Đánh giá về nguyên tắc chiếu cố trong bộ quốc triều hình
LỜI MỞ ĐẦU
Quốc triều hình luật là một trong những bộ luật cổ nổi tiếng của
Việt Nam, là sản phẩm của một thời kỳ phát triển cực thịnh của
chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam�. Quốc triều hình luật có 13
chương, được ghi chép trong 6 quyển với 722 điều trong đó nguyên tắc chiếu cố
đã trở thành một nguyên tắc nổi bật nhất, thể hiện những nét tiến
bộ của luật pháp triều Lê. Việc tìm hiểu về nguyên tắc chiếu cố
trong Quốc triều hình luật không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
một truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn thấy được những tư
tưởng tiến bộ, những nét độc đáo riêng trong bộ luật này.
NỘI DUNG
I- NGUYÊN TẮC CHIẾU CỐ TRONG BỘ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
Nguyên tắc này được thể hiện ở một số loại người được chiếu cố và
nội dung chiếu cố.
Sự chiếu cố theo địa vị xã hội:
Điều 3 quy định tám hạng người được nghị xét giảm tội (bát nghị)
gồm:
Nghị thân, là họ tôn thất từ hàng đản miếu (họ hàng nhà vua trong
5 thế hệ) trở lên, họ hoàng thái hậu từ hàng phải để tang ty ma
(hạng để tang 3 tháng), họ hoàng thái hậu từ tiểu công (hạng để
tang 5 tháng trở lên).
Nghị cố, là những người cố cựu (chỉ những người cũ, đã theo giúp
vua lâu ngày hoặc những người giúp vua từ triều trước).
Nghị hiền, là những người có đức hạnh lớn.
Nghị năng, là những người có tài năng lớn.
Nghị công, là những người có công huân lớn.
Nghị quý, là những quan viên có chức sự từ tam phẩm trở lên,
những quan viên tản chức (chức quan nhàn tản, như chức học
quan, hàn lâm) có tước từ nhị phẩm trở lên.
Nghị cần, là những người cần cù chăm chỉ.
Nghị tân, là con cháu các triều vua trước.
Nội dung nghị giảm được quy định cụ thể ở các điều 4, 5, 8 và 10.
Theo đó, những người thuộc diện Bát nghi, trừ khi phạm tội thập
ác, còn nếu phạm vào tội tử thì các quan nghị án phải khai rõ tội
trạng và hình phạt nên xử thế nào, làm thành bản tấu dâng lên để
vua quyết định, nếu phạm từ tội lưu trở xuống thì được giảm một
bậc, những người thuộc diện nghị thân được miễn tội đánh roi,
đánh trượng, thích chữ vào mặt (riêng họ hoàng hậu thì phải dùng
tiền để chuộc). Nếu người phạm tội mà được hưởng nhiều bậc nghị
giảm thì chỉ được giảm theo bậc giảm nhiều nhất chứ không được
giảm cả. Bát nghị là chế định của luật pháp Trung Hoa, ở Đại Việt
lần đầu tiên được vận dụng vào bộ Quốc triều hình luật của triều
Lê (nếu theo các văn bản cổ luật hiện còn).
Sự chiếu cố theo tuổi tác và đối với người tàn tật, phụ nữ:
Điều 16 bộ Quốc triều hình luật quy định, những người từ 70 tuổi
trở lên, từ 15 tuổi trở xuống hoặc người bị tàn phế, phạm tội từ tội
lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, trừ khi phạm tội thập ác.
Từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống, hoặc bị ác tật, nếu phạm tội
phản nghịch, giết người đáng tội chết thì cũng phải tâu để vua
quyết định, nếu ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc
bằng tiền, còn ngoài ra thì không bắt tội. Từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi
trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào
xui xiểm thì bắt tội kẻ đó, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào chứa
chấp tang vật ấy phải bồi thường. Theo Điều 17, người già cả trước
đây phạm tội đến khi già cả mới bị phát giác thì được xử theo luật
già cả. Người tàn tật mà phạm tội từ trước khi tàn tật, đến khi tàn
tật mới bị phát giác thì được xử theo luật tàn tật. Trẻ nhỏ cũng vậy,
khi còn bé phạm tội đến khi lớn lên mới bị phát giác thì được xử
theo luật trẻ nhỏ.�
Trong lượng hình hoặc thi hành hình phạt đối với nữ phạm nhân,
nhà làm luật đã giành cho một số ưu đãi. Ví dụ, theo điều 1, khi
phạm tội đồ hoặc lưu, nam phạm nhân bao giờ cũng bị đánh thêm
trượng, còn nữ phạm nhân chỉ phải chịu tội roi. Theo Điều 680, nữ
phạm nhân tội tử, tội xuy mà đang có thai thì phải đủ 100 ngày
sau khi sinh con mới bị đem ra hành hình hoặc đánh roi.
Như vậy, nếu như việc chiếu cố về địa vị xã hội thể hiện bản chất
giai cấp của Bộ luật hình sự thì chiếu cố đối với người già, phụ nữ,
trẻ em, người tàn tật biểu hiện tính nhân đạo của nhà làm luật.
II-ĐÁNH GIÁ NGUYÊN TẮC CHIẾU CỐ TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH
LUẬT
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) được quy định
trong pháp luật hình sự thời kì nhà Lê khá đa dạng phản ánh chủ
yếu đặc điểm về nhân thân người phạm tội, những biểu hiện của
tội phạm được thực hiện. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự liên quan đến nhân thân người phạm tội gồm các tình tiết như
người phạm tội thuộc đối tượng “bát nghị”; người hưởng lệ ấm của
ông bà; người phạm tội là quan chức hoặc người có quan hệ thân
thích với quan chức; người phạm tội có quan hệ gia đình với người
bị hại; người phạm tội là quan thiên văn, thợ thủ công, nhạc sĩ;
người phạm tội là con cháu chịu thay tội cho ông bà, cha mẹ�;
người phạm tội tự thú; người phạm tội lập công, chuộc tội; người
phạm tội là người già, trẻ em, phụ nữ; người phạm tội phải ở nhà
nuôi dưỡng cha mẹ già. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
liên quan đến tội phạm được thực hiện gồm các tình tiết như: Hậu
quả của tội phạm chưa xảy ra; chưa gây thiệt hại lớn; thiệt hại do
tội phạm gây ra đã được khắc phục; phạm tội do thực hiện hành vi
giùm người khác; phạm tội với vai trò là tòng phạm; phạm tội do
vượt quá yêu cầu bắt giữ người phạm pháp; phạm tội do lầm lẫn,
vô ý; người phạm tội có mức độ lỗi nhẹ; phạm tội do bị kích động;
phạm tội trong trường hợp bị tra tấn, uy hiếp hoặc bị oan sai, khổ
thiệt; phạm tội trong các trường hợp khẩn cấp; phạm tội trong khi
thi hành công vụ; vì bảo vệ gia đình. Như vậy, khi quy định về tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, pháp luật hình sự thời Lê chú ý
đặc biệt đến nhân thân người phạm tội, đến các dấu hiệu chủ quan
và khách quan của tội phạm được thực hiện. Các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định chủ yếu ở phần Bản điều
của Bộ hình luật. Do vậy, việc áp dụng tình tiết nào là giảm nhẹ tội
tùy thuộc vào từng loại tội phạm. Xét về cơ sở giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, có thể khái quát theo các nhóm tình tiết sau:
Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ tội liên quan đến địa vị xã hội
hoặc vị trí trong gia đình hoặc tính chất đặc biệt về nghề nghiệp
của người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ tội được quy định trong
pháp luật hình sự nhà Lê trên cơ sở quan niệm nho giáo về những
quan hệ rường cột trong xã hội cần được pháp luật bảo vệ. Các
mối quan hệ vua - tôi, phu - phụ, phụ - tử gọi là “tam cương” được
thể chế hóa trong pháp luật và được bảo vệ bằng pháp luật�. Quy
định về những tình tiết giảm tội trong pháp luật hình sự thời Lê cũng bị chi phối bởi
quan niệm đó, thể hiện ở quy định giảm tội cho những người thuộc
bát nghị, cho những người có vị trí trong xã hội và gia đình. Pháp
luật thời Lê quy định tám loại người thuộc bát nghị được giảm tội
nếu có hành vi phạm tội Qua chế định “bát nghị” cho thấy việc
giảm tội được đặt ra cho những người có vị trí cao của xã hội, có
quyền lợi gắn bó với nhà vua, với chế độ đương thời thể hiện rất rõ
nét tính giai cấp trong quan niệm về các tình tiết giảm nhẹ tội theo
pháp luật hình sự thời Lê trên cơ sở quan niệm vua - tôi của nho
giáo. Theo Điều 4 Quốc triều hình luật và Điều 4 Hoàng Việt luật lệ
thì những người thuộc bát nghị khi phạm tội từ lưu trở xuống thì
được giảm một bậc về hình phạt. Pháp luật hình sự thời Lê đã quy
định về giảm tội cho những người có vị trí nhất định trong gia đình
trên cơ sở quan niệm nho giáo về các mối quan hệ vợ chồng, thê thiếp, cha - con�. Điều 482 Quốc triều hình luật quy định: “Chồng đánh vợ bị
thương thì xử nhẹ hơn tội đánh bị thương người thường ba bậc; nếu đánh chết thì xử
nhẹ hơn tội đánh giết người ba bậc. Cố ý giết vợ thì được giảm một
bậc; nếu có tội mà chồng đánh không may đến chết thì sẽ xử
khác. Đánh vợ lẽ bị thương, què trở lên thì xử nhẹ hơn tội đánh vợ
hai bậc; nếu vợ cả đánh bị thương, đánh chết vợ lẽ xử tội như
chồng đánh vợ... Nếu ngộ sát thì không phải tội”. Ngoài ra, quan
hệ gia đình giữa người phạm tội với người bị hại cũng được pháp
luật hình sự thời Lê xem xét và đánh giá có giá trị giảm nhẹ trong
một số trường hợp. Ví dụ: Điều 439 Quốc triều hình luật quy định
cùng ở chung một nhà mà ăn trộm của nhau thì xử nhẹ hơn tội ăn
trộm của người ngoài một bậc. Như vậy, nhìn chung nhà làm luật
phong kiến cũng lấy một số khía cạnh nhân thân người phạm tội
làm tình tiết giảm nhẹ TNHS. Đó là những tình tiết nhân thân thuộc
bát nghị, quan hệ gia đình trên cơ sở quan niệm nho giáo về trật
tự xã hội phong kiến. Theo đó, các tình tiết thuộc nhân thân phản
ánh vị trí cao của người phạm tội trong xã hội, gia đình theo trật tự
xã hội phong kiến là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Đây là điểm khác
biệt với luật hình sự hiện đại. Luật hình sự hiện đại, khi quy định
nhân thân người phạm tội với ý nghĩa là căn cứ quyết định hình
phạt, có nội dung hoàn toàn khác so với chế định “bát nghị” trong
pháp luật thời Lê. Nếu luật hiện đại xem xét ở khía cạnh nhân thân
người phạm tội là nhấn mạnh khả năng cải hóa họ trở thành người
lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật thì pháp luật hình sự thời
Lê nhấn mạnh sự gắn bó của những người có quan hệ mật thiết với
quyền lợi của giai cấp thống trị, với tôn ti, trật tự gia đình trong xã
hội phong kiến như là cơ sở giảm nhẹ tội. Ngoài ra, pháp luật hình
sự thời Lê, xuất phát từ yêu cầu phát triển của xã hội đương thời,
còn quy định giảm tội cho người làm một số nghề nghiệp đặc biệt
trong xã hội như quan thiên văn, thợ thủ công, nhạc sĩ. Đây là ưu
đãi của pháp luật hình sự thời Lê đối với người có tay nghề rất cần
cho xã hội hoặc lao động có tính chất đặc biệt.
Thứ hai, các tình tiết liên quan đến tội phạm được thực hiện cũng
được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp
luật hình sự nhà Lê. Bên cạnh tư tưởng nho giáo, pháp luật hình sự
nhà Lê chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị, theo đó trừng trị và
thưởng phạt luôn đi liền nhau và phải phân minh�. Chính vì vậy, pháp
luật hình sự thời Lê ở mức độ nhất định đã thể hiện yếu tố “công bằng” về
TNHS trên cơ sở thừa nhận sự tương xứng về tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm được thực hiện với mức độ TNHS. Tuy không
chỉ rõ thước đo mà nhà làm luật thời Lê sử dụng để quy định hình
phạt đối với các tội phạm cụ thể nhưng qua nghiên cứu về các tình
tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự thời Lê, nhận thấy việc
tăng nặng hoặc giảm nhẹ tội được nhà làm luật suy xét trên cơ sở
tính tới sự tương xứng giữa mức độ nguy hiểm cho trật tự xã hội
của hành vi phạm tội và mức hình phạt cần áp dụng. Đây chính là
những biểu hiện công bằng về TNHS trong pháp luật hình sự nhà
Lê. Theo đó những tình tiết thuộc về những biểu hiện khách quan
hoặc chủ quan của tội phạm phản ánh mức độ thực hiện tội phạm
còn hạn chế, hậu quả tội phạm chưa xảy ra hoặc thiệt hại không
lớn, phạm tội do lầm lỡ, do bị kích động, động cơ phạm tội vì thi
hành công vụ... được nhà làm luật cân nhắc và quy định là tình tiết
giảm nhẹ tội.
Thứ ba, pháp luật hình sự thời Lê đã quy định một số tình tiết giảm
nhẹ tội do đạo lí và khoan hồng dưới ảnh hưởng tư tưởng nho giáo.
Theo tinh thần đó, pháp luật hình sự nhà Lê cũng có một số quy
định về giảm tội vì lí do nhân đạo, khoan hồng. Pháp luật hình sự
thời Lê quy định tự thú là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt và là cơ sở để
miễn tội cho người phạm tội (Điều 18). Pháp luật hình sự Việt Nam
cũng có một thái độ khoan hồng đối với những người phạm tội là
trẻ em, người già, người bị bệnh tật nặng như phế tật, ác tật và coi
các tình trạng này như một trong những cơ sở giảm nhẹ tội hoặc
miễn tội. Xuất phát từ đạo đức của người phương Đông về trách
nhiệm hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, pháp luật
thời Lê cho phép con cháu chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha
mẹ. Việc chịu tội thay đó được coi là một tình tiết giảm tội (Điều 38
Quốc triều hình luật).
Tuy vậy, nguyên tắc này vẫn còn chứa đựng một số mặt hạn chế
như: Việc con cháu chịu đòn thay cho ông bà, cha mẹ làm cho việc
ngoài kẻ phạm tội thì người vô tội cũng phải chịu hình phạt, trái
với nguyên tắc cơ bản trong xét xử thông thường là xử lý đúng
người đúng tội. Đồng thời, một số điều luật trong nguyên tắc chiếu
cố còn thể hiện rất chung chung, chưa rõ ràng.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, nguyên tắc chiếu cố cũng là một trong những nguyên tắc
căn bản trong Quốc triều hình luật. Đó chính là những tư tưởng
nhân đạo sâu sắc, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chứa đựng
những tư tưởng tiến bộ thời nhà Lê, dù ít nhiều còn hạn chế nhưng
cũng mang đến nhiều yếu tố tích cực, nhận được sự ủng hộ của
nhân dân.