LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hoa
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Tú Mai –
Giảng viên khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người đã tận tâm hướng
dẫn và động viên em nỗ lực hoàn thành khóa luận này.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn Hán Nôm,
Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Do những hạn chế về kiến thức và kĩ năng nên khóa luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để khóa
luận của em hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoa
2
MỤC LỤC
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ, bằng chất liệu đặc biệt ấy, văn
chương ẩn chứa một sức mạnh to lớn mà không phải loại hình nghệ thuật nào cũng có
thể thực hiện được. Phía sau lớp vỏ ngôn từ là cả một thế giới sống động vừa mang
tính đồng đại, vừa mang tính lịch đại. Văn chương tái hiện những gì đã, đang xảy ra
trong thế giới hiện thực của con người, cũng có khi gửi gắm ước vọng cho những điều
sẽ tới ở tương lai. Quá trình đọc hiểu một tác phẩm cũng là cả một quá trình hình
dung, tiếp cận để hiểu biết thế giới, hiểu nhân loại và hiểu cả chính bản thân mỗi
chúng ta. Chính vì thế, một điều tất yếu là để hiểu được những gì đang ẩn chứa trong
văn bản văn chương, việc quan trọng là bóc tách lớp vỏ ngôn từ, lần tìm những ý
nghĩa, thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc qua các thế hệ.
1.2.
Nền văn học của dân tộc ta đã trải qua nhiều thời kì gắn với lịch sử xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Xuyên suốt những chặng đường gian lao mà đáng
tự hào ấy, tiếng nói, chữ viết – hai mặt biểu hiện của ngôn ngữ - là một yếu tố quan
trọng quyết định đối với sự tồn vong của dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ở
nước ta thời kì đầu, đã từng có loại chữ viết giống như “con nòng nọc đang bơi”, ý
kiến này cho đến nay vẫn tồn nghi. Thời kì nước ta bị đặt dưới ách đô hộ kéo dài hàng
nghìn năm của phong kiến phương Bắc, chữ Hán du nhập vào nước ta, chính quyền đô
hộ cưỡng bức dân ta phải học chữ Hán, theo phong tục người Hán, đưa người Hán
sang sống trên đất Việt…tất cả những hành động đó đều nhằm đồng hóa, Hán hóa dân
tộc Việt. Tuy nhiên, với lòng yêu nước và ý thức tự chủ, tự tôn dân tộc, nhân dân ta
không những không bị đồng hóa mà còn tiếp thu một cách sáng tạo giá trị văn hóa
Trung Hoa để làm giàu cho di sản văn hóa truyền thống, một trong những thành quả
của sự tiếp thu ấy là việc sáng tạo ra chữ Nôm – loại chữ quốc ngữ của người nước
Nam – dùng chữ Hán để ghi âm đọc tiếng Việt.
Sáng tạo chữ Nôm là một đóng góp lớn của cha ông cho nền văn hóa dân tộc.
Tuy vậy, muốn học và sử dụng thông thạo chữ Nôm, người Việt vẫn phải thông thạo
cả chữ Hán. Do đó chữ Nôm chỉ phổ biến trong giới sĩ phu, những người theo nghiệp
Nho, am hiểu nền Hán học. Con đường học chữ quả thực rất nhọc công, “chữ Nho quả
là một hàng rào hiểm... làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn cơm gạo mới dùng được chữ;
4
khi dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng; vì nỗi dùi mài một đời học các điều
cao xa quá” (trích bài viết “Vấn đề đưa chữ Hán vào trường phổ thông” của Nguyễn
Thìn Xuân in trên Tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 2005). Loại chữ Nôm này cũng chỉ
phát triển trong một thời kì, để sau đó bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ - dùng chữ Latinh
để ghi âm tiếng Việt. Cho đến nay, chữ Hán và chữ Nôm chỉ còn được các nhà nghiên
cứu, học giả hoặc những người yêu thích nó tìm hiểu, nghiên cứu, trong khi đối với
các thế hệ sau thì nó thật xa lạ, khó hiểu, khó nắm bắt, chữ Quốc ngữ thay thế cho hai
loại chữ cổ xưa ấy có ưu thế dễ học, dễ hiểu hơn nhiều. Chúng ta tìm hiểu các tác
phẩm của ông cha để lại – nguyên tác chữ Hán hoặc chữ Nôm – qua bản dịch bằng chữ
Quốc ngữ, không có điều kiện tiếp xúc với nguyên tác, hơn nữa đối với văn thơ cổ,
từng ý từng lời là do các nhà văn, nhà thơ uyên thâm Nho học sáng tác, giàu chất trí
tuệ, lại thuộc về lịch đại nên sẽ gây khó khăn cho người đọc thế hệ ngày nay, trong
nhiều trường hợp có thể hiểu chưa đúng, thậm chí ngộ nhận, suy diễn lệch lạc ý nghĩa
của câu chữ mà tác giả muốn truyền đạt. Nói một cách khái quát, muốn tìm hiểu một
tác phẩm bằng chữ Hán hay chữ Nôm thì thao tác đầu tiên vô cùng quan trọng là phân
tích ngôn ngữ văn bản để hiểu cho đúng, cho đủ nội dung, tư tưởng của nó.
1.3. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn là một khúc ngâm đã gây xúc động
cho biết bao độc giả mọi thế hệ, bởi nỗi buồn biệt ly của chinh phu – chinh phụ đâu
còn là nỗi niềm riêng tư của một người nào, đâu phải của riêng thời đại Đặng Trần
Côn! Khúc ngâm bằng chữ Hán này đã được nhiều dịch giả diễn Nôm như Đoàn Thị
Điểm, Phan Huy Ích, Nguyễn Khản…, trong đó có một bản dịch được phổ biến rộng
rãi nhất, được các nhà nghiên cứu gọi là bản A. Nhiều người biết, thậm chí thuộc nằm
lòng bản diễn Nôm ấy, nhưng nói chung, thế hệ độc giả ngày nay chỉ được tiếp xúc với
bản chữ Quốc ngữ mà không biết đến bản nguyên tác chữ Hán và bản chữ Nôm. Bên
cạnh đó, như trên đã nói, vì là dịch phẩm của người uyên thâm Nho học, lại thuộc về
lịch đại, bản dịch có nhiều âm đọc cổ, nhiều từ và điển cố Trung Hoa xa lạ đối với độc
giả Việt nên sự khó hiểu, nhầm lẫn hoặc hiểu sai là điều không thể tránh khỏi. Trong
chương trình phổ thông, học sinh cũng được tìm hiểu những đoạn trích ngắn trong bản
diễn Nôm Chinh phụ ngâm. Trình độ đọc hiểu ở học sinh phổ thông không cao, lại
thêm những rào cản mang tính thời đại về ngôn ngữ nên sẽ thật khó để các em có thể
tái hiện và cảm thụ hết vẻ đẹp của tác phẩm.
5
Với mong muốn trình bày một cách chi tiết, hệ thống cách hiểu bản Chinh phụ
ngâm từ góc độ ngôn ngữ, đem đến cái nhìn sâu sắc, đúng đắn hơn về ý nghĩa từ, ngữ
để hướng đến đọc – hiểu văn bản một cách đầy đủ nhất, chúng tôi thực hiện đề tài
“Thiết lập phần mềm tra cứu cho bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm”.
Đề tài là một sản phẩm tra cứu trọn vẹn, có thể giúp giáo viên, học sinh phổ
thông và những người quan tâm tra cứu một cách dễ dàng về Chinh phụ ngâm.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu cả về nguyên tác và các bản dịch
Chinh phụ ngâm.
Thứ nhất, về vấn đề dịch giả của các bản dịch, hiện nay vẫn chưa có một sự
thống nhất trong giới nghiên cứu. Có tất cả bảy bản dịch Chinh phụ ngâm bằng chữ
Nôm: bốn bản theo thể song thất lục bát (được gọi là các bản A, B, C, D) và ba bản
theo thể lục bát, bản lưu hành rộng rãi nhất hiện nay được kí hiệu là bản A. Vấn đề
nghiên cứu dịch giả của các bản dịch có thể chia làm hai giai đoạn, ở mỗi giai đoạn
song song tồn tại những ý kiến khác nhau:
Giai đoạn 1926 – 1953: Trước năm 1926, giới nghiên cứu và độc giả mới chỉ biết
đến một bản dịch là bản hiện hành, tục truyền của Đoàn Thị Điểm, theo ghi chép trên
một bản Nôm Chinh phụ ngâm được khắc in đầu thế kỉ XX. Năm 1926, ông Phan Huy
Chiêm gửi cho Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến một bức thư và một ít tư liệu cùng với
bài thơ Ngẫu thuật của Phan Huy Ích làm sau khi dịch Chinh phụ ngâm. Nội dung bài
Ngẫu thuật như sau:
“Nhân Mục tiên sinh Chinh phụ ngâm,
Cao tình dật điệu bá từ lâm.
Cận lai khoái trá tương truyền tụng,
Đa hữu thôi xao vi diễn âm.
Vận luật hạt cùng văn mạch túy,
Thiên chương tu hướng nhạch thanh tầm.
Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc,
Tự tín suy minh tác giả tâm.”
6
Dịch nghĩa:
“Khúc Chinh phụ ngâm của tiên sinh làng Nhân Mục
Tình cao, điệu lạ, rải khắp rừng văn
Gần đây truyền tụng, lấy làm thích thú lắm
Đã nhiều kẻ trau dồi lời mà diễn âm
Lấy vần và luật, làm sao diễn hết được tinh túy của mạch văn
Nên theo từng thiên, từng chương mà tìm âm thanh cho êm ái
Trong khi thong thả, ta phiên dịch thành khúc mới
Ta tự tin rằng đã vạch rõ được lòng tác giả”
Ông Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến có viết bài đăng báo nhưng ít được chú ý.
Năm 1943, ông Hoàng Thúc Trâm viết một bài khảo cứu nhỏ, dựa vào Lịch triều hiến
chương và Tang thương ngẫu lục, tuy không đồng ý rằng Đoàn Thị Điểm là dịch giả
bản hiện hành nhưng cũng không vội chấp nhận quan điểm Phan Huy Ích là dịch giả.
Năm 1944, Trúc Khê Ngô Văn Triện đọc Đoàn thị thực lục, đưa ra ba lẽ làm căn cứ
ngờ rằng bản A không phải là dịch phẩm của Đoàn Thị Điểm.
Giai đoạn 1953 – 1990: Năm 1953, ông Hoàng Xuân Hãn xuất bản sách Chinh
phụ ngâm bị khảo. Hoàng Xuân Hãn theo quan điểm dịch giả bản A là Phan Huy Ích.
Ngoài bản dịch hiện hành, ông đưa ra ba bản dịch khác theo thể song thất lục bát: bản
B của Đoàn Thị Điểm, bản C có lẽ của Nguyễn Khản, bản D của dịch giả vô danh và
ba bản phỏng dịch theo thể lục bát. So với các bản dịch khác, “bản A không câu nệ về
nghĩa đen, thứ tự các vế nhưng gọn gàng, trôi chảy và êm ái nhất” [4,22]. Bản B còn
được chép trong bản Nôm Viết cũ, trước bài B có hai chữ “Nữ giới”, văn dịch sát
nghĩa hơn bài A, không bỏ vế, bỏ chữ như bài A, có nhiều tiếng cổ thường thấy trong
văn thời Lê, do đó Hoàng Xuân Hãn cho đây là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Tuy
nhiên nhiều năm sau đó vẫn còn nhiều ý kiến phủ nhận thuyết của Hoàng Xuân Hãn.
Như vậy, có những ý kiến theo thuyết của Hoàng Xuân Hãn cho rằng dịch phẩm
Chinh phụ ngâm là của Phan Huy Ích như Nguyễn Văn Xuân trong công trình Chinh
phụ ngâm diễn âm tân khúc,… Bên cạnh đó có những người cho rằng dịch giả bản này
là Đoàn Thị Điểm, có thể kể đến Nguyễn Thạch Giang trong bài báo Khảo sát lại
những điều kiện tồn tại của những giả thuyết xung quanh vấn đề dịch giả Chinh phụ
7
ngâm khúc, Đinh Xuân Hội trong công trình Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải (Nguyễn
Đỗ Mục biên tập)…
Thứ hai, về vấn đề chú giải từ, ngữ trong bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm, qua
khảo sát, chúng tôi thấy rằng cũng đã có một số công trình nghiên cứu tiến hành chú
giải, hiệu đính, khảo dị… đối với bản dịch hiện hành và các bản chữ Nôm Chinh phụ
ngâm khác như Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển (Biên soạn: Nguyễn Thế, Phan
Anh Dũng; Hiệu đính chữ Nôm: Nguyễn Đình Thảng), Chinh phụ ngâm bị khảo của
Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải: Có nguyên văn chữ nho, dịch âm,
dịch nghĩa và chú thích rõ ràng (Đinh Xuân Hội; Biên soạn: Nguyễn Đỗ Mục), Chinh
phụ ngâm khúc giảng luận (Thuần Phong, NXB Á Châu – Sài Gòn, bản thứ tư), Chinh
phụ ngâm diễn ca – Đoàn Thị Điểm (Nguyễn Thạch Giang giới thiệu, hiệu khảo, chú
giải, NXB Văn học, 1987)… Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở
việc chú thích một vài từ cổ, điển cố điển tích,…và so sánh với các bản dịch khác, chỉ
ra những chữ dùng khác nhau giữa các bản, các cách viết khác nhau (nếu có) của các
từ ở cùng một vị trí trong các bản dịch mà chưa thực sự tập trung chú giải chi tiết, đầy
đủ và hệ thống các từ ngữ, điển cố văn học trong bản dịch Nôm A – bản hiện hành để
người đọc nói chung và học sinh nói riêng có thể hiểu văn bản toàn vẹn, sâu sắc hơn.
Bên cạnh những công trình là sách báo chú giải Chinh phụ ngâm, ta cần xét đến
việc xây dựng phần mềm/ sách điện tử phục vụ tra cứu chu cảnh từ ngữ trong bản dịch
Chinh phụ ngâm. Cho đến nay, chúng tôi đã thống kê được có bốn trang web hỗ trợ tra
cứu nghĩa của từ được dùng trong bản Chinh phụ ngâm, đó là:
(1) với công trình Chinh phụ ngâm khúc – Đặng Trần Côn
/>%C3%B4n/Chinh-ph%E1%BB%A5-ng%C3%A2m-kh%C3%BAc/groupjIMGncncmwvYkoH9JvlV3w
(2) với công trình Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm dịch)
/>%C3%A2m_(%C4%90o%C3%A0n_Th%E1%BB%8B_%C4%90i%E1%BB
%83m_d%E1%BB%8Bch)#cite_note-11
(3) với công trình Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn
Thị Điểm
/>8
(4) với công trình Chinh phụ ngâm khúc – Đặng
Trần Côn
/>Tuy nhiên, mỗi trang web này vẫn có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, hầu hết các trang không đề cập đến nguồn tư liệu tra cứu. Duy chỉ có
trang web (1) có chú thích ở cuối trang:
“Tài liệu tham khảo chủ yếu:
Tổng tập Văn học Việt nam tập 13B - Nguyễn Quảng Tuân.
Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải Nguyễn Đỗ mục, in năm 1929;
Chinh phụ ngâm khúc Vân Bình Tôn Thất Lương in năm 1950.
Những đoạn có có quan hệ đến bản diên Nôm, có thêm chú thích.”
Vì vậy hầu hết các bản chữ Nôm hay bản phiên âm Nôm được sử dụng trong các
trang web này không đáng tin cậy.
Thứ hai, phần chú giải từ ngữ cho bản dịch chữ Nôm ở cuối trang web (trang 2
và trang 4) hoặc phần chú giải nằm giữa bản phiên âm Nôm và bản phiên âm Hán Việt
(trang 3) còn rất sơ sài.
Riêng trang web (2), bản chữ Nôm và phiên âm Nôm đã được tạo các link chú
thích từ ngữ, câu thơ nhưng cũng chỉ giải thích một cách đơn giản. Ví dụ một đoạn
thơ sau:
1.Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
5. Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín lần gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
10. Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng niềm tây sá nào
9
Mỗi từ được in đậm được giải thích bằng các link tương ứng, chẳng hạn:
Truân chuyên
Gian nan, vất vả
Cam Tuyền
Tên đất, ở về phía tây bắc Tràng An.
Áo nhung
Áo giáp mặc khi ra trận
Tràng Thành
Thành Tràng An, kinh đô của nhà vua
10
Cách giải thích ngắn gọn, dễ hiểu nhưng còn quá đơn giản, sơ sài.
Trong các trang web này, số lượng từ/cụm từ/câu được chú thích là rất ít; còn
nhiều vị trí cần chú thích rõ ràng để người đọc có thể hiểu rộng, hiểu sâu hơn.
Thứ ba, phần chú thích nghĩa của từ ngữ/ câu trong các trang web này không
trích nguồn, do đó độ trung thực và chính xác là rất khó kiểm soát.
Để tiếp tục hoàn thiện nội dung chú giải ngữ nghĩa của từ/ cụm từ/ câu được dịch
giả sử dụng trong bản dịch Chinh phụ ngâm mà các học giả tên tuổi đã tiến hành
những bước sơ giản, đồng thời nhằm khắc phục những hạn chế của các trang web trên,
chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Thiết lập phần mềm tra cứu cho bản dịch
Nôm Chinh phụ ngâm” với nội dung chính là thiết lập một trang web như một công
cụ hỗ trợ việc tra cứu ngữ nghĩa cho bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Thiết lập phần mềm tra cứu cho bản dịch Nôm Chinh phụ
ngâm”, chúng tôi hướng đến những mục đích sau:
-
Thiết lập một website “Thiết lập phần mềm tra cứu cho bản dịch Nôm Chinh phụ
ngâm” dùng cho mọi trình duyệt Internet, giúp độc giả quan tâm có thể sử dụng nó để
-
tìm hiểu văn bản cũng như phục vụ học tập, nghiên cứu
Đưa ra và giải thích hệ thống các từ, ngữ khó hiểu trong bản dịch Chinh phụ ngâm
Phân tích một số nét đặc sắc về mặt từ vựng của bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm như
điển tích điển cố, từ láy, từ cổ
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các văn bản chữ Nôm Chinh phụ ngâm
- Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận quan tâm đến việc thể hiện văn bản chữ Nôm và bản phiên âm tiếng
Việt trên một trình duyệt máy tính cho phép tra cứu song song, từ đó sẽ quan tâm
đến việc lí giải hệ thống ngôn ngữ của bản Nôm Chinh phụ ngâm.
Để thực hiện nhiệm vụ này, về mặt văn bản học cho bản chữ Nôm và bản phiên
âm tiếng Việt, chúng tôi căn cứ vào công trình “Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp
tuyển”, biên soạn: Nguyễn Thế, Phan Anh Dũng; hiệu đính chữ Nôm: Nguyễn Đình
Thảng, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, năm 2000.
5. Phương pháp và thao tác nghiên cứu
Để thực hiện đề tài khóa luận “Thiết lập phần mềm tra cứu cho bản dịch Nôm
Chinh phụ ngâm”, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
-
Thao tác khảo sát, thống kê
Vì là “đứa con tinh thần” của một dịch giả uyên thâm Nho học, bản dịch Chinh
phụ ngâm có rất nhiều từ ngữ, điển tích điển cố hoặc cả câu thơ được sử dụng nhằm
thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm nhưng gây khó hiểu cho người đọc, người
học. Do đó, chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê để thiết lập hệ thống
các từ ngữ, điển tích điển cố này.
-
Phương pháp chú thích, chú giải
Nhằm trình bày cách hiểu các từ, ngữ trong bản dịch Chinh phụ ngâm một cách
đầy đủ, hệ thống, chúng tôi sử dụng phương pháp chú thích, chú giải, đưa ra các nét
nghĩa của từ, cụm từ cần giải thích, trong đó nét nghĩa phù hợp với văn cảnh được đặt
lên hàng đầu.
-
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa:
Ở chương 3 của khóa luận, phương pháp này được sử dụng để sắp xếp các điển
tích điển cố, các từ láy, từ cổ vào các nhóm, các loại nhỏ, giúp người đọc có cái nhìn
khái quát về các yếu tố này trước khi đi sâu phân tích giá trị biểu đạt của chúng trong
văn bản.
- Các thao tác thiết lập code trên máy tính
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được triển khai theo 3 chương:
Chương 1: Vài nét về Chinh phụ ngâm
Chương 2: Thiết lập web tĩnh tra cứu nghĩa chu cảnh trong bản dịch Chinh phụ
ngâm
Chương 3: Một số đặc điểm về từ vựng trong bản dịch Chinh phụ ngâm
7. Đóng góp mới của khóa luận
-
Cung cấp cho học sinh, giáo viên và những người quan tâm nghiên cứu Chinh phụ
ngâm một phương tiện hiện đại và hữu hiệu để tra cứu nghĩa của từng từ ngữ trong
bản dịch Chinh phụ ngâm, qua đó hiểu đúng, hiểu sâu hơn nội dung của toàn bộ
-
khúc ngâm.
Hướng dẫn cách tiếp cận một văn bản dịch nói chung qua việc tìm hiểu ý nghĩa của
-
phương tiện ngôn ngữ được sử dụng
Bồi dưỡng vốn hiểu biết, nâng cao năng lực tư duy ngôn ngữ cho độc giả nói chung và
học sinh nói riêng.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ CHINH PHỤ NGÂM VÀ VẤN ĐỀ CHÚ GIẢI
THEO CHU CẢNH
1.1.
Vài nét về Chinh phụ ngâm
1.1.1. Tác giả
Đặng Trần Côn quê ở làng Nhân Mục (còn gọi là làng Mọc), huyện Thanh Trì
thuộc ngoại thành Hà Nội. Tác giả sinh năm nào chưa rõ nhưng có thể tin rằng ông
sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, thọ chưa đầy 50 tuổi.
Thuở trẻ Đặng Trần Côn ở Thăng Long và rất chăm học. Bấy giờ đang đời
chúa Uy Vương Trịnh Giang, vì bị bệnh, Trịnh Giang cần yên tĩnh nên ban đêm, ở
kinh thành có lệnh cấm lửa rất nghiêm. Đặng Trần Côn phải đào hầm dưới đất nhà
trọ để học tập, không bỏ bễ lúc nào (ghi chép trong Tang thương ngẫu lục). Dù vậy
ông không đỗ cao, chỉ đậu Hương cống, thi Hội thì trượt. Vốn là người ưa sống
phóng khoáng nên ông không thi cử gì nữa mà rời Thăng Long chịu bổ làm Huấn
đạo ở một phủ, rồi được cải bổ sang chính thức. sau đó ông lãnh chức Tri huyện
Thanh Oai (Hà Đông, nay thuộc Hà Tây), được thăng đến chức Ngự sử đài chiếu
khám ở kinh đô rồi mất.
Tuy không may trong thi cử nhưng Đặng Trần Côn là người có tài. Ông rất giỏi
chữ Hán nên sáng tác thơ văn chủ yếu bằng chữ Hán và được người đương thời ngợi
khen, thán phục. Ngoài tác phẩm nổi tiếng Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn còn để lại
cho đời một số sáng tác khác thuộc nhiều thể loại như thơ (Tiêu Tương bát cảnh), văn
xuôi (Tục truyền kì gồm các truyện Bích Câu kì ngộ, Tùng bách thuyết thoại, Long hổ
đấu kì, Khuyển miêu đối thoại), phú (Trương Hàn tư thuần lô, Trương Lương bố y,
Khẩu môn thanh,…)
1.1.2. Dịch giả
Ông Hoàng Xuân Hãn đã sưu tầm được 7 bản diễn Nôm, bốn bản dịch theo thể
song thất lục bát, 3 bản phỏng dịch theo thể lục bát của các dịch giả Đoàn Thị Điểm,
Phan Huy Ích, Nguyễn Khản (?) và các tác giả khuyết danh nhưng chưa biết bản dịch
nào của ai. Trước đây các sách đều cho rằng tác giả của bản diễn thành công nhất,
được lưu hành rộng rãi nhất là bản của Đoàn Thị Điểm, sau đó lại có ý kiến cho rằng
của Phan Huy Ích. Cho đến nay vấn đề dịch giả bản Nôm Chinh phụ ngâm vẫn đang
được bàn luận và chưa đến hồi ngã ngũ.
1.1.2.1.
Đoàn Thị Điểm
a. Cuộc đời
Đoàn Thị Điểm (1705-1748) hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, quê ở làng Hiến Phạm,
huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Yên Mỹ - Hưng Yên). Gia tộc của nữ sĩ
vốn họ Lê, nhưng đến đời cha bà do đi thi Hội không đỗ nên đổi sang họ Đoàn.
Từ thủa nhỏ bà đã nổi danh là người có “dung sắc kiều lệ”, về tính tình thì
“giữ phép luôn luôn” (nhận xét của Trúc Khê). Tuy nhiên qua nhiều hành động của
Đoàn Thị Điểm, ta thấy rõ bà không phải người chịu gò mình trong những khuôn
sáo thông thường.
Năm bà 16 tuổi, Thượng thư Lê Anh Tuấn – thầy học của cha bà – nghe tiếng
đồn về tài sắc của bà đã nhận bà làm con nuôi, có ý định đem tiến vào phủ chúa Trịnh
nhưng bà từ chối, theo cha tới nơi dạy học là làng Lạc Viên, huyện An Dương (nay
thuộc Kiến An), thường ngày vẫn cùng anh làm thơ xướng họa rất ăn ý.
Năm 1729 cha mất, bà theo gia đình đưa linh cữu cha về quê rồi theo anh sang ở
làng Vô Ngại, Đường Hào (Yên Mỹ, Hưng Yên ngày nay). Trong thời kì này, có nhiều
danh sĩ mộ danh Đoàn Thị Điểm đã tới thử tài và cầu hôn. Năm 1735, anh bà là Đoàn
Doãn Luân mất, để lại hai con nhỏ. Sau khi đưa linh cữu anh về quê, Đoàn Thị Điểm
trở lại làng Vô Ngại, làm nghề bốc thuốc, giúp chị dâu nuôi hai cháu. Lại có nhiều
người tới cầu hôn nhưng đều không thành.
Cũng trong thời gian này, để tránh những phiền phức từ những người cầu hôn, bà
nhận lời một bà phi trong phủ chúa Trịnh vào cung dạy học. Đến khoảng cuối đời chúa
Trịnh Giang, có lẽ do chính sự ở phủ chúa trở nên đổ nát, bà từ chức dạy học. Bà đưa
gia đình đến xã Chương Dương, bên bờ sông Hồng, mở trường dạy học. Đó là lần đầu
tiên trong lịch sử giáo dục nước ta có một người đàn bà dám “cả gan” làm việc ấy
(Đoàn Thị thực lục).
Một người con gái có sắc lại giỏi văn chương thơ phú như Đoàn Thị Điểm có lẽ
sẽ rất khó để chọn lựa được một người chồng toàn tài xứng đáng với mình. Chương
Dương gần Thăng Long nên lần này vẫn có nhiều người mộ danh tiếng Đoàn Thị
Điểm đến cầu hôn và cuối cùng, năm 1742, khi đã 37 tuổi, bà nhận lời làm lẽ Tiến sĩ
Nguyễn Kiều. Cưới vợ được hơn một tháng, Nguyễn Kiều được lệnh đi sứ nhà Thanh
3 năm. Trong ba năm ấy, Đoàn Thị Điểm sống chẳng khác nào người “chinh phụ” và
có lẽ bà đã dịch Chinh phụ ngâm trong thời gian đó.
Năm 1748, Nguyễn Kiều được cử vào giữ chức Đốc đồng trấn Nghệ An. Đoàn
Thị Điểm theo chồng, bà mắc bệnh trên đường đi và mất ngày 11 tháng 9 năm ấy, thọ
44 tuổi, không có con cái.
b. Trước tác
Thủa sinh thời, Đoàn Thị Điểm hay xướng họa cùng cha và anh, khi lấy chồng
lại thường cùng chồng ngâm vịnh, xếp đặt thi văn thành tập. Nhưng tuyệt đại đa số thơ
văn của bà có lẽ đều được viết bằng Hán văn. Phan Huy Chú trong Tang thương ngẫu
lục chép rằng bà là tác giả của Tục truyền kì gồm sáu truyện: Bích câu kì ngộ, Hải
khẩu linh từ, Vân cát thần nữ, Hoành sơn tiên cục, An ấp liệt nữ, Nghĩa khuyển khuất
miêu (trong đó Bích câu kì ngộ được Phạm Đình Hổ cho rằng của Đặng Trần Côn.
Đoàn Thị thực lục ghi tên năm truyện: Hải khẩu linh từ, Vân cát thần nữ, An ấp liệt
nữ, Yến anh đối thoại, Mai huyễn. Điều chắc chắn là bốn truyện đầu do Đoàn Thị
Điểm viết vì chính chồng bà có nói đến trong một bài văn tế:
“Làm tỏ truyện Chế thắng xưa
Nêu cao danh Trinh liệt mới
Ngụ dấu tiên trong Vân cát thần nữ
Thuật tình nhàn trong Đối thoại yến anh.”
Bản in sách Truyền kì tân phả năm Gia Long thứ mười (1811) có ghi rõ tên tác
giả là Hồng Hà Đoàn phu nhân gồm ba truyện đầu như được nhắc đến trong bài văn tế
và thêm truyện Bích câu kì ngộ, Tùng bách thuyết thoại và Long hổ đấu kì.
Về các tác phẩm chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm thì sách Đoàn Thị thực lục cũng
như các sách khác đều không nói gì đến. Trong một bài văn tế, Nguyễn Kiều cũng chỉ
nói gọn rằng vợ ông vốn “luật thông quốc ngữ”. Có lẽ Đoàn Thị Điểm ít sáng tác
bằng chữ Nôm nhưng có lẽ bà đã từng dịch Chinh phụ ngâm – bản dịch Chinh phụ
ngâm đầu tiên.
1.1.2.2.
Phan Huy Ích
a. Cuộc đời
Phan Huy Ích tự là Dụ Am, nguyên trước có tên là Phan Công Huệ, vì trùng tên
với vợ chúa Trịnh Sâm – bà chúa Chè Đặng Thị Huệ - nên đổi tên là Huy Ích, sinh
năm 1750, quê ở làng Thu Hoạch, Thiên Lộc, Hà Tĩnh. Họ Phan Huy vốn là một vọng
tộc trong tỉnh, nhiều đời làm quan võ. Cha là Phan Huy Cẩn, tự là Uẩn Trai, mồ côi cả
cha và mẹ từ nhỏ, được bà ngoại nuôi nấng và cho ăn học, họ ấy chuyển sang đường
văn chương từ đó.
Huy Ích là con trưởng, thuở nhỏ học theo cha, lớn lên theo học Ngô Thời Sĩ, một
danh sĩ nổi tiếng đương thời. Ông lấy con gái thầy học, sau cùng với anh vợ quy thuận
Tây Sơn nên trở thành những danh thần của triều này.
Năm 22 tuổi, ông đỗ đầu thi Hương trường Nghệ An, được bổ làm quan ở Sơn
Nam nhưng ông vẫn quyết tâm theo đuổi khoa cử mong được bổ vào những trọng
chức của triều đình. Năm 1775, ông thi đậu Hội nguyên rồi vào thi Đình, đỗ Đồng
Tiến sĩ khoa Ất Mùi. Năm 1779 em ruột là Phan Huy Ôn cũng đỗ Tiến sĩ, ba cha con
Huy Ích đều đỗ Đại khoa, cùng làm quan một triều.
Phan Huy Ích từng giữ nhiều chức quan quan trọng: Đốc đồng Thanh Hóa
(1775), Hiến sát trấn Thanh Hóa (1785). Năm 1786, quân Tây Sơn do Nguyễn Hữu
Chỉnh làm tiên phong kéo quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Huy Ích
được bổ vào chức Tán lí quân vụ các đạo binh Thanh Nghệ để chống lại Nguyễn Hữu
Chỉnh nhưng ông không phải người giỏi võ bị nên bị đánh bại ở Thanh Hóa rồi bị bắt.
Sau khi Nguyễn Huệ thân chinh ra Bắc lần hai, lấy được Bắc Hà, trong số những
người được Nguyễn Huệ trọng dụng, cùng với anh vợ là Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy
Ích là người được biệt đãi. Ông được ban chức Thị lang bộ Hình, cùng với Ngô Thời
Nhiệm lo việc ngoại giao với nhà Thanh.
Năm 1789, sau khi đại phá quân Thanh, vua Quang Trung cử Phan Huy Ích, Ngô
Thời Nhiệm dẫn đầu sứ đoàn phò tá Phạm Công Trị đóng giả vua Quang Trung sang
Trung Quốc mừng lễ bát tuần đại khánh vua Càn Long. Lần này, Phan Huy Ích đã tỏ
tài văn thơ, được vua Càn Long ban thưởng rượu “đề hồ” trong chén bích ngọc. Năm
1792, ông giữ chức Thụy nham hầu, thăng Thị trung ngự sử ở Phú Xuân và giữ chức
ấy trong hơn mười năm.
Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn năm 1802. Tháng sáu năm ấy, Phan Huy Ích cùng với
Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Thế Lịch ra hàng “tân triều” nhưng cả ba đều bị tống giam.
Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích xuất thân Tiến sĩ, bị đem ra đánh trước Văn Miếu,
Ngô Thời Nhậm đau mà chết, còn Phan Huy Ích trở về quê nhà làm nghề dạy học.
Ông mất năm 1822 thọ 73 tuổi.
b. Trước tác
Đa số các tác phẩm của Phan Huy Ích đều viết bằng chữ Hán nhưng cũng có khá
nhiều văn thơ Nôm, hiện còn để lại bộ Dụ Am ngâm tập (thơ Hán và Nôm cũng sắp
xếp theo thứ tự thời gian) và bộ Dụ Am văn tập.
Trong Dụ Am văn tập hiện còn chép những bài thơ sau:
-
Vua Cảnh Thịnh tế Vũ Hoàng hậu (Lê Ngọc Hân) – 1799
-
Các công chúa (con Lê Ngọc Hân) tế mẹ - 1799
-
Từ cung làng Phù Ninh (mẹ Lê Ngọc Hân) tế con – 1799
-
Họ Lê tế Vũ Hoàng hậu – 1799
-
Họ ngoại làng Phù Ninh tế Vũ Hoàng hậu – 1799
-
Chiếu dụ Diệu và Dũng Quận công – 1799
-
Diệu Quận công dụ quân dân Quy Nhơn – 1800
-
Tổng trấn Bắc Thành (Nguyễn Văn Thành) tế tướng sĩ dinh Tiền quân đã trận vong –
1804
Trong Dụ Am ngâm tập có hơn mười bài thơ thất ngôn bát cú, sáng tác bằng
ngôn ngữ dân tộc. Ngoài việc dịch Chinh phụ ngâm, ông còn là tác giả bài thơ Nôm
dài Nhân ảnh vấn đáp.
1.1.2.3.
Nguyễn Khản
Nguyễn Khản quê ở xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, là con trai trưởng của
Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm và bà vợ chính thất Đặng Thị Dương.
Ông vốn xuất thân từ một gia đình phong kiến đại quý tộc, cha đỗ Tiến sĩ làm
quan cho triều Lê. Năm Quý Dậu, Nguyễn Khản đỗ thi Hương, được nhận chức Viên
ngoại bộ Lại, sau được sung chức Thị giảng ở Lạng Quốc phủ dạy cho Thế tử Trịnh
Sâm. Năm Canh Thìn (1760) đỗ Tiến sĩ, ông được thăng Đại học sĩ kiêm tế tửu Quốc
Tử Giám. Năm 1768 giữ chức Nghiêm Hữu Đội, kiêm cả văn lẫn võ trong phủ Chúa…
Ông được chúa Trịnh Sâm tin cậy, vừa là bề tôi vừa là bạn bè với chúa.
Nguyễn Khản tham gia đảo chính giúp Thế tử Trịnh Khải, những người đồng
mưu bị hành hình nhưng riêng ông được chúa tha tội chết. Khi quân lính nổi dậy rước
Trịnh Khải lên ngôi, Nguyễn Khản được phong Thượng thư bộ Lại tước Toản quận
công, năm 1783 được phong tước Thiếu bảo, Nhập Thị Tham tụng (Tể tướng).
Năm 1787 quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Nguyễn Khản tập hợp triều thần chống lại
Tây Sơn nhưng việc chưa thành thì ông cảm bệnh mất tại Thăng Long, được phong
Thượng đẳng phúc thần.
Đến nay hầu hết tác phẩm của Nguyễn Khản bị thất lạc. Tuy nhiên qua những gì
còn lại và lời truyền tụng trong dân gian thì ông là bậc thầy về thơ Quốc âm. Ông đã
dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm.
1.1.3. Tác phẩm Chinh phụ ngâm
1.1.3.1.
Bố cục, nội dung tác phẩm
a. Có thể chia bố cục tác phẩm làm bốn phần:
Phần 1 (12 câu đầu): Bối cảnh thời đại, nguyên nhân đôi vợ chồng trẻ li biệt;
Phần 2 (52 câu tiếp): Người chinh phụ tiễn đưa chồng ra trận;
Phần 3 (304 câu): Những cung bậc cảm xúc khác nhau của người chinh phụ;
Phần 4 (40 câu cuối): Người chinh phụ hi vọng, tưởng tượng ngày đoàn tụ.
b. Nội dung cụ thể của khúc ngâm như sau:
Chinh phụ ngâm là câu chuyện tâm tình của một người vợ có chồng đi chiến trận.
Đôi vợ chồng trẻ, hương lửa đang nồng thì chiến tranh xảy ra. Chàng vội vã “xếp
bút nghiên theo việc đao cung”. Ba năm xa cách ngóng trông, chồng nàng vẫn chưa
về, tin tức cũng thưa dần. Nỗi lo cho vận mệnh của chồng nơi chiến trận, nỗi buồn cho
thân thế đời mình, bao điều tâm sự chồng chất ngổn ngang trong lòng người thiếu phụ.
Nhớ lại ngày đầu tiên chiến tranh mới xảy ra, nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi
người tham gia chiến cuộc. Nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng đi giúp nước
phò vua. Chàng hùng dũng, oai phong trong chiếc áo bào màu đỏ và cưỡi con ngựa
trắng như tuyết. Chàng ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì để dâng vua, đó
là chí khí người nam tử khi đất nước xảy ra cuộc binh biến, còn người chinh phụ
cũng tin rằng chàng ra đi là vì chính nghĩa, vì lí tưởng cao cả và sẽ trở về với chiến
công lừng lẫy.
Cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở lại phòng khuê và
tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến trận. Hình ảnh lẫm liệt của người chinh
phu đến đây bỗng chìm dần giữa cảnh chiến trường khốc liệt, tang thương. Nàng thấy
trong lòng trào lên nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng và nỗi đau khổ khôn
nguôi về cuộc sống đơn chiếc của mình.
Phần chủ yếu của khúc ngâm diễn tả tâm trạng trăn trở, cô quạnh của người
chinh phụ. Chồng nàng ra đi đã quá kì hạn không thấy về, người chốn Hoàng hoa
cũng không chút tin tức, nàng đành tính thời gian bằng chu kì tiếng quyên hót, đào
nở, sen tàn. Nàng phải làm thay những công việc của người chồng (nuôi già, dạy trẻ)
và lúc nào cũng trông ngóng chồng về. Nàng giở kỉ vật của chồng ra xem để tự an ủi.
Xuân qua rồi đông tới, nàng một mình vò võ ngày đêm, cảnh nào cũng gợi “trăm sầu
nghìn não”.
Tìm chồng ngoài đời thực không được, nàng tìm trong giấc mộng, nhưng giấc
mộng chỉ ngắn ngủi vậy thôi, làm sao nàng có thể mộng tưởng mãi về hình bóng người
chồng thân yêu, do đó mà tỉnh mộng lại càng buồn thêm. Chán chường đến tuyệt vọng,
nàng không còn muốn làm việc, cũng không thiết son phấn điểm trang, bởi lẽ chồng đi
xa, nàng xinh đẹp với ai, và việc điểm trang còn ý nghĩa gì? Nàng lo sợ tuổi trẻ qua đi
sẽ còn đâu là hạnh phúc, nàng tự thấy thân phận mình chẳng được bằng chim muông
cây cỏ, suốt đời được “liền cánh, liền cành”. Nếu có kiếp sau nàng vẫn nguyện được
gắn bó với chàng, nhưng hạnh phúc ở kiếp sau làm sao ý nghĩa bằng được nương tựa,
yêu thương nhau ở ngay kiếp này! Đó cũng là lời khẩn cầu tha thiết, cảm động của
nàng chinh phụ.
Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình dung ngày chồng trở về trong chiến
thắng giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn. Chàng sẽ được nhà vua ban thưởng và vợ
chồng nàng từ đây sẽ sống hạnh phúc trong thanh bình.
Nổi bật trong toàn bộ khúc ngâm là sự tái hiện những cung bậc cảm xúc khác
nhau của người chinh phụ trong những tháng năm xa vắng chồng. Người đọc sẽ thấy ở
đây chân dung một người chinh phụ thủy chung, son sắt, luôn nhớ, luôn yêu người
chồng đang chinh chiến miền xa. Dù thời gian chảy trôi, tạo hóa có khắc nghiệt với
dung nhan của nàng, dù nàng phải thay chồng gánh vác cả giang sơn nhà chồng hay
phải đợi chồng bao lâu chăng nữa thì nàng vẫn là người phụ nữ mang cả tuổi trẻ, bao
khao khát ước mơ gửi vào hai chữ “chờ đợi”, chờ đợi đến mỏi mòn, lòng nàng như
hóa đá. Không dân tộc nào không trải qua chiến tranh, và nỗi đau mà chiến tranh gây
ra không chỉ đến với người chinh chiến mà nó còn lớn gấp nhiều lần đối với người ở
lại. Chinh phụ ngâm đã góp thêm tiếng nói oán ghét chiến tranh qua khắc họa những
khổ não, đớn đau trong tâm hồn người phụ nữ chờ chồng đi chinh chiến, tái hiện cảnh
sống của chinh phu trong cảnh sương gió chiến trường, đó chính là giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo cao cả của khúc ngâm.
1.1.3.2. Các dị bản Chinh phụ ngâm
Trong cuốn Chinh phụ ngâm do Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, tác giả
cuốn sách đã hệ thống lại các bản dịch Chinh phụ ngâm khác nhau, cụ thể như sau:
-
Bản chữ Nôm Long Hòa ra đời năm 1902, in chung với truyện Phan Trần trùng duyệt và
Cung oán ngâm trong tập Danh gia quốc âm do Vũ Hoạt cho in (sau khi đã tự ý sửa chữa
bản cũ của nhà họ Bùi, làng Xuân Canh, tỉnh Bắc Ninh) và do hiệu Long Hòa ở Hàng
Thiếc xuất bản và phát hành. Bản này còn được in sao lại nhiều lần:
+ Bản ở Thư viện Khoa học trung ương
+ Năm 1921 được in lại do Quảng Thịnh đường phát hành
+ Bản do Liễu Văn Đường in năm 1922, nhan đề Chinh phụ ngâm bị lục
Các bản này y hệt nhau gồm 412 câu chia làm ba phần (phần trên là chú thích,
phần giữa là chữ Hán, phần dưới là bản dịch chữ Nôm)
-
Bản Trường Thịnh cũng thuộc loại ra đời sớm nhất, không rõ năm in nhưng theo
Hoàng Xuân Hãn thì đã được mua vào Thư viện Quốc gia Paris và thư viện riêng của
Pelliot (nay cũng đưa vào Thư viện Quốc gia Paris) năm 1911. Căn cứ vào chữ “Thì”
bị viết húy, ta biết đó là bản ra đời khoảng giữa thế kỉ XIX, hoặc nếu mới in lại thì
cũng in lại một bản cũ từ đó, bản này gồm 408 câu.
Sau này, bản Trường Thịnh cũng được in lại nhiều lần. Trong số các bản phiên
âm ra Quốc ngữ, cũng có nhiều bản in kèm theo cả phần chữ Nôm như:
+ Bản của Nguyễn Quang Oánh in chung trong tập Ngâm khúc cùng với Cung oán
ngâm và Tỳ bà hành do hiệu sách Vĩnh Hưng Long, Hà Nội xuất bản lần đầu năm 1930
+ Bản của Tôn Thất Lương do Tân Việt, Sài Gòn xuất bản năm 1950
+ Bản của Nguyễn Đỗ Mục, nhan đề Chinh phụ ngâm dẫn giải do nhà in Tân
Dân, Hà Nội xuất bản lần thứ nhất năm 1928, không có phần chữ Nôm nhưng có phần
nguyên tác Hán văn, phiên âm, dịch xuôi và chú thích. Hầu hết các chú thích đều được
lấy từ bản Long Hòa
+ Bản chép tay ở Thư viện Khoa học trung ương số hiệu AB 361, gồm 408 câu,
31 tờ, giấy chép chưa cũ lắm. Xét về nội dung đó là bản Trường Thịnh được sao lại.
Ngoài ra còn một bản chép tay trong tập Nam thi hợp tuyển có một số câu sửa chữa
theo bản Long Hòa.
-
Các bản Quốc ngữ:
+ Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký, in bằng thạch bản trong
tập bài dạy ở trường thông ngôn Sài Gòn năm 1887 có lẽ là bản ra đời sớm nhất. Tuy
nhiên, theo Hoàng Xuân Hãn, bản này có nhiều chỗ sai lầm
+ Bản Chinh phụ ngâm của Xuân Lan do hiệu Văn Minh xuất bản lần thứ ba năm
1913, lần thứ tư năm 1914 tại Hà Nội – Hải Phòng
+ Bản của Nguyễn Hữu Tình (Vĩnh Thành, Hà Nội năm 1922)
+ Bản của Cao Đình Nam (Khương Hữu Trim, Bến Tre, 1929)
+ Bản của Đỗ Nam (Ngày mai, Hà Nội, 1949)
+ Các bản của Thuần Phong (1950), Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Ngọc Phách, Lê
Thước, Vũ Đình Liên và mới nhất là bản của Nhà xuất bản Phổ thông (1961)
Trong khóa luận này, chúng tôi lựa chọn bản Chinh phụ ngâm trong công trình
Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển làm tài liệu chính để thiết lập bảng tra cứu vì
những lí do sau:
Thứ nhất, người biên soạn chọn bản Nôm phụ lục của cuốn Chinh phụ ngâm của
tác giả Tôn Thất Lương, Nhà xuất bản Tân Việt, 1950 làm bản chính. Đây là một bản
Nôm xuất phát từ bản gốc là bản Trường Thịnh – “bản Nôm ra đời vào loại sớm, giữ
được bản sắc cổ kính riêng biệt, ít bị sửa chữa hơn cả” [5,162], Hoàng Xuân Hãn đã
từng nhận xét bản Chinh phụ ngâm của Tôn Thất Lương: “…phần chữ Nôm thì theo
gần bản Trường Thịnh, phần Nôm ấy đáng được chú ý – chữ viết tốt mà lại cải chính
một vài chữ nguyên thường lầm…”.
Thứ hai, Nguyễn Thế, Phan Anh Dũng sử dụng bộ font chữ Nôm trên máy tính
do hai tác giả tự lực tạo được để chế bản dịch phẩm Chinh phụ ngâm. Trong công trình
này, văn bản Nôm và bản phiên âm Quốc ngữ được biên soạn một cách có hệ thống,
theo bố cục phần phiên âm của mỗi câu được đặt ngay dưới phần chữ Nôm của câu đó,
giúp người đọc dễ dàng tiếp cận văn bản.
1.2.
Thứ ba, người biên soạn đã thu thập các văn bản, đối chiếu, so sánh các bản Nôm
Chinh phụ ngâm để biên soạn chương trình chữ Nôm này, các vấn đề văn bản học
được khảo sát tỉ mỉ, khoa học (đối chiếu bản Nôm chính với hai bản Nôm B, C và với
bản chữ Quốc ngữ của Tôn Thất Lương). Do đó, công trình này cũng đã đóng góp một
phần giúp tiếp cận Chinh phụ ngâm từ góc độ văn bản học.
Bên cạnh đó, công trình Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển do Nguyễn Thế,
Phan Anh Dũng biên soạn, được hiệu đính bởi nhà giáo ưu tú Nguyễn Đình Thảng,
nguyên giảng viên Hán Nôm trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Tổng hợp
Huế. Do vậy, đây là một công trình biên soạn có chất lượng và đáng tin cậy.
Một vài vấn đề về chú giải theo chu cảnh
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, việc tiếp cận một tác phẩm văn học cổ đối với
độc giả ngày nay là rất khó khăn khi chữ Hán, chữ Nôm không còn là ngôn ngữ thông
dụng nữa. Hơn nữa, không chỉ riêng đối với chữ Hán, chữ Nôm mà đối với ngôn ngữ
nói chung, không phải lúc nào ta cũng có thể chỉ hiểu theo một nghĩa. Việc tìm hiểu
các nét nghĩa của từ vựng là công việc của từ điển, và cũng chỉ có từ điển mới có thể
cung cấp cho người đọc một cách đầy đủ nhất hệ thống nghĩa của từ.
Tuy nhiên, giữa muôn trùng lớp nghĩa mà từ điển đưa ra, điều khó khăn là làm
sao để chọn được một nét nghĩa phù hợp nhất với văn cảnh, làm sao để hiểu đúng, hiểu
trúng những gì người viết muốn truyền đạt? Vì thế chu cảnh từ ngữ sẽ là một lời giải
đáp hợp lí và thỏa đáng.
Chu cảnh hiểu một cách đơn giản là nét nghĩa cụ thể của một từ ngữ trong một
ngữ cảnh, một tình huống cụ thể. Khi sử dụng chu cảnh, ta sẽ tìm ra nghĩa của từ đó
trong một kết cấu, một tổ hợp từ đặt trong hoàn cảnh cụ thể.
Trong phạm vi một Khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề này vào
một tác phẩm văn học cụ thể, hay nói chính xác là một dịch phẩm từ nguyên tác Chinh
phụ ngâm nức tiếng làng văn. Với công trình nghiên cứu này, đặc biệt với nội dung
web được xây dựng, người đọc sẽ thuận tiện hơn trong việc tra cứu những nét nghĩa
phù hợp với ngữ cảnh văn bản và dễ dàng thâm nhập, nắm bắt sâu sắc hơn nội dung
của toàn bộ khúc ngâm.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày một cách khái quát một số vấn đề về
tác phẩm Chinh phụ ngâm như tác giả Đặng Trần Côn, các dịch giả Đoàn Thị Điểm,
Phan Huy Ích, Nguyễn Khản (?), bố cục, nội dung khúc ngâm và kết quả khảo sát các
dị bản Chinh phụ ngâm theo công trình nghiên cứu của Lại Ngọc Cang. Dựa trên kết
quả khảo sát các dị bản đó, chúng tôi lựa chọn bản Chinh phụ ngâm của Tôn Thất
Lương được chế bản trong sách Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển của Nguyễn
Thế, Phan Anh Dũng vì bản Chinh phụ ngâm của Tôn Thất Lương xuất phát từ bản
gốc là bản Trường Thịnh – “bản Nôm ra đời vào loại sớm, giữ được bản sắc cổ kính
riêng biệt, ít bị sửa chữa hơn cả” [5,162], được nhiều học giả đánh giá khá cao. Công
trình của Nguyễn Thế, Phan Anh Dũng được biên soạn một cách có hệ thống, các văn
bản được khảo sát khoa học và khá tỉ mỉ, lại được hiệu đính bởi nhà giáo uy tín
Nguyễn Đình Thảng. Bên cạnh đó chúng tôi đưa ra một số lí thuyết về chú giải theo
chu cảnh nói chung làm cơ sở cho việc khảo sát, phân tích nghĩa chu cảnh của các từ
ngữ trong dịch phẩm Chinh phụ ngâm.
CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP WEB TĨNH TRA CỨU NGHĨA CHU CẢNH CHO
BẢN DỊCH CHINH PHỤ NGÂM
Ở chương này, chúng tôi thiết lập web tĩnh tra cứu nghĩa từ với giao diện và nội
dung web như sau:
2.1. Tên web: “Chu cảnh từ ngữ trong bản dịch Chinh phụ ngâm”
2.2. Menu dọc gồm các nội dung:
- Trang chủ
- Giới thiệu
+ Giới thiệu về trang web
+ Cách tra cứu
+ Tiêu chí xây dựng tư liệu tra cứu
Ví dụ:
Ảnh 2.1. Giới thiệu trang web