Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên Giầy Thượng Đình trên thị trường các nước EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.3 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH

6

TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU GIẦY DÉP TẠI THỊ TRƯỜNG
EU

1.1. Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

6

1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh

12

1.3. Các tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh

32

1.4. Kinh nghiệm của một số doanh nghiệp nước ngoài trong việc nâng cao

36

năng lực cạnh tranh và bài học đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY



41

TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN GIẦY
THƯỢNG ĐÌNH TẠI THỊ TRƯỜNG EU
2.1. Tổng quan về Công ty TNHH nhà nước một thành viên giầy Thượng Đình

41

2.2. Phân tích khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH nhà nước một thành

54

viên giầy Thượng Đình
2.3. Đánh giá công tác tăng cường khả năng cạnh tranh của Công ty

65

Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

70

CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH
VIÊN GIẦY THƯỢNG ĐÌNH TẠI THỊ TRƯỜNG EU
3.1. Triển vọng xuất khẩu của Công ty trên thị trường EU

70

3.2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty


75

trên thị trường EU
KẾT LUẬN

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

89

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
1


Bảng 2.1: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn 2011 - 2013

49

Bảng 2.2: Sản lượng tiêu thụ của công ty Giầy Thượng Đình giai đoạn 2011

51

2013
Bảng 2.3: Cơ cấu thị trường xuất khẩu giai đoạn 2011 - 2013

52

Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu sang một số nước thuộc thị trường EU của


53

Công ty giầy Thượng Đình
Bảng 2.5: Số lượng và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty sang thị trường

54

EU
Bảng 2.6: Danh mục một số trang thiết bị sản xuất chính của công ty

55

Bảng 2.7: Bảng tổng hợp về lao động toàn công ty năm 2013

58

Bảng 2.8: Bảng tổng hợp về lao động của công ty giai đoạn 2011-2013

59

Bảng 2.9: Thị phần sản phẩm giày của công ty giày Thượng Đình trên thị

60

trường EU
Bảng 2.10 : Số lượng và doanh thu tiêu thụ của công ty giày Thượng Đình trên

60


thị trường EU giai đoạn 2011 - 2013
Bảng 2.11: Giá cả bình quân sản phẩm giầy vải và giầy thể thao của công ty và

61

một số nước trên thị trường EU
Bảng 2.12: Bảng đánh giá chất lượng sản phẩm theo phương pháp cho điểm

62

năm 2012
Bảng 2.13: Tỉ lệ sản phẩm đạt chất lượng của công ty và các quốc gia khác trên

63

thị trường EU giai đoạn 2010 - 2013
Bảng 3.1: Các dự án đầu tư giai đoạn 2015-2020 của công ty giày Thượng Đình

74

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ
Hình 1.1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty giầy Thượng Đình

Trang
21
46

2



Sơ đồ 2.2: Quy trình sản xuất của công ty giầy Thượng Đình

56

3


KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
ASEAN
CBCNV
CCI
EC
EU
FDI
FTA
GATT
GCI
GDP
GSP
ISO
KTQT
MTV
NN & PTNT
TNHH
TT
XK
VAT
SA 8000

WEF
WTO

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Cán bộ công nhân viên
Chỉ số năng lực cạnh tranh hiện hành
Cộng đồng Châu Âu
Liên minh Châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiệp định thương mại tự do
Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
Tổng sản phẩm quốc nội
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
Tiêu chuẩn quốc tế
Kinh tế quốc tế
Một thành viên
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Trách nhiệm hữu hạn
Thể thao
Xuất khẩu
Thuế giá trị gia tăng
Hệ thống trách nhiệm xã hội
Diễn đàn kinh tế thế giới
Tổ chức thương mại thế giới

4



5


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo ra những cơ

hội riêng và thách thức mới cho các doanh nghiệp. Muốn tồn tại và phát triển, các doanh
nghiệp buộc phải tìm cách thích nghi để theo kịp sự vận động của thị trường, hội nhập
vào nền kinh tế thế giới, đây là xu hướng tất yếu.
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới không còn cách nào khác là các doanh nghiệp
Việt Nam phải mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy mạnh việc xuất khẩu sản
phẩm, một mặt tạo cho doanh nghiệp có vị trí ngày càng ổn định trên thương trường, đảm
bảo việc tiêu thụ cho sản phẩm, mặt khác giúp doanh nghiệp tận dụng được ưu thế về
nguồn lực của mình, hạn chế rủi ro.
Thị trường EU là thị trường rộng lớn, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế
giới, có mối quan hệ thường mại tốt với các doanh nghiệp Việt Nam. Thị trường này
nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam với khối lượng lớn bao gồm các mặt hàng: Dệt may,
Giầy dép, Đồ thủ công mỹ nghệ, Thủy sản,…trong đó mặt hàng chủ lực là Dệt may và
Giầy dép. Đây là một thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng nên thu hút các doanh
nghiệp thúc đẩy việc tìm kiếm thị trường và tăng cường xuất khẩu.
Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Giầy Thượng Đình là một doanh
nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu lớn trong tổng doanh thu. Thị trường EU là thị trường
truyền thống đối với Công ty trong gần 20 năm qua. Tuy kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường EU trong những năm gần đây liên tục tăng nhưng Công ty cũng gặp không ít khó
khăn do sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Để góp phần giúp cho Công ty duy trì và gia
tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU trong những năm tới trên cơ sở nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình, nhóm tác giả đã lựa chọn vấn đề “Nghiên cứu và đề xuất

giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trách nhiệm hữu hạn
nhà nước một thành viên Giầy Thượng Đình trên thị trường các nước EU” làm đề
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Trường

6


2.

Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh

đối với một số loại hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam trước những thay đổi trên thị trường
trong nước và quốc tế như:
- Luận án Tiến sĩ khoa học của Vũ Văn Cường - Bảo vệ tại Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân năm 2001 - với đề tài: “Phương hướng và biện pháp nhằm phát triển ngành
da giầy Việt Nam”
Luận án đã nghiên cứu thực trạng ngành da giầy Việt nam và đề xuất các giải pháp
phát triển ngành da giầy Việt Nam, trong đó có giải pháp liên quan đến thúc đẩy xuất
khẩu sản phẩm da giầy nói chung
- Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Anh Tuấn (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân),
hoàn thành năm 2006 với đề tài:“Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc
của Việt Nam trên thị trường EU”.
Luận án đã hệ thống hoá lý thuyết về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh sản phẩm
nói chung và hàng may mặc Việt Nam nói riêng trên thị trường EU. Phân tích những lợi
thế và hạn chế của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU, đồng thời đánh giá thực
trạng khả năng cạnh tranh hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường EU. Qua đó, đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc của
Việt Nam trên thị trường EU.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác đề cập đến việc

nâng cao năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng khác của nước ta trong thời gian qua
như: Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản xuất khẩu
chủ yếu của Việt Nam của nhóm tác giả Nguyễn Đình Long và Nguyễn Tiến Mạnh; Đề
án phát triển thương mại nông - lâm - thuỷ sản đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020,
khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA
của Bộ NN & PTNT; Định hướng và những giải pháp cho xuất khẩu nông sản của các
doanh nghiệp Việt Nam trong những năm tới của PGS.TS Phạm Công Đoàn; Các biện
pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản trong thương mại quốc tế của PGS.TS Đinh
Văn Thành; Tác động của hội nhập KTQT đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông
7


sản ở Việt Nam: qua nghiên cứu trường hợp chè, cà phê và điều của Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương...
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên dù khá đa dạng nhưng mới chỉ tập trung
vào phân tích các khía cạnh khác nhau về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất
khẩu giầy dép của Việt Nam trong trạng thái tĩnh một cách rời rạc, chủ yếu dựa vào đánh
giá hiện trạng năng lực cạnh tranh của từng yếu tố riêng biệt nhờ lợi thế so sánh. Cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và cập nhật về vấn đề
nâng cao sức cạnh tranh của Công ty TNHH giầy Thượng Đình vào thị trường EU trong
điều kiện Việt Nam gia nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhất là trong những
năm khủng hoảng kinh tế gần đây. Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu tiếp tục, có tính
khái quát về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Công ty vào thị trường EU trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tạo cơ sở để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của Công ty trong tiến trình hội nhập sâu vào nên kinh tế khu vực và thế
giới trong thời gian tới.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích các “nút thắt” cạnh tranh của Công ty


TNHH giầy Thượng Đình vào thị trường EU, trên cơ sở đó tìm ra một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty vào thị trường EU trong bối cảnh
hội nhập kinh tế của Việt Nam vào nền kinh tế thế giời ngày càng sâu rộng hơn. Để đạt
được mục đích trên, báo cáo nghiên cứu có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh xuất khẩu
- Phân tích, đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của Công ty TNHH giầy Thượng
Đình ở thị trường EU trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ rõ những điểm mạnh,
điểm yếu so với các mặt hàng của các đối thủ cạnh tranh khác và nguyên nhân gây ra
những điểm yếu đó
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp, kiến nghị có cơ sở khoa học và có tính khả
thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH giầy Thượng Đình ở thị
trường EU trong điều kiện hội nhập KTQT.
8


4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận và thực tiễn về

năng lực cạnh tranh của Công ty giầy Thượng Đình ở thị trường EU trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong hoạt động xuất
khẩu một số mặt hàngn chủ yếu của Công ty. Cụ thể là:
Giới hạn nội dung: Tập trung nghiên cứu tình hình xuất khẩu và khả năng cạnh
tranh của Công ty TNHH giầy Thượng Đình ở thị trường EU, không đi sâu nghiên cứu
chi tiết những vấn đề về kỹ thuật sản xuất, không nghiên cứu hoạt động tiêu thụ của Công
ty ở thị trường trong nước.

Giới hạn thời gian nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH giầy Thượng Đình từ năm
2011 đến nay.
Giới hạn mặt hàng: Công ty kinh doanh nhiều mặt hàng, nhiều lĩnh vực khác nhau
Tuy nhiên, trong báo cáo đề tài chỉ tập trung nghiên cứu chủ yếu về các mặt hàng: giầy
vải, giầy thể thao
5.

Phương pháp nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm

phương pháp nghiên cứu cơ bản. Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng thêm các phương
pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp
- Phương pháp thống kê, so sánh
- Phương pháp điều tra và khảo sát
- Phương pháp lấy ý kiến phân tích của các chuyên gia, các nhà kinh doanh xuất
khẩu giầy dép vào thị trường EU
6.

Nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, sơ đồ,

bảng biểu, báo cáo đề tài gồm 3 chương:
9


Chương 1: Lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp xuất khẩu giầy dép tại thị trường EU

Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH nhà nước
một thành viên giầy Thượng Đình tại thị trường EU
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
TNHH nhà nước một thành viên giầy Thượng Đình tại thị trường EU

10


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU GIẦY DÉP TẠI
THỊ TRƯỜNG EU
1.1.

TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Các học thuyết về kinh tế thị trường, dù trường phái nào cũng đều thừa nhận rằng:
cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà ở đó cung - cầu và
giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế
thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác
nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh, đặc biệt là phạm vi của thuật ngữ
này. Chúng ta có thể dẫn ra như sau:
Theo Các Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu
được lợi nhuận siêu ngạch”.
Theo Từ điển kinh doanh của Mariam Webster xuất bản năm 1992 thì: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.

Theo Từ điển Bách Khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, giữa các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nó được chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”.
Theo cuốn Kinh tế học của M.Samuelson thì: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường”.

11


Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa
các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng
cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể”.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cạnh tranh, chúng ta có thể rút ra
những nội hàm cơ bản của cạnh tranh kinh tế:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh kinh tế là nhắm vào một đối tượng cụ
thể nào đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án...); một
loạt điều kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng...). Mục đích cuối cùng là kiếm
được lợi nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung
mà các bên tham gia phải tuân thủ như: Đặc điểm sản phẩm, thị trường, các tiêu chuẩn
pháp lý, các thông lệ kinh doanh...
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể kinh doanh tham gia cạnh tranh trên
4 phương diện chủ yếu: Cạnh tranh giá trị sử dụng sản phẩm; Cạnh tranh giá bán sản
phẩm; Cạnh tranh về phân phối sản phẩm; Cạnh tranh về truyền thông và khuếch trương.
Từ những cách tiếp cận trên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, khái niệm
cạnh tranh nên được hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể

kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu
kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ cạnh tranh
Nếu hiểu cạnh tranh là cuộc ganh đua gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh
doanh trên thị trường. Trong quá trình cạnh tranh với nhau, để giành được lợi thế về phía
mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị
12


thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó của chủ
thểnhằm kiến tạo năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn có khả năng duy trì vị
thế của một hàng hóa nào đó nói chung, hàng nông sản nói riêng trên thị trường, mà hàng
hóa này phải thuộc một doanh nghiệp nào đó, một nước nào đó thì người ta cũng dùng
thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hóa”, đó cũng là thuật ngữ dùng để chỉ mức độ hấp
dẫn của hàng hóa đó đối với khách hàng. Như vậy, khi nghiên cứu sức cạnh cạnh tranh
của một mặt hàng nào đó, cần phải xem xét nó trong môi trường cạnh tranh năng lực
quốc gia, cạnh tranh ngành và doanh nghiệp.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF - World Economic Forum)
thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của một nền kinh tế có thể tạo ra
tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.
Ngoài những yếu tố về vị trí địa lý kinh tế, tài nguyên thiên nhiên... năng lực cạnh tranh
của quốc gia chịu sự chi phối bởi các nhóm nhân tố:
- Nhóm 1: Mức độ mở của nền kinh tế, bao gồm độ mở của thương mại và đầu tư
(thuế quan và hàng rào phi thuế quan, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, đầu tư
trực tiếp của nước ngoài).
- Nhóm 2: Vai trò và hoạt động của chính phủ (mức độ can thiệp của Nhà nước,
năng lực của Chính phủ, quy mô của Chính phủ, chính sách tài khóa, hệ thống thuế, lạm
phát).

- Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính (khả năng hoạt động của trung gian tài chính,
rủi ro tài chính, hiệu quả cạnh tranh, đầu tư và tiết kiệm).
- Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ (năng lực công nghệ nội sinh, công nghệ
chuyển giao, mức độ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai).
- Nhóm 5: Các yếu tố về kết cấu hạ tầng (chất lượng hệ thống giao thông vận tải,
mạng viễn thông, điện, nước, kho tàng và các phương tiện vật chất).
- Nhóm 6: Quản lý kinh doanh, quản lý nhân lực.
13


- Nhóm 7: Các yếu tố về lao động (số lượng lao động, trình độ tay nghề và năng
suất lao động, hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động, chương trình xã hội)
- Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế (chất lượng của các thể chể pháp lý).
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn để
đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ; tài
chính; quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng
mạnh từ 1/9 lên 1/3, với hai chỉ số mới - chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth
Competitiveness Index - GCI) và chỉ số năng lực cạnh tranh hiện hành (Current
Competitiveness Index - CCI). Theo phân tích và đánh giá của WEF thì sức vươn lên
trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa mạnh, trong khi xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao đối với năng lực cạnh tranh của các quốc gia
và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Một số nhà kinh tế khác lại đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của quốc gia dựa
trên năng suất lao động, M. Porter cho rằng: “Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh
tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động”. Ông đề cao vai trò của doanh nghiệp trong
cạnh tranh quốc gia và cho rằng năng suất lao động trong một quốc gia phụ thuộc vào
khả năng của từng doanh nghiệp của nó đạt được các mức năng suất cụ thể và tăng được
mức năng suất đó như thế nào. Muốn duy trì và nâng cao được năng suất lao động, từng
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất bằng cách nâng cao chất

lượng sản phẩm, cải tiến kỹ thuật, hạ thấp chi phí, bổ sung các đặc điểm cần thiết ... để
đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Uỷ ban về Cạnh tranh Công nghiệp Hoa kỳ đã đưa ra khái niệm “ở quy mô một
quốc gia, năng lực cạnh tranh được hiểu là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường
tự do và công bằng có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”.
Theo quan điểm này thì cạnh tranh của một quốc gia được hiểu là khả năng của quốc gia
đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống của người dân, có nghĩa là

14


đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của thu nhập bình
quân trên đầu người theo thời gian
Như vậy, dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng đa số các quan niệm đều
thống nhất, năng lực cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào khả năng khai thác các cơ hội
trên thị trường. Do đó, có thể hiểu, năng lực cạnh tranh của quốc gia là tổng thể sức
mạnh và ảnh hưởng của nền kinh tế quốc dân trong đời sống kinh tế quốc tế mà điều biểu
hiện rõ nhất là thương hiệu thương mại quốc gia được thế giới ngưỡng mộ, tín nhiệm.
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Về khái niệm này, phần lớn các tác giả đều gắn năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức,
quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia
tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Do tính đa dạng và phức tạp của cạnh tranh kinh doanh, không thể có một khái
niệm cạnh tranh doanh nghiệp chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Trong điều
kiện và thực tế cạnh tranh của mình, thì doanh nghiệp phải tự định nghĩa năng lực cạnh
tranh cho mình. Song trên nhận thức chung nhất, chúng ta có thể xem xét năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp trên 4 phương diện sau:

Một là, cạnh tranh phải đứng trên quan điểm khách hàng. Phải lấy yêu cầu và sự
thỏa mãn của khách hàng là chuẩn mực đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc thu hút khách hàng phải là thực
lực của doanh nghiệp. Thực lực này chủ yếu được tạo thành từ những ưu thế so sánh mà
doanh nghiệp cung ứng cho khách hàng.
Ba là, khi nói tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so sánh với doanh
nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị trường. Muốn tạo nên
năng lực cạnh tranh thực thụ, thực lực của doanh nghiệp phải vượt trội lên đối thủ bằng
ưu thế riêng có của mình
15


Bốn là, các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ ràng
buộc nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi nó có khả năng thoả mãn
đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng. Song khó có doanh nghiệp nào có được
yêu cầu này, thường thì có lợi thế về mặt này, lại có thế yếu về mặt khác. Bởi vậy, việc
đánh giá đúng đắn những mặt mạnh và mặt yếu của từng doanh nghiệp có ý nghĩa trọng
yếu với việc tìm các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh.
Do đó, chúng ta có thể hiểu: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện thực lực
và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi
hỏi của khách hàng để đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong môi trường cạnh
tranh.
1.1.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Theo một số tác giả, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó (về
các chỉ tiêu) so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị
trường. Khái niệm này cho thấy, việc xác định sản phẩm có năng lực cạnh tranh hay
không trên thị trường, là xác định mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm
về chất lượng, giá cả, công nghệ chế tạo, dịch vụ sau bán hàng... so với sản phẩm cùng
loại mà đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường. Biểu hiện tập trung nhất là uy tín
thương hiệu sản phẩm.

Một số tác giả khác lại cho rằng: một hàng hóa được coi là có sức cạnh tranh khi
nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính
độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì ... hơn hẳn so với các hàng hóa cùng loại.
Hay nói cách khác, sức cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả những đặc điểm, yếu
tố, tiềm năng mà hàng hóa đó có thể duy trì và củng cố chỗ đứng của mình trên thị trường
trong một thời gian dài. Sức cạnh tranh của hàng hóa còn được thể hiện thị phần của mặt
hàng đó trên thị trường, hay nói cách khác đó là sức mua đối với hàng hóa đó trên thị
trường, là mức độ chấp nhận của người tiêu dùng.

16


Như vậy, mặc dù vẫn chưa thống nhất khái niệm, song có thể hiểu rằng, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi các yếu tố chính như: tính hữu dụng thay thế
cho công dụng kinh tế của một loại sản phẩm so với sản phẩm tương tự của doanh nghiệp
khác: yếu tố về chất lượng của sản phẩm; yếu tố về giá cả của sản phẩm. Và các yếu tố
khác như: kiểu dáng, tính năng sử dụng, kiểu dáng, mẫu mã, hình thức độc đáo hay sự
khác biệt, thương hiệu, bao bì của sản phẩm, phương thức tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng...
Tóm lại, các cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng
lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh, ngược lại để
tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế
phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế
phải ổn định, bộ máy Nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên
nghiệp.
Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng là một yếu
tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh nghiệp rất thành công
trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Là tế bào của nền kinh tế nên sức cạnh tranh của
doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh

tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể
kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh. Ngược lại, năng
lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
1.2.

NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.2.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
Như đã đề cập ở trên, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực nội sinh (bên
trong) của doanh nghiệp đứng trước cơ hội và thách thức của môi trường kinh doanh và
áp lực cạnh tranh từ phía thị trường.
17


Tuy nhiên, những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên
ngoài ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, khi phân tích tới các yếu tố cấu thành và ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp, phải đề cập tới các nhân tố tác động bên
ngoài.
1.2.1.1. Những nhân tố vĩ mô
Nhân tố kinh tế: Đây là nhóm các nhân tố và điều kiện ràng buộc rất phong phú.
Môi trường chính sách thị trường và các chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng quan
trọng đến thách thức, ràng buộc nhưng đồng thời lại là nguồn khai thác cơ hội hấp dẫn
đối với mỗi doanh nghiệp. Kinh tế các nước EU trong những năm qua gặp khó khăn do
khủng hoảng kinh tế thế giới kết hợp với khủng hoảng nợ công. Tuy nhiên, hiện nay đang
bước đầu hồi phục trở lại làm cho nhu cầu mua sắm những hàng hóa thiết yếu như giầy
dép tăng lên. Khách hàng ở các nước EU rất đa dạng nên nhu cầu đối với mặt hàng giầy
dép cũng rất phong phú. Xu hướng tiêu dùng của nhiều người tiêu dùng EU đang đi theo
hướng từ sang trọng đến bình dân. Xu hướng này đang tiếp diễn mạnh mẽ và dự báo gia

tăng trong tương lai. Bằng chứng là các sản phẩm giầy thể thao, giầy vải hơi bụi, thường
chỉ dùng để đi chơi hoặc trong sinh hoạt gia đình, gần đây bỗng chiếm cảm tình đặc biệt
với giới văn phòng và công chức lớn tuổi.
Nhân tố chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và
ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp nói chung,
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói riêng tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu
quả.
• Chính sách thuế quan của EU đối với mặt hàng giầy dép: Thuế nhập khẩu: Hiện
nay Việt Nam đang được hưởng chế độ thuế ưu đãi phổ cập GSP (Generalised System of
Preferences) trong giai đoạn 2014 - 2016. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu của Việt Nam đối với
mặt hàng giầy dép tăng nhanh tới ngưỡng trưởng thành là 17,5% thì sẽ không còn được
ưu đãi này nữa. Đây là một cản trở cho các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của Việt
Nam sang thị trường này.

18


Thuế giá trị gia tăng (VAT): Hầu hết hàng hoá nhập khẩu đều phải chịu thuế VAT.
Hiện tại EU có ba mức thuế: Mức thuế tiêu chuẩn 17,5%, mức thuế đã được miễn trừ 5%
và mức thuế 0%. Mức thuế 0% được áp dụng cho các mặt hàng như thức ăn, sách báo,
giầy dép và quần áo trẻ em, các phương tiện giao thông công cộng. Thuế VAT được xác
định dựa vào tổng trị giá hàng hoá, chi phí bảo hiểm, vận chuyển cộng thêm tổng thuế thu
nhập phải trả. Mức thuế VAT phổ biến của EU là 17,5%.
Thuế chống bán phá giá : Thuế chống bán phá giá là loại thuế đánh vào hàng nhập
khẩu nhằm chống lại việc hàng hoá bị bán phá giá ở châu Âu (tức là bán với giá thấp hơn
so với giá trị thông thường của hàng hoá đó). Mỗi một mức thuế chống bán phá giá có thể
áp dụng cho một số mặt hàng có nguồn gốc xuất xứ tại một số nước nhất định hoặc được
xuất khẩu bởi một số nhà xuất khẩu nhất định. Có 2 hình thức đánh thuế chống bán phá
giá: hoặc là tạm thời (đánh thuế 6 tháng đầu và sau đó gia hạn thêm 3 tháng tiếp theo)
hoặc là đánh thuế cuối cùng (đánh thuế 5 năm 1 lần). Hiện nay, Việt Nam đang được EU

dỡ bỏ thuế chống bán phá giá (mọi khi phải chịu 10%), điều đó giúp các doanh nghiệp
xuất khẩu giầy dép của Việt Nam có sự thuận lợi khi xuất khẩu sang thị trường này.
• Chính sách phi thuế quan của EU đối với mặt hàng giầy dép: Nhìn chung EU đối
xử với Việt Nam cũng tương tự như các nước đang phát triển khác. Chính sách ngoại
thương của EU bao gồm: chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại trên cơ
sở hiệp định. EU thực hiện một chính sách thương mại chung trong toàn khối và áp dụng
các biện pháp bảo hộ mậu dịch bằng hàng rào phi thuế quan (tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm
soát chất lượng…), thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp… Các thoả thuận thương
mại của EU với các đối tác ngoài khối có thể được gắn với các yêu cầu phi thương mại
như bảo vệ môi trường, điều kiện lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thậm
chí cả vấn đề nhân quyền. Ngay cả việc dành ưu đãi GSP cho các nước đang phát triển
cũng được EU gắn với các vấn đề chính trị. Để hoàn thiện chính sách thương mại chung
cho một thị trường thống nhất, EU sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp
dựa trên các nguyên tắc “minh bạch hoá và cạnh tranh công bằng”. Một số chính sách sẽ
được áp dụng nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh

19


thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng
khả năng tiếp cận vốn, trợ giúp tài chính và nguồn lao động cho các doanh nghiệp, gắn
mọi hoạt động với nghĩa vụ bảo vệ môi sinh. Tổng cộng các loại thuế quan và các biện
pháp chống bán phá giá, các rào cản phi thuế quan, mức bảo hộ chung của EU sẽ ở mức
trung bình khoảng 12%. Theo đó, mức bảo hộ trung bình này vẫn còn quá thấp so với
thực tế vì nhiều nguyên nhân như mảng dịch vụ - một bộ phận chính của nền kinh tế EU
và được bảo hộ thương mại lớn - vẫn chưa được tính vào mức bảo hộ chung, các chính
sách bảo hộ thương mại như trợ cấp gián tiếp, tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng kém minh
bạch và khó ước tính hơn. Một khía cạnh của chính sách thương mại EU là khả năng hạn
chế tự do hoá thương mại thông qua các “mức trần thuế quan” theo hiệp định GATT và
WTO bằng biện pháp chống bán phá giá. Có lẽ những rào cản phi thuế quan này là

nguyên nhân khách quan lớn nhất khiến tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường EU có chiều hướng giảm sút. Như vậy, những rào cản chủ yếu đối với xuất
khẩu của Việt Nam vào các nước phát triển nói chung và thị trường EU nói riêng sẽ là
rào cản phi thuế quan. EU đã thực hiện một số biện pháp chống bán phá giá đối với một
số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như tôm, cá da trơn hay giầy dép, gây thiệt hại kinh tế
không nhỏ cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng như đời sổng hàng trăm ngàn người lao
động Việt Nam. Một số tiêu chuẩn quan trọng trong hoạt động xuất khẩu giầy dép sang
EU:
- Đối với tiêu chuẩn chất lượng: Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là
yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giày dép sang thị trường
EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu Á
và Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập
vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có
giấy chứng nhận. Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: Ký mã hiệu trở nên quan
trọng trong việc lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Các sản phẩm có liên quan tới
sức khoẻ của người tiêu dùng phải có kí mã hiệu theo quy định của EU

20


- Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: Thị trường EU yêu cầu hàng hoá có liên
quan đến môi trường phải dán nhãn theo qui định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có
chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (Good agricultural Practice)
và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ các cấp
độ khác nhau về môi trường tốt. Ngoài ra, các công ty phải tuân thủ hệ thống quản lý môi
trường (các tiêu chuẩn ISO14000) và các bộ luật mang tính xã hội về đạo đức như: Tiêu
chuẩn The Social Accountability 8000, hay Hướng dẫn (2002/61/EC) của EU hạn chế sử
dụng các chất và chế phẩm nguy hiểm (thuốc nhuộm azo) dùng trong các sản phẩm da,
gồm có da giầy hoặc Công ước CITES về kinh doanh các loài động vật có nguy cơ tuyệt
chủng (CITES), trong đó bao gồm những quy định (EC 338/97) về các sản phẩm da có

chứa nguyên liệu lấy từ các loài vật có nguy cơ tuyệt chủng.
- Đối với tiêu chuẩn về bao gói và dán nhãn hàng da giầy
+ Dán nhãn hàng da giầy: Quy định này yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, nhập
khẩu hoặc bán da giầy cần phải đảm bảo rằng các sản phẩm của mình được dán nhãn ghi
rõ thành phần nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm, như mũi giầy, lót và đế giầy. Các vật
liệu cần phải được dán nhãn theo một trong bốn cách sau: da, da thuộc, vật liệu dệt hoặc
các nguyên liệu khác.
+ Quy định xuất xứ: Tất cả hàng hoá nhập khẩu vào EU phải được ghi tên nước
xuất xứ (nước sản xuất) theo yêu cầu của hải quan. Việc ghi tên nước xuất xứ trên hàng
hoá phải được thiết kế theo cách thức và ở vị trí do các quy định pháp luật điều chỉnh
hoạt động nhập khẩu hàng hoá đó quy định
+ Đóng gói: Toàn bộ quy trình đóng gói hàng nhập khẩu cần phải tuân thủ các tiêu
chuẩn châu Âu (có thể sử dụng lại, tái chế, có thể phục hồi về năng lượng hoặc có thể
làm thành phân trộn; có khối lượng hoặc trọng lượng tối thiểu để duy trì các mức an toàn,
vệ sinh cần thiết và được người tiêu dùng chấp nhận; chứa hàm lượng kim loại nặng và
chất độc hại khác không vượt quá mức tối thiểu. EU cũng quy định về khối lượng tối đa
đối với hàng đóng gói và đưa ra những quy định cụ thể về đóng gói hàng bằng bao bì gỗ.
EU yêu cầu hàng hoá phải có nhãn mác thể hiện nguồn gốc, cân nặng, kích thước và

21


thành phần cấu tạo của sản phẩm để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Nhãn mác hay nhãn
hiệu phải gắn với bất cứ một mặt hàng nào khi đem ra bán lẻ. Nếu như sản phẩm không
thể gắn hay đóng dấu nhãn mác thì những thông tin về hàng hoá phải được ghi trên phiếu
đóng gói đi kèm sản phẩm hoặc ghi trên một tờ riêng giới thiệu về sản phẩm. Mặc dù đơn
vị mét vẫn được dùng để đo kích thước và khối lượng hàng hoá nhưng việc sử dụng nhãn
mác với đơn vị đo bằng mét và đơn vị đo tiêu chuẩn vẫn được cho phép sử dụng. Trên
hộp đựng giầy, ngoài tiếng của nước sản xuất còn phải ghi thêm bằng tiếng Anh và tiếng
Pháp; Nhãn mác phải được ghi, dán hay in ở vị trí dễ thấy trên giầy, không bị che khuất

bởi các thứ đi kèm.
Nhân tố khoa học và công nghệ: Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá
và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay,
xu hướng cạnh tranh đang chuyển dần từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng,
cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Kỹ thuật
và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước trang bị và tái trang bị toàn
bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp
ổn định và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Do
gặp khó khăn về vốn nên phần lớn doanh nghiệp sản xuất giầy dép của Việt Nam (trừ các
doanh nghiệp thuộc khối FDI) đang phải sử dụng thiết bị công nghệ chưa đồng bộ, còn
lạc hậu tới trên dưới 20 năm nên ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng sản phẩm.
Nhân tố nhân khẩu học: Đây là nhân tố tạo lập quy mô thị trường, được đề cập
trên các khía cạnh: Quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số; cơ cấu dân số; những thay đổi
trong gia đình và di chuyển nơi cư trú; những thay đổi trong phân phối lại thu nhập; trình
độ học vấn; nghề nghiệp của các tầng lớp dân cư. Dân số EU đang có xu hướng già đi.
Nhiều nhà xã hội học châu Âu đều có chung nhận định rằng, xu hướng này sẽ diễn ra
mạnh hơn trong tương lai, đặc biệt với nhóm người có độ tuổi từ 65 trở lên. Tín hiệu lạc
quan ở đây là chính những người cao tuổi ở EU lại có sức chi tiêu rất mạnh đối với các
sản phẩm giầy dép.

22


Tuy nhiên, những người trong độ tuổi này (từ 65 trở lên) là những người nghỉ hưu,
sống bằng trợ cấp, thích đi bộ đường dài, du lịch dài ngày và thường xuyên. Vì thế, sản
phẩm giầy dép cho họ cần được thiết kế đặc biệt với nhiều tính năng lý, hỗ trợ cơ bắp
nhiều hơn như chất liệu phải rất mềm, đế thấp, lót êm, mũi êm, kiểu dáng giản đơn, màu
sắc không loè loẹt và phải có độ bền cao. Thị trường giầy dép của EU cũng phụ thuộc rõ
nét vào giới tính. Các sản phẩm giầy dép đòi hỏi phải vừa lịch lãm sang trọng, vừa đảm
bảo tính thời trang. Người tiêu dùng châu Âu, đặc biệt là phái nữ có 2 khuynh hướng thời

trang trong việc lựa chọn giầy dép.
Một là, sản phẩm đó có mẫu mã đơn giản, giá cả trung bình nhưng phải đặc biệt
trong chất liệu, kiểu dáng, màu sắc, phụ kiện trang trí.
Hai là, sản phẩm đó không đẹp nhưng phải có tính bền cao, thể hiện cá tính mạnh.
Ngoài ra, theo nhận định của các nhà xuất khẩu Việt Nam, khoảng hơn một nửa doanh
thu xuất khẩu giầy dép vào EU của họ tập trung vào nhóm giầy dép nữ có mẫu mã đơn
giản nhưng mang tính thời trang cao. Trong nhiều năm tới, sản phẩm thời trang cho nữ
được nhận định là rất tiềm năng.
Hiện nay, người tiêu dùng nữ luôn chiếm xấp xỉ 50% tại các thị trường giầy dép ở
Anh, Pháp, Đức. Dự báo tỷ lệ lao động nữ sẽ tăng mạnh tại các quốc gia Ý, Tây Ban Nha,
Thuỵ Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Hy Lạp trong nhiều năm tới. Điều đó sẽ góp phần làm
gia tăng giá trị cho thị trường giầy dép thời trang tại các quốc gia này. Đây sẽ là cơ hội
cho những nhà xuất khẩu giầy dép các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
Nhân tố tự nhiên: Là một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng của nhiều ngành kinh
tế như: nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, du lịch, vận tải, chế biến...Trong rất nhiều
trường hợp, chính các điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố rất quan trọng để hình
thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ. Bên cạnh đó, nhân tố tự nhiên còn
tác động làm thay đổi nhu cầu của khách hàng nên các nhà sản xuất kinh doanh phải chú
ý tới yếu tố này để tạo ra những sản phẩm phù hợp.
Theo nhận định của các doanh nghiệp Việt Nam chuyên xuất khẩu giầy dép sang
EU, thời tiết là chất xúc tác quan trọng nhưng “khó dùng” nhất. Vào mùa đông, nên cung

23


cấp nhiều hơn cho thị trường EU sản phẩm giầy ống, trong khi mùa hè người tiêu dùng
lại ưa chuộng với sản phẩm dép lê hoặc có quai hậu. Với thị trường EU, không thể cung
cấp sản phẩm của một mùa mà dùng trong bốn mùa.
Thời vụ cũng là chất xúc tác “khó dùng” không kém. Tính thời vụ của sản phẩm
giầy dép châu Âu gắn chặt với tính thời vụ của thị trường quần áo. Điều này cũng làm

cho các nhà xuất khẩu giầy dép, cũng như các nhà bán lẻ tại châu Âu lao đao. Để hạn chế
tình trạng này, các nhà xuất khẩu Việt Nam thường không sản xuất vượt mức cầu, nhưng
phải đa dạng hoá chủng loại dựa theo các dự báo xu hướng thời trang tại EU để tạo nhiều
cơ hội lựa chọn hơn cho người tiêu dùng vốn thích thay đổi ở thị trường này.
Nhân tố văn hóa - xã hội: Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo lập nên những chuẩn
mực về nhân cách, đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, phong tục tập quán, thị hiếu thói quen,
trình độ nhận thức của người tiêu dùng, nó mang tính bền vững cao và tác động trong
phạm vi rộng nên là cơ sở để cho các nhà quản lý lựa chọn và điều chỉnh các quyết định
kinh doanh. EU được xác định là một thị trường tiềm năng trong việc xuất khẩu giầy dép
của Việt Nam. Nhiều năm qua, lượng giầy dép Việt Nam xuất vào thị trường này đều đạt
trên 70%. Người tiêu dùng EU có đặc điểm là thị hiếu thay đổi nhanh, yêu cầu cao về
chất lượng hàng hóa, vệ sinh môi trường, nhãn mác, bao bì. Ngoài ra người tiêu dùng EU
cũng cần nhiều chủng loại hàng hoá với số lượng lớn và những hàng hoá có vòng đời
ngắn, nếu như trước kia họ thích sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao, giá đắt
vòng đời dài thì nay sở thích tiêu dùng của họ lại là những sản phẩm có chu kì sống ngắn
hơn, giá rẻ hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn.
Bên cạnh đó, việc xem thương hiệu là yếu tố số 1 để lựa chọn sản phẩm giầy dép
sang trọng của nhiều người châu Âu đã phần nào giảm bớt. Người Pháp và người Đức thể
hiện rõ nhất hiện tượng này. Theo Deichmann Group, nhà bán lẻ hàng đầu tại Đức thì sự
thoải mái, phù hợp và chất lượng là 3 yếu tố quan trọng nhất đối với người tiêu dùng
Đức, cho dù sản phẩm đó thuộc thương hiệu nào. Và số lượng người mua sắm theo quan
điểm này chiếm đến 70% thị trường giầy dép ở Đức. Cũng theo dự báo, người tiêu dùng
EU đang bắt đầu thú vị với những sản phẩm có tính thoải mái hơn là các sản phẩm sang
trọng, lịch lãm.
24


Nhân tố quốc tế: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì chiến lược kinh
doanh và cạnh tranh của doanh nghiệp cho dù kinh doanh ở thị trường trong nước hay
trên thị trường nước ngoài cũng đều bị chi phối bởi những vấn đề chung của quan hệ và

môi trường kinh tế - chính trị quốc tế. Khi mối quan hệ giữa các quốc gia trở nên thù
địch, thì sự mâu thuẫn giữa hai Chính phủ có thể hoàn toàn phá hủy các mối quan hệ kinh
tế giữa hai nước. Ngược lại, nếu mối quan hệ chính trị song phương được cải thiện sẽ
thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh.
Quan hệ Việt Nam và Ủy ban châu Âu ngày càng phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu. Nhờ có quan hệ này mà hiện nay giầy dép xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường EU đang được hưởng GSP, không bị đánh thuế chống bán phá giá. Hiện nay Việt
Nam và EU đang đẩy mạnh đàm phán để tiến tới ký kết Hiệp định thương mại tự do
(FTA) trong thời gian tới.. Khi Hiệp định này được ký kết và có hiệu lực, sẽ có khoảng
hơn 90% sản phẩm hàng hóa của Việt Nam (trong đó có giầy dép) xuất khẩu sang EU
được hưởng thuế 0%. Đồng thời nhiều rào cản thuế quan sẽ được dỡ bỏ. Điều này sẽ góp
thêm thuận lợi giúp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng giầy dép nói riêng
của Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới.
1.2.1.2. Những nhân tố vi mô
Các nhân tố vi mô có phạm vi ảnh hưởng hẹp và không tương tự nhau đối với
những doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành và cùng thị trường kinh doanh. Trong
cùng một ngành kinh doanh, các doanh nghiệp cùng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có
thể thay thế lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng.
Theo Michael Poter, trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh” (1985) và “Chiến lược
cạnh tranh” (1980) đã đưa ra mô hình 5 lực lượng cạnh tranh trong ngành kinh doanh bao
gồm (xem Hình 1.1):
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện
nay chưa xuất hiện trên thị trường nhưng có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Khả
năng cạnh tranh của đối thủ này được đánh giá qua việc rào cản ngăn chặn việc gia nhập
vào ngành, có nghĩa là một doanh nghiệp phải tốn kém nhiều hay ít để tham gia vào
25


×