1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ KIM OANH
ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI
KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT
HÀ NỘI - 2014
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, thủ đô Hà Nội đã đạt đợc những thành tựu to lớn
về mọi mặt trong đời sống xã hội, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Nền kinh tế tăng trởng đều trong các năm; tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đợc đẩy mạnh; quan hệ quốc tế đợc mở rộng; tình hình chính trị, xã hội ổn
định, đợc nhân dân và bạn bè quốc tế khâm phục, đánh giá cao.
Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp
luật đã đạt đợc những kết quả quan trọng, từng bớc nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo lập cơ chế đồng bộ, phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia
phòng, chống tội phạm; từng bớc kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, làm
giảm một số loại tội phạm nghiêm trọng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất
nớc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơ chế kinh tế thị trờng theo định hớng
xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trờng cũng đã làm nảy
sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến
hoạt động của các loại tội phạm. Tình hình tội phạm đã và đang diễn biến phức tạp,
trong đó có tội không tố giác tội phạm đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong không ít vụ án, một số công dân không làm
tròn nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, không tố giác tội phạm, dẫn đến việc
các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, khám phá vụ
án. Việc một số công dân không thực hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành
vi phạm tội, có nghĩa là họ không tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và trong
các trờng hợp do pháp luật hình sự quy định, hành vi không tố giác tội phạm do họ
thực hiện đã cấu thành tội không tố giác tội phạm.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm, đã đặt ra nhiều
vấn đề vớng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết nh khái niệm,
những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng, nguyên nhân, điều kiện của tội không tố
giác tội phạm...
Về mặt lý luận, vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội
không tố giác tội phạm nói riêng, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau.
3
Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài Đấu tranh
phòng, chống tội không tố giác tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội" để viết
Luận văn Thạc sỹ Luật tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội không tố giác tội phạm là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã
có nhiều công trình và đợc nhiều ngời nghiên cứu. Có thể nêu một số công trình
tiêu biểu sau:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trờng Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998;
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây
dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)", mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý,
Bộ T pháp, nghiệm thu năm 1998;
- Chơng "Các tội xâm phạm hoạt động t pháp" của các tác giả ThS. Phạm
Thanh Bình và TS. Nguyễn Vạn Nguyên - Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Viện
Khoa học pháp lý, Bộ T pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm
1992, 1997);
- Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2000;
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2002;
- Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS.
Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, luật s ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức
Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2001.
- Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Luận án
Tiến sỹ của tác giả Mai Thế Bày - Viện Nhà nớc và Pháp luật, Viện khoa học xã hội
Việt Nam, 2007.
Ngoài ra, nhiều số bài viết của một số tác giả đăng trên các Tạp chí chuyên
ngành: tác giả Vũ Thành Long có bài viết: "Mấy ý kiến về Điều 314 Bộ luật hình sự
về tội không tố giác tội phạm" (Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 10-2005); ThS. Trần
Đại Thắng có bài viết: "Một số vấn đề về việc bảo vệ ngời tố giác tội phạm, ngời
làm chứng, ngời bị hại trong các vụ án hình sự" (Tạp chí Kiểm sát, tháng 12-2005,
số 24); tác giả Thái Văn Đoàn có bài viết: "Một số bất hợp lý trong các quy định về
4
tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm" (Tạp chí Tòa án nhân dân,
tháng 10-2005, số 19)...
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm và hoạt động đấu tranh phòng, chống
tội phạm nhng cha có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống
về tội không tố giáctội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, để từ đó đề ra
các giải pháp nhằm bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh tội phạm. Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, vận dụng và phát triển những kết
quả của các công trình nêu trên, luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống vấn
đề đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội
3. Mục đích, nhiệm vụ đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội không tố giác tội phạm, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống để bảo đảm
và nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đợc mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của tội
không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình tội không tố giác tội phạm,
nguyên nhân của tình hình tội phạm; dự báo tình hình tội không tố giác tội phạm
trong thời gian tới.
- Nghiên cứu khái quát thực trạng hoạt động phòng, chống tội không tố giác
tội phạm hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đánh giá và làm rõ nguyên nhân
của những kết quả và những hạn chế.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội không tố giác tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đối tợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tình hình tội không tố giác tội phạm và hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tình hình tội không tố giác tội phạm và hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát, lấy số liệu từ năm 2007 đến năm 2011.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
5
Luận văn đợc nghiên cứu trên cơ sở hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nớc và pháp luật, về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội
không tố giác tội phạm; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối
cao về tội phạm này.
Phơng pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên phơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác-Lênin.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phơng pháp: hệ thống, lịch sử,
lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phơng pháp khác nh so sánh,
điều tra xã hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ Luật học,
nghiên cứu một cách tơng đối toàn diện và tơng đối có hệ thống về tội không tố
giác tội phạm dới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. Có thể xem những
nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội không tố giác tội phạm trên địa bàn
thành phố Hà Nội, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Nghiên cứu khái quát thực trạng hoạt động phòng, chống tội không tố giác
tội phạm hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đánh giá và làm rõ nguyên nhân
của những kết quả và những hạn chế.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm bảo đảm và nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa nhất định
đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm ở
nớc ta nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu và
các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp vào việc phát triển lý luận về tội phạm
học, luật hình sự, cũng nh công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính nhạy
cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói
riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chơng, 7 mục.
Chơng 1: Cơ sở lý luận về đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm.
Chơng 2: Thực trạng tình hình tội phạm và hoạt động đấu tranh phòng, chống
tội không tố giác tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chơng 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội không tố giác tội phạm.
CHNG 1
C S Lí LUN V U TRANH PHềNG, CHNG TI KHễNG
T GIC TI PHM
1.1. Khỏi nim, c im u tranh phũng, chng ti khụng t giỏc ti phm
1.1.1. u tranh phũng, chng ti khụng t giỏc ti phm
a ra khỏi nim u tranh phũng, chng ti khụng t giỏc ti phm,
trc ht chỳng ta phi hiu th no l ti khụng t giỏc ti phm.
iu 22 BLHS nm 1999 quy nh:
1. Ngi no bit rừ ti phm ang c chun b, ang c thc hin hoc
ó c thc hin m khụng t giỏc, thỡ phi chu trỏch nhim hỡnh s v ti khụng
t giỏc ti phm trong nhng trng hp quy nh ti iu 313 ca B lut ny.
2. Ngi khụng t giỏc l ụng, b, cha, m, con, chỏu, anh ch em rut, v
hoc chng ca ngi phm ti ch phi chu trỏch nhim hỡnh s trong trng hp
khụng t giỏc cỏc ti xõm phm an ninh quc gia hoc cỏc ti khỏc l ti c bit
nghiờm trng quy nh ti iu 313 ca B lut ny.
Ti khụng t giỏc ti phm c quy nh ti iu 314 B lut hỡnh s 1999,
c xp vo chng 22 Cỏc ti xõm phm hot ng t phỏp:
1. Ngi no bit rừ mt trong cỏc ti phm c quy nh ti iu 313 ca
B lut ny ang c chun b, ang c thc hin m khụng t giỏc, thỡ b pht
cnh cỏo, ci to khụng giam gi n ba nm hoc pht tự t ba thỏng n ba nm.
2. Ngi khụng t giỏc l ụng, b, cha, m, con chỏu, anh ch em rut, v
hoc chng ca ngi phm ti ch phi chu trỏch nhim hỡnh s v vic khụng t
7
giỏc cỏc ti xõm phm an ninh quc gia hoc cỏc ti khỏc l ti c bit nghiờm
trng theo quy nh ti khon 1 iu ny.
3. Ngi khụng t giỏc nu ó cú hnh ng can ngn ngi phm ti hoc hn
ch tỏc hi ca ti phm, thỡ cú th c min trỏch nhim hỡnh s hoc min hỡnh pht.
Khon 1 iu 313 quy nh cỏc ti phm c th sau:
- Cỏc iu t iu 78 n iu 91 v cỏc ti xõm phm an ninh quc gia;
- iu 93 (ti git ngi); iu 111, cỏc khon 2, 3, v 4 (ti hip dõm);
iu 112 (ti hip dõm tr em); iu 114 (ti cng dõm tr em); iu 116, cỏc
khon 2 v 3 (ti dõm ụ i vi tr em); iu 119, khon 2 (ti mua bỏn ngi);
- iu 120 (ti mua bỏn, ỏnh trỏo hoc chim ot tr em);
- iu 133 (ti cp ti sn); iu 134 (ti bt cúc nhm chim ot ti sn);
iu 138, cỏc khon 2, 3 v 4 (ti trm cp ti sn); iu 139, cỏc khon 2, 3 v 4
(ti la o chim ot ti sn); iu 140, cỏc khon 2, 3 v 4 (ti lm dng tớn
nhim chim ot ti sn); iu 143, cỏc khon 2, 3 v 4 (ti hy hoi hoc c ý
lm h hng ti sn);
- Điều 153, các khoản 3 và 4 (tội buôn lậu); Điều 154, khoản 3 (tội vận chuyển
trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới); Điều 155, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm); Điều 156, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất,
buôn bán hàng giả); Điều 157 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lơng thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 158, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 160, các khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều
165, các khoản 2 và 3 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nớc về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng); Điều 166, các khoản 3 và 4 (tội lập quỹ trái phép); Điều 179,
các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng); Điều 180 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả); Điều 181 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lu hành séc giả, các giấy tờ có
giá giả khác); Điều 189, các khoản 2 và 3 (tội huỷ hoại rừng);
- Điều 193 (tội sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 194 (tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý); Điều 195 (tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma tuý); Điều 196, khoản 2 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua
8
bán các phơng tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma
tuý); Điều 197 (tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý); Điều 198 (tội chứa chấp
việc sử dụng trái phép chất ma tuý); Điều 200 (tội cỡng bức, lôi kéo ngời khác sử
dụng trái phép chất ma tuý); Điều 201, các khoản 2, 3 và 4 (tội vi phạm quy định về
quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác);
- Điều 206, các khoản 2, 3 và 4 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 221 (tội
chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ); Điều 230 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phơng tiện kỹ thuật quân sự);
Điều 231 (tội phá huỷ công trình, phơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều
232, các khoản 2, 3 và 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 236, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ); Điều
238, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán
trái phép chất cháy, chất độc);
- Điều 256, các khoản 2 và 3 (tội mua dâm ngời cha thành niên);
- Điều 278, các khoản 2, 3 và 4 (tội tham ô tài sản); Điều 279, các khoản 2, 3
và 4 (tội nhận hối lộ); Điều 280, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản); Điều 281, các khoản 2 và 3 (tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ); Điều 282, các khoản 2 và 3 (tội lạm quyền trong
khi thi hành công vụ); Điều 283, các khoản 2, 3 và 4 (tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hởng đối với ngời khác để trục lợi); Điều 284, các khoản 2, 3 và 4 (tội
giả mạo trong công tác); Điều 289, các khoản 2, 3 và 4 (tội đa hối lộ); Điều 290,
các khoản 2, 3 và 4 (tội làm môi giới hối lộ);
- Điều 311 khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải,
đang bị xét xử);
- Các điều từ Điều 341 đến Điều 344 về các tội phá hoại hoà bình, chống loài
ngời và tội phạm chiến tranh.
T nhng quy nh ti cỏc iu lut trờn trong BLHS nm 1999, chỳng ta cú
th hiu: Khụng t giỏc ti phm l hnh vi ca mt ngi, tuy khụng ha hn
trc v khụng tham gia thc hin ti phm vi bt k vai trũ no (ngi thc
hnh, ngi t chc, ngi xỳi gic hay ngi giỳp sc), nhng bit rừ ti phm do
ngi khỏc ang c chun b, ang c thc hin hoc ó c thc hin
nhng khụng bỏo vi c quan nh nc cú thm quyn (Cụng an, Vin kim sỏt,
Tũa ỏn, y ban nhõn dõn cỏc cp) v ti phm v ngi phm ti kp thi ngn
9
chặn, phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội. Và chỉ có người thực hiện hành
vi không tố giác các tội phạm quy định tại Khoản 1 Điều 313 thì mới phải chịu
trách nhiệm hình sự. Đối với người không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con,
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng (có thể gọi chung là người thân ruột thịt) của
người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm
phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được
liệt kê tại Khoản 1 Điều 313 BLHS năm 1999.
Tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 có đưa ra khái niệm tội phạm như sau:
“ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Điều 292 BLHS năm 1999 đã nêu ra khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư
pháp như sau: “ Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt
động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo
vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Tội không tố giác tội phạm là một loại tội phạm cụ thể được quy định trong
chương “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp” Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy,
khái niệm Tội không tố giác tội phạm phải thỏa mãn các dấu hiệu trong khái niệm
Tội phạm nói chung và khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
Từ những phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và các khái
niệm trên, có thể đưa ra khái niệm Tội không tố giác tội phạm như sau:
“Tội không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm
hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong
việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
10
sự, tuy không tham gia vào thực hiện tội phạm, nhưng biết rõ tội phạm(quy định tại
Điều 313 BLHS) do người khác đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã
được thực hiện mà cố ý không tố giác tội phạm cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội kịp
thời”.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình
xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Nhà nước ta hiện nay. Đấu tranh phòng, chống tội
phạm chứa đựng hai nội dung là: Phòng ngừa tội phạm và đấu tranh chống tội
phạm.
Phòng ngừa tội phạm là các hoạt động nhằm không để cho tội phạm xảy ra.
Do vậy, hoạt động phòng ngừa tội phạm phải loại trừ dần nguyên nhân của tội
phạm qua việc chủ động tác động đến các thành tố hợp thành nguyên nhân đó theo
hướng giảm thiểu, triệt tiêu các thành tố này hoặc hạn chế tác dụng của nó. Còn
đấu tranh chống tội phạm là các hoạt động phát hiện và xử lý tội phạm để bảo vệ xã
hội và công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Hoạt động này bao gồm: Phát hiện,
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động có đối
tượng là tội phạm đã xảy ra. Kết quả của các hoạt động trên là hậu quả pháp lý mà
người phạm tội phải gánh chịu, đó là bị áp dụng và thi hành hình phạt.
Phòng ngừa tội phạm và chống tội phạm tuy là hai hoạt động có tính độc lập
tương đối nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy, chúng ta thường nói
ghép hai hoạt động với nhau là phòng, chống tội phạm. Phòng tội phạm và chống
tội phạm là hai mặt không thể tách rời của thể thống nhất. Chống tội phạm tuy có
vai trò quan trọng trong phòng ngừa tội phạm nhưng vai trò này chỉ có ý nghĩa khi
đặt trong tổng thể các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung. Chỉ trong tổng
thể các biện pháp phòng ngừa tội phạm thì chống tội phạm mới có thể góp phần
phòng ngừa tội phạm và được xem là một loại biện pháp phòng ngừa đặc biệt.
Cũng giống như đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng,
chống tội không tố giác tội phạm gồm hai nội dung cơ bản là phòng ngừa tội phạm
11
và đấu tranh chống tội phạm. Hai nội dung này tương ứng với hai hướng cơ bản để
đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm:
Hướng thứ nhất là tập trung vào việc hạn chế và tiến dần đến thủ tiêu những
hiện tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân làm phát sinh tội không tố giác tội
phạm. Đây là hướng cơ bản nhất, vừa thể hiện tính nhân đạo, vừa là mong muốn
chung của xã hội loài người, lại tiết kiệm được tiền của, sức lực của Nhà nước,
của nhân dân trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm như các
chi phí cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo phạm nhân và giải quyết hậu
quả do tội phạm gây ra. C.Mác đã viết: “Người làm luật thông thái cần phải phòng
ngừa tội phạm làm sao để khỏi phải trừng phạt chúng” (C. Mác - Anghen, Toàn
tập, xuất bản lần 2, tập 1, Matxcơva 1954, tr. 131 (tiếng Nga)). Kế thừa và phát
triển tư tưởng của C.Mác, trong công tác tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn” (Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995). Câu nói này của Người
đã thể hiện phương châm rất quan trọng trong đường lối xử lý của Nhà nước ta –
lấy giáo dục phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống tội phạm
tốt. Yêu cầu là phải ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm ngay từ đầu làm cho tội
phạm ít xảy ra hơn và tiến tới không xảy ra tội phạm, và để việc chống tội phạm,
xử lý tội phạm chỉ là hãn hữu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa này, trong nội
dung chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, phòng ngừa tội phạm được coi là nhiệm vụ trọng tâm,
cơ bản và đặc biệt quan trọng. Phòng ngừa tội phạm được coi là bộ phận quan
trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn quân,
cũng như của tất cả các cơ quan, tổ chức, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật
và Tòa án là lực lượng trung tâm và nòng cốt.
Hướng thứ hai là bằng mọi biện pháp phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh các trường hợp phạm tội: Phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi
hành án hình sự. Đây là hướng ngăn chặn trực tiếp tội không tố giác tội phạm,
12
trừng trị kẻ phạm tội nhằm mục đích thông qua trừng trị để răn đe chính kẻ phạm
tội và giáo dục những đối tượng có nguy cơ phạm tội từ bỏ ý định phạm tội nếu có.
Từ những nhận thức trên có thể đưa khái niệm về hoạt động đấu tranh phòng,
chống tội không tố giác tội phạm như sau:
“Đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm là các hoạt động có tính
chủ động và tổng hợp của Nhà nước, của xã hội và của mọi công dân hướng tới việc
hạn chế, loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm, ngăn ngừa không để cho tội phạm
này xảy ra; đồng thời phát hiện, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật tội
không tố giác tội phạm đã xảy ra để bảo vệ, giữ gìn an ninh, trật tự cho xã hội”.
1.1.2. Đặc điểm đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm
* Mục đích, nhiệm vụ: Đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm
nhằm mục đích kìm chế sự gia tăng, hạn chế dần mức độ và tính chất nghiêm trọng
của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm này xảy ra. Để đạt được mục đích này, công
tác đấu tranh phòng chống tội không tố giác tội phạm cần tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nắm vững tình hình tội không tố giác tội phạm
Yêu cầu, nhiệm vụ trước tiên của việc tiến hành hoạt động phòng, chống tội
không tố giác tội phạm là cần phải nắm vững tình hình tội không tố giác tội phạm.
Cụ thể như: động thái, diễn biến tình hình tội phạm; cơ cấu, tính chất, đặc điểm tội
phạm… Trên cơ sở đó là căn cứ, cơ sở thực tiễn để tiến hành hoạt động phòng,
chống tội không tố giác tội phạm đảm bảo tính khả thi, đem lại hiệu quả cao.
- Nghiên cứu, xác định rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội
không tố giác tội phạm. Về nguyên nhân của tội phạm, căn cứ vào nguồn gốc xuất
hiện, có thể chia thành nguyên nhân bắt nguồn từ môi trường sống và nguyên nhân
xuất phát từ phía người phạm tội. Thứ nhất, nguyên nhân bắt nguồn từ môi trường
sống là tổng hợp các nhân tố tiêu cực được hình thành từ môi trường sống của cá
nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến các nhân ở mức độ nhất định mà từ đó làm
phát sinh tội phạm. Môi trường sống của cá nhân bao gồm: Các tiểu môi trường mà
cá nhân đang sống và giao tiếp thường xuyên như: Gia đình, trường học, nơi làm
13
việc, cư trú, sinh sống…; môi trường xã hội vĩ mô như: Chính sách, pháp luật,
phương tiện thông tin đại chúng, tác động ảnh hưởng của những hiện tượng tiêu
cực trong xã hội mà người phạm tội chứng kiến hoặc nghe kể…Như vậy, từ môi
trường sống như trên có thể hình thành các nhân tố tiêu cực làm phát sinh tội phạm
như: Môi trường gia đình không hoàn thiện, môi trường nơi cư trú có nhiều tệ nạn
xã hội, hoặc do sự phát triển kinh tế thị trường dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội, vấn đề thất nghiệp, bất bình đẳng trong xã hội, hoặc do quy định của
chính sách, pháp luật còn lỏng lẻo, sơ hở, chưa chặt chẽ…Thứ hai, nguyên nhân
xuất phát từ phía người phạm tội là tổng hợp những nhân tố tiêu cựu thuộc về nhân
thân của người phạm tội có thể tác động, ảnh hưởng, dẫn đến việc làm phát sinh tội
phạm, có thể là các yếu tố thuộc về sinh học, tâm lý, xã hội – nghề nghiệp của
người phạm tội.
- Xây dựng các biện pháp phòng ngừa phù hợp với thực trạng và diễn biến
của tội phạm và có tính khả thi.
Xuất phát từ nguyên nhân của tội phạm, chúng ta đưa ra hệ thống các biện
pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các nhân tố tiêu cực tạo thành nguyên nhân
của tội phạm rất đa dạng, gắn với tất cả các mặt của đời sống xã hội, luôn biến đổi
theo sự phát triển kinh tế, xã hội; cơ chế hình thành và tác động của các nhân tố này
cũng rất phức tạp. Do vậy, các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng
không thể chỉ là các biện pháp đơn lẻ mà phải là hệ thống đồng bộ, được tiến hành
thường xuyên, liên tục và có tính lâu dài. Các biện pháp này là hoạt động chủ động
không chỉ của Nhà nước, mà còn là của toàn xã hội và của tất cả mọi công dân. Xét
về phạm vi tác động của các biện pháp phòng ngừa tội phạm, có thể phân loại các
biện pháp phòng ngừa tội phạm thành các biện pháp phòng ngừa chung và các biện
pháp phòng ngừa riêng. Các biện pháp chung nhằm thực hiện những nhiệm vụ chủ
yếu trong việc phát triển xã hội để loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực. Các
biện pháp phòng ngừa riêng nhằm trực tiếp phòng ngừa tội phạm này bằng cách
khắc phục, loại trừ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội không tố giác tội phạm
trong môi trường xã hội.
14
Các biện pháp phòng ngừa chung là các biện pháp hướng tới “gốc rễ” của tội
phạm nói chung. Mục đích của các biện pháp này là tạo môi trường làm việc, điện
kiện sống, sinh hoạt, cơ sở vật chất cho mọi công dân trong xã hội, khắc phục tận
gốc những nhân tố làm phát sinh tội phạm tiến tới từng bước đẩy lùi tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội. Thuộc các biện pháp này phải kể đến trước hết là các biện
pháp phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục những hạn chế, cải thiện tình hình kinh tế
xã hội như vấn đề thất nghiệp hay thất học, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của các tầng lớp dân cư; các biện pháp lành mạnh hóa các môi trường giáo dục,
nâng cao trình độ văn hóa, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm của công dân;
các biện pháp nâng cao “tính giáo dục” của pháp luật, trong đó có pháp luật hình
sự. Cụ thể có thể chia các biện pháp phòng ngừa chung gồm: Biện pháp kinh tế,
biện pháp văn hóa-xã hội, biện pháp chính trị, tư tưởng, biện pháp tổ chức quản lý,
biện pháp giáo dục và pháp luật. Các biện pháp này mang tính chất lâu dài, cơ bản,
tác động bao trùm lên nhiều đối tượng trên một không gian rộng lớn không chỉ
riêng tội không tố giác tội phạm mà còn bao quát tất cả các tội phạm khác. Các biện
pháp này tập trung vào việc phát triển kinh tế, nâng cao cơ sở vật chất, đời sống
kinh tế cho mỗi công dân; nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước trong lĩnh vực
hoạt động tư pháp; nâng cao chất lượng giáo dục nhằm khắc phục những hạn chế
trong hoạt động giáo dục trong các môi trường khác nhau, đặc biệt là môi trường
gia đình và môi trường nhà trường, đồng thời nhằm khắc phục những “khiếm
khuyết” có tính phản giáo dục của môi trường xã hội; hạn chế các mặt tiêu cực
nhằm phát huy phẩm chất của mỗi công dân.
Do tội không tố giác tội phạm nằm trong nhóm tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp nên còn cần phải áp dụng các biện pháp đấu tranh phòng, chống
mang tính chất đặc thù riêng cho loại tội phạm này. Các biện pháp phòng ngừa
riêng là các biện pháp được xây dựng dựa trên những đặc điểm của nhóm tội xâm
phạm hoạt động tư pháp nói chung và đặc điểm của tội không tố giác tội phạm nói
riêng. Các biện pháp này có tác động trực tiếp đến tội phạm và người phạm tội xâm
phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp trong quá trình phát hiện, điều
15
tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Có thể đưa ra một số biện pháp phòng ngừa riêng
mang tính định hướng của tội phạm này như sau:
+ Trên cơ sở học tập kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước trên thế
giới về tội không tố giác tội phạm để rút ra những giá trị hợp lý, nghiên cứu, vận
dụng trong điều kiện của nước ta, xây dựng đồng bộ và hoàn thiện những quy định
của pháp luật liên quan đến đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp nói chung và tội không tố giác tội phạm nói riêng nhằm tăng cường các biện
pháp pháp hiện, ngăn chặn các kẽ hở tạo cơ hội để nảy sinh tội phạm này. Ví dụ
như: Quy định rõ trách nhiệm hình sự của của người đưa hối lộ tố giác người nhận
hối lộ, hay về những quy định của pháp luật liên quan đến các biện pháp bảo vệ
người tố giác tội phạm…
+ Kết hợp tuyên truyền giáo dục ý thức cộng đồng, nghĩa vụ công dân, động
viên quần chúng tham gia, phát hiện, tố giác tội phạm với tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục những quy định của pháp luật liên quan đến tố giác tội phạm.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp để xử lý nghiêm
minh và kịp thời đối với những người có hành vi không tố giác tội phạm theo quy
định của pháp luật.
+ Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tư pháp với các tổ chức, đoàn thể
quần chúng trong đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm.
- Tổ chức tiến hành các biện pháp phòng, chống loại tội phạm này một cách
đồng bộ và hợp lý.
Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất quyết định chất lượng, hiệu quả của hoạt
động phòng, chống tội không tố giác tội phạm. Ở đó, lựa lượng chức năng chủ
động tích cực thực hiện nội dung các biện pháp phòng ngừa đã được xây dựng như:
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức giáo dục, tuyên truyền nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật, vận động nhân dân tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa; tổ
chức thực hiện các biện pháp nghiệp vụ theo chức năng như giám sát, thanh tra,
kiểm tra kịp thời phát hiện và xử lý tội không tố giác tội phạm…
16
* Chủ thể tiến hành đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm:
Đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội
không tố giác tội phạm nói riêng là hoạt động chung của toàn xã hội được thực hiện
thông qua nhiều chủ thể khác nhau. Từ nội dung của hoạt động đấu tranh phòng
chống tội không tố giác tội phạm đã phân tích ở trên, có thể xác định được các chủ
thể đấu tranh phòng, chống tội phạm này bao gồm:
- Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện các hoạt động quản lý hành
chính nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm không làm phát sinh
vi phạm và tội phạm. Đó là: Lực lượng Công an nhân dân, lực lượng kiểm lâm, bộ
đội biên phòng, quản lý thị trường…
- Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong đấu tranh chống tội phạm. Đây
là các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phòng ngừa tội phạm thông qua hoạt động
đấu tranh chống tội phạm của mình. Đó là hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội
phạm. Qua hoạt động này, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự góp phần ngăn
chặn người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm, “răn đe” người khác không thực
hiện tội phạm cũng như góp phần phát hiện các “kẽ hở” là nguyên nhân của tội
phạm để có biện pháp phòng ngừa. Với trách nhiệm như vậy, các cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự là chủ thể phòng ngừa tội phạm. Đó là cơ quan Công an, Viện kiểm
sát và Tòa án. Theo nghĩa đầy đủ, chống tội phạm còn bao gồm cả hoạt động thi
hành án hình sự. Do vậy, chủ thể đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội
phạm còn bao gồm các cơ quan thi hành án hình sự và các cơ quan, tổ chức được
giao giám sát, giáo dục người chấp hành án hình sự.
- Các tổ chức cá nhân có trách nhiệm trọng việc kiểm tra, giám sát và qua đó
phát hiện vi phạm và tội phạm. Đó là hệ thống các cơ quan thanh tra từ trung ương
đến địa phương, bao gồm cả thanh tra chung và thanh tra chuyên ngành.
- Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
trong đó có nhiệm vụ kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp đến nguyên nhân của tội
phạm cũng như nhiệm vụ thực hiện các biện pháp hạn chế những ảnh hưởng xấu,
khắc phục những “kẽ hở” của các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đó là cơ
17
quan Chính phủ, các ban, ngành trung ương, là ủy ban nhân dân các cấp cùng các
ban, ngành địa phương.
- Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong công tác giáo dục con người,
trong xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Đó trước hết là các nhà trường, các
tổ chức đoàn thể, các gia đình có trách nhiệm giáo dục ý thức công dân, ý thức tôn
trọng pháp luật cũng như ý thức phòng ngừa tội phạm của các thành viên thuộc
phạm vi quản lý, giáo dục của mình. Các cấp chính quyền vừa trực tiếp có trách
nhiệm tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật vừa có trách nhiệm xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh.
- Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật. Đó trước hết là các đơn vị chức năng thuộc ngành tư pháp từ Bộ
tư pháp đến các sở, phòng tư pháp ở địa phương. Bên cạnh đó các cơ quan bảo vệ
pháp luật là Công an, Viện kiểm sát, Tòa án cũng có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về chống tội phạm thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình.
- Chính bản thân các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải tự bảo vệ mình trước
nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm.
* Vai trò của việc đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm:
Đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm là việc Nhà nước tiến
hành đồng bộ các biện pháp trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế
để từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và đi đến loại trừ tội không tố giác tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội. Việc thực hiện thành công các biện pháp đó sẽ góp phần xây
dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, động viên quần chúng tích cực tham gia đấu
tranh phòng, chống tội phạm, đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất
nước đi đến thắng lợi vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
* Yêu cầu của đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm:
- Thứ nhất: Từng bước xây dựng môi trường sống lành mạnh tại các cộng đồng
dân cư, trong các nhà trường và gia đình, tạo ra những chuyển biến rõ rệt về trật tự an
toàn xã hội. Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong cộng đồng, xây dựng nếp sống
18
và làm việc theo pháp luật, đồng thời đẩy mạnh tính chủ động, sáng tạo của các cấp cơ
sở trong công tác phòng, chống tội phạm.
- Thứ hai: Kết hợp chặt chẽ công tác phòng ngừa và chủ động tấn công trấn áp
tội phạm, trước hết ở các địa bàn trọng điểm, các đô thị nhằm làm giảm một cách cơ
bản các loại tội phạm. Tổ chức giáo dục có hiệu quả đối với những người phạm tội,
giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng xã hội.
- Thứ ba: Phát hiện kịp thời, xử lý kiên quyết các đối tượng phạm tội không
tố giác tội phạm.
- Thứ tư: Góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thiêt lập trật tự
kỷ cương trong đời sống xã hội.
1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội không tố giác tội phạm
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là yếu tố không tách rời của tội phạm. Khách thể bảo
vệ của Luật hình sự là những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần được bảo
vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Điều 8 BLHS năm 1999 quy định
những quan hệ xã hội sau đây khi bị gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức
độ nhất định là khách thể của tội phạm: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của công dân và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tố giác tội phạm vừa là quyền vừa là nghĩa vụ cơ bản của công dân. Vấn đề
này được quy định rất cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và BLHS năm 1999:
“Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào” (đoạn 1 Điều 74 Hiến pháp
năm 1992). “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm” (khoản 3 Điều 4 BLHS năm 1999). Hành vi trốn tránh nghĩa vụ
công dân, không tố giác tội phạm bị coi là hành vi trái đạo đức, trái pháp luật. Việc
19
không tố giác tội phạm là cố ý để cho những hành vi nguy hiểm cho xã hội tiếp tục
được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không bị phát giác, gây khó khăn, cản
trở cho việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tư pháp. Những
hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị tố giác đã xâm phạm đến nhiều quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ: quan hệ nhân thân, quan hệ sở hữu…, làm cho trật tự,
an toàn xã hội bị xâm phạm.
Như vậy, Tội không tố giác tội phạm xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và
hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp.
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Tội phạm là hành vi của con người, dù được được biểu hiện dưới dạng nào
thì đó cũng là thể thống nhất giữa những diễn biến tâm lý bên trong của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện ra bên ngoài mà ta có thể
nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực
hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian,
địa điểm phạm tội. Tổng hợp những biểu hiện như trên tạo thành mặt khách quan
của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của Tội không tố giác tội phạm là mặt
ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên
ngoài thế giới khách quan.
Tội không tố giác tội phạm là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có cấu
thành hình thức. Tội phạm này được coi là hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi
không tố giác tội phạm bởi vì chỉ riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện
được đầy đủ bản chất của tội phạm. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm của Tội không tố giác tội phạm. Tuy nhiên, việc xác định hậu
quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không tố giác tội phạm với thiệt hại xảy ra
có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt.
Do tội không tố giác tội phạm có cấu thành hình thức nên hành vi khách
quan là dấu hiệu bắt buộc. Hành vi khách quan của Tội không tố giác tội phạm luôn
20
được thể hiện dưới hình thức không hành động. Do vậy, các điều kiện bên ngoài của
việc thực hiện tội phạm như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian,
địa điểm phạm tội, không được đặt ra đối với tội không tố giác tội phạm. Trong khoa
học luật hình sự, không hành động phạm tội được hiểu là hình thức của hành vi
khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội
phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một
việc mà pháp luật yêu cầu phải làm, mặc dù có đủ điều kiện để làm.
Đối với hình thức không hành động phạm tội, tính trái pháp luật hình sự của
hành vi được thể hiện ở chỗ, việc phải làm mà chủ thể không làm (mặc dù có điều
kiện để làm) là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Nghĩa vụ pháp lý này có thể được
phát sinh do các căn cứ: Luật định, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nghề nghiệp, hợp đồng hoặc do xử sự trước đó của chủ thể.
Đối với Tội không tố giác tội phạm, nghĩa vụ pháp lý phát sinh do luật định,
cụ thể nghĩa vụ này được quy định tại: Điều 74 Hiến pháp năm 1992, Khoản 3 Điều
4 BLHS năm 1999 (đã trích dẫn ở trên) và qui định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 “các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác
hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức”. Khi
một người biết có hành vi phạm tội mà không tố giác có nghĩa người đó đã không
thực hiện đúng nghĩa vụ do luật định, đi ngược lại những đòi hỏi trong chuẩn mực
xã hội, do vậy họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi ấy.
Như vậy, tội không tố giác tội phạm là loại tội chỉ thực hiện được bằng
không hành động, tức là sự làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động chỉ có thể xảy ra khi chủ thể không tố giác tội phạm, người phạm tội với cơ
quan có thẩm quyền, trong khi có đủ điều kiện để tố giác.
Người không tố giác tội phạm chỉ bị coi là tội phạm nếu họ có đủ khả năng
tố giác, không gặp bất cứ một trở ngại khách quan nào: không bị uy hiếp về tinh
thần, không bị đe dọa về tính mạng, tài sản của bản thân người tố giác và người
thân của họ…Trách nhiệm hình sự sẽ không đặt ra nếu vì lý do khách quan mà
21
người không tố giác không có khả năng tố giác: gia đình đột xuất có người đau ốm
cần phải đưa đi cấp cứu, trở ngại do thiên tai gây ra như bão lụt...gây khó khăn cho
việc đi tố giác. Hoặc là người nước ngoài đến Việt nam, hoàn toàn không biết tiếng
Việt, chưa thông thuộc địa hình nếu phát hiện tội phạm đang được chuẩn bị, đang
hoặc đã được thực hiện thì cũng rất khó có khả năng tố giác tội phạm, mặc dù họ
hoàn toàn có đủ năng lực hành vi, không bị ép buộc hay đe dọa về tinh thần. Hoặc
là đồng bào dân tộc miền núi không biết tiếng Kinh, không có ai phiên dịch giúp…
Pháp luật không qui định khoảng thời gian tối thiểu và tối đa để tố giác tội
phạm kể từ khi người phạm tội biết rõ tội phạm đang được thực hiện hoặc đã được
thực hiện. Việc giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào tình tiết cụ thể của từng vụ án.
Nhưng yêu cầu chung của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải phát hiện
kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Yêu cầu này đòi hỏi
mọi công dân phải tố giác tội phạm mà mình biết ngay khi có khả năng thực hiện
việc tố giác.
Nếu một người biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện
hoặc đã được thực hiện, nhưng vì những lý do nào đó, không tố giác ngay, mà qua
một khoảng thời gian nhất định đấu tranh tư tưởng, mới tố giác và trên cơ sở sự tố
giác đó, cơ quan có thẩm quyền đã ngăn chặn tội phạm, bắt giữ được kẻ phạm tội,
thì người đó sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Trần Văn B là bố đẻ của Trần Văn H. Mặc dù B biết H đã thực hiện
hành vi cướp tiệm vàng, giết 3 người nhà chủ tiệm vàng nhưng B không trình báo
sự việc với công an vì thương con, sợ con bị đi tù, tình cha con và danh dự của gia
định bị ảnh hưởng. Giữ im lặng một thời gian, Trần Văn B thấy day dứt, lương tâm
bị dằn vặt và thấy có lỗi với người đã mất. Ông quyết định đến cơ quan Công an
trình báo hành vi phạm tội của Trần Văn H. Trong trường hợp này ông Trần Văn B
sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm .
Trường hợp tố giác quá muộn, lại không có lý do chính đáng (như ốm đau,
bệnh tật hoặc do nhưng nguyên nhân bất khả kháng khác) và cơ quan có trách
nhiệm không còn khả năng để ngăn chặn, xử lý tội phạm và người phạm tội, hoặc
22
cơ quan tiến hành tố tụng đã có đủ bằng chứng chứng minh tội phạm thì người có
hành vi tố giác quá muộn đó có thể vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không
tố giác tội phạm.
Ví dụ: Nguyễn Văn A biết rõ một số người mua bán gỗ quí để vận chuyển
trái phép ra nước ngoài nhưng A đã không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền.
Chỉ đến khi Cơ quan điều tra bắt được một trong số những người thực hiện hành vi
vận chuyển trái phép gỗ quí qua biên giới, còn những người khác chưa bắt được thì
A mới tố giác với Cơ quan điều tra. Hành vi tố giác quá muộn của A bị coi là hành
vi không tố giác tội phạm đang được thực hiện.
Nhà làm luật đã sử dụng phương pháp dẫn chiếu đến các tội phạm được qui
định tại Điều 313 BLHS để xác định người không tố giác có bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo Điều 314 hay không. Điều 313 BLHS liệt kê các loại tội phạm
cụ thể, ta thấy: Không phải nhóm tội nào cũng có thể trở thành đối tượng của tội
không tố giác tội phạm. Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, các tội phạm về môi trường…đều không
là đối tượng của tội phạm qui định tại Điều 314. Bởi vì những trường hợp mà nhà
làm luật không liệt kê thì trên thực tiễn cũng rất khó xảy ra hoặc nếu xảy ra thì
cũng ít ảnh hưởng đến việc phát hiện, xử lý tội phạm. Hơn nữa, có những tội phạm
có thể xảy ra trên thực tế, diễn ra công khai: Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều
296), Tội quảng cáo gian dối (Điều168)… Song không phải công dân nào cũng đủ
khả năng hiểu biết, am hiểu sâu chuyên môn về luật học, dược học, hóa học…để
phân tích, tìm hiểu, phát hiện ra trái pháp luật ở chỗ nào để tố giác. Trong một tội
cụ thể, chỉ có một số khoản là đối tượng được liệt kê trong Điều 313. Thông
thường, đó là khoản 2, 3, 4 của các tội, thường là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng do có thêm một hoặc nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình
phạt. Khoản 1 thường là tội ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, một số tội, do tính chất
quan trọng đặc biệt của khách thể (hòa bình thế giới, an ninh lương thực của cả
quốc gia, tính mạng con người…) nên pháp luật không loại trừ khoản nào. Người
23
không tố giác phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi trường hợp không phụ thuộc đó
là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng…
Như vậy, chỉ cấu thành tội không tố giác tội phạm nếu người phạm tội không tố
giác các tội được qui định tại Điều 313, còn không tố giác các tội phạm không được
dẫn chiếu đến Điều 313 thì hành vi đó không cấu thành tội này, người không tố
giác không phải chịu TNHS.
Điều 313 BLHS đã liệt kê các tội phạm mà người không tố giác sẽ bị coi là
hành vi phạm tội, song để xác định được chính xác tội phạm đang được chuẩn bị,
đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện là tội phạm có thuộc trường hợp được
liệt kê tại Điều 313 hay không phải đánh giá các tình tiết cụ thể của từng vụ án thì
mới xác định được tội phạm mà người đó không tố giác thuộc trường hợp qui định
tại khoản nào của điều luật.
Ví dụ, chị Nguyễn Thị X là nhân viên của quán cà phê M (Hà nội), do anh
Nguyễn Quốc B làm chủ. Chị X đã phát hiện ra anh B có hành vi bán chị Đinh Thị A
(là cháu họ của anh B, ở quê lên giúp việc cho nhà anh B) cho một tiệm mát xa ở Bà
rịa-Vũng tàu. Do lo sợ bị đuổi việc nếu tố giác hành vi của B, chị X đã im lặng. 1
tháng sau, chị A trốn được và đi tố cáo hành vi của B với Công an huyện Đ. Sau khi
thu thập chứng cứ, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố B với tội mua bán phụ
nữ theo Điều 119. Hành vi không tố giác của chị X rõ ràng là vi phạm pháp luật
nhưng liệu chị X có bị khởi tố theo Điều 314 không ? Trong trường hợp này, cơ quan
tố tụng phải xem xét hành vi mua bán phụ nữ của B thuộc khoản nào của Điều 119,
có tình tiết tăng nặng không…Nếu kết luận hành vi của B không thuộc Điều 119
khoản 2 thì hành vi không tố giác của chị X theo đó cũng cấu thành tội không tố giác
tội phạm theo Điều 314 khoản 1. Nếu hành vi của B chỉ thuộc trường hợp Điều 119
khoản 1 và không có tình tiết tăng nặng thì hành vi không tố giác của chị X cũng
không cấu thành tội không tố giác tội phạm.
1.2.3. Chủ thể của tội phạm
Một người trở thành chủ thể của tội phạm nói chung hay chủ thể của tội
không tố giác tội phạm nếu họ có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi mà
luật hình sự quy định.
24
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó. Đối với tội không tố giác
tội phạm, người có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người có khả năng
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không tố giác tội phạm
và có khả năng điều khiển hành vi đó.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự
như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Tội không tố giác tội phạm có mức tối đa của khung hình phạt là 3 năm tù,
cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là tội
phạm ít nghiêm trọng. Như vậy, chủ thể của tội không tố giác tội phạm phải từ đủ 16
tuổi trở lên.
Từ những phân tích ở trên và theo qui định tại khoản 2 Điều 314 BLHS, chủ
thể của tội không tố giác tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có khả năng nhận
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không tố giác tội phạm và có
khả năng điều khiển hành vi đó, trừ những người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ,
con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng quy định tại Điều 313 BLHS (trừ các tội xâm
phạm an ninh quốc gia).
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, bao gồm
các nội dung: lỗi, mục đích phạm tội, động cơ phạm tội. Tùy thuộc vào từng tội
phạm cụ thể mà mức độ phản ánh của các yếu tố có sự khác nhau trong cấu thành
tội phạm, tuy nhiên yếu tố lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu
thành tội phạm nào.
25
“Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố
ý hoặc vô ý” (Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, PGS.TS.Lê Cảm chủ
biên, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007). Tội không tố giác tội phạm được
thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi không tố giác tội
phạm của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó.
Có nghĩa là: Người phạm tội không tố giác biết rõ tội phạm mà mình không tố giác
đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện. “Biết rõ” có
nghĩa người không tố giác có đủ căn cứ để nhận thức hành vi phạm tội của người khác
là có thực, không còn nghi ngờ, không cần phỏng đoán. Đó có thể là trường hợp chủ
thể tận mắt trông thấy tội phạm đang được chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện, hoặc đã
được nghe những người chứng kiến hay người tham gia tội phạm kể lại, hoặc đã đọc
được thư từ có nói đến việc chuẩn bị phạm tội hoặc đã được thực hiện...qua đó, có thể
khẳng định là có hành vi phạm tội đang hoặc đã được thực hiện. Người không tố giác
cũng thấy trước được hậu quả nguy hiểm do mình gây nên nếu không tố giác với cơ
quan có thẩm quyền: góp phần gây khó khăn cho việc điều tra, phát hiện tội phạm,
góp phần gây cản trở cho việc ngăn chặn kịp thời thiệt hại do tội phạm gây ra, nhưng
vẫn cố tình im lặng trước sự việc phạm tội của người khác.
Tuy nhiên, nếu một người biết chính xác người khác đang có ý định phạm
tội, nhưng chưa có hành động cụ thể, thì người này dù không tố cáo với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cũng không cấu thành tội không tố giác tội phạm. Bởi vì
định phạm tội thuộc phạm trù tư tưởng, luật hình sự không truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người có ý định phạm tội. Ý định phạm tội không bị coi là tội
phạm, thì người không tố giác người có ý định phạm tội, cũng không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Một trường hợp nữa là nếu người biết rõ về tội phạm và người
phạm tội, nhưng lầm tưởng cơ quan điều tra đã biết rõ về tội phạm đó và đang mở
cuộc điều tra và sự lầm tưởng đó có cơ sở, thì người này cũng không phải chịu
trách nhiệm hình sự, vì không có sự cố ý không tố giác tội phạm. Trường hợp sự