi. Dựa vào các tiêu chí công bố gần đây, tỷ lệ người có hội chứng dễ bị
tổn thương chiếm gần 10% trong cộng đồng người từ 65 tuổi trở lên , với
nguy cơ tử vong cao trên 3 năm và 7 năm.
Từ khi y học lão khoa thành lập, đã thừa nhận những người cao tuổi dễ
bị tổn thương và tàn tật là nhóm người có nguy cơ cao nhất cho kết quả bất
lợi, cũng như nhiều khả năng hưởng lợi từ dịch vụ chăm sóc lão khoa. Nhiều
dịch vụ y tế tiếp theo và các nghiên cứu lâm sàng đã tìm cách xác định các
phương thức chăm sóc sức khỏe cũng như các can thiệp cụ thể mà sẽ giảm
thiểu hoặc thậm chí ngăn ngừa hội chứng dễ bị tổn thương và hậu quả của nó.
CGA là trung tâm của phương pháp tiếp cận và có mục tiêu cải thiện độ chính
xác chẩn đoán, tối ưu hóa kết quả điều trị và sức khỏe y tế, cải thiện chức
năng và chất lượng cuộc sống, giảm sử dụng các dịch vụ không cần thiết, thiết
lập hoặc cải thiện quản lý chăm sóc lâu dài.
1.1.2. Lịch sử Đánh giá lão khoa toàn diện
Nguồn gốc của thực hành CGA được bắt đầu cách đây khoảng 70 năm
từ công việc của Marjory Warren ở Vương quốc Anh . Warren tạo ra một đơn
vị đánh giá lão khoa chuyên ngành trong một bệnh viện bệnh mạn tính lớn
("workhouse infirmary" ). Bệnh viện đã điều trị chăm sóc nhiều bệnh nhân
cao tuổi bị bỏ mặc và nằm liệt giường. Bằng cách đánh giá một cách hệ thống
những bệnh nhân này, Warren đã có thể xác định những người có thể được
hưởng lợi bởi những nỗ lực y tế và phục hồi chức năng. Bà đã huy động lại đa
5
số các bệnh nhân và trong nhiều trường hợp đã trả họ về nhà. Những kinh
nghiệm này đã khiến bà trở thành một người khởi xướng hàng đầu về đánh
giá toàn diện của người cao tuổi trước khi họ được điều trị tại các bệnh viện
mạn tính hoặc nhà dưỡng lão.
Bảng 1.1. Mục tiêu của Đánh giá lão khoa
Mục tiêu lâm sàng:
- Sàng lọc lão khoa đa chiều ở các quần thể người lớn tuổi.
- Để cải thiện quá trình chăm sóc:
+ Cải thiện độ chính xác chẩn đoán
+ Cải thiện điều trị y tế
+ Sắp xếp quản lý dài hạn
- Để cải thiện kết quả của việc chăm sóc:
+ Cải thiện tình trạng chức năng
+ Chất lượng cuộc sống tốt hơn
- Về chi phí chăm sóc:
+ Giảm sử dụng các dịch vụ không cần thiết
+ Kéo dài thời gian tại nhà/cộng đồng
Mục tiêu khác:
- Xác định điều kiện/thanh toán cho các dịch vụ
- Tiến hành nghiên cứu để xác định đặc điểm cơ bản của bệnh nhân, lịch sử tự
nhiên, hoặc kết quả của việc điều trị
6
CGA hiện được áp dụng quốc tế và có một vị trí trung tâm trong hệ
thống chăm sóc lão khoa. Tại Hoa Kỳ, CGA là một đặc tính xác định trong
các chương trình bắt đầu từ những năm 1970 ở một số bệnh viện cựu chiến
binh (nay là Trung tâm Y tế của Bộ Cựu chiến binh - Department of Veterans
Affairs medical centers). Các đơn vị đánh giá lão khoa (nay gọi là đơn vị
đánh giá và quản lý lão khoa - Geriatric Evaluation and Management units GEM) đã được thành lập, đầu tiên ở phần giường điều trị nội trú và sau này
trong việc chăm sóc, để xác định, đánh giá và điều trị các cựu chiến binh dễ bị
tổn thương và tàn tật trong hệ thống những người có nguy cơ không được
hưởng lợi từ dịch vụ chăm sóc bình thường. Vào giữa những năm 1990, hơn
ba phần tư trong tổng số 172 Trung tâm Y tế của Bộ Cựu chiến binh báo cáo
có một chương trình GEM .
Bên ngoài các Trung tâm Y tế của Bộ Cựu chiến binh, các đơn vị GEM
của bệnh viện đã gặp khó khăn do vấn đề kinh phí, khó khăn trong việc duy
trì các đội liên ngành, và thiếu các bác sĩ được đào tạo đầy đủ để quản lý các
đơn vị này . Tuy nhiên, CGA đã trở thành một phần chính của chăm sóc lão
khoa và các dịch vụ tư vấn điều trị nội trú.
1.1.3. Các thành phần của đánh giá lão khoa toàn diện
Bảng 1.2 cung cấp một danh sách các thành phần cơ bản trong một
phức bộ CGA. Trong khi có các yếu tố chi tiết khác nhau, hầu như tất cả các
CGA đều bao gồm các thành phần y tế, tâm lý, xã hội và môi trường, cũng
như các thành phần chức năng (ở cấp độ của các hoạt động sống hàng ngày
[Activities of Daily Living - ADL] và các hoạt động cuộc sống hàng ngày có
sử dụng công cụ [Instrumental Activities of Daily Living - IADL]). Bảng 1.2
cũng cung cấp các yếu tố có thể được chứa trong các đánh giá nhiều hơn hoặc
ít phổ biến hơn.
7
Bảng 1.2. Các thành phần của đánh giá lão khoa toàn diện
Thành phần
Yếu tố
- Liệt kê các bệnh, vần đề sức khỏe
- Tình trạng bệnh tật và mức độ nghiêm trọng của
Đánh giá y tế
bệnh
- Thông tin liệu pháp điều trị
- Tình trạng dinh dưỡng
- Hoạt động sống cơ bản hàng ngày (ADL)
- Hoạt động sống cơ bản hàng ngày có sử dụng
Đánh giá chức năng
công cụ (IADL)
- Tình trạng hoạt động tập luyện
Đánh giá tâm lý
Đánh giá xã hội
Đánh giá môi trường
- Dáng đi và cân bằng
- Kiểm tra trạng thái tâm thần (nhận thức)
- Kiểm tra trầm cảm
- Nhu cầu hỗ trợ không chính thức và các tài sản
- Đánh giá tài chính, điều kiện nguồn lực chăm sóc
- An toàn nhà ở
- Tình trạng giao thông và sức khỏe từ xa
Một CGA chỉ có thể có hiệu quả nếu có một quá trình để xác định các
bệnh nhân cao tuổi có thể được hưởng lợi từ nó. Trong hầu hết các trường
hợp, họ là những người cao tuổi dễ bị tổn thương và tàn tật hoặc có nhiều tình
trạng bệnh tật phối hợp.
Mặc dù không có tiêu chuẩn vàng một cách chính xác và đáng tin cậy
xác định người cao tuổi dễ bị tổn thương hoặc nguy cơ tàn tật, một số xét
nghiệm sàng lọc lâm sàng đối với bệnh nhân cao tuổi là thực sự hữu ích.
Sàng lọc cộng đồng phát hiện ra các trường hợp đã được triển khai trong một
số Tổ chức chăm sóc quản lý y tế thông qua bảng câu hỏi định kỳ và khi
tuyển vào (ví dụ, Khả năng nhập viện nhiều lần - Probability of Repeated
8
Admission ), trong các luận chứng quản lý chăm sóc y tế trong hệ thống Bộ
Cựu chiến binh Mỹ và trong yêu cầu của chương trình kiểm tra sức khỏe cao
cấp của bác sĩ đa khoa ở Vương quốc Anh. Sàng lọc đa chiều trong các bệnh
viện và các cơ sở khác cũng đã được sử dụng trong các mục tiêu ở bệnh nhân
có nguy cơ cho CGA. Nói chung, sàng lọc được thực hiện để xác định bệnh
nhân có thâm hụt chức năng mới hoặc có khó khăn hoặc có vấn đề về lão
khoa (ví dụ: ngã, thay đổi tình trạng nhận thức, tiểu không tự chủ) và giới
thiệu họ cho CGA trong bối cảnh thích hợp nhất.
Phạm vi của CGA phụ thuộc vào môi trường chăm sóc và nguồn lực
sẵn có. Trong các chương trình chăm sóc lão khoa như chương trình chăm sóc
tổng thể dành cho người cao tuổi (Program of All-Inclusive Care for the
Elderly - PACE) , một nhóm liên ngành chia trách nhiệm cho các thành phần
đánh giá. Kết quả được báo cáo tại các cuộc họp nhóm, trong đó có một danh
sách vấn đề liên ngành và kế hoạch chăm sóc được phát triển. Đơn vị đánh
giá và quản lý lão khoa (GEM) hoặc các nơi có chương trình PACE có thể
bao gồm nhiều nguyên tắc và chuyên ngành khác nhau. Những nhóm nhỏ
hơn, thường bao gồm một nhà lão khoa, nhân viên xã hội và y tá, có thể thực
hiện CGA tại phòng khám hoặc cơ sở thực hành khi các vấn đề kết hợp và các
đối tượng nói chung cho phép. Nhóm nhỏ hơn như thế tạo nên cốt lõi của hoạt
động chăm sóc lão khoa căn bản tại Hoa Kỳ và các chương trình định hướng
phòng chống và chăm sóc lão khoa ở nhà. Các bác sĩ có thể thực hiện một
mình nhiều khía cạnh của một CGA, mặc dù có hạn chế về thời gian và khối
lượng công việc của các chương trình chăm sóc phức tạp. Tuy nhiên, nếu tập
trung thích hợp vào một phần cần xác định của các vấn đề về lão khoa và liên
kết với các nguồn lực quản lý chăm sóc cần thiết, một nhóm nhỏ hoặc bác sĩ
CGA cũng cần thiết để mang lại hiệu quả cho CGA.
9
Trung tâm của CGA là đánh giá về chức năng của bệnh nhân, được
phản ánh phổ biến nhất trong phạm vi đánh giá của ADLs và IADLs. ADLs
cơ bản bao gồm các hoạt động tự chăm sóc bản thân như mặc quần áo, tắm
rửa, di chuyển đến và đi từ ghế, giường, và vị trí đứng, đi vào nhà vệ sinh và
ăn uống. Bên cạnh các hoạt động hàng ngày cần thiết, các hoạt động bao gồm
IADLs có thể tự làm hoặc thông thường có thể được thực hiện bởi các thành
viên khác trong gia đình (ví dụ, công việc gia đình hoặc công việc lặt vặt
trong nhà, quản lý tiền bạc, sử dụng điện thoại, mua sắm). Trong nhiều trường
hợp, đặc biệt là trong bối cảnh lâm sàng bệnh nhân đi lại được, bệnh nhân
và/hoặc những người chăm sóc được yêu cầu báo cáo về những mục này bằng
cách điền vào bảng câu hỏi. Ở những nơi khác, hoạt động chức năng có thể
được đánh giá lâm sàng mở rộng hơn bởi các y tá hoặc các chuyên gia điều
trị. Nhiều phương pháp tiếp cận tiềm năng hữu ích để đánh giá chức năng
luôn có sẵn, nhưng lựa chọn một hoặc một tập hợp các phương pháp phải
được thực hiện một cách cẩn thận. Dựa vào tầm quan trọng chính của sự linh
động để quyết định các hoạt động chức năng căn bản nhất và tỷ lệ mắc cao
cũng như hậu quả thường có hại của tình trạng ngã ở bệnh nhân cao tuổi,
đánh giá luyện tập thể dục và tình trạng hoạt động, cũng như dáng đi và cân
bằng, đã trở thành một khía cạnh quan trọng của việc đánh giá chức năng
trong hầu hết các trường hợp.
Hai nguồn thông tin hữu ích chính bắt nguồn từ các thành phần đánh
giá chức năng trong CGA. Một bao gồm năng lực hay thiếu năng lực của
bệnh nhân để thực hiện các công việc cụ thể, trong đó không đủ năng lực có
thể gợi ý các suy yếu cơ bản trong hệ thống cơ quan hoặc các quá trình bệnh
lý cụ thể. Về vấn đề này, các sàng lọc về suy giảm nhận thức và bệnh trầm
cảm chính là nòng cốt của các thành phần đánh giá tâm lý rất thật sự hữu ích.
Nguồn thông tin thứ hai liên quan đến bản chất và mức độ giúp đỡ cần thiết
10
cho các công việc cụ thể được thực hiện. Khía cạnh này của việc đánh giá
chức năng được rút ra trong thông tin bổ sung từ các thành phần xã hội và
môi trường. Sức mạnh của mạng lưới hỗ trợ xã hội của bệnh nhân, các loại và
tổng số trợ giúp sẵn có, các khía cạnh của môi trường gia đình, và khả năng
tài chính để đảm bảo thanh toán hỗ trợ chăm sóc cá nhân đã được xem xét
đánh giá. Tất cả thông tin trên giúp tiên lượng chức năng và ảnh hưởng chi
phối lựa chọn các mục tiêu lâm sàng và phương pháp tiếp cận quản lý bệnh
nhân cao tuổi.
Kế hoạch chăm sóc được xây dựng sau khi có các dữ liệu (ví dụ, thông
tin từ các biện pháp đo lường lâm sàng tiêu chuẩn, kết quả xét nghiệm, cũng
như các dấu ấn lâm sàng trọng tâm) được thu thập từ tất cả các thành phần
của CGA. Một đặc điểm của CGA không được đánh giá đúng mức thường
không phải là một quá trình hoàn thành ba bước liên tiếp theo trình tự của
việc đánh giá toàn diện, chỉ xem kết quả và áp dụng để đề xuất áp dụng một
kế hoạch chăm sóc tương đối cố định. Trong dài hạn, do tuổi tác, sức khỏe và
tình trạng chức năng của những bệnh nhân này, rất hiếm khi có một kế hoạch
chăm sóc lão khoa hoàn toàn của liệu pháp điều trị cuối cùng. Việc đánh giá
không có giá trị sẽ không mang lại một kế hoạch chăm sóc, và các kế hoạch
chăm sóc không có giá trị nếu không được thực hiện. Các tài liệu về hiệu quả
CGA cho thấy rằng những lợi ích lớn hơn có xu hướng được nhìn thấy ở các
nơi thực hiện việc đánh giá, ngoài ra còn được cung cấp và quản lý các dịch
vụ chăm sóc.
Các dạng chương trình và các cơ sở đánh giá CGA được thực hiện theo
một cách liên tục từ nơi cộng đồng đến các phòng khám chuyên khoa, bệnh
viện và các địa điểm phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và địa điểm
chăm sóc dài hạn. Các nguồn lực cho CGA và sự can thiệp có xu hướng tăng
lên cùng với sự liên tục của chương trình này, kéo theo những gánh nặng ngày
11
càng tăng của sự phức tạp lâm sàng, bệnh tật cấp tính, các vấn đề tâm lý xã
hội, và tàn tật ở các bệnh nhân cao tuổi. Từ đó, có xu hướng đưa họ vào các
chương trình đánh giá sàng lọc thông thường hoặc các phương cách nhắm đến
các mục tiêu điều trị, chăm sóc. Xác định sớm những bệnh nhân dễ bị tổn
thương, tàn tật, và phức tạp về mặt lâm sàng - trong các phòng cấp cứu hoặc
ngay sau khi nhập viện, có thể dẫn đến một CGA rộng hơn, và sự can thiệp
phục hồi chức năng có ảnh hưởng tốt hơn và quản lý tốt hơn sau khi xuất
viện. Ngược lại, hầu hết các CGA trong cơ sở điều trị ngoại trú thường là
những bệnh nhân mắc bệnh cấp tính và độ phức tạp lâm sàng ở mức độ trung
bình không yêu cầu các bác sĩ chuyên sâu và y tá theo dõi như các cơ sở nội
trú cũng như các nguồn thiết bị máy móc theo dõi phức tạp. Các chương trình
chuyên ngành như phòng khám quản lý và đánh giá lão khoa ngoại trú và các
chương trình bệnh viện ban ngày có thể cung cấp các đánh giá nhóm liên
ngành đầy đủ, can thiệp, và theo dõi đối với nhiều đối tượng bệnh nhân.
1.2. Đái tháo đường typ 2 ở người cao tuổi
Bệnh đái tháo đường là phổ biến ở người cao tuổi . Ít nhất 20% người
da trắng cao tuổi có bệnh đái tháo đường typ 2, và hơn một nửa trong số
những bệnh nhân này không biết là mình bị bệnh.
1.2.1. Bệnh sinh
Rõ ràng có một yếu tố di truyền mạnh hướng tới bệnh đái tháo đường
typ 2 ở người cao tuổi, mặc dù các gen liên quan đến thực tế chưa được xác
định rõ ràng . Tuy nhiên, có nhiều yếu tố khác góp phần vào tỷ lệ cao của
bệnh đái tháo đường ở nhóm tuổi này.
Lão hóa bình thường được đặc trưng bằng cách thay đổi trong bài tiết
insulin và tác dụng của insulin. Nhiều người lớn tuổi không hoạt động hoặc bị
béo phì hoặc có một chế độ ăn uống thấp carbohydrate và cao chất béo. Bệnh
nhân lớn tuổi thường có những bệnh đặc trưng bởi viêm và mức độ cao hơn
12
các cytokine gây viêm. Cuối cùng, người già thường dùng nhiều thuốc và có
nhiều tình trạng bệnh lý có thể biến đổi chuyển hóa glucose. Như vậy các yểu
tố di truyền, sinh lý và môi trường phối hợp để dẫn đến tỷ lệ cao bệnh đái
tháo đường typ 2 ở người cao tuổi.
Hầu hết các bệnh nhân trung niên bị bệnh đái tháo đường typ 2 có tăng
sản xuất glucose lúc đói ở gan, suy giảm bài tiết insulin kích thích bởi glucose
và đề kháng với quá trình sử dụng glucose được insulin hoạt hóa . Bệnh đái
tháo đường ở người cao tuổi là có sự khác biệt trong chuyển hóa . Sự sản xuất
glucose ở gan lúc đói không tăng. Người cao tuổi gầy bị đái tháo đường typ 2
có suy rõ rệt bài tiết insulin nhưng hoạt động của insulin tương đối bình
thường, trong khi người cao tuổi béo phì có bài tiết insulin tương đối bình
thường nhưng đề kháng rõ rệt với quá trình sử dụng glucose được insulin hoạt
hóa. Những bất thường chuyển hóa này cho thấy rằng phương pháp tiếp cận
điều trị nên khác nhau ở người cao tuổi. Bệnh nhân gầy nên được điều trị ban
đầu với một insulin bổ sung hoặc insulin bởi khiếm khuyết chính là sự giảm
bài tiết insulin kích thích bởi glucose. Ngược lại, bệnh nhân béo phì cần được
điều trị với các thuốc tăng cường độ nhạy cảm insulin.
Có bằng chứng rằng các hiện tượng tự miễn dịch có thể đóng một vai
trò trong sinh bệnh học của bệnh đái tháo đường typ 2 ở một số bệnh nhân
cao tuổi gầy . Có thể trong tương lai sự đo thông số của các yếu tố miễn dịch
như kháng thể kháng tế bào tiểu đảo tụy (ICA) hoặc kháng thể kháng GAD sẽ
được thực hiện tại thời điểm chẩn đoán ở những bệnh nhân cao tuổi gầy bị đái
tháo đường typ 2 để dự đoán cho khả năng bệnh nhân cần đòi hỏi điều trị
insulin sớm trong tình trạng bệnh lý của họ.
1.2.2. Đặc điểm lâm sàng
13
Bởi vì ngưỡng thận cho glucose tăng theo độ tuổi, những người cao
tuổi không biểu hiện glucose niệu cho đến khi mức glucose máu là cực kỳ cao.
Ngoài ra, những người cao tuổi đã suy yếu cơ chế khát do đó ngay cả khi họ
biểu hiện tăng đường huyết, họ thường không biểu hiện khát. Vì lý do này, các
triệu chứng điển hình của bệnh đái tháo đường thường không hiện diện trong
nhóm tuổi này, và việc chẩn đoán được thực hiện khi bệnh nhân đi khám sức
khỏe định kỳ hoặc được nhập viện vì một tình trạng bệnh ốm liên quan hiện tại.
Nếu các triệu chứng có mặt, chúng có xu hướng không đặc hiệu.
1.2.3. Các biến chứng
Mặc dù bệnh đái tháo đường được liệt kê như là nguyên nhân thứ sáu
gây tử vong ở người cao tuổi, nó thực sự là một nguyên nhân tử vong phổ
biến hơn nhiều bởi vì nó góp phần vào nhiều biến cố tim mạch. Bệnh nhân
lớn tuổi bị bệnh đái tháo đường tăng gấp đôi số tử vong kiểm soát phù hợp
theo tuổi so với không có bệnh, và lý do chủ yếu dẫn tới tử vong là biến cố
mạch máu lớn. Đái tháo đường là một trong những yếu tố dự báo mạnh nhất
của suy giảm chức năng ở người cao tuổi . Những người cao tuổi bị bệnh đái
tháo đường có chất lượng cuộc sống kém hơn và sử dụng các nguồn lực chăm
sóc sức khỏe đáng kể hơn.
1.2.3.1. Biến chứng mạch máu
Rõ ràng có một nguy cơ gia tăng biến chứng mạch máu nhỏ và biến
chứng mạch máu lớn cũng như suy tim ở những người đái tháo đường cao
tuổi, và các nguy cơ của các biến chứng này tăng với độ tuổi của bệnh nhân,
thời gian mắc bệnh đái tháo đường và giá trị HbA1c. Điều này cho thấy sự cải
thiện kiểm soát đường huyết có thể làm giảm nguy cơ biến chứng. Có một số
bằng chứng cho thấy việc cải thiện kiểm soát đường huyết làm giảm nguy cơ
biến chứng vi mạch ở những bệnh nhân này, nhưng ảnh hưởng trên các biến
chứng mạch máu lớn chưa thể chắc chắn. Tuy nhiên, việc giảm bớt các yếu tố
14
nguy cơ khác, như tăng huyết áp và tăng lipid máu, có ảnh hưởng có lợi đối
với nguy cơ biến cố mạch máu lớn ở những bệnh nhân này.
1.2.3.2. Hạ đường huyết
Người cao tuổi có tăng nguy cơ hạ đường huyết nặng hoặc tử vong khi
điều trị bằng insulin hoặc thuốc uống nhất định . Điều này là do suy giảm bài
tiết của các hormon đối kháng, đặc biệt là glucagon; giảm nhận thức các triệu
chứng cảnh báo hạ đường huyết, và thiếu giáo dục về các triệu chứng của hạ
đường huyết. Cách duy nhất để ngăn ngừa các biến chứng này ở người già là
thông qua giáo dục tốt hơn của người cao tuổi về các triệu chứng hạ đường
huyết và cách điều trị, và sử dụng thuốc uống hoặc insulin; điều này có liên
quan đến tần số hạ đường huyết thấp hơn.
1.2.3.3. Chức năng nhận thức
Rõ ràng là các nguy cơ sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer gia tăng bệnh ở
bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi, nhưng nó là không được biết ở tại giai
đoạn nếu có sự cải thiện kiểm soát đường huyết hoặc kiểm soát các yếu tố
nguy cơ sẽ làm giảm nguy cơ mất trí nhớ ở nhóm tuổi này. Người cao tuổi
mắc bệnh đái tháo đường cũng có một tỷ lệ mắc mới bệnh trầm cảm cao hơn,
và một số dữ liệu cho thấy rằng cải thiện kiểm soát đường huyết làm cải thiện
được chức năng tình cảm .
1.2.4. Chẩn đoán và theo dõi
Bệnh đái tháo đường là phổ biến ở người cao tuổi, nên nó đã được đề
nghị sàng lọc rộng rãi bệnh đái tháo đường dựa trên giả định rằng sự can thiệp
sớm sẽ làm giảm các nguy cơ biến chứng. Đường huyết lúc đói không phải là
một xét nghiệm sàng lọc mạnh rõ ràng ở người cao tuổi vì một số đáng kể các
trường hợp mắc bệnh đái tháo đường ở nhóm tuổi này sẽ được bỏ qua sử dụng
thử nghiệm này. Gần đây, các tổ chức khác nhau trên thế giới đã khuyến cáo
rằng đo lường tiêu chuẩn của A1C có thể là một công cụ sàng lọc đáng tin cậy
15
ở những người bị bệnh đái tháo đường ở tất cả các nhóm tuổi. Cần thiết có
thêm dữ liệu để xác nhận điều này như một xét nghiệm sàng lọc cho bệnh đái
tháo đường ở người cao tuổi.
1.2.5. Mục tiêu điều trị
Hiện nay, có tranh cãi đáng kể về lợi ích của cải thiện kiểm soát đường
huyết ở bệnh nhân đái tháo đường. Sự đồng thuận các ý kiến xem như kiểm
soát đường huyết chặt chẽ dẫn tới có lợi nếu nó được thiết lập sớm trong quá
trình của tình trạng bệnh, trước khi biến chứng xuất hiện. Ngoài ra, kiểm soát
chặt chẽ có thể làm giảm nguy cơ biến cố vi mạch ở các bệnh nhân có tình
trạng thời gian bệnh lâu hơn. Thật không may, vì do thiếu dữ liệu từ thử
nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên ở bệnh nhân trên 70 tuổi, nên là khó khăn để
thiết lập mục tiêu điều trị. Tuy nhiên, có giá trị tin rằng người phụ nữ trung
bình 80 tuổi bị bệnh đái tháo đường ở Bắc Mỹ có tuổi thọ thêm khoảng 9
năm, nhưng có thể dành phần lớn thời gian đó với một khuyết tật suy nhược
lớn. Ở những bệnh nhân đái tháo đường, nguyên nhân chính của tàn tật là
bệnh mạch máu. Bất cứ điều gì có thể làm giảm nguy cơ của các biến chứng
sẽ cải thiện chức năng và chất lượng của cuộc sống ở người già. Mặc dù lợi
ích của kiểm soát đường huyết chặt chẽ còn được tranh cãi, dữ liệu từ thử
nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên chứng minh rằng việc kiểm soát huyết áp và mỡ
máu sẽ có một tác động đáng kể đến nguy cơ biến chứng và chất lượng cuộc
sống trong nhóm tuổi này .
Hội Lão khoa Châu Âu (EGS) và Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế
(IDF) đã phát triển hướng dẫn cho việc kiểm soát bệnh đái tháo đường và các
yếu tố nguy cơ liên quan ở người già (xem Bảng 1.3 và 1.4) . Những hướng
dẫn này phải được cá thể hóa dựa trên tình trạng chức năng và các bệnh lý đi
kèm.
Bảng 1.3: Mục tiêu đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi
16
Khỏe mạnh
Yếu
Glucose máu lúc đói
< 7 mmol/l
< 10 mmol/l
Glucose máu sau ăn 2h
< 10 mmol/l
< 14 mmol/l
HbA1c
< 7,0 %
< 8,5 %
Bảng 1.4: Mục tiêu huyết áp và lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường
cao tuổi
Khỏe mạnh
Yếu
Huyết áp
< 140/80 mmHg
< 150/90 mmHg
LDL-c
< 3,0 mmol/l
-
TG
< 2,3 mmol/l
-
1.2.6. Lựa chọn điều trị
Thật sự khó khăn để điều trị những người cao tuổi mắc bệnh đái tháo
đường vì các tình huống xã hội phức tạp, nhiều thuốc và nhiều bệnh tật. Vì
vậy, một cách tiếp cận nhóm để quản lý là cần thiết. Các chương trình đa
ngành cho bệnh nhân cao tuổi đã cho thấy kết quả phù hợp tốt hơn với điều trị
và cải thiện kiểm soát đường huyết. Sự tham gia của các thành viên gia đình
trong kế hoạch quản lý là hoàn toàn cần thiết. Đối với bệnh nhân đái tháo
đường cao tuổi, giảm bớt yếu tố nguy cơ là cần thiết. Thuốc chẹn kênh Canxi,
thuốc lợi tiểu, chẹn thụ thể angiotensin và thuốc ức chế men chuyển là tất cả
các thuốc hạ huyết áp hiệu quả và làm giảm nguy cơ tai biến tim mạch. Các
thuốc chẹn Beta không phải thuốc hạ huyết áp hiệu quả rõ ràng ở nhóm tuổi
này. Một vài thử nghiệm kiểm chứng ngẫu nhiên cho thấy điều trị với statin
làm giảm nguy cơ tai biến tim mạch và tỷ lệ tử vong chung ở người cao tuổi
bị đái tháo đường .
1.2.6.1. Chế độ ăn uống và tập thể dục
17
Một số nhóm đã khuyến cáo hướng dẫn chế độ ăn uống cho bệnh nhân
đái tháo đường cao tuổi, nhưng có rất ít dữ liệu khách quan để ủng hộ các
khuyến cáo này. Bệnh nhân cao tuổi xuất hiện lợi ích từ việc giảm cân, nhưng
chế độ ăn nghiêm ngặt cho người cao tuổi bị đái tháo đường không xuất hiện
hiệu quả cải thiện mục tiêu trong kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân cao tuổi
sống trong nhà, viện dưỡng lão. Bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi có thể bị
thiếu một ít nguyên tố, và một số nghiên cứu ngắn hạn nhỏ cho rằng việc bổ
sung magiê, kẽm và chất chống oxy hóa, vitamin C và E có thể cải thiện kiểm
soát đường huyết.
Hoạt động thể lực đã được đánh giá trong một số các thử nghiệm kiểm
soát ngẫu nhiên nhỏ . Những nghiên cứu này đã tìm thấy rằng tập luyện có thể
cải thiện đáng kể kiểm soát đường huyết ở những bệnh nhân này, nhưng
Aerobic có một tác động hạn chế.
1.2.6.2. Quản lý thuốc
Mặc dù chưa bao giờ được đánh giá trong các thử nghiệm kiểm soát
ngẫu nhiên ở nhóm tuổi này, Metformin có vẻ an toàn và tương đối hiệu quả ở
bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi.
Acarbose là một loại thuốc có hiệu quả khiêm tốn ở người cao tuổi .
Hầu hết bệnh nhân có thể chịu được các tác dụng phụ tiêu hóa của thuốc này
nếu nó được chuẩn độ một cách cẩn thận.
Thiazolidinedione là thuốc rất có hiệu quả ở người cao tuổi, nhưng có
mối quan tâm về sử dụng chúng. Nguy cơ giữ nước gấp ba lần ở những bệnh
nhân này, và cũng còn được quan tâm về ảnh hưởng trên mật độ xương. Các
vấn đề liên quan đến độc tính tiềm ẩn đối với tim mạch của Rosiglitazone vẫn
chưa được giải quyết hoàn toàn.
Nguy cơ hạ đường huyết nặng hoặc tử vong với Glyburide tăng theo
cấp số nhân ở người già . Nguy cơ này dường như thấp hơn đối với Gliclazide
18
và Glimepiride, và các thuốc này là các sulfonylurea ưa thích ở người già.
Repaglinide và Nateglinide là thuốc kích thích tiết insulin tác dụng nhanh có
kết quả làm tần số hạ đường huyết thấp hơn Glyburide ở người cao tuổi và có
thể đặc biệt hữu ích cho những người lớn tuổi ăn uống thất thường.
Chưa có nghiên cứu cũng như chưa đánh giá việc sử dụng exenatide và
liraglutide trong nhóm tuổi này. Một vài nghiên cứu ngắn hạn gợi ý các thuốc
ức chế dipeptidyl peptidase-4 (DPP4) là có hiệu quả ở người cao tuổi. Hiệu
quả lâu dài và tác dụng phụ tiềm ẩn trong nhóm tuổi này chưa được đánh giá.
Bởi vì người lớn tuổi thường xuyên mắc sai lầm khi cố gắng pha trộn
insulin, các insulin trộn sẵn cho kết quả cải thiện độ chính xác . Bút tiêm insulin
cũng cho kết quả liều lượng insulin chính xác hơn trong nhóm tuổi này. Insulin
glargine và detemir liên quan với một tần số thấp của hạ đường huyết ở bệnh
nhân đái tháo đường cao tuổi hơn so với chế độ insulin thông thường.
1.2.7. Phòng bệnh
Trong khi 20-25% số người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường, 20 25% khác bị suy giảm dung nạp glucose . Chương trình phòng chống đái
tháo đường đề nghị rằng trong khi metformin không phải là một sự can thiệp
hiệu quả rõ ràng để giảm nguy cơ bệnh đái tháo đường ở người cao tuổi, các
can thiệp lối sống rất hiệu quả. Nghiên cứu phòng ngừa bệnh đái tháo đường
không phụ thuộc insulin chứng minh rằng chất ức chế alpha-glucosidase làm
giảm tần suất của bệnh đái tháo đường ở nhóm tuổi này và cũng giảm tần suất
các biến cố mạch máu lớn . Nó cũng đã chứng minh rằng Thiazolidinediones
có thể có hiệu quả ngăn ngừa bệnh đái tháo đường ở người cao tuổi, nhưng có
mối lo ngại về việc sử dụng các loại thuốc này vì gia tăng tần suất tác dụng
phụ của chúng.
1.3. Đánh giá lão khoa toàn diện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi
19
Như đã trình bày, người cao tuổi với các hội chứng lão khoa có nguy
cơ rối loạn suy giảm chức năng, suy giảm nhận thức, trầm cảm, đau, ngã...Các
bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi, cùng với tuổi cao và các biến chứng của
bệnh làm cho sự xuất hiện các hội chứng lão khoa cũng như các rối loạn chức
năng của bệnh nhân thêm mức độ trầm trọng hơn, dẫn tới gánh nặng cho công
tác chăm sóc, điều trị và phục hồi chức năng cho bệnh nhân. Ở bệnh nhân đái
tháo đường cao tuổi, bên cạnh kiểm soát tốt mục tiêu đường huyết và các yếu
tố nguy cơ thì việc đánh giá phát hiện sớm mức độ của các hội chứng lão
khoa và rối loạn chức năng là cần thiết để có biện pháp chăm sóc, điều trị và
phục hồi chức năng cũng như có các giải pháp để kiểm soát bệnh lâu dài.
1.3.1. Suy giảm chức năng và khuyết tật ở bệnh nhân đái tháo đường
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh đái tháo đường có liên
quan đến suy giảm chức năng và khuyết tật, và điều này cũng có thể dẫn đến
bất lợi xã hội. Mức phổ rộng các biến chứng mạch máu, mất bù chuyển hóa
cấp tính, tác dụng phụ của thuốc, và các ảnh hưởng của các điều kiện về dinh
dưỡng và hành vi lối sống, tất cả có thể tạo ra các mức độ khác nhau suy
và/hoặc khuyết tật. Những thay đổi này có thể có tác dụng phục hồi bất lợi về
tính dễ tổn thương đến bệnh lý khác, khả năng độc lập và chất lượng cuộc
sống. Tuổi cao, bản thân nó ngay cả trong trường hợp không có điều kiện
chẩn đoán cụ thể, có liên quan với tình trạng khuyết tật cho thấy rằng khả
năng phòng ngừa bệnh hoặc cải thiện sẽ chỉ có hiệu lực một phần.
Theo nghiên cứu Framingham cohort study (1994), các đối tượng
trong độ tuổi trung bình 74 ± 6 năm, bệnh đái tháo đường được xếp sau đột
quỵ, trầm cảm, gãy xương đùi, bệnh tim, viêm xương khớp, và bệnh hô hấp
mãn tính trong các nguyên nhân gây hạn chế chức năng. Theo cuộc điều tra
sức khỏe và hưu trí (1998) (hơn 6.300 đối tượng tuổi từ 51-61 năm tại các cơ
sở ban đầu), bệnh đái tháo đường đã được xác định là một yếu tố dự báo quan