Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Câu hỏi Chính trị học Có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.4 KB, 32 trang )

Câu 5:

Đồng chí hãy vận
dụng mối quan hệ giữa
chính trị với KT và thực tiễn
đổi mới của cách mạng Việt
Nam để làm sáng tỏ bài học
sau: “kết hợp chặt chẽ ngay
từ đầu đổi mời KT với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới
chính trị” (VK ĐH VIII,
NXB CTQG Trang 71)
Bài làm
Sau 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới toàn
diện (1986-1996) và 5 năm
thực hiện nghị quyết ĐH
Đảng lần thứ VII. Đất nước
ta đã vượt qua 1 giai đoạn
thử thách, gay go, khủng
hoảng trầm trọng về KT-XÃ
HỘI. Trong những hoàn
cảnh hết sức khó khăn phức
tạp đó, nhân dân ta không
những đứng vững, kiên trì
tiến lên CNXH mà còn vươn
lên đạt thắng lợi nổi bật trên
nhiều mặt. Để tổng kết
chặng đường đổi mới 10


năm qua, trong ĐH VIII đã
đánh giá và rút ra một số bài
học chủ yếu. Một trong
những bài học đó là: “kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mời KT với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị”. Để
nắm vững mối quan hệ biện
chứng giữa CT với KT theo
quan điểm CN Mác-Lênin
và hiểu rõ sự vận dụng đúng
đắn mối quan hệ giữa chính
trị với KT của đảng ta trong
công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay. Góp phần đấu
Trung thực phê phán những
quan điểm tư tưởng và hành
động lệch lạc như: tuyệt đối
hoá sức mạnh chính trị, hoặc
khuynh hướng tuyệt đối hoá
tự do KT, buông lỏng hoặc
xem nhẹ sự lãnh đạo của
đảng và sự quản lý của nhà
nước đối với quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế.
Chúng ta cần làm rõ mối
quan hệ giữa CT với KT.
Chính trị là những

công việc nhà nườc hay xã

hội. Phạm vi hoạt động gắn
với những quan hệ giữa các
giai cấp, giữa các dân tộc và
các nhóm xã hội khác nhau
mà hạt nhân của nó là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền
lực nhà nước.
Kinh tế theo nghĩa gốc thì
Economi có nghĩa là tính
hiệu quả, tiết kiệm. Theo
nghĩa rộng thì KT là chỉ hệ
thống các quan hệ kinh tế,
QHSX của một hình thái
KT-XÃ HỘI, là tổng thể nền
kinh tế quốc dân của một
quốc gia với các ngành, các
lĩnh vực kinh tế kỹ thuật cụ
thể.
Theo CN MácLênin thì KT bao giờ cũng
quyết định chính trị và điều
này được khẳng định hoàn
toàn trong lý luận cũng như
trong thực tiễn.
+ Về mặt lý luận: theo CN
Mác-Lênin thì cơ sở hạ tầng
(KT) quy định cấu trúc và
tính chất của KTTT (chính
trị) và tồn tại xã hội quyết

định ý thức xã hội.
+ Về mặt thực tiễn: ở hình
thái kinh tế xã hội chiếm
hữu nô lệ thì QHSX của chế
độ chiếm hữu nô lệ thế chế
chính trị thuộc về giai cấp
chủ nô, ở hình thái kinh tế
xã hội TBCN thì quan hệ
sản xuất của chế độ tư bản
chủ nghĩa thể chế chính trị
thuộc về GC TS và ở CNXH
thì thể chế chính trị thuộc về
GC Công nhân.
+ Có thể khẳng định rằng
kinh tế luôn quyết định CT
vì các lý do sau đây:

KT luôn là nền
tảng của mọi chế độ xã hội,
nếu chính trị thoát ly khỏi
KT thì chính trị sẽ siêu hình

Kinh tế quyết định
đến tính chất và cấu trúc của
hệ thống chính trị (TBCNhệ thống chính trị gồm nhiều
mâu thuẫn, XHCN-hệ thống
chính trị thống nhất dưới sự
lãnh đạo của đảngCS)

Kinh tế quy định

tính chất và kiểu quan hệ
giữa các lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội (đạo

đức, pháp luật, tình cảm…)
Trong khi nhấn
mạnh vai trò của cơ sở hạ
tầng (KT) đối với KTTT
(CT), quan điểm của CN
Mác-Lênin khẳng định rằng
chính trị mặc dù bị kinh tế
quyết định nhưng CT lại có
tính độc lập tương đối và có
sự tác động trở lại KT rất
mạnh mẽ.
+ Về mặt lý luận: theo CN
Mác-Lênin thì kiến trúc
thượng tầng (CT) cũng có sự
tác động trở lại đối với cơ sở
hạ tầng (KT) và ý thức xã
hội cũng có sự tác động trở
lại đối với tồn tại xã hội.
+Về mặt thực tiễn: do nhận
thức được quy luật KT
khách quan, KTTT (CT) có
vai tró định hướng cho quy
luật KT, mang lại phương án
tối ưu cho phát triển KT và
phục vụ vì lợi ích của GC.
Với ý nghĩa đó, chính trị ra

đời tồn tại và phát triển trên
cơ sở nó có vai trò to lớn tác
động đến kinh tế theo những
quy luật KT khách quan.
+ Biểu hiện của CT đối với
KT:
 Chính trị định
hường cho kinh tế phát
triển nhưng phải dựa trên
quy luật khách quan,
nhận thức được quy luật
khách quan. Tuy nhiên
muốn định hướng thì chủ
thể chính trị phải có kiến
thức, tri thức, trình độ
nhất định để nhận thức
đúng quy luật, để định
hướng đạt mục tiêu KT
phục vụ vho giai cấp.
 Chính trị có nhiệm
vụ lựa chọn mô hình
chiến lược phát triển KT,
mô hình KT đúng, chính
xác thì lợi ích của GC
được thực hiện tốt.
 Chính trị tham gia
vào việc điều tiết, lựa
chọn tốc độ phát triển
kinh tế. KT phát triển
phải tương ứng với phát

triển xã hội nếu không thì
có thể gây ra bất ổn về
chính trị. Vì vậy, nhà
nước phải điều chỉnh cho

cân đối tô1c độ phát triển
giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền KT.
 Vai trò tác động
của chính trị tác động đến
các chủ thể KT: một
thành phần KT được coi
là một chủ thể KT, mỗi
chủ thể KT có vai trò, địa
vị, lợi ích riêng. Vì vậy,
từ cơ sở KTTT (CT) phải
có sự kiểm soát, tạo điều
kiện tác động cho các chủ
thể KT phát triển để cho
họ thực hiện được lợi ích
riêng của họ và phải tạo
điều kiện cho họ góp
phần vào việc thực hiện
lợi ích chung. Định
hướng XHCN là mục tiêu
chung, không chỉ riêng có
thành phần KT XHCN
mà phải huy động tất cả
các thành phần kinh tế.
Song cũng cần phải xác

định rằng KT XHCN
không còn thì định hướng
XHCN cũng không còn
và hệ thống chính trị
XHCN cũng không còn.
 Vai trò của cơ cấu
tổ chức và phương thức tổ
chức, quản lý con ngườixã hội đối với KT. Nói
đến KT, xã hội là nói đến
con người đồng thời nói
đến xã hội là gián tiếp nói
về KT. Vì vậy, để quản lý
xã hội, quản lý con người
của nước ta hiện nay, các
doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp tư
nhân phải có tổ chức
Đảng, các tổ chức quần
chúng trong các doanh
nghiệp để phát huy được
vai trò của nhân tố con
người.
+ Sự tác động của chính
trị đối với KT theo 2
hướng:
 Chính trị tác động
cùng chiều đúng mức với
KT thì KT phát triển nhanh.
Nghĩa là CT nhận thức đúng
được quy luật khách quan và

thông qua quy luật đó tác
động tạo điều kiện cho KT
phát triển và như vậy CT
thực sự là động lực phát


triển KT.
 Chính trị tác động
ngược chiều với KT thì nó là
lực cản quá trình phát triển
KT-xã hội. Nghĩa là chính
trị không nhận thức đúng
hoặc nhận thức không đầy
đủ quy luật khách quan. Ví
vậy, các chủ trương chính
sách của đảng và nhà nước
đề ra không đúng quy luật
khách quan thì nó là lực cản
của quá trình phát triển KT.
Ví dụ: Sai lầm chủ quan
nóng vội cải tạo XHCN
(xoá các thành phần
KT), sai lầm trong công
nghiệp hoá chỉ chú trọng
phát triển công nghiệp
nặng không quan tâm
phát triển nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ.
Sai lầm duy trì quá lâu
cơ chế KT tập trung

quan liêu bao cấp
 Ngoài ra, trong
nhiều trường hợp dù đã có
quyết sách chính trị đúng
đắn, phản ánh đúng hiện
thực khách quan, quy luật
khách quan của KT nhưng
trình độ năng lực tổ chức chỉ
đạo thực tiễn, phương thức
hoạt động của hệ thống
chính trị không vươn tới
ngang tầm với nhiệm vụ
chính trị đề ra, thì chính trị
vẫn cản trở hoặc để cho KT
phát triển chệch hướng, trái
với đường lối chính trị đã
chọn. Ví thế, chính trị cũng
phải tự đổi mới, phải có cơ
cấu tổ chức phương thức
hoạt động, thiết chế vận
hành phù hợp với cơ sở KT.
+ Nghiên cứu về mối
quan hệ giữa KT và CT
sẽ tránh được 2 khuynh
hướng đó là: Tuyệt đối
hoá CT nhất là trong
điệu kiện KT hàng hóa
nhiều thành phần thì sẽ
dẫn tới phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng, hoạt

động quản lý của nhà
nước. Tuyệt đối hoá vai
trò của chính trị sẽ dẫn
tới chủ nghĩa duy tâm
duy ý chí.
Hai luận điểm của

Lênin về mối quan hệ giữa
CT với KT:
+ “Chính trị là biểu hiện tậo
trung của KT”: Lênin khẳng
định chính trị phả ánh KT
nhưng nó không phản ánh
giản đơn; KT như thế nào thì
CT phả ánh như thế đó.
Song nó không như tấm
gương soi. Sự hình thành,
tồn tại vàphát triển của chính
trị là trên cơ sở những đòi
hỏi khách quan của sự phát
triển KT.
o
Chính trị phả ánh
tập trung KT có nghĩa là:

Nó phải phản ánh
được lợi ích KT của GC và
phản ánh được bản chất của
một chế độ kinh tế, nó phản
ánh cái cốt lõi (cơ bản), bền

vững trong KT.

Nó phản ánh một
cách khái quát tất cả các
khuynh hướng KT nhưng nó
phải làm nổi bật khuynh
hướng chủ đạo.

Nó phản ánh được
ý chí sức mạnh, sự đoàn kết
của một GC để thực hiện
được lợi ích KT của chính
GC mình.
o
Chính trị biểu hiện
tập trung của KT nên chính
trị phải mang trong mình
tính quy định KT khách
quan, nghĩa là chính trị phản
ánh những yêu cầu, điều
kiện của KT khách quan, sự
phản ánh đó thể hiện trong
cấu trúc hệ thóng chính trị,
trong phương thúc hoạt động
của các thành tố hệ thống
chính trị, trong các quyết
sách chính trị.
o
Để chính trị phản
ánh tập trung KT cần phải:


Nhận thức một
cách khoa học thực trạng KT
và những quy luật KT

Lựa chọn hình thức
tổ chức, chính sách phù hợp
bảo đảm phát huy tối ưu tác
dụng của các quy luật KT

Xây dựng tri thức
khoa học để giác ngộ quần
chúng hành động phù hợp
quy luật
Với luận điểm trên Đảng ta
rút ra 2 vấn đề sau:


Không nên hiểu
một cách đơn giản là KT
nhiều thành phần có đối lập,
đối khánh thì chính trị với tư
cách là sự phản ánh của KT
là chính trị đa nguyên, đa
đảng

Trong KT có đối
kháng nhưng nếu có nột
thành phần KT chủ đạo đủ
mạnh chi phối các thành

phân KT khác thì sự đối
kháng đối lập về KT-xã hội
sẽ không trở thành sự đối
kháng ở quy mô GC.
+ “Chính trị không thể
không giữ địa vị ưu tiên so
với KT”:
Khẳng định ưu tiên của
chính trị so với KT là hợp lý
vì ưu tiên cho chính trị là ưu
tiên cho vấn đề cơ bản nhất,
quyết định đến sự phát triển
bản thân KT. “lúc này chính
trị ngay trong lĩnh vực KT,
CT lớn nhất lúc này là xây
dựng nhà nước về KT”
(Lênin).
Về mặt thực tiễn GC cách
mạng phải đấu tranh giành
được chính quyền (quyền
lực CT) rồi mới nói đến việc
xây dựng phát triển kinh tế –
xã hội vì lợi ích của nhân
dân lao động được.
Ưu tiên cho CT với nghĩa
chính trị là kết quả đạt được
tức là phát triển kinh tế phải
tính đến việc bảo vệ củng cố
và phát triển thành quả chính
trị đạt được (củng cố và phát

triển hệ thống chính trị).
Ưu tiên chính trị so với KT
thì ván đề đặt ra là:

Khi giải quyết các
vấn đề KT thì phải góp phần
duy trì củng cố quyền lực
chính trị. Mặt khác, trong
KT dù cải tổ hay đổi mới
như thế nào cũng phải luôn
giữ vững hệ tư tưởng chính
trị vì hệ tư tưởng CT quy
định phương hướng mục
tiêu, bản chất của chế độ xã
hội. Lênin viết: “không có
một lập trường chính trị
đúng thì một GC nhất định
nào đó không thể nàogiữ
vững được sự thống trị của
mình và do đó không thể

hoàn thành được nhiệm vụ
của mình trong sản xuất”.
(lênin toàn tập, Tập 43
Trang 300)

Trong điều kiện
cách mạng XHCN, sự ưu
tiên của CT so với KT là tất
yếu để xây dựng CNXH.

Giành, giữ và sử dụng quyền
lực CT và xây dựng nền KT
mới.

Phải có quan đieểm
chính trị khi giải quyết
cácvấn đề KT.

Sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của nhà
nước đối với phát triển KT
là khách quan.

Chính trị phải được
ưu tiên và giữ hàng đầu so
với KT vì chính trị có khả
năng can thiệp 1 cách tự giác
vào quá trình kinh tế khách
quan.
Từ luận điểm trên đảng ta
rút ra 03 bài học cơ bản sau:

CT có ổn định thì
KT mới phát triển.

Mọi chủ trương
phát triển KT của đảng và
nhà nước phải góp phần
bảo vệ thành quả cách
mạng đã đạt được như: độc

lập, thống nhất, những
thành quả đổi mới của nước
ta…

Phải có quan điểm
chính trị đúng khi xử lý các
vấn đề KT như: vấn đề dân
tộc và GC, quan hệ làm ăn
với nước ngoài phải vì lợi
ích của dân tộc…
Mối quan hệ giữa
CT và KT trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay:
+ Trước ĐH Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986),
trong công cuộc cách mạng
XHCN Đảng ta đã chủ
quan, nóng vội mắc phải
nhiều sai lầm về một số vấn
đề có tính chiến lược như
mô hìnhKT, công nghiệp
hoá, hợp tác hoá, cải tạo
XHCN… chúng ta xác định
sai lầm bước đi, không tập
trung phát triển nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ
mà thiên về công nghiệp
nặng, ham làm nhanh, làm



nhiều, không tận dụng và
phát triển lực lượng sản
xuất đã có, cải tạo ồ ạt,
nhanh chóng xoá bỏ các
thành phần KT tư nhân để
xác lập một cách phổ biến
hính thức sở hữu tập thể và
toàn dân đối với TLSX
ngay cả khi LLSX còn thấp
kém… duy trì quá lâu mô
hình KT tập trung quan
liêu bao cấp đã đưa đến sự
trì trệ và khủng hoảng về
KT-XÃ HỘI.
+ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã đánh giáthực
trạng tình hình đất nước,
thẳn thắng chỉ ra những
sai lầm, khuyết điểm,
những khó khănvề KT và
đời sống nhân dân, Đảng
đã đề ra đường lối đổi mới
đúng đắn, phản ánh đúng
quy luật vận động khách
quan của lịch sử và thực
trang tình hình KT của
nước ta, nhờ đó mà tình
hình KT dần ổn định và
phát triển. Trong quá trình
đối mới, đảng ta đã khẳng

định:
1) Giải quyêt tương
quan giữa đổi mới KT và
đổi mới chính trị:
Trong đổi mới, Đảng ta xác
định lấy đổi mới KT làm
trọng tâm và tuỳ theo yêu
cầu đổi mới KT mà từng
bước đổi mới về chính
trị.chủ trương đổi mới kinh
tế là chuyển từ KT tập
trung quan liêu, bao cấp,
căn bản dựa trên sở hữu
toàn dân và tập thể, sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN, dước
sự lãnh đạo của Đảng;
chuyển từ một nền kinh tế
cơ bản là khép kín, tự cung
tự cấp sang một nền KT
mở, kết hợp tăng trưởng
KT với công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái
từng bước đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước theo định
hướng XHCN.
Chúng ta xây dựng nền KT


hàng hóa nhiều thành
phần định hướng XHCN là
một bước đột phá về đổi
mới cơ cấu sở hữu từ một
thành phần KT, một chế độ
sở hữu sang nhiều thành
phần KT, đa thành phần sở
hữu. Đồng thời, đổi mới
hợp lý cơ cấu quản lý, tạo
cơ chế quản lý đúng sẽ là
động lực phát triển, đó là
chuyển từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước là vận
động đúng quy luật khách
quan.
Về đổi mới chính trị, chúnh
ta đổi mới hệ thống chính
trị trên cơ sở đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt
động của hệ thống CT
nhằm tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực quản lý của nhà nước,
phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, có nghĩa là
tăng cường sức mạnh và
hiệu lực của chuyên chính

vô sản, làm cho các tổ chức
trong chính trị hoạt động
năng động và có hiệu quả.
Đổi mới các nhân tố trong
hệ thống chính trị là đổi
mới: Đảng, nhà nước và
các tổ chức chính trị-xã hội
trong hệ thống chính trị
của nước ta. Đổi mới Đảng
là nâng cao năng lực và
sức chiến đấu của Đảng để
đáp ứng được vai trò lãnh
đạo của Đảng trong công
cuộc đổi mới. Đổi mới nhà
nước là nâng cao vai trò
điều hành quản lý của nhà
nước, xây dựng một nhà
nước pháp quyền XHCN,
là nhà nước quản ly, điều
hành xã hội bằng pháp
luật, là nhà nước thật sự
dân chủ, nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Ngoài ra, các đoàn thể
quần chúng nhân dân phải
thực sự là cầu nối giữa
Đảng-nhà nước-nhân dân.
Đồng thời giải quyết tốt các
vấn đề xã hội, giải quyết về
quan hệ giai cấp sao cho

phù hợp.

2) Định
hướng
XHCN nhưng vời nền KT
hàng hóa nhiều thành
phần:
nhất quán phát
triển KT hàng hóa nhiều
thành phần là phù hợp quy
luật vận động khách quan
của lịch sử. CNXH là hình
thái KT-xã hội cao của lịch
sử phát triển của xã hội
loài người, và có khả năng
dung nạp nền KT hàng hóa
nhiều thành phần.
Nền KT hàng hóa
nhiều thành phần định
hướng XHCN quy định cấu
trúc, tính chất phương thức
hoạt động của hệ thống
chính trị XHCN và các
quyết sách chính trị do hệ
thống chính trị đưa ra.
Ngược lại, hệ thống chính
trị và các quyết sách chính
trị phải phản ánh yêu cầu
thực trạng và quy luật
khách quan của quốc tế,

định hướng cho sự phát
triển KT hàng hóa nhiều
thành phần
Đảng
ta
chủ
trương nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần,
định hướng XHCN, có
nghĩa là mục tiêu CNXH
phải giữ vững. CNXH phải
tiếp cận nền KThh nhiều
thành phần mới phát huy
được tiềm năng của xã hội,
tính năng động sáng tạo
của các thành phần KT và
phù hợp với quy luật phát
triển chung.
3) Kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần luôn đặt
dười sự lãnh đạo của
Đảng:
Khi chuyển sang nền KT
theo cơ chế thị trường với
nhiều hành phần KT thì có
nhiều người cho rằng nền
KT nhiều thành phần tất
yếu phải có đa thành phần
trong chính trị. Điều này
đã được Đảng ta lý giải là

phát trioển nền KT hàng
hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN thì
trong nền KT ấy, KT quốc
doanh phải được sắp xếp,

chấn chỉnh và hoạt động có
hiệu quả để nắm được
những ngàng, những lĩnh
vực then chốt và qua đó giữ
vi trò chủ đạo trong nền
KT, chi phối các thành
phần KT khác. Các thành
phần kinh tế khác chỉ là
phương tiện để thực hiện
mục tiêu CNXH.
Đi vào đổi mới tư duy KT,
Đảng ta cho rằng mục tiêu
căn bản cải tạo XHCN là
tìm ra những hình thức KT
(bao gồm cả chế độ sở hữu)
phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của
LLSX; nhờ vậy, cho phép
giải phóng được tối đa mọi
năng lực sản xuất, có được
một nền KT phát triển năng
động và hiệu quả cao,
mang lại hạnh phúc ấm no
cho mọi tầng lớp nhân

dân… và đó chính là nhiệm
vụ chủ yếu của cả thời kỳ
quá đo. Song, phát triển
nền KT hàng hóa nhiều
thành phần định hướng
XHCN phải có sự lãnh đạo
của Đảng, nếu thoát ly sự
lãnh đạo của Đảng thì tất
yếu không còn CNXH. Do
vậy, Đảng ta không chấp
nhận đa nguyên chính trị,
đa Đảng đối lập là nguyên
tắc cao nhất của thời kỳ đổi
mới ở nước ta hiện nay.
Sự khẳng định đó không
phải là ý muốn chủ quan
mà là phù hợp quy luật
khách quan, của lịch sử cn
Việt Nam và phù hợp con
đường và mục tiêu CNXH
mà Đảng và Bác Hồ đã lựa
chọn. Thực tế cho thấy
không có một GC nào tự
chia sẻ quyền lực cho GC
khác, kể cả ở các nước TB
cũng vậy. Song, để tự
khẳng định chính mình,
Đảng phải tự đổi mới vươn
lên ngang tầm nhiệm vụ.
NQ TW6 (lần 2) khoá VIII

chủ trương phê bình, tự
phê bình, chỉnh đốn Đảng
là nhằm làm trong sạch
phẩm chất, đạo đức, lối
sống của cán bộ, Đảng viên
để nâng cao năng lực và


sức chiến đấu của Đảng.
Đây là yêu cầu bắt buộc
của Đảng trong tình hình
mới hiện nay.
4) Kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần nhưng
luôn luôn bảo đảm sự lãnh
đạo, quản lý của nhà nước:
Nền KT thị trường tồn tại
qua nhiều chế độ xã hội
khác nhau, kể cả thời kỳ
quá độ lên CNXH, nó có
tính chất phổ biến nhưng
cũng có tính chất đặc thù.
Nền kinh tế thị trường dưới
chế độ tư bản tất yếu mang
phương thức sản xuất
TBCN và định hướng là
củng cố và phát triển chế
độ TB; con KT thị trường
định hướng XHCN thì kinh
tế quốc doanh giữ vai trò

chủ đạo, chi phối toàn bộ
nền KT, các thành phần
KT khác với tính cách là
những phương tiện để thực
hiện mục tiêu CNXH.
Song, để phân biệt giữa
CNTB và CNXH thì cái
chính là quyền lực chính
trị, nghĩa là nhà nước đó là
của ai thì nó sẽ hướng nền
kinh tế đó vận động theo
mục tiêu nhất định.
Để giữ vững định hướng
XHCN trong điều kiện nền
kinh tế nhiều thành phần
phải có nhà nước mạnh
mới có thể làm hạn chế
những khuyết tật vốn có
của nền kinh tế thị trường.
Đây là một nguyên tắc, lịch
sử cho thấy nhà nước quản
lý điều hành làm cho nền
KT-xã hội ổn định, nếu
không thì nó sẽ trỏ thành
một nền KT-xã hội vô tổ
chức, vô kỷ luật. Vì vậy, để
giữ vững ổn định xã hội và
nền kinh tế luôn luôn phát
triển nhà nước phải tạo
điều kiện thuận lợi cho các

thành phần KT thông qua
chính sách, cong cụ KT ở
phạm vi vĩ mô nền KT
5) Cần phải đổi mới
hệ thống chính trị cho phù
hợp đổi mới KT:
Chủ thể chính trị của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội ở nước ta là một hệ
thống chính trị XHCN do
Đảng CS lãnh đạo, còn chủ
thể KT là chủ thể của các
hình thức sở hữu khác
nhau. Các chủ thể Kt đều
có một mục tiêu chung là
yêu nước nhưng về lợi ích
KT-xã hội thì khác nhau và
hoàn toàn không đồng
nhất. Để chủ thể chính trị
phản ánh tập trung Kt thì
trước hết đổi mới và nâng
cao hiệu lực hoạt động của
hệ thống chính trị phù hợp
với quá trình đổi mới kT.
Đó là:
đổi mới, chỉnh đốn
Đảng, tăng cường và nâng
cao hiệu lực của các tổ
chức cơ sở Đảng và Đảng

viên; đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với
toàn bộ đời sống KT-xã hội
phù hợp với yêu cầu và quy
luật khách quan của nền
KT.
Đổi mới bộ máy
nhà nước và hướng tới là
xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN, nghĩa là nhà
nước quản lý điều hành xã
hội bằng pháp luật, là làm
cho bộ máy nhà nước đủ
mạnh để lãnh đạo toàn bộ
nền KT quốc dân. Nhà
nước đủ mạnh thì đủ sức
điều khiển bánh xe KT thị
trường theo quỹ đạo XHCN
và tiến lên CNXH, CNCS
mang lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho toàn dân
tộc.
Đổi mới các đoàn
thể quần chúng nhân dân
là làm cho các tổ chức này
với tư cách là đại diện cho
lợi ích của nhân dân lao
động. Làm được điều đó có
nghĩa là góp phần tạo ra
động lực cho quá trình đổi

mới, xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN.
Đồng thời với việc đổi mới
hệ thốnh chính trị là phải
luôn giữ vững và ổn định
chính trị.
Kết Luận:
Nắm vững mối quan hệ
biện chứng giữa chính trị với

KT và vận dụng đúng đắn
mối quan hệ đó là một trong
những vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong công cuộc
đổi mới của nước ta hiện
nay.
Đổi mới KT là làm cho nền
KT hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo co chế
thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng
XHCN là nhân tố quyết định
củng cố và phát triển chế độ
chính trị XHCN. Đổi mới
chính trị là nhằm nâng cao
năng lực hoạt động của hệ
thống chính trị phù hợp với
quá trình đổi mới KT làm
cho hệ thống chính trị được
củng cố và phát triển

vữngchắc.
Thực sự 15 năm đổi mới
Đảng ta đã xử lí tốt các mối
quan hệ đó. Chúng ta tin
tưởng rằng Đảng và nhà
nước sẽ tiếp tục đổi mới
thành công hơn nữa đáp ứng
được lòng tin yêu của dân
đối với Đảng. Đảng tin dân,
dân tin Đảng, phấn đấu vì
mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

Câu 1: Đồng chí hãy trình
bày những nội dung cơ bản
của lịch sử tư tưởng chính trị
ở Trung Quốc thời kỳ cổ đại.
Nêu giá trị của nó đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay.

Bài làm
A,
Trung quốc là một
trong những nước có nền
văn minh lâu dài vào bậc
nhất thế giới. Vào TK XXI
trước công nguyên Trung
Quốc đã bước vào XH

chiếm hữu nô lệ. Tư tưởng
chính trị của TQ ra đời vào
thời kỳ cổ đại và kéo dài
suốt trong lịch sử- nhưng nói
chung vẫn giữ được những
điểm cơ bản. Những nội
dung cơ bản của lịch sử tư
tưởng CT Trung Quốc thời
kỳ cổ đại:
1, Học thuyết “Đức
Trị”
Đức trị là hệ thống
lý luận về “đạo” cai trị dân
bằng phương thức chính yếu
là giáo dục đạo đức cho dân
với lòng nhân từ độ lượng
của người cai trị để chăn dắt
muôn dân, tu dưỡng đức
hạnh của người bị trị còn
việc sử dụng pháp luật để
cưỡng chế là cần thiết nhưng
chỉ là chuyện bất đắc dĩ.
Kiến trúc sư đầu
tiên của học thuyết đức trị là
khổng Tử (551-479Tcn). Từ
cơ sở của học thuyết nhân.
Khổng tử cho rằng XH con
người phải được gắn lại với
nhau bằng chất keo là lòng
nhân ái. Khổng Tử chủ

trương người cầm quyền
phải thực thi đức trị. Nghĩa
là nhà cầm quyền phải dùng
đức để cảm hóa XH vào kỷ
cương nề nếp.


Nghĩa là cầm quyền phải
dùng đức để cảm hoá hướng
XH vào kỷ cương nề nếp.
Khổng Tử cực lực phản đối
dùng pháp luật hình phạt
như là công cụ chủ yếu để
cai trị. Khổng Tử cho rằng:
cai trị XH bằng pháp luật thì
dân sự nhưng không phục,
chỉ có cai trị XH bằng đạo
đức (đức trị) thì dân mới
phục.
Nội dung:
+ Phạm trù nghĩa-lợi và vấn
đề quản lý Xh: ở Khổng Tử
chưa đặt ra vấn đề này một
cách rõ ràng. Mạnh Tử là
người đầu tiên sử dụng
phạm trù này một cách có hệ
thống trong việc quản lý
XH. Mạnh Tử phản đối”lợi”
là động lực của sự phát triển
XH. Ong cho rằng nếu mọi

người trong XH đều hưởng
về lợi thì sẽ sinh ra tranh
giành lẫn nhau, XH khó mà
ổn định. Tốt nhất là nên lấy
nghĩa (nghĩa vụ) để động
viên mọi người. Từ đó trong
XH luôn luôn xác định trách
nhiệm của công dân chứ
không bàn nhiều đến quyền
lợi.
+ Tiêu chuẩn của người cầm
quyền: Đức trị chủ trương
người cầm quyền không
phải chủ yếu do tài năng mà
chính là do số mệnh. Vua là
do trời chỉ định (thiên tử),
chống lại vua là chống lại
trời. Ngoài ra để đảm bảo
chế độ phong kiến được ổn
định thì cần phải cất nhắc
những người trong dòng họ
(huyết thống). Đức trị luôn
luôn xác định đức là gốc mà
tài năng là ngọn. Công thức
của họ là: 0+0=7-4 (có nghĩa
là: không có tài năng +
không có khuyết điểm tốt
hơn là tài năng 7 – khuyết
điểm 4)
+ Đạo đức-cơ sở của chính

trị: Nền tảng của đạo đức là
huyết thống. Khổng Tử từng
nói: hiếu làgốc của học
thuyết nhân. Những người
con nào hiếu với cha mẹ thì
không bao giờ lại là kẻ bề
tôi bất trung cả. Như vậy,

đức trị gắn đạo đức và chính
trị. Hiếu gắn liền với trung
(trai thời trung hiếu làm đầuNĐC). (trong học thuyết của
Khổng Tử thì đạo đức, huyết
thống và chính trị quyện làm
một. Đạo đức cũng tức là
chính trị và chính trị cũng
chẳng qua là sự mở rộng của
D8ạo d0ức mà thôi).
+ Vương quyền và thần
quyền: để củng cố vương
quyền, khổng tử gắn chặt nó
với thần quyền. Lễ giáo vừa
có mục đích tỏ lòng sùng bái
với tổ tiên vừa có mục đích
hướng về thần quyền. Dùng
lễ giáo để kết hợp chặc chẽ
giữa vương quyền và thần
quyền là chính sách khôn
khéo của đức trị.
Chủtrương đức trị
được GC phong kiến TQ

cũng như Việt Nam, Nhật
Bản… quán triệt trong lịch
sử. Sở dĩ học thuyết đức trị
có sức sống lâu dài như vậy
ở các nước phương đông
hơn là pháp trị là nhờ những
đặc điểm sau:
+ phạm vi tác dụng: đức trị
có phạm vi tác dụng hơn là
pháp trị
+ Tính chất che dấu: đức trị
không bộc lộ tính tàn khốc
như là pháp trị
+ tính chất tuỳ tiện: đức trị
không quy địng rõ ràng về
các tiêu chuẩn như pháp trị,
khuyên người ta “nên” hơn
là yêu cầu người ta “phải”.
+ Chính sách tranh thủ trái
tim: đức trị chủ trương làm
cho người ta phục hơn là
làm cho người ta sợ.
+ Nêu gương chứ không nêu
luật: đức trị chủ trương
người trên phải làm gương
cho người dưới phải noi theo
chứ không phải là tuyên
truyền pháp luật.
+ Sức mạnh của lòng nhân
ái: nhân ái có sức mạnh vô

địch hơn cả sức mạnh của trí
tuệ và sức mạnh của lưỡi
gươm.
+ Ngòi ra, do bản thân pháp
luật là bình đẳng (ít ra cũng
bình đẳng trước pháp luật)
thế nhưng trong XH đẳng

cấp như xã hội phong kiến
thì làm sao thực hiện được
điều đó. Đẳng cấp trên làm
sao chịu ngang hàng với
đẳng cấp dưới trước pháp
luật.
2, “Pháp trị”
Pháp trị là hệ thống
lý luận về sự cai trị XH bằng
pháp luật với sự thống nhất
giữa pháp luật, quyền lực và
thủ đoạn.
Pháp trị bắt đầu từ
Tuân Tử nhưng Hàn Phi mới
là kiến trúc sư chủ yếu, có
hệ thống. Pháp trị được đề
cao ở thời Tần Thủy Hoàng
với thời gian ngắn ngủi và
không có vị trí đáng kể trong
lịch sử phong kiến trung
quốc cũng như trong các
nước phương đông

Nội dung:
+ Các nhà pháp trị cho rằng
sử dụng nhân nghĩa không
thể trị quốc được mà phải sử
dụng pháp luật mà pháp luật
ấy là sự thống nhất giữa
pháp luật với quyền lực và
thủ đoạn trong đó pháp luật
là gốc còn quyền lực và thủ
đoạn là điều kiện để thực
hành pháp luật.
+ Pháp luật là của chung
mọi người đều phải tuân
theo, phải công bằng vô tư
làm cho số đông không được
ức hiếp số ít và kẻ mạnh
không được ức hiếp kẻ yếu.
+ Pháp luật phải thay đổi
theo thời thế, thời thế thay
đổi mà pháp luật không thay
đổi thì XH sẽ loạn
Hàn Phi: “sống ở thời này
mà sử dụng biện pháp của
thời khác đó không phải là
phong cách sử xự của người
trí”
(Việt Nam :”ăn theo thuơ,
ở theo thời”)
 + Pháp trị cho rằng
bản chất của con người là

xấu “ác”, con người vốn
sing ra đã mang đầy tính
tham lam, ích kỷ. Do đó
thường xâm phạm lẫn nhau.
Vậy XH muốn tồn tại thì
không thể không có pháp
luật.

Pháp trị tôn sùng sức mạnh
của quyền lực chứ không tôn
sùng sức mạnh của đạo đức.
Hàn Phi không tán dương
nhiều về đạo đúc nhân ái.
Ong cho rằng Xh thịnh trị
không phải nhờ vào lòng
nhân ái. Nhân ái không phải
là chất keo để gắn mọi
người lại với nhau và cũng
không phải là chất kích thích
để động viên mọi người vì
nhà nước phong kiến. Dân
sở dĩ làm việc phụng sự nhà
nước không phải vì nhà
nước yêu thương dân cũng
như dân thương nhà nước
mà chỉ là do dân sợ thế lực
nhà nước mà thôi. Chính
nhờ sự thực thi pháp trị nên
nhà tần trở thành nước hùng
mạnh tóm thu giang sơn về

một mối.
+ sức mạnh tổng hợp của
PHÁP-THUẬT-THẾ:
 PHÁP: tinh thần cơ
bản của pháp trị là pháp bất
vị thân. Pháp luật không
phân biệt người trên hay kẻ
dưới.
Chấp nhận tính tàn bạo của
pháp luật. Tính tàn bạo tất
yếu để đảm bảo cho sự tồn
tại của chính quyền.
 THUẬT: phương
pháp để cai trị, thủ đoạn,
mưu mẹo để thực hiện
phương pháp, để mọi người
tuân theo, mưu mẹo để thành
đạt.
Pháo gia không phân biệt
phương pháp nào tốt xấu mà
phương pháp nào thực hiện
được làm cho mọi người
tuân theo là tốt (pháp gia chỉ
quan tâm đến thành đạt)
 THẾ: là vị trí, chỗ
đứng. Thế thường đi với lý.
(lý là chân lý), giữa hai cái
đó, pháp gia nhấn mạnh thế
hơn là lý.
Hàn Phi cho rằng: PHÁP

và THUẬT chung quy là
nhằm mục đích củng cố
chính quyền tức là củng cố
THẾ. Thi hành pháp lệnh và
giữ gìn thế lực thì thịnh trị,
làm trái pháp lệnh bỏ thế lực
thì sẽ loạn.
3,”KIÊM ÁI TRỊ”


Kiêm ái trị là sự cai
trị bằng tình thương yêu
gộp, yêu thương ngang nhau
rộng khắp, không phân biệt
người thân hay người sơ,
mình cũng như người.
Người đầu tiên khởi
xướng thuyết kiêm ái là Mặc
Tử (480-420Tcn)
Nội dung:
+ XH ổn định là XH dựa
trên cơ sở tình thương: các
nhà kiêm ái cho rằng sở dĩ
XH loạn là do người không
yêu thương nhau. Cho nên
làm mọi người thương yêu
nhau thì phải làm cho nhau
có cùng lợi. Tình thương
yêu không phải là lời nói
suông mà luôm gắn liền với

lợi ích vật chất (kiêm tương
ái, giao tương lợi). Chiến
tranh là tai họa lớn nhất đối
với con người (phi công).
+ Các nhà kiêm ái đề ra học
thuyết ”thượng hiền” và
“thượng đồng”: XH ổn định
là XH luôn đề cử những
người tài năng (thượng hiền)
ra giúp nước, không phân
biệt xuất thân. Đồng thời
muốn XH ổn định thì không
thể để xảy ra nhiều học
thuyết khác nhau mà cần
phải thống nhất về một mối
(thượng đồng)
+ Thuyết tam biểu trong
chính trị: mọi chủ trương
chính trị đúng đắn cần phải
bảo đảm những tư tưởng
chính trị sau:
 Một là, phải có cơ
sở của người đi trước (hữu
bảo chi giả)
 Hai là, được quần
chúng ủng hộ (hữu nguyên
chi giả)
 Ba là, phải có hiệu
quả thực tế (hữu dụng chi
giả)

+ Phê thuyết thiên mệnh:
thuyết kiêm ái phê phán
quan điểm định mệnh cho
rằng mọi cái đều do trời định
sẵn sẽ làm cho con người
mất hết sự cố gắng vươn lên
trong công việc.
4, “vô vi trị”
Vô vi trị là hệ
thống lý luận về sự cai trị

bằng “không cai trị”, làm
bằng “không làm” không
can thiệp vào “bản tính tư
nhiên của đạo”.
Nội dung:
+ Vô vi: không hành động
“không làm”
vô vi trị là
cai trị không bằngg cai trị.
+ Đạo: quy luật
bản tính
tư nhiên của đạo là quy luật
tự nhiên.
Đạo trời: diễn ra theo
quy luật tự nhiên “tưởng
như không làm gì” mà vẫn
có hiệu quả vì mọi cái đều
diễn ra theo quy luật của nó.
Đạo người là quy luật

XH. Về mặt lý tưởng đạo
người cũng có thể như đạo
trời tức là không cần sự can
thiệp của con người thì mọi
cái vẫn diện ra như những gì
mà nó có. Người ta gọi đó là
đạo không làm.
+ Đạo không làm vì mọi cái
phát triển theo quy luật của
nó. Nó có sức sống của
chính mình, tự nó biết phải
làm gì thì không gì không
làm, không làm là không
làm trài vời quy luật của tự
nhiên và XH, tự nó biết phải
làm gì thì “ không gì mà
không làm được“, “không
làm” tức là tôn trọng quy
trình. Đặc điểm phát triển
của nó thì không có gì
không do “cai trị” mà ra.
+ Cai trị bằng “không cai
trị” là không có gì “không
cai trị” và không có gì
không do cai trị mà ra.
 Cai trị bằng không
cai trị tức là không can thiệt
thô bạo vào đời sống nhân
dân, không hạch sách, quấy
nhiễu đời sống nhân dân,

không thôn tính lẫn nhau thì
đới sống của nhân dân, thì
XH tự vận động theo quy
luật của mình thì như thế thì
mọi thứ đều được được tạo
ra.
 Cai trị bằng không
cai trị tức là sự cai trị diễn ra
một cách tự nhiên, người bị
cai trị cảm thấy mính không
bị trị, họ tự giác hành động
theo quy luật của tự nhiên
của lịch sử và như vậy

không có gì mà không được
tạo ra từ sự cai trị của không
cai trị.
 Đạo trị quốc theo
vô vi là phép cai trị khiến
nhiều người dân cảm thấy
mình được tôn trọng, cảm
thấy mình chíng kà chủ nhân
của XH, của đời sống của
chính mình. Do đó, họ nỗ
lực hành động theo quy luật
của XH thì ắt không có gì
mà không trị.
Về bản chất con người:
đạo gia cho rằng bản chất
con người không thiện cũng

không ác, thiện ác chỉ do
XH tạo ra. Hơn nữa thiện ác
chỉ là tương đối, do đó
không nên tạo ra cái mà
không cần phải có.
Đạo gia cho rằng:
XH ngày càng tách khỏi tự
nhiên là sai lầm, những cái
do con người tạo ra như
chính trị, pháp luật, nhà
nước…đều trái với tự nhiên
cho nên phải tất yếu dẫn đến
sai lầm. Đứng quan tâm đến
giai cấp, chiến tranh, chính
trị… XH lý tưởng là một
XH không nhà nước, không
pháp luật và cụng không cần
đến giáo dục và khoa học.
Đạo gia kêu gọi hãy trở về
với trạng thái tự nhiên.
B, Những nội dung nêu trên
là 4 học thuyết chính trị
quan trọng trong lịch sử
trung quốc. Nhưng chỉ có
học thuyết “đức trị” là được
phổ biến và ảnh hưởng
nhiều nhất trong XH. Đến
đời tống (thế kỷ 12-13) Đức
trị đạt đỉnh cao, kết hợp với
pháp trị, ảnh hưởng ngày

càng lớn đến các nước châu
á như Việt Nam, Nhật Bản,
Triều tiên…
Đức trị ảnh hưởng đến XH
Việt Nam từ đầu công
nguyên đến thế kỷ 15, đức
trị trở thành tư tưởng chính
thống của GC phong kiến
Việt Nam. Ngày nay, đức trị
vẫn còn ảnh hưởng nhiều
trong xã hội Việt Nam nhất
là vùng nông thôn. Đức trị
phù hợp với bản sắc nhân
nghĩa của xã hội Việt Nam.

Truyền thống yêu nước của
người Việt Nam không tách
rời khởi đức trị. Tuy vậy,
đức trị tạo ra xã hội thiên về
đạo đức gỉm sút ý thức pháp
quyền, gây trở ngại không ít
cho công cuộc xây dựng xã
hội hiện nay. Do đó chúng ta
phải thực hiện đồng bộ các
biện pháp giáo dục, kinh tế,
hành chính và pháp luật để
phòng, chống có hiệu quả
các tệ nạn xã hội nhất là
trộm cướp, cờ bạc, ma túy,
mại dâm, lừa đảo…

Để góp phần thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay, mọi
người phải có trách nhiệm
xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân lấy liên minh
GC công nhân với GC nông
dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng do đảng CSVN
lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân
dân, giữ nghiêm kỷ cương
xã hội chuyên chính với mọi
hành động xâm phạm lợi ích
của tổ quốc và nhân dân.
Nhà nước ta dựa trên nền
tảng khối đại đoàn kết toàn
dân, thể hiện ý chí, lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân.
Quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp
luật. Mọi cơ quan , tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi công
dân có nghĩa vụ chấp hành

hiến pháp và pháp luật. Cán
bộ công chức nhà nước phãi
là đầy tớ trung thành của
dân, tận tụy phục vụ nhân
dân. Bên cạnh việc xây dựng
nhà nước pháp quyền
XHCN dười sự lãnh đạo của
Đảng, phải thường xuyên
giáo dục cán bộ, đảng viên,
công chức vế chính trị tư
tưởng, đạo đức, cách
mạng… để nâng cao chất
lượng đội ngụ cán bộ, công
chức. Tăng cường hơn nữa
công tác giáo dục, rèn luyện


đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh
chống tệ nạn tham nhũng,
quan liêu, tư tưởng cơ hội,
thực dụng, bài trừ hủ tục mê
tín, lối sống vị kỷ xa đoạ, xa
rời quần chúng… không
ngừng nâng cao trình độ
chính trị, học vấn, chuyên
môn nghiệp vụ, kiến thức
lãnh đạo, quản lý và công
tác vận động quần chúng…


Câu 4: Đồng chí hãy vận
dụng lý luận về cơ chế thực
hiện quyền lực chính trị và
thực tiễn đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị ở Việt
Nam để làm rõ luận điểm
của đảng ta: “Mục tiêu chủ
yếu của đổi mới hệ thống
chính trị là nhằm thực hiện
tốt dân chủ XHCN, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân”
(VK VIII trang 71)

Bài làm
như chúng ta đã
biết, bất kỳ một GC cách
mạng nào bước vào hoạt
động chính trị đều nhằm
mục tiêu giành chính quyền
mà chính quyền là vấn đề cơ
bản nhất của quyền lực
chính trị và bất cứ một bộ
môn khoa học chính trị nào
đó ra đời đều dựa trên các
nguyên lý, quy luật, phạm
trù cơ bản nhất chi phối các
nguyên lý, quy luật, phạm
trù khác. Trong chính trị học
quyền lực chính trị làphạm

trù cơ bản nhất, quyền lực
nói lên thực chất hoạt động
chính trị của các GC, các
đảng phái trong xã hội có
GC.
Theo CN Máclênin: “quyên lực chính trị
theo đúng nghĩa của nó, là
bạo lực có tổ chức của một
giai cấp để trấn áp một giai
cấp khác” (Mác-ăngghen
tuyển tập tập một NXB ST
HN 1989 trang 569)
Đặc điểm của quyền lực
chính trị là khi ra đời nó gằn

liền với sự xuất hiện của các
GC. Do đó quyền lực chính
trị luôn luôn mang tính GC,
không có quyền lực chính trị
chung chung cho mọi GC.
Đồng thời, quyền lực chính
trị thể hiện ra bên ngoài là
thống nhất nhưng bên trong
thì nó chứa đựng các mâu
thuẫn, thậm chí con là mâu
thuẫn đối kháng. Mặt khác
sức mạnh ủa quyền lực
chính trị là sức mạnh của
một giai cấp chứ không phải
của một cá nhân nào đó

(CNTB: quyền lực tập trung
vào nguyên thủ quốc gia thì
đại diện cho GC tư sản;
XHCN: quyền lực tập trung
vào nguyên thủ quốc gia mà
nguyên thủ thì đại diện cho
GC công nhân)
Còn cơ chế là một
phạm trù dùng để chỉ các
nhân tố và MỐI QUAN HỆ
giữa các nhân tố đó với
nhau, nhằm để thực hiện
một chức năng hoặc một
mục tiêu đã được xác định.
Trong xã hội có GC, cơ chế
thực hiện quyền lực chính trị
thực chất là hệ thống chính
trị. Cơ chế thực hiện quyền
lực chính trị bao gồm tổng
thể các tổ chức chính trị-xã
hội và mối liên hệ biện
chứng giữa các nhân tố đó
với nhau nhằm thực hiện
quyền lực chính trị của nhân
dân lao động.
Cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị được thể
hiện thông qua 2 hình thức:
+ Xét chung cho tất cả các
chế độ xã hội có GC bóc lột.

Nó được thể hiện thông qua
3 nhân tố đó là:
 Hệ thống chuyên
chính của GC cầm quyền
như các đảng phái, các tổ
chức chính trị-xã hội do
GC cầm quyền đặt ra hoặc
đứng về phía GC cầm
quyền (nhà nước TB:
Đảng tư sản cầm quyền,
các tổ chức chính trị xã hội
do GC tư sản lập ra…)
 Hệ thống các tổ
chức trung gian như các
đảng phái, tổ chức tôn

giáo, tổ chức chính trị-xã
hộitrung lập. Hệ thồng này
không bảo vệ lợi ích cho
GC cầm quyền, cho lợi ích
của GC bóc lột nhưng
cũng không bảo vệ lợi ích
cho người lao động
 Hệ thống các tổ
chức đối lập với GC cầm
quyền. Đây là các tổ chức
chống lại hệ thống chuyên
chính của GC cầm quyền
bao gồm: Đảng CS, tổ
chức công đoàn tiến bộ.

+ Trong chế đệ XHCN:
khác với hệ thống chính trị
trong các chế độ có GC
bóc lột, hệ thóng chính trị
XHCN bao gồm hệ thống
các tổ chức thống nhất
nhằm phát huy quyền lực
của nhân dân lao động, cơ
cấu tổ chức hệ thống CT
XHCN bao gồm 3 nhân tố:
 ĐCS giữ vai trò
lãnh đạo
 Nhà nước pháp
quyền XHCN
 Các tổ chức chính
trị-xã hội: mặt trận tổ
quốc,công đoàn, đoàn TN,
hội liên hiệp phụ nữ, hội
cựu chiến binh, hội nộng
dân.
+thực chất hệ thống CT
XHCN là hệ thống chuyên
chính vô sản, mục đích
nhằm phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân
lao động trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới xã
hội-XHCN. Xét cề 2 hình
thức trên thì nó giống nhau
là đều có 3 nhân tố chung

nhưng về tính chất thì
hoàn toàn khác nhau. Cụ
thể là trong xã hội có GC
bóc lột thì hình thức biểu
hiện của cơ chế thực hiện
quyền lực CT bao gồm
một hệ thống các nhân tố
mâu thuẫn đối kháng nhau,
còn ở chế độ XHCN hình
thức biểu hiện của cơ chế
thực hiện quyền lực chính
trị bao gồm một hệ thống
các nhân tố thống nhất để
nhằm phát huy quyền lực
chính trị của nhân dân lao
động.

Nội dung cơ chế
thực hiện quyền lực chính
trị:
+nội dung mang tính chất
tổng quát: xay dựng cơ chế
thực hiện quyền lực chính trị
phải dựa trên mục tiêu của
quyền lực chính trị. Nói cach
khác, mục tiêu của quyền
lực chính trị quết định đến
việc xây dựng cơ chế để
thực hiện nó.
+ Nội dung mang tính chất

cụ thể, bao gồm 2 nội dung:
 Đối với GC cầm
quyền: GC cầm quyền phải
thực hiện được mục tiêu
nhưng không ngừng củng cố
quyền lực KT và trên cơ sở
củng cố quyền lực KT sẽ
củng cố chắc được quyền
lực chính trị để buộc tất cả
các GC, các tầng lớp phải
tuân thủ đường lối chính trị
của mình. Để đạt được mục
tiêu này, GC cầm quyền
phải đề ra các biện pháp đó
là:
Đề ra được mục tiêu
chính trị đúng đắn: đây
chính là quyết sách chính trị
của GC cầm quyền, quyết
sách chính trị là cương lĩnh,
đường lối của đảng… thể
hiện mục tiêu của giai cấp
cầm quyền (kể cả chế độ
TBCN và XHCN)
Phải xây dựng được hệ
thống hiếp pháp-pháp luật,
nghị định để đi vào thể chế
hoá các mục tiêu chính tị
của GC cầm quyền thàng
những văn bản pháp quy.

Nhờ đó lảm cho mục tiêu
chính trị của GC cầm quyền
mang được hình thức cái
phổ biến và có tính cưỡng
chế đối với toàn xã hội.
Phải xây dựng được một
hệ thống các tổ chức: Đảng,
nhà nước và các tổ chức CTxã hội để đi vào thực hiện
hiến pháp, pháp luật. Nhờ
vậy mục tiêu của GC cầm
quyền mới được hiện thực
hoá trong đời sống xã hội.
 Đối với GC không
cầm quyền nhưng phải là
GC trực tiếp đối lập với GC
cầm quyền:


GC không cầm quyền
không ngừng củng cố mục
tiêu kinh tế, CT của mình rồi
trên cơ sở đó tiến tới lật đổ
quyền lực chính trị của GC
cầm quyền để thiết lập
quyền lực chính trị thuộc về
GC mình.
GC không cầm quyền phải
đề ra các biện pháp tổ chức
cho quần chúng nhân dân
đấu tranh, thông qua những

cuộc đấu tranh đó đúc kết ra
những bài học kinh nghiệm
phục vụ cho việc giành
quyền lực chính trị của GC
mình. Lịch sử nước ta đã
chứng minh nguyên nhân
cách mạng tháng tám thành
công là Đảng ta đã đúc kết
nhiều bài học kinh nghiệm
trong quá trình Đảng lãnh
đạo toàn dân tộc trong đấu
tranh chống chủ nghĩa thực
dânvà đế quốc như: cuộc
diễn tập cao trào xô viết
nghệ tĩnh 1930-1931; đấu
tranh đói dân chủ dân sinh
1936-1939…
Phải đưa ra được những
chủ trương chính trị đúng
đắn bằng mọi hình thức như
tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục để nhân dân hểu
rõ về chủ trương chính trị
của mình và từ đó đi vào tổ
chức thực hiện.
Cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị ở Việt
Nam: kể từ sau thắng lợi của
cách mạng tháng tám, chúng
ta đã thiết lập được chính

quyền chuyên chế công
nông là tiền đề cho hệ thống
chính trị Việt Nam sau này.
Mùa xuân 1975, sau khi
hoàn thành thắng lợi cách
mạng DTDCNH ở miền
nam, thống nhất nước nhà
thì chúng ta đã thiết lập
được cơ chế quyền lực chính
trị trên phạm vi cả nước. Cơ
chế thực hiện quyền lực
chính trị trong thời gian qua
đã đạt được những thành tựu
và hạn chế sau:
+ Thành tựu: thành tựu có
tính chất bao trùm của hệ
thống chính trị Việt Nam
trong thời gian qua là giữ

vững và ổn định chính trị về
mọi mặt, cụ thể:
 Trên lĩnh vực dân
chủ: chúng ta đã mở rộng
được dân chủ XHCN trên tất
cả các lĩnh vực nhất là trên
lĩnh vực CT và KT
 Về vai trò lãnh đạo
của đảng: chúng ta đã giữ
được sự lãnh đạo duy nhất
của Đảng cộng sản, kiên

quyết không chia sẻ cho bất
cứ một lượng chính trị nào.
(thành tựu nổi bật nhất của
ĐH VII của Đảng đánh giá
là: Đảng ta đã từng bước bổ
sung và cụ thể hoá thành các
chủ trương đổi mới trên từng
lĩng vực khác nhau của đời
sống xã hội. Trong quá trình
đó, Đảng ta đã được củng cố
về tư tưởng, chình trị và tổ
chức; vai trò lãnh đạo của
đảng trong xã hội được tăng
cường, việc đổi mới tư duy,
tổ chức bộ máy, phương
pháp và phong cách của
đảng đã mang lạinhững kết
quả to lớn; đường lối đổi
mới ngay càng hoàn thiện
nhờ vậy con đường đi lên
CNXH ngày càng rõ hơn… )
 Về
nhà
nước:
chúng ta đã giữ vững được
cgính quyền trên cơ sở đổi
mới, bước đầu đi vào xây
dựng nhà nước pháp quyền
XHCN. (việc quản lý nhà
nước bằng pháp luật và theo

pháp luật từng bước được
xác lập và hoàn thiện.
Những bước tiến đó góp
phần làm cho hoạt động của
các cơ quan nhà nước các
cấp đạt được những bước
tiến quyết định theo hướng
phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tăng cường kỷ
cương và nâng cao hiệu lực
quản lý của nhà nước).
 Về đoàn thể CT-xã
hội: mặt trận tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân, các tổ
chức CT-xã hội đã từng
bước đổi mới về nội dung và
phương thức hoạt động.
(nhiệu hội, đoàn thể hợp
pháp được thành lập theo
nhu cầu, lợi ích và theo
nguyện vọng của các tầng

lớp khác nhau trong nhân
dân, cũnh như những người
Việt Nam định cư ở nước
ngoài…_
 Ngoài ra, chúng ta
đã xoá bỏ dần được những
mặc cảm do chiến tranh để
lại, từng bước củng cố tăng

cường khối đại đoàn kết
toàn dân. Đồng thời, tiếp tục
củng cố và định hướng đi
lên CNXH theo con đường
đã lựa chọn, đã khắc phục
dần tình trạng bao biện làm
thay nhà nước, và từng bước
đa dạng hoá các hình thức
chính trị của nhân dân…
+ Về hạn chế: hạn chế có
tính chất bao trùm của hệ
thống CT Việt Nam là còn
lúng túng về mặt lý luận,
bảo thủ về mặt cán bộ và
tình trạng quan liêu về nhiều
mặt. Các nhân tố trong hệ
thống chính trị: Đảng, nhà
nước, các tổ chức chính trịxã hội thì chưa vươn lên
ngang tầm với nhiệm vụ CT
hiện nay. Cụ thể:
 Về Đảng: tuy giữ
vững bản lĩnh độc lập, tự
chủ của mình nhưng Đảng ta
vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ
cho bước chuyển căn bản
trên lĩnh vực KT và mở rộng
đối ngoại. (chuyển sang nền
KT thị trường nhiều thành
phần trên cơ sở đa dạng hoá
hình thức sở hữu đối với

TLSX, mở cửa bên ngoài…
là một chiến lược đúng đắn.
Song nhiều vấn đề lý luận về
Đảng cộng sản cầm quyền
trong điều kiện kinh tế thị
trường chưa được làm sáng
tỏ; trong khi khẳng định tính
không đối lập của cơ chế thị
trường với CNXH, chúng ta
cũng thấy rõc bên cạnh
những mặt tích cực là cơ bản
vẫn tồn tại những mặt yếu
kém của nó ngay trong
trường hợp định hướng
XHCN, đó là do chúng ta
không chuẩn bị được ngay
từ đầu để khắc phục những
tác động ngịch chiều của
nó…)
 Về
nhà
nước:
những bước tiến đổi mới của

nền hành chình quốc gia còn
rất khiêm tốn. Tình trạng
quan liêu, nhiều tầng, nhiều
nấc thang của bộ máy hành
chính làm cho yêu cầu quản
lý quá trình KT-xã hội chưa

thật sự nhanh nhạy và có
hiệu quả. Tình trạng “nghiệp
dư” của đội ngũ công chức
nhà nước chưa được khắc
phục về cơ bản; kỷ cương
phép nước bị coi thường ở
nhiều nơi…
 Về các tổ chức CTxã hội: phong cách hoạt
động của mặt trận tổ quốc
Việt Nam vẫn chưa thoát
khỏi tình trạng quan liêu,
cán bộ của nhiều đoàn thể
CT-xã hội vẫn còn tình trạng
“viên chức hoá”…
 Cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị còn vi
phạm quyền dân chủ của
nhân dân và không ít cán bộ
Đảng viên thoái hoá biến
chất, dao động tư tưởng, tổ
chức cơ sở Đảng nhất là ở
nông thôn suy yếu.
 Công chức, viên
chức nhà nước ý thức pháp
luật chưa cao, quan hệ Đảng
và nhà nước chưa được phân
định rõ; các đoàn thể quần
chúng còn lúng túng trong
việc xác địng chức năng,
nhiệm vụ.

 Công tác cán bộ:
khâu quy hoạch, đào tạo, bố
trí sử dụng cán bộ, chuẩn bị
đội ngũ cán bộ kế cận thì có
làm nhưng chưa có sự thay
đổi căn bản (Nghị quyết
BCH TW3 khoá VIII)…
Phương hướng đổi
mới hệ thống CT ở Việt
Nam:
+ Phương hướng mang tính
chất tổng quát nhằm khắc
phục những hạn chế trên
phương hướng mang tính
chất bao trùm để xây dựng
hệ thống chính trụi nước ta
là: phải mở rộng dân chủ
hơn nữa trong cơ chế thực
hiện quyền lực chính trị, để
cho dân chủ XHCN vừa là
mục tiêu vừa là động lực của
quá trình phát triển và xây
dựng CNXH ở nước ta.


+ Phương hướng cụ thể: yêu
cầu phải đi vào đổi mới 3
nhân tố trong cơ chế thực
hiện quyền lực CT, đó là:
 Đổi mới Đảng:

Đảng giữ vai trò lãnh đạo
toàn xã hội, dựa chắc vào
dân, thông qua các tổ chức
trong hệ thống chính trị, chủ
yếu bằng nhà nước. Có
nghĩa là trong hệ thống
chính trị vai trò của ĐCS
luôn luôn là hạt nhân lãnh
đạo, là điều kiện cần thiết và
tất yếu để HTCT giữ vững
được bản chất của GC công
nhân. Điều đó đã được
chúng minh trong thực tế là
nơi nào ĐCS giữ được vai
trò lãnh đạo trong hệ thống
chính trị thì nơi đó cách
mạng sẽ tiếp tục phát triển
và ngược lại. Đồng thời,
Đảng phải đưa ra cương
lĩnh, đường lối định hướng
trong các chủ trương công
tác lớn. Chủ trương đường
lối của Đảng đưa vào quần
chúng bằng phương pháp
đặc thù: nêu gương tuyên
truyền, giáo dục thuyết
phục, kiểm tra và đào tạo
cán bộ… Đảng phải được tổ
chức và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật. Về đổi

mới Đảng, NQ ĐH IX neu
rõ 4 nội dung đổi mới của
Đảng trong giai đoạn hiện
nay là:

GD tư tưởng CT,
rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân.

Tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ.

Xây dựng, củng cố
các tổ chức co sở Đảng.

Kiện toàn tổ chức,
đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng.

Đổi mới nhà nước:
nhà nước XHCN vừa là cơ
quan đại diện cho ý chí và
quyền lực của nhân dân lao
động, vừa thay mặt và chịu
trách nhiệm trước dân về
quản lý điều hành xã hội
bằng pháp luật. Nhà nước
phải thể chế hoá quyền công
dânvà quyền con người về


đổi mới nhà nước, NQ ĐH
IX của Đảng có nêu rõ 5
quan điểm về đổi mới , đó
là:

XD nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng.

Cải cách thể chế và
phương thức hoạt động của
nhà nước.

Phát huy dân chủ,
giữ vững kỷ luật, kỷ cương
tăng cường pháp chế.

Xây dựng đội ngụ
cán bộ, công chức, trong
sạch, có năng lực.

Đấu tranh chống
tham nhũng.

Đổi mới các tổ
chức chính trị-xã hội: các tổ
chức CT-xã hội vừa là nơi
trực tiếp đại diện cho lợi ích
chính đáng của nhân dân lao

động, đồng thời cũng là nơi
trực tiếp pháp huy quyền
làm chủ của nhân dân trong
quá trìng xay dựng xã hội
mới. Vì vậy, đổi mới phải đa
dạng hoá hơn nữa các hình
thức CT-xã hội của nhân
dân , phải xem chức năng
bảo vệ lợi ích chính đáng
của các thành viên trong tổ
chức mình là một trong
những chúc năng quan
trọng. Quá trình đổi mới cần
tập trung 2 nội dung chủ yếu
sau:

Xác định rõ chúc
năng nhiệm vụ của các tổ
chức CT-xã hội trong điều
kiện thực hiện nền KT hàng
hóa nhiều thành phần để từ
đó đưa ra được những
phương thức hoạt động phù
hợp.

Xây dựng các tổ
chức CH-xã hội phải theo
nguyên tắc, một mặt là từng
thành viên phải có trách
nhiệm tham gia xây dựng tổ

chức của mình, mặt khác các
tổ chúc CT-xã hội cũng phải
chăm lo bảo vệ lợi cíh chính
đáng của từng thành viên
trong tổ chức.
Tóm lại, đổi mới hệ
thống CT ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay là điều
kiện để thực hiện quyền lực

chính trị của nhân dân lao
động. Mặt khác, quyền lực
chính trị của nhân dân lao
động từng bước được phát
huy, là cơ sở bảo đảm cho
việc củng cố và đổi mới hệ
thống CT Việt Nam và đó
cũng là mối quan hệ phổ
biến giữa việc củng cố tăng
cường cơ chế thực hiện,
nhằm thực thi quyền lực
chính trị của GC cầm quyền
trong các chế độ xã hội.
Ngày nay, tiếp tục đổi
mới hệ thống CT là nhằm
khắc phục những yếu kém
tồn tại của hệ thống chính trị
và trở thành đòi hỏi bức thiết
để hệ thống chính trị góp
phần tích cực vào quá trình

CNH, HĐH đất nước. Tăng
cường và mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu:
“dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn
minh “, nền dân chủ XHCN
được xác lập vững chắc.

Câu 8:

Đồng chí hãy
trình bày những quan điểm
cơ bản về xây dựng nhà
nườc pháp quyền và xã hội
công dân trong CNXH.
Trên cơ sở đó khẳng định
sự cần thiết yêu cầu và
phương hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền và xã
hội công dân trong giai
đoạn đổi mới ở nước ta
hiện nay.

Bài làm
Chính quyền (nhà nước)
là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng. Giành
chính quyền là vấn đề rất
khó khăn, song giữ được

chính quyền lại càng khó
hơn. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam đã chứng minh là
hơn nửa thế kỷ qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhà
nước ta là trụ cột của hệ
thống chính trị, là cộng cụ
chủ yếu để tổ chức toàn dân
tiến hành thắng lợi cuộc
cách mạng DTDCND, thống
nhất đất nước, đưa cả nước
tiến lên CNXH. Ngày nay,
Đảng ta luôn coi trọng việc

xây dựng nhà nước. Từ ĐH
VI đến nay, Đảng ta đã hình
thành một hệ thống quan
điểm cơ bản để tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện một nhà
nước cộng hoà XHCN Việt
Nam nhằm giữ vững bản
chất cách mạng của nhà
nước ta.
Ơ chế độ TB, nhà nước
tư sản luôn tuyên truyền về
“nhà nước nhân dân tự do”,
“nhà
nước
phúc
lợi

chung”… nhằm che giấu
bản chất GC của nhà nước
tư sản. Đồng thờo, tìm mọi
cách chứng minh nhà nước
tư sản là “công cụ phục vụ
xã hội”, “đứng trên các GC”
để điều hoà mâu thuẫn xã
hội. Song, chúng ta cũng
phải thừa nhận rằng, nền dân
chủ tư sản có những bước
tiến bộ, nhưng về bản chất
nền dân chủ đó không phải
là dân chủ cho đông đảo
nhân dân, mà quyền làm chủ
thực sự ở các nước TB nằm
trong tay GC tư sản, phục vụ
lợi ích của GCTS.
Ơ xã hội XHCN, nhà
nước pháp quyền XHCN
mang bản chất GCCN. Bản
chất đó thể hiện ở chỗ toàn
bộ hoạt động của nhà nước
từ pháp luật, co chế, chính
sách đến những nguyên tắc
tổ chức, hoạt động đều thể
hiện tưởng, quan điểm của
GCCN, từng bước xây dựng
quyền làm chủ của nhân
dân. Với ý nghĩa đó, nhà
nước XHCN là nhà nước

được xây dựng trên cơ sở
nền dân chủ đốii với đông
đảo quần chúng nhân dân
lao động, và đang thể hiện
trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội trong hiện thực.
I.
Khái niệm về
nhà nước pháp quyền-xã hội
công dân
1)
Nhà nước
pháp quyền:
Nhà nứoc pháp
quyền là một kiểu nhà nước
mà kiểu nhà nước này dựa
trên cơ sở pháp luật để quản
lí xã hội, là nhà nước mà
toàn bộ hoạt động của nó


dựa trên cơ sở pháp luật và
đồng thời lại bị hạn chế bởi
chính pháp luật. Vì vậy, nhà
nước pháp quyền hoàn toàn
khác với các hình thức nhà
nước trước đó (chế độ phong
kiến luật chỉ dùng cho cấp
dưới vua, còn vua thì không
bị chi phối bởi pháp luật, do

vua đứng trên pháp luật).
Nhà nước pháp
quyền luôn luôn tuân thủ,
bảo vệ quyền công dân và
quyền con người; giữa công
dân và nhà nước, các đơn vị
KT và các tổ chức xã hội
luôn luôn có mối quan hệ
thông qua pháp luật, trách
nhiệm pháp lí. Có nhĩa là
nhà nước và công dân luôn
luôn bình đẳng với nhau.
Nhà nước pháp
quyền là tổ chức chính trị
của xã hội thông qua pháp
luật để tạo các điều kiện là
nhà nước dân chủ, nói cách
khác, là nhà nước phải tạo ra
thể chế, những yêu cầu d8ể
thực hiện dân chủ.
2)

hội
công dân:
Bất kỳ hình thức
nhà nước nào cũng có xã hội
tương ứng với nó. Nhà nước
pháp quyền phải là một xã
hội tương ứng là xã hội công
dân (tương ứng với nhà

nước phong kiến là xã hội
thần dân), là nhà nước bảo
đảm sự bình đẳng giữa nhà
nước và công dân.
Muốn có xã hội
công dân thì trước hết phải
có công dân (các xã hội
trước đó là cư dân, thần dân
chứ chưa phải là công dân).
Để trở thành công dân thì
công dân phải am hiểu pháp
luật, nghĩa vụ của mình để
tham gia cộng đồng, sinh
hoạt cộng đồng. Lhi trở
thành công da6n thì họ có
quyền tham gia bầu cử, ứng
cử, đóng góp hiến pháp…,
và chỉ có dược những điều
kiện như vậy thì cư dân mới
chuyển thành công dân và là
nền tảng hình thành nhà
nước pháp quyền.
Xã hội công dân

chỉ có thể hinh thành trong
một quốc gia độc lập, có chủ
quyền-một quốc gia có ý
thức pháp luật, nâng lên
thành ý thức về sự cần thiết
phải thừa nhận và thực hiện

các quyền tư nhiên của con
người và của công dân,
quyền này được bảo đảm
bằng một “khế ước xã hội”.
Xã hội công dân là
một xã hội buộc nhà nước
phải phụ thuộc vào ý chí chủ
quền của nhân dân (quyền
lực thuộc về nhân dân). Nhà
nước pháp quyền-XHCD là
điều kiện để cho nhà nước
phát triển, nếu như không có
XHCD mạnh (công dân
không hiểu nhiều về pháp
luật…) thì đó là nhà nước
chuyên quyền, độc đoán,
mất dân chủ.
Thực tế cho thấy, ở nơi
nào trình độ dân trí cao thì
thực hiện quy chế dân chủ
tốt, và ngược lại nơi nào
trình độ dân trí thấp, cuộc
sống còn khó khăn thì nơi đó
thực hiện quy chế dân chủ
kém. Vì vậy, quan điểm của
Đảng ta là xây dựng nhà
nước pháp quyền mạnh vả
đồng thời xây dựng xã hội
công dân cũng phải mạnh,
đó là nhà nước của dân, do

dân và vì dân.
Ngày nay, các cơ quan
lãnh đạo nhân dân, các đại
biểu đại diện nhân dân do
nhân dân bầu ra thì họ là
người thay mặt nhân dân để
thực hiện và thực thi quyền
lực của nhân dân chứ bản
thân họ không có quyền lực.
Nhưng trên thực tế cũng còn
một số nơi sau khi được
nhân dân bầu ra thì họ tập
trung quyền lực vào cá nhân
làm tha hoá quyền lực của
nhân dân. Quyền lực đó biến
thành quyền lực của cá
nhân, áp đặt nhân dân, chèn
ép nhân dân.
II. Nhà nước pháp
quền-XHCD ở CNXH
1)
Những
điều kiện để xây dựng nhà
nước pháp quyền-xã hội
công dân:

Ở CNXH, xây dựng
nhà nuớc pháp quyềnXHCD phải biết kế thùa
những nguyên tắc chung của
nhà nước pháp quyền, kế

thừa những giá trị của nhà
nước pháp quyền trong lịch
sử: kế thừa những tri thức,
những tinh hoa của nhân lọai
đã có trong lịch sử, về cơ
chế dân chủ, sự kết hợp giữa
hành pháp, lập pháp, tư
pháp; nhà nước pháp quyền
quyền lực thuộc về nhân
dân, sự phát triển của nhân
dân đặt ở vị trí trung tâm.
Xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN phải căn
cứ vào những vấn đề của
quốc gia, dân tộc về: KT,
CT,văn hoá, xã hội… và
khẳng định là không có một
mô hình chung nào về nhà
nước pháp quyền cho tất cả
mọi đất nước.
2)
Một số đặc
điểm của nhà nước pháp
quyền XHCN:
Nhà nước pháp
quyền XHCN bảo vệ phục
vụ lợi ích của nhân dân mà
trước hết là nhân dân lao
động.
Nhà nước và công

dân luôn luôn bình đẳng
trước pháp luật. Tuy nhiên
nó cũng có những mặt hạn
chế là những tranh chấp giữa
nhà nườc và công dân thì
phần thiệt thòi thường là về
nhân dân.
Nhà nước pháp
quyền XHCN bảo đảm
quyền tự do cá nhân, quyền
lợi, danh dự, phảm cách cá
nhân mà nhước có trách
nhiệm phải bảo vệ.
Nhà nước pháp
quyền XHCN phải thể hiện
sự cần thiết trong việc kiểm
tra, giám sát hữu hiệu việc
bảo đảo thực hiện luật pháp.
3)
Những nội
dung cơ bản của nhà nước
pháp quyền XHCN:
Nhà nước pháp
quyền XHCN là nhà nước
của dân, do dân và vì dân,
nền tảng là liên minh GC
công nhân, nông dân và trí

thức đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, bảo đảm tất cả

quyền lực thuộc về nhân
dân.
Quyền lực nhà
nước tổ chức theo nguyên
tắc tập trung thống nhất,
không phân chia mà chỉ có
sự phối hợp, phân công giữa
các quyền (lập pháp, hành
pháp, tư pháp) để thực hiện
quyền lực thống nhất. Đồng
thời, có cơ chế kiểm soát
quyền lực để bảo đảm cho
nhân dân thực sự có quyền
giám sát.
Trong tổ chúc và
hoạt động, Nhà nước pháp
quyền XHCN quán triệt
nguyên tắc tập trung dân chủ
để thực hiện thống nhất
trong tư tưởng và hành
động, giữa các nghành, giữa
trung ương và địa phương,
giữa cá nhân và tập thể.
Nhà nước pháp
quyền XHCN qản lí và điều
hành xã hội bằng pháp luật.
Tuy nhiên, nó luôncoi trọng
giáo dục nâng cao đạo đức
XHCN.
Nhà nước pháp

quyền luôn luôn coi trọng
việc tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng đối vi71i nhà
nước. Đó là điềiu kiện để
đảm bảo tính GC, tính nhân
dân của nhà nước XHCN.
Đảm bảo đầy đủ các nội
dung trên, nhà nước pháp
quyền XHCN sẽ có vai trò
hình thành và hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, với yêu cầu
quyền lực thuộc về nhân
dân, đồng thời XHCD sẽ
được thực hiện đầy đủ nội
dung của mình.
III, Xây dựng nhà nước
pháp quyền-XHCD ở nước
ta hiện nay
1)
Đánh giá
về thực trạng của nhà nước
ta hiện nay:
* Về ưu điểm:
Quá trình lãnh đạo
toàn dân tộc trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, hoàn
thành cách mạng DTDC và
xây dựng chủ nghĩa xã hội
nhà nước ta luôn nắm vững



chủ nghĩa Mác-Lênin và tư nhũng, quan liêu còn nhiều,
tưởng HCM về nhà nước. Vì nh4ng phân định về trách
vậy, nhà nước ta góp phần nhiệm, quyền hạn và sự phối
đắc lực thống nhất đất nước hợp giữa các cơ quan quyền
và xây dựng CNXH.
lực chưa tốt…
Nhà nước ta đã
Từ việc đánh giá thực
quản lí va điều hành xã hội trạng trên, xây dựng nhà
bằng pháp luật (về cơ bản), nước pháp quyền-XHCD là
và ngày nay, đang từng bước nhiệm vụ bức thiết ở nước ta
sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hiện nay là do các yêu cầu
hệ thống pháp luật chung sau:
cho cả nước.
Cần phải có nhà
Nhà nước ta đã nước pháp quyền đủ mạnh
hình thành được cơ chế và để bảo vệ và phát huy những
thể chế hoá quyền kàm chủ thành quả của cách mạng mà
của nhân dân trên nhiều lĩnh chúng ta đã đạt được. Đặt
vực: CT, KT,văn hoá, tư biệt là những thàng quả
tưởng… và nhờ đó nền dân trong giai đoạn đổi mới hiện
chủ XHCN liên tục được nay.
củng cố và pháp triển.
Cần phải có nhà
Trong tổ chức và nước pháp quyền đủ mạnh
hoạt động của nhà nước, nhà để giải quyết những vấn đề
nước ta luôn có sự đổi mới mới nảy sinh do mặt trái của
đáp ứng những yêu cầu được nền KT thị trường, kinh tế
đặt ra trong từng thời kỳ lịch nhiều thành phần: tệ nạn xã

sử, nhất là đáp ứng được cơ hội, ma tuý, phân hoá giàu
bản vai trò, chức năng của nghèo, đấu tranh GC trong
nhà nước trong thời kỳ đổi hợp tác đầu tư, liên doanh…
mới hiện nay. Đồng thời, Cần phải có nhà
nhà nước ta cũng dần dần nước pháp quyền đủ mạnh
hoàn thiện cơ chế thu hút sự đung nghĩa để phát huy
tham gia của nhân dân ngày được nền dân chủ XHCN.
càng nhiều vào việc xây Vì nếu thiếu nền dân chủ nó
dựng chính quyền nhà nước.
sẽ tạo ra lực cản lớn cho sự
* Những hạn chế:
phát triển của đất nước.
Bộ máy nhà nước Cần phải có nhà
ta chưa thực sự trong sạch, nước pháp quyền đủ mạnh
vững mạnh: tệ tham nhũng, với tư cách là cộng cụ
quan liêu, lãng phí của công, chuyên chính để đủ sức
tĩnh trạng mất dân chủ, phép đương đầu và chiến thắng
nước, kỷ cương xã hội rải diễn biến hoà bình của
rác ở nhiều nơi còn buông CNĐQ và các thế lực thù
lỏng…
địch ráo riết phá hoại thành
Quản lí nhà nước ta quả của CNXH và của nước
chưa ngang tầm với nhiệm ta. Có nghĩa là chúng ta luôn
vụ của thời kì đối mới, có cảnh giác âm mưa diễn biến
nghĩa là chưa đáp ứng được hoà bình của CNĐQ, là cuộc
yêu cầu đòi hỏi của sự đổi chiến tranh không có tiếng
mới trong giai đoạn hiện súng, CNTB luôn lợi dụng
nay. Đó là: chưa phát huy về KT,văn hoá, chính trị,
được những mặt tích cực, tình hình dân tộc, tôn giáo
khắc phục những hạn chế để gây rối, phân hoá nhằm

làm cho tình trạng bất công, xoá bỏ CNXH.
bất bình đẳng xã hội có xu
2)
Những
hướng gia tăng.
yêu cầu và phương hướng
Tổ chúc và hoạt
đổi mới:
động của bộ máy nhà nước * những yêu cầu mang tính
còn nặng nề: tình trạnh thiếu nguyên tắc:
kiến thức nghề nghiệp, bộ Trong đổi mới, nhà
máy cồng kềnh, tệ nạn tham nước luôn luôn bảo đảm

được bản chất cách mạng và
khoa học. Đó là giữ vững
đượclập trường quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng HCM cho mọi hành
động của cách mạng, hoàn
thiện nền dân chủ XHCN là
làm cho nhà nước thật sự
của dân, do dân và vì dân.
Trong sự đổi mới
phải bảo đảm quyền lực nhà
nước thống nhất, không
phân chia nhưng có sự phân
công rành mạch 3 quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong đổi mới của
nhà nước phải luôn luôn bảo

đảm sự lãnh đạo của Đảng,
nhằm bảo đảm tổ chức và
hoạt động đúng hướng,
mang bản chất GC công
nhân thống nhất hữu cơ với
tính nhân dân, tính dân tộc.
Nhà nước phải
quản lí mọi mặt của đời sống
xã hội bằng hệ thống pháp
luật và tăng cường pháp chế
XHCN.
* Phương hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền
XHCN của nước ta:
quan điểm của Đảng ta là:
trước hết tiến hành cải cách
và hoàn thiện các cơ quan
nhà nước (lập pháp, hành
pháp, tư pháp), cải cách một
bước nền hành chính quốc
gia; tiếp tục bvổ sung và
hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật để đáp ứng đòi hởi quản
lí trong tình hình mới. Đồng
thời, tiến hành thể chế hoa
nền dân chủ của nhân dân
thành pháp luật, thành cơ
chế chính sách và chỉ có như
vậy mới thực hiện dân chủ
được tốt nhất…

quan điểm trên của Đảng
ta được ghi trong văn kiện
ĐH VIII của Đảng về xây
dựng nhà nước pháp quyền
XHCD là: tiếp tục cải cách
bộ máy nhà nước, xây dựng
và hoàn thiện nhà nhước
CHXHCNVN trên cơ sở
quán triệt 5 quan điểm cơ
bản là:
1.Xây dựng nhà
nướcXHCN của dân, do dân
và vì dân; lấy liên minh GC

công nhân với nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền
tảng do ĐCS lãnh đạo. Thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính
với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của tổ quốc và
của nhân dân.
2. quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền: lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
3.thực hiện nguyên

tắc tập trung dân dân chủ
trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước.
4.tăng cường pháp
chế XHCN, xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam.
Quản lí xã hội bằng pháp
luật , đồng thời coi trọng
giáo dục, nâng cao đạo đức.
5.tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước.
Để làm rõ 5 quan điểm
trên, trước mắt cần tập trung
giải quyết một số lĩnh vực,
đó là:
Tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện nhà nước của
dân, do dân và vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhằn
phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong việc xây
dựng và quản lí nhà nước.
VK hội nghị lần thứ 3
BCHTW khoá VIII nêu rõ:
“chỉ khi nào phát động được
nhân dân đứng lên tham gia
các công việc nhà nước,
tham gia kiểm kê, kiểm soát
có hiệu quả, chúng ta mới

chống đượctham nhũng, giữ
được trong sạch của bộ máy
nhà nước”.
Nhân dân tham gia
công việc nhà nước trước
hết là ở những lĩnh vực chủ
yếu sau: tham gia lựa chọn
người đại diện cho mình
thông qua bầu cử đại biểu
HĐND các cấp và đại biểu
quốc hội; tham gia đóng góp
ý kiến vào những văn bản
pháp luật và những quyết
định quan trong của nhà


nước; tham gia giám sát hoạt
động của các cơ quan hành
pháp, tư pháp (điều tra, xét
xử, thi hành án…)
Đặc biệt hiện nay, ở
từng cơ sở nhân dân tham
gia và thực hiện cơ chế dân
chủ mà nhà nước đã ban
hành. Trong đó, nòng cốt là
cán bộ, Đảng viên phải luôn
ý thức rằng nhà nước là của
dân, do dân và vì dân; quyền
lực nhà nước là do dân trtao
cho những đại biểu ưu tú của

mình. Đồng thời, cần đấu
tranh kiên trì, kiên quyết để
ngăn chặn và khắc phục
những biểu hiện cơ hội
chính trị, lợi dụng chức
quyền và những sơ hở của
pháp luật để tham nhũng,
lãng phí, sống xa dân, ức
hiếp dân, gây phiền hà cho
dân.
Tăng cường liên
minh GC công-nông và tầng
lớp trí thức là nhằm chiến
thắng đói nghèo, lạc hậu
trong xây dựng CNXH trong
điều kiện cách mạng KH và
công nghệ hiện đại. Ngày
nay, vai trò của tri thửc càng
quan trọng, và nếuu bản thân
công-nông không có kiến
thức thì không thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội
(mặc dù trong GC côngnông đã có một bộ phận tri
thức hoá). Song, chúng ta
không thể phạm sai lầm
tuyệt đối hoá vai trò của trí
thức, hạ thấp vai trò của
công-nông. Lịch sử đã
chứng minh rằng liên minh
GC công-nông-trí thức đều

chung cảnh ngộ người dân
mất nước, đã gắn bó khăng
khít và đều có đóng góp
xứng đáng vào sự nghiệp
chung. Vì vậy, liên minh
công-nông-trí luôn có ý
nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp đổi mpới của đất
nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
Đổi mới nâng cao
chất lượng công tác lập pháp
và giám sát tối cao của quốc
hội đối với toàn bộ hoạt
động của nhà nước. Đó là:

+ Về lập pháp: ban hành các
đạo luật cần thiết để điều
chỉnh các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ưu tiên xây
dựng các luật về KT, các
quyền công dân và các luật
điều chỉnh trong công cuộc
cải cách bộ máy nhà nước,
các luật điều chỉnh các hoạt
động văn hoá thông tin. Coi
trọng việc tổng kết thực tiễn,
xây dựng các văn bản pháp
luật và ban hành các văn bản
cụ thể, dễ hiểu, dễ thực

hiện…
+ Về hoạt động giám sát:
nâng cao chất lượng, hiệu
kực và hiệu quả giám sát của
quốc hội và HĐND. Xác
định rõ phạm vi, nội dung,
cơ chế giám sát của quốc
hội, các Uy ban quốc hội và
HĐND với hoạt động thanh
tra, kiểm tra, giám sát. Song
song với việc bảo đảm các
quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân cân nghiên cứu,
hướng dẫn mọi công dân có
điểu kiện phát hiện, đề xuất,
kiến nghị giúp cho hoạt
động giám sát có hiệu quả.
Nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát
của cơ quan hành pháp, tư
pháp. Đồng thời giám sát
các cơ quan nhà nước trong
việc thu chi ngân sách và
các khoản viện trợ, vay vốn,
quỹ từ thiện… Chú trọng
giám sát thu chi tài chính ở
cơ sở và những khoản tiền
do nhân dân đóng góp, đồng
thời với việc giám sát bắt
người, quá trình điều tra, xét

xử, thi hành án…
Cải cách nền hành
chính nhà nước: là trọng tâm
của vi65c xây dựng, hoàn
thiện nhà nước. Trong
những năm trước mắt, cải
cách hành chính tập trung
những nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Về cải cách thể chế hành
chính: đẩy mạnh cải cách thể
chế và thủ tục hành chính
trên những lĩnh vực liên
quan trực tiếp đến đời sống
nhân dân. Giảm tối đa cơ
chế “xin-cho”; tổng kết kinh
nghiệm thực hiện cơ chế

thực hiện cơ chế một cửa để
chỉ đạo áp dụng rộng rãi trên
tòn quốc. Đồng thời với việc
xắp xếp tinh gọn, cắt bỏ
khâu trung gian những bộ
phận chéo chức năng, nhiệm
vụ, ngăn chặn tệ cửa quyền,
tham nhũng, hối lộ, vi phạm
pháp luật.
+ Về tổ chức bộ máy: chấn
chỉnh cơ cấu tổ chức, biên
chế, quy chế hoạt động của
bộ máy hành chính các cấp

làm cho bộ máy tinh gọn và
thực thi có hiệu lực từ TW
đến địa phương, cơ sở. Xác
định chức năn, nhiệm vụ,
quyền hạn và tráchnhiệm
của mỗi cấp nhằm tạo điều
kiện thuận lợi giải quyết kịp
thời những vấn đề đặt ra mà
nhân dân đòi hỏi.
+ Về đội ngũ cán bộ công
chức: xây dựng các văn bản
pháp quy về chế độ công vụ
và công chức. Quy định chế
độ đào tạo, tuyển dụng sử
dụng công chức. Xây dựng
cán bộ công chức nhà nước
vừa có trình độ chuyên môn
và kĩ năng nghề nghiệp cao,
vừa giác ngộ chính trị, có
tinh thần trách nhiệm, tận
tụy công việc, vừa có đạo
đức, liêm khiết khi thừa
hành công vụ.
Cải cách tổ chức và
hoạt động tư pháp: các cơ
quan tư pháp phải là mẫu
mực trong việc tuân thủ
pháp luật, phải thể hiện công
lí, tính dân chủ, công khai
trong hoạt động, hình thành

các toà án chuyên nghành và
nâng cao năng lực xét xử.
Phân định rõ chúc năng công
tố và kiểm sát của VKSND,
nâng cao chất lượng công tố
(điều tra, luận tội) tránh
những chồng chéo giữa
thanh tra nhà nước và viện
kiểm sát. Đồng thời với việc
khắc phục tình trạnh tồn
đọng án quá nhiều, quá lâu
hoặc dây dưa kéo dài thời
gian thi hành án.
Đẩy mạnh đấu
tranh chống tham nhũng:
kiên quyết đấu tranh thường
xuyên và có hiệu qua tệ nạn

tham nhũng trong bộ máy
nhà nước các cấp. Đấu tranh
chống tham nhũng phải đấu
tranh chống buôn lậu, lãnh
phí, quan liêu; tập trung vào
các hành vi lợi dụng chúc
quyền tham ô làm thất thoát
tài sản nhà nước, nhận hối
lộ… đồng thời, kết hợp
những biện pháp cấp bách
với những giải pháp có tầm
chiến lược nhằm vừa hoàn

thiện cơ chế, chính sách,
kiện toàn tổ chức, chấn
chỉnh công tác quản lí, khắc
phục sơ hở và xử lí kịp thời
mọi hành vi vi phạm, tội
phạm.
Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với nhà
nước trong tình hình mới
trên cơ sở xây dựng, chỉnh
đốn Đảng theo nghị quyết
ĐH VIII, NQ TW3, NQ
TW6 (lần 2), NQ TW 7 khoá
VIII nhằm chấn chỉnh kịp
thời cán bộ, Đảng viên làm
trong sạch các tổ chức Đảng
từ TW đến cơ sở, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu
cùa Đảng trong tình hình
mới.
Kết Luận:
Đổi mới tổ chúc, hoạt động
của nhà nước là công việc
vừa cơ bản, vừa cấp bách,
cần phải tính toán kĩ từng
bước đi thích hợp. Mấu chốt
của sự thành công đổi mới
hoạt động của nhà nước là
phải bảo đảm và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng.

Nếu chúng ta quán triệt đầy
đủ và thực hiện tốt nh774ng
yêu cầu và lhương hướng
nêu trên, thì nhà nước pháp
quyền XHCNVN sẽ được
thiết định vững chắc và
XHCD ngày càng phát triển
về mọi mặt. Đồng thời,
chúng ta có đủ điều kiện để
xây dựng thành công CNXH
theo cương lĩnh xây dựng
đất nước thời kì quá độ lên
CNXH ở nước ta.


Câu 9: Dùng lý luận về
các tổ chức chính trị xã hội
ngoài nhà nước và thực
tiễn cách mạng nước ta để
phân tích và chứng minh:
“để tiếp tục đưa sự nghiệp
đổi mới tiến lên giành
thành tựu to lớn hơn cần
thực hiện tốt việc mở rộng,
tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân ở trong nước
và nước ngoài, phát huy
dân chủ, động viên tối đa
sức mạnh của toàn thể dân
tộc vì mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.

Bài làm
Tổ chúc chính trị-xã hội
ngoài nhà nước là những tổ
chức manh tính quần chúng,
hình thành trên cơ sở tự
nguyện, tự chủ và mục tiêu
là tác động tới quá trình

chính trị-xã hội để thoả mãn
nhu cầu chính trị-xã hội của
các thành viên. Điều đó có ý
nghĩa là nó vừa mang tính
xã hội, tính quần chúng,
đồng thời lại vừa mang tính
chính trị. Nhìn chung, các tổ
chức chính trị-xã hội lấy
hành động chính trị-xã hội
làm phương thức chủ yếu để
tập hợp tổ chức hoạt động ủa
các thành viên nhằn gây ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực
với mức độ khác nhau đối
với quyền lực chính trị và
lợi ích của các thành viên
trong tổ chức mình.
Hiện nay, nước ta chủ
trương xây dựng nhà nước

pháp quyền XHCN, nghĩa là
xây dựng một nhà nước
quản lí xã hội bằng pháp
luật, nhưng trong thực tế nhà
nước cũng không thể can
thiệp vào tất cả các quan hệ
xã hội. Vì vậy, cùng với việc
xây dựng nhà nước pháp
quyền thì nhà nước cần
khuyến khích, tôn trọng các
quyền tự do của hội, các
đoàn thể nhân dân, thông
qua các tổ chức này lội cuốn
đông đảo các tầng lớp nhân
tự ngguyện tham gia vào
hoạt động chính trị-xã hội,
giúp đỡ nhau giải quyết các
vấn đề mà nhà nướck bao
quát hết. Xu hướng phát
triển của các tổ chức quần
chúng phi nhà nước là một
xu hướng dân chủ và tiến
bộ.
Các tổ chức chính trị- xã
hội ngoài nhà nước chủ yếu
của nước ta hiện nay là: Mặt
trận tổ quốc Việt Nam; hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
hội cựu chiến binh Việt
Nam; hội nông dân Việt

Nam. Các tổ chức trên đều
là thành viên của hệ thống
chính trị của nước ta, bản
chất của hệ thống chính trị
của nước ta là hệ thống
chuyên chính vô sản, chức
năng của các tổ chức chính
trị-xã hội ngoài nhà nước là
bảo vệ lợi ích chính đáng,
hợp pháp của các thành viên
trong tổ chức mình, song lợi

ích đó phải đặt trong mối
quan hệ phụ thuộc vào
những quy định về pháp
luật, về chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước.
Đồng thời, các tổ chức này
tập hợp các thành viên của
mình để tham gia vào đời
sống chính trị của đất nước;
giáo dục và nâng cao trình
độ về mọi mặt của các thành
viên để thực hiện có hiệu
quả mục tiêu của tổ chức đó
đặt ra. Mặt khác, vì nó là
thành viên của hệ thống
chính trị nước ta nên nó phải
thực hiện cơ chế bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân

lao động, từng bước góp
phần cùng Đảng và nhà
nước hình thành nền dân chủ
XHCN.
I.
Một số tổ chức
chính trị-xã hội ngoài nhà
nước trong thời kì quá độ
lên CNXH ở nước ta hiện
nay
Các tổ chức chính trị-xã hội
của nước ta có vai trò quan
trọng trong việc góp phần
tham gia xây dựng đường
lối, nghị quyết của Đảng,
tham gia xây dựng những
đạo luật quan trọng, động
viên đoàn viên, hội viên
thực hiện nhiệm vụ chính trị
của đất nước, của địa
phương và chính quyền cơ
sở. Ngoài ra, nó còn tham
gia giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, góp
phần đầu tranh chống tiêu
cực, tham nhũng làm trong
sạch bộ máy của Đảng và
chính quyền, làm lành mạnh
hoá quan hệ xã hội.
Mặt trận tổ quốc

Việt Nam:
Khẳng định chức năng
của mặt trận là đoàn kết, mặt
trận đoàn kết tất cả những
người Việt Nam (các GC,
các tầng lớp, dân tộc, tôn
giáo, thành phần, mọi giới,
mọi lứa tuổi, mọi vùng của
đất nước, người trong Đảng
và người ngoài Đảng, người
đang công tác và người đã
nghỉ hưu, mọi thành viên
trong đại gia đình dân tộc

Việt Nam dù sống trong
nước hay định cư ở nước
ngoài). Phát huy sức mạnh
của cả cộng đồng dân tộc,
truyền thống yêu nước và
lòng tự hào dân tộc, tán
thành mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh làm
điểm tương đồng; chấp nhận
những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung
của dân tộc, xoá bỏ mặc
cảm, định kiến, kì thị về quá
khứ, GC, thành phần, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin

cậy lẫn nhau, hướng đến
tương lai. Khối đại đoàn kết
toàn dân trong mặt trận tổ
quốc Việt Nam luôn được
củng cố và phát triển sâu
rộng trên cơ sở liên minh
công-nông và đội ngũ trí
thức.
Tổng liên đòan lao
động Việt Nam:
Về tổ chức công đoàn
Lênin viết: “nhiệm vụ chủ
yếu của công đoàn là bảo vệ
lợi ích của quần chúng, theo
nghĩa trực tiếp nhất và chính
xác nhất của từ đó”. Công
đoàn Việt Nam là tổ chúc
chính trị-xã hội rộng lớn của
GC công nhân và người lao
động Việt Nam tự nguyện
lập ra dưới sự lãnh đạo của
ĐCSVN, là thành viên trong
hệ thống chính trị của xã hội
Việt Nam.
Công đoàn cùng với cơ
quan nhà nước và tổ chúc
KT, tổ chức xã hội chăm lo
về quyền lợi của cán bộ,
công chức, viên chức và
những người lao động khác,

tham gia quản lí nhà nườc và
xã hội, thanm gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của các
cơ quan hà nước và tổ chức
KT, giáo dục cán bộ, công
nhân viên chức và những
người lao động khác pháp
huy vai trò làm chủ đất
nước, thực hiện nghĩa vụ của
công dân, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Đồng thời, công
đoàn cùng với nhà nước còn
có trách nhiệm phát triển sản
xuất, giải quyết việc làm, cải


thiện đời sống vật chất, tinh
thần của người lao động.
- Đoàn thanh niên cộng sản
HCM:
Trong quá trình đấu tranh
giải phóng dân tộc, đoàn
thanh niên luôn là lực lượng
xung kích và đóng góp to
lớn trong việc giành độc lập
dân tộc thống nhất đất nước.
Đoàn thanh niên luôn là lực
lượng tin cậy, là đội quân
hậu bị, là cánh tay đắc lực
của Đảng; và ngày nay, đoàn

TN luôn thể hiện tính tiên
phong của mình trong việc
tổ chức, tập hợp đoàn viên
thanh niên đảm nhận vai trò
xung kích của lực lượng trẻ
trong quá trình xây dựng
CNXH, góp phần thực hiện
đẩy nhanh tiến trình CNH,
HĐH đất nước theo chủ
trương và đường lối của
Đảng và nhà nước.
Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam:
Trong luận cương CT đầu
tiên của đảng đã khẳng định
mục tiêu của cách mạng
Việt Nam là giải phóng DT,
giải phóng GC và giải phóng
phụ nữ. Luận cương cũng
khẳng định “thực hiện nam
nữ bình quyền” là 1 trong 10
nhiệm vụ “cốt yếu” của cách
mạng Việt Nam. Thực hiện
chủ trương đó các tổ chức
phụ nữ với các tên gọi khác
nhau đã ra đời: hội phụ nữ
giải phóng, hội phụ nữ dân
chủ, hội phụ nữ phản đế,
đoàn phụ nữ cứu quốc…từ
những tổ chức đoàn thể phụ

nữ
tiền
thân
ngày
20/10/1946 Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam đã chính
thức được thành lập.
Là thành viên của hệ thống
chính trị, trong nhiều thập
kỷ qua, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam luôn có đóng góp
to lớn và đạt nhiều thành tựu
to lớn trong quá trình cách
mạng của dân tộc như: thời
kì 1930-1945 vận động phụ
nữ hăng hái tham gia phong
trào thi đua ái quốc, “giệt
giặc đói”, “diệt giặc dốt”,
“diệt giặc ngoại xâm”; thời

kì 1954-1975 phụ nữ hưởng
ứng phong trào như “phụ nữ
3 đảm đang”, “phụ nữ 5 tốt”
và nhiều tầng lớp phụ nữ tập
hợp hình thành nên thế trận
“đội quân tóc dài” đã góp
phần giành thắng lợi trong
cách mạng GPDT.
Bước vào thời kỳ đổi mới,
với phương thức họat động

khá tốt của hội đã đáp ứng
nguyện vọng bức thiết của
các phụ nữ với các phong
trào thi đua như: “phụ nữ
tích cực học tập,, lao động
sáng tạo, nuôi dạy con tốt,
xây dựng gia đình hạnh
phúc”, “phụ nữ giúp nhau
phát triển kinh tế GĐ, cần
kiệm xây dựng đất nước”,
“giỏi việc nước, đảm việc
nhà”…Đồng thời, hội cũng
đã thiết lập được mối quan
hệ với nhiều tổ chức quốc tế
và nhiện được nhiều sự hỗ
trợ, hợp tác có hiệu quả, góp
phần làm cho bạn bè quốc tế
hiểu biết hơn về Việt Nam.
Song, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, họat động
của hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam còn bộc lộ những
yếu kém nhất định làm giảm
vị trí của mình như: việc
bình đẳng với nam giới, bồi
dưỡng đào tạo nghề, học tập
nâng cao trình độ học vấn và
thực hiện quyền lợi về vai
trò, vị trí của người phụ nữ
trong xã hội mới…

II. Phương hướng đổi
mới các tổ chức chính trị
xã hội ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay
Để đưa công cuộc đổi mới
đất nước giành thắng lợi
nhiều mặt và trên nhiều lĩnh
vực. Xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn của đất nước, cùng
với hệ thống chính trị-xã hội
ngoài nhà nước phái không
ngừng đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động
nhằm tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiễu lực
quản lí của nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân
dân, có nghĩa là tăng cường
sức mạnh và hiệu lực của
chuyên chính vô sản làm cho

các tổ chức trong hệ thống
chính trị hoạt động năng
động và hiệu quả hơn:
Mặt trận tổ quốc
Việt Nam:
Hiện nay, với một tư duy
đổi mới để phát triển đất
nước thì vấn đề đoàn kết dân
tộc lại được nâng lên ở tầm

cao mới. Mặt trận tổ quốc
Việt Nam phát huy tinh thần
kế thừa truyền thống quý
báu của dân tộc, Đảng ta
luôn gương cao ngọn cờ
đoàn kết toàn dân, coi đó là
đường lối chiến lược cơ bản,
lâu dài, là nguồn sức mạnh
và động lực to lớn để xây
dựng và bảo vệ tổ quốc
trong thời kì công nghiệp
hoá, HĐH đất nước. Mặt
trận tổ quốc Việt Nam tán
thanh đường lối chủ trương
của Đảng, nhằm thực hiện
mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ,
phấn đấu sớm thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu, tiến lên
dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn
minh góp phần tích cực vào
sự nghiệp hoà bình, d0ộc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội trên
thế giới. Để thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ trên, trong
giai đoạn hiện nay, mặt trận
tổ quốc Việt Nam cần quán
triệt những chủ trương lớn

sau:
+ cần phải có các chủ
trương, chính sách pháp luật
đúng đắn trên tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội
nhằm đáp ứng nguyện vọng
và lợi ích chính đáng của các
giai tầng trong xã hội. Vì
chính sách luật pháp của nhà
nước là yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thực hiện
đại đoàn kết toàn dân và
sinh hoạt dân chủ trong xã
hội. Xây dựng chính sách
KT-xã hội đúng d9ắn ví
hạnh phúc con người làm cơ
sở phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân và
mọi công dân có cơ hội bình
đẳng làm ăn theo pháp luật.
Đổi mới và hoàn thiện các

chính sách cụ thể mà đặc
biệt là các chính sách phát
triển KT-xã hội, phân phối,
tiêu dùng, bảo đảm quyền
lợi và trách nhiệm của công
dân… là nhằm tạo ra những
động lực thúc đẩy phong
trào hành động cách mạng

nhân dân trong xây dựng
cuộc sống mới.
Đồng thời, đoàn kết phải
trên cơ sở lợi ích. Hiện nay
cơ cấu GC, cơ cấu xã hội
nước ta biến đổi rất đa dạng
và phong phú. Bên cạnh lợi
ích và nhu cầu chung thì các
GC, các tầng lớp xã hội của
nước ta đều có tiếng nói,
những nhu cầu, lợi ích riêng.
Đảng lãnh đạo nhà nước và
xã hội phải đề ra hệ chính
sách phản ánh lợi ích và
tiếng nói đa dạng của các
GC, các tầng lớp xã hội khác
nhau. Có như vậy n\thì chính
sách đại đoàn kết mới đi vào
chiều sâu và tạo ra động lực
phát triển KT-xã hội.
+ Thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc ngay trong
tổ chúc và hoạt động bộ máy
chính quyền nhà nước nói
riêng và hệ thống chính trị
nói chung.
+ Đoàn kết các giai tầng, các
dân tộc, các tôn giáo, người
Việt Nam ở trong nước và
địng cư ở nước ngoài tán

thành mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội xã hội
công bằng, dân chủ, văn
minh.
+ Mở rộng khối đại đoàn kết
dân tộc bằng các hình thức
đa dạng thíc hợp vợi từng
giới, từng thành phân xã hội,
từng địa phương và cơ sở.
+ xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân gắn với việc
phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Dân
chủ được thực hiện trong
thực tế cuộc si61ng trên tất
cả các lĩnh vực chính trị,
KT, văn hoá…ở các cấp, các
ngành.
Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam:


Để thc hiện nhiệm vụ
của công đoàn là nười tập
hợp, đoàn kết công nhân lạo
động, bồi dưỡng và động
viên họ nâng cao ý chí tự
lập, tự cường, năng động

sáng tạo, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh góp
phần làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh như NQ
ĐH VII công đoàn Việt Nam
và nghị quyết hội nghị TW
lần thứ VII (khoá VII)
ĐCSVN chỉ ra, tổ chức công
đoàn phải thực hiện nhiệm
vụ chính trị trong giai đoạn
đổi mới đất nước ta hiện nay
như sau:
+ Đổi mới và tăng cường
các hoạt động xã hội, chăm
lo đời sống, tạo động lực
thiết thực cho CNVC-LĐ.
+ Đổi mới hình thức và biện
pháp tuyên truyền GD của
công đoàn cho phù hợp với
từng điều kiện và từng loại
hình cụ thể.
+ Động viên tổ chức hoạt
động phong trào quần chúng
th745c hiện phát triển thắng
lợi chương trình phát triển
công nghiệp và công nghệ,
đấu tranh chống bệnh quan
liêu, tham nhũng.
+ Đổi mới và không ngừng

nâng cao năng lực các bộ
hoạt động công tác công
đoàn.
Song, bước vào thế kỉ
mới, ngày càng nổi lên
những vấn đề mới do nền
kinh tế thế giới đi vào thời kì
toàn cầu hoá mạnh mẽ, các
lực lượng tài chính-KT trở
thành lực lượng quốc tế hoá.
Tình hình đó đã tác động
trực tiếp đến phong trào
CNVC-LĐ và hoạt động của
tổ chức công đoàn. Công
đoàn Việt Nam cần quán
triệt đường lối, chủ trương
của Đảng và nhà nước, cùng
với các cấp, các ngành, đơn
vị sản xuất kinh doanh tìm
các giải pháp tháo gỡ khó
khăn, sắp xếp lại DNNN.
Quá trình sắp xếp lại
DNNN sẽ có hàng chục vạn
lao động dư thừa không có

việc làm. Vấn đề này, tổ
chức công đoàn có trách
nhiệm giải thích cho mọi
người lao động hiểu rõ: sự
nghiệp đổi mới đất nước

trong xu thế hội nhập và
toàn cầu hoá đòi hỏi các
doanh nghiệp phải chấp
nhận luật chơi của thị
trường. Với ý nghĩa đó phải
lảm cho người lao động
nhận thức đưpợc rằng sản
xuất kinh doanh có phát
triển bền vững thì lợi ích của
người lao động mới được
bền vững. Mặt khác, tổ chức
công đoàn cần tham gia với
nhà nước chuẩn bị tốt nguồn
lực chio tương lai, giải quyết
tốt vấn đề lao động do quá
trình sắp xếp lại và hoàn
chỉnh các văn bản pháp luật
nhằm hạn chế tối đa mặt tiêu
cực của toàn cầu hoá.
Về đổi mới công tác
tuyên tuyền GD là nhằm
phương châm hướng mạnh
về cơ sở, phù hợp với từng
đối tượng, đẩy mạnh một
bước việc xây dựng đội nhụ
CNVC-LĐ đáp ứng yêu cầu
của thời kì mới. Nâng cao
chất lượng nghiên cứu và
tham gia có hiệu quả việc
xây dựng và hoàn chỉnh

pháp luật, chính sách có liên
quan đến CNVC-LĐ. Đồng
thời làm tốt chức năng
nghiên cứu, giải quyết các
vấn đề thiết thực của
CNVC-LĐ và sâu sát cơ sở.
Tiếp xúc, lắng nghe ý kiến
của người lao động… vì
vậy, yêu cầu đòi hỏi tổ chúc
công đoàn và CNVC-LĐ
phải vươn lên mạnh mẽ,
năng động sáng tạo vượt qua
khó khăn thử thách, thực
hiện thắng lợi NQ ĐH VIII
công đoàn Việt Nam với
khẩu hiệu: “vì sự ngiệp công
nghiệp hoá, HĐH đất nước,
vì việc làm, đời sống, dân
chủ và công bằng xã hội,
xây dựng GC công nhân và
tổ chức công đoàn vững
mạnh”.
Đoàn thanh niên
cộng sản HCM:
Bác Hồ của xchúng ta là

người đã giành nhiều tình
cảm nồng nàn nhất đối với
thanh niên. Người đặt nhiều
kì vọng vào thanh niên, vào

thế hệ tương lai của đất
nước. Lúc sinh thời bác viết:
“đoàn thanh niên ta nói
chung là tốt, mọi việc đều
hăng hái xung phong, không
ngại khó khăn, co chí tiến
thủ. Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đúc cách mạng
cho họ thành những người
thừa kế xây dựng XHCN
vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”.
Nhờ sự quan tâm của Đảng
mà thanh niên không ngại
gian khổ, hi sinh luôn xứng
đáng với niềm tin cậy của
Bác, viết lên những trang sử
hào hùng của dân tộc. Tuy
nhiên, ngày nay trong hoàn
cảnh mới của đất nước,
trong dòng xoáy của nền KT
thị trường: chủ ngiã cá nhân,
lối sống thực dụng… Đòan
cũng còn nhiều lúng túng
trên nhiều phương diện như:
hình thức tổ chức chưa đủ
sức hấp dẫn đối với thanh
niên. Đặc biệt là chức năng

tổ chức cơ sở đoàn ngoài
DNNN còn chưa thật được
rõ… vì vậy, để nâng cao sức
sống của thế hệ trẻ, tổ chức
đoàn cần thiết thực hiện một
số phương hướng sau:
+ Tăng cường đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ
chức đoàn.
+ Đoàn Tnphải đa dạng
hoá hơn nữa các hình thức
tập hợp thanh niên, cải tiến
phương thức sinh hoạt, loại
hình sinh hoạt.
+ Hoạt động đoàn cần gắn
với chương trình KT-xã hội.
Gắn hoạt động đoàn trong
lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, giáo dục và ĐT,
chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng… nhằm thực hiện tốt
các chính sách phát triển
nông nghiệp nông thôn,
chương trình công nghiệp
hoá, HĐH đất nước, xoá đói
giảm nghèo, đền ơn đáp

nghĩa, xây dựng nông thôn
mới; khuyến khích tài năng
trên co sở tự do sáng tạo,

phát minh, cống hiến. Đồng
thời cùng với Đảng và nhà
nước có biện pháp và hình
thức thích hợp trong việc tôn
vinh, đãi ngộ xứng đáng các
tài năng, phát huy trí tuệ
trong nghiên cứu KH, xây
dựng luật pháp và quản lí xã
hội.
+ lồng ghép nhiều mục
tiêu và hiệu quả trong hoạt
động đoàn.
+ Đối với thanh niên:
Đoàn phải chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng, đào tạo phát triển
toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống,
văn hoá, nghề nghiệp, tạo
việc làm phát triển tài năng
và sức sáng tạo, phát huy vai
trò của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
Hội liên hiệp phụ
nữ:
Để thực hiện đổi mới,
nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động của mình, Đại
Hội Phụ Nữ Việt Nam lần
thứ VI (19871) đã xác địng

rõ chức năng của Hội LHPN
trong giai đoạn mới là tổ
chức đại diện, bảo vệ quyền
bình đẳng, dân chủ và lợi ích
hợp pháp của phụ nữ, giáo
dục phụ nữ xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Ngày 12/7/1993,
bộ chính trị có NQ
04/NQTW về đổi mới và
tăng cường công tác vận
động phụ nữ trong tình hình
mới nhằm:
+ Tạo ra sự chuyển biến mới
của toàn Đảng, toàn dân đối
với sự nghiệp giải phóng
phụ nữ hiện nay.
+ Phát huy mạnh mẽ vai trò
của phụ nữ trong công cuộc
đổi mới, tăng số lượng cán
bộ nữ trong các cơ quan
quyền lực.
+ Phát huy sức mạnh phụ nữ
trên các lĩnh vực đời sống xã
hội.
Ngày nay, thế kỷ XXI là
thế kỷ của KT tri thức, của
hội nhập quốc tế-Thế kỷ mà


bình đẳng giới là một trong

những vấn đề được quan tâm
mang tính toàn cầu. Để góp
phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng do Đảng đề ra, Hội
LHPN cần thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Vận động mọi tầng lớp
phụ nữ dấy lên phong trào
thi đua học tập, nâng cao
học vấn, nghề nghiệp,
nghiên cứu KH, ngoại ngữ,
công nghệ thông tin. Phối
hợp với các ngành hữu quan
có giải pháp hỗ trợ để thúc
đẩy phong trào thi đua học
tập.
+ Vận động các tầng lớp phụ
nữ đẩy mạnh phong trào thi
đua lao động sản xuất, thực
hành tiết kiệm, phát huy
sáng kiến cải tiến kĩ tuật và
tiếp thu kĩ thuật công nghệ
mới ứng dụng vào sản xuất
và đời sống nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu
quả.
+ Phối hợp các ngành chức
năng để khai thác nguồn lực
nhằm thực hiện xoá đói

giảm nghèo, tạo việc làm,
cải thiện điều kiện làm việc
cho phụ nữ.
+ Tổ chức hướng dẫn phụ
nữ đẩy mạnh phong trào xây
dựng gia đình văn hoá mới,
bảo vệ và chăm sóc bà mẹtrẻ em; phòng chống tệ nạn
xã hội, bài trừ hủ tục, mê tín
dị đoan từ mỗi GĐ và cộng
đồng.
+ Nâng cao nhận thức xã hội
cho phụ nữ về vấn đề giói
trong phát triển; nâng cao
chất lượng tham gia xây
dựng pháp luật, chính sách
để quan điểm về giới được
thể hiện rõ nét trong các
chính sách của nhà nước; tạo
điều kiện cho cán bộ nữ
tham gia ngày càng nhiều
vào các cơ quan lãnh đạo và
quản lí các cấp, các ngành
để tương xứng với lực lượng
lao động xã hội và khả năng
đóng góp của phụ nữ.
+ Tiếp tục củng cố và mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế
trên cơ sở đường lối, chính

sách đối ngoại của Đảng và

nhà nước, vì sự bình đ83ng
và phát trir63n của phụ nữ
Việt Nam. Đồng thời tăng
cường hiệu quả và vị thế của
hội trong các hoạt động
qyý«chính sách tế ở khu vực
và trên toàn thế giới.
+ Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ Hội và chất
lượng, hiệu quả hoạt động
của bộ máy Hội Phụ nữ các
cấp. Đổi mới mạnh mẽ hơn
nữa phương thức hoạt động
của Hội, làm cho Hội thực
sự luôn luôn là chỗ dựa đáng
tin cậy của Phụ nữ Việt
Nam.
III. Kết Luận:
Cùng với mặt trận tổ quốc,
các tổ chức chính trị xã hội
ngoài nhà nước có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp
đại đoàn kết toàn dân xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, phát
huy dân chủ, giữ gìn kỉ
cương phép nước, nâng cao
trách nhiệm của công dân,
thúc đẩy công cuộc đổi mới,
thắt chặt mối liên hệ giữa
Đảng, nhà nước với nhân

dân. Nhân dân ta vừa thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp
vừa thực hiện quyền làm chủ
thông qua đại diện là các cơ
quan nhà nước, các đại biểu
nhân dân và các tổ chức
chính trị-xã hội ngoài nhà
nước trong hệ thống chính
trị. Phát huy quuyền làm chủ
của nhân dân trên cơ sở thực
hiện khẩu hiệu: “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”, qua đó tăng cường đoàn
kết toàn dân, củng cố sự
nhất trí về chính trị.
Ngày nay, chủ trương
của Đảng và nhà nước ta là
tiếp tục đổi mới phương
thức hoạt động của các tổ
chức CT-xã hội ngoài nhà
nước nói riêng và của hệ
thống chính trị nói chung,
trước hết là đổi mới phương
thúc lãnh đạo của Đảng, sự
quản lí điều hành của nhà
nước. Đổi mới bằng các dân
chủ hoá bản thân các tổ chức
chính trị-xã hội theo hướng
cơ bản là: đa dạng hơn nữa


hình thức tập hợp quần
chúng và đa dạng hóa chức
năng, nhiệm vụ của các tổ
chức CT-xã hội đó.
Mặt khác, đổi mới là
phương thức hoạt động của
các tổ chức CT-xã hội ngoài
nhà nước là góp phần khắc
phục tình trạnh hành chính
hoá, quan liêu, xa dân. Xây
dựng các phong trào quần
chúng phải gắn liền, với
chương trình, kế hoạch phát
triển KT-xã hội của cả nước
và địa phương. Hướng mạnh
về cơ sở để phát triển tổ
chức, tăng cường sinh hoạt
chính trị, tư tưởng đáp ứng
nhu cầu và lợi ích thiết thực
của các đoàn viên, hội viên,
các tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân.

Câu10: Văn hoá

chính
trị là một phạm trù quan
trong của chính trị học, có
vai trog to lớn trong hoạt

động thực tiễn của cán bộ
chính trị và trong đời sống
công dân. Bằng lý luận về
văn hóa chính trị và thực
tiến, đ/c hãy phân tích:
- Cấu trúc của Văn hóa
chính trị.
- Những phương hướng ơ
bản để naâng cao văn hóa
chính trị của nhân dân ta
hiện nay.
Bài làm.
Văn hóa vừa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc
đấy sự phát tiễn kinh tế – xã
hội. Văn hóa chính trị là đối
tượng thuộc lĩnh vực nghiên

cứu của chính trị học. Văn
hóa chính trị đã được đề cập
từ lâu về mặt nội dung,
nhưng ở nước ta những năm
gần đây văn hóa chính trị
mới thực sự trở thành một
lĩnh vưc nghiên cứu. Vì vậy
thành tựu lý luận về văn hóa
chính trị còn ở mức hết sưc
khiêm tốn.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi

mới của đất nước đang đi
vào chiều sâu của quá trònh
cải cách chính trị, của dân
chủ hóa đời sống chính trị
lại càng nỗi lên như một yêu
cầu bức xúc. Ngày nay văn
hóa chính trị rất cần thiết
trong việc xử lý các mối
quan hệ của đời sống chính
trị quốc tế.
1, khái niệm về văn hóa và
văn hóa chính trị.
1/ khái niệm về văn hóa:
Văn hóa là phạm trù dùng để
chỉ trình độ phát tiễn nhất
định của xã hội, của những
khả năng và năng lực sáng
tạo của con người, trình độ
phát tiễn đó được phản ảnh
trong các kiểu và hình thức
tổ chức cuộc sống cũng như
hoạt động của con người.,
trong những giá trị về vật
chất và tinh thần do con
người tạo ra.
Dự thảo Văn kiện ĐH 9
khẳng định:” Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, thể
hiện tầm cao và chiều sâu
về trình độ phát triển của

dân tộc. Vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế – xã hội “
2/ Khái niệm về văn hóa
chính trị.
Theo quan điểm của Chủ
nghĩa MLN thì văn hóa
chính trị là một phương diện
của văn hóa trong xã hội có
giai cấp, nói lên phẩm chất
và hình thức hoạt động
chính trị của con người cùng
với thiết chế chính trị mà họ
tạo ra để thực hiện lợi ích
cua giai cấp.
Với ý nghĩa đó văn hóa
chính trị là toàn bộ phẩm
chất chính trị của con người
để con người lựa chọn, tiếp


thu trong ứng xử hàng ngày.
Phẩm chất chính trị đó giúp
cho con ngươì thực hiện
được lợi ích của Đảng của
Nhà nước và của giai cấp.
II. Cấu trúc của văn hóa
chính trị.
- văn hóa chính trị là một nội
dung trong những chỉ tiêu

xác định trình độ chung của
ý thức xã hội và ý thức công
dân. Văn hóa chính trị chính
là trình độ học vấn và văn
hóa nói chung với tư cách là
cơ sở của văn hóa chính trị.
Vì nếu không có trình độ
học vấn nhất định thì khó có
thể đạt tới ý thức chính trị tự
giác hoặc tính tích cực trong
chính trị, nhiều việc làm
manh động, tự phát vô chính
phủ.
Lê nin cho rằng dân chủ và
CNXH đòi hỏi một trình độ
văn hóa cao. Song. Khi bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội mà trình độ văn hóa,
khoa học kỹ thuật, năng lực
quản lý của cán bộ đảng
viên và nhân dân lao động
còn quá thấp so với yêu cầu
của các nhiệm vụ mới. Lênin
cũng cho rằng phải đặt vào
chương trình giáo dục chính
trị cho tất cả mọi người để
họ hiểu và biết phải xây
dựng CNXH như thế nào và
bằng cách nào. Xóa nạn mù
chử, nâng cao trình độ học

vấn cho nhân dân, theo
Lênin là điều kiện đẻ thực
hiện chính trị. Lênin viết:”
Một người không biết chử là
người đứng ngoài chính
trị… không thế, thì không
thể có chính trị, không thế
thì chỉ có những tin đồn đại,
những chuyện nhảm nhí,
những chuyên hoang đường,
những thiên kiến, chứ không
phải chính trị.”
- Tri thức chính trị, sự hiểu
biết về chính trị cũng là một
bộ phận cấu thanhf văn hóa
chính trị. Nó được hình
thành từ các nguồn: Trường
lớp đào tạo để cung cấp
những kiến thức về hiểu biết
chính trị; đồng thời qua quá
trình hoạt động thực tiễn các

nhà chính trị ợc bồi đắp,
cung cấp cho nhận thức làm
choậnnnn thức về chính trị
ngày càng tăng dần lên.
Chình trị học cho rằng, trong
công tác tổ chức cán bộ thì
phải chú ý cả 2 nguồn đó,
không nên nhấn mạnh nguồn

này, coi nhẹ nguồn kia. Bởi
vì mỗi nguồn đều có ưu
điểm riêng của nó. Song
chúng ta cũng phải thừa
nhận rằng, kinh nghiệm là
vốn quý, nhưng nếu chỉ
dừng lại ở kinh nghiệm thì
dễ bị bệnh chủ nghĩa kinh
nghiệm, và cũng chỉ nếư
dừng lại ở đào tạo trường
lớp ( lý luận) thì chúng ta dễ
rơi vào căn bệnh chủ nghĩa
giáo điều. Vì vậy, cần phải
phát huy được ưu thế của
mỗi nguồn và khắc phục
được hạn chế của nó.
- Niềm tin chính trị, lý lưởng
chính trị cũng là bộ phận cấu
thành của văn hóa chính trị.
Nó hình thành trên cơ sở tri
thức chính trị được tích lũy
biến thành niềm tin, lý tưởng
giai cấp; từ niềm tin chính
trị, lý tưởng chính trị sẽ biến
thành hoạt động chính trị
thực tiễn, là kết quả của
hành động chính trị, là cái
chuẩn mực chính trị, nếp
sống chính trị, là những thói
quen ứng xử trong những

tình huống chính trị cụ thể.
- Những chuẩn mực chính trị
được xác lập trong lịch sử
dân tộc là bộ phận cấu thành
văn hóa chính trị.
- Những phương tiện, những
biện pháp để thực hiện mục
tiêu chính trị cũng phải
mang tính hiệu quả và nhân
đạo. Đây là sự khác nhau
giữa chính trị học tư sản và
chính trị học vô sản. Ở Nhà
nước vô sản, mục tiêu đề ra
là vì con người, giải phóng
con người, giải phóng toàn
xã hội, chăm lo phát triển
toàn diện con người. Vì vậy,
phương pháp thực hiện cũng
phải tốt để chằm thực hiện
đạt tới mục tiêu đó. Ở
CNTB, mục tiêu đề ra là bóc
lột các nước thuộc địa càng

nhiều thì càng tốt, do vậy
phương pháp và con người
để thực hiện mục tiêu thì bất
chấp kể cả dùng vũ lực, gây
chiến tranh, cấm vận…
Song, cũg có những trường
hợp mục tiêu tốt nhưng con

đường thực hiện mục tiêu thì
không tốt như thời nhà Tần
(Trung quốc ): Xây dựng
Vạn lý trường thành mục
tiêu là để chống giặc nhưng
con đường thực hiện mục
tiêu thf bằng máu và nước
mắt do sử dụng công sức của
nhân dân một cách khắc
nghiệt và tàn nhẫn.
Ngoài ra, hệ tư tưởng chính
trị là đường lối, chính sách
của Đảng. Đây chính là bộ
phận cốt lõi của văn hóa
chính trị và giữ vị trí cực kỳ
quan trọng trong văn hóa
chính trị. Nó tể hiện lợi ích
cách mạng của một giai cấp
và đống vai trò chủ đạo
trong đời sồn tinh thần xã
hội.
III. những phương hướng cơ
bản để nâng cao văn hóa
chính trị của nhân dân ta
hiện nay.
1/ Thực trạng văn hóa chính
trị của nước ta hiện nay.
+ Ưu điểm:
- Hạt nhân cơ bản của văn
hóa chính trị nước ta hiện

nay là chủ nghĩa Mác Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trong quá trình đi theo
Đảng làm cách mạng thì
trình độ văn hóa chính trị
( ý thức chính trị, giác ngộ
chính trị ) của nhân dân ta có
một bước chuyển biến về
chất.
- Nhiều truyền thống quý giá
về văn hóa chính trị đã được
hun đúc, kế thừa và phát tiễn
như là: Lòng nhân ái, sự
khoan dung, độ lượng, tính
cộng đồng…đã trở thành tập
quán, đạo lý, chuẩn mực để
xét đoán những hành vi
chính trị.
- trong văn hóa chính trị
nhân tố dân tộc giữ vai trò
cực kỳ quan trọng. Ở nước
ta, tính dân tộc đậm nét và
sâu sắc bản sắc dân tộc. Đặc

điểm là văn hóa chính trị
nước t không sùng tín, quan
hệ vợ chồng bình đẳng, thể
hiện: không sùng bái văn
hóa nước ngoài một cách mù
quáng, mà nó còn là sự tiếp

thu có chọn lọc như: tiếp thu
truyền thống nhan nghĩa của
đạo Khổng, loại bỏ tam
cương ngũ thường của Nho
giáo.
- Dân tộc ta mẫn cảm về
chính trị, rất nhiệt tình tham
gia vào công việc của Nhà
nước. Đặc biệt là vấn đề đọc
lập, chủ quyểncua dân tộc.
Sự nhạy cảm đó là “Gen” rất
trội của dân tộc Việt nam.
+ Hạn chế:
- Một bộ phận dân tộc ta còn
hạn chế trong văn hóa tranh
luận chính trị ( Vì thông qua
tranh luận nhận thức về hiểu
biết chính trị được nảy sinh )
- Ý thức, sự hiểu biết pháp
luật, ý thức tuân thủ pháp
luật của nhân dân ta còn
nhiều hạn chế và ở trính độ
thấp.
- Những yếu tó tiêu cực mới
của văn hóa chính trị khi
chúng ta chuyển nền kinh tế
tập trung quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế theo cơ chế
thi trường thì một bộ phận
nhân dân coi lợi ích kinh tế

là tất cả, là trên hết và xem
nặng lối sống hưởng thụ…
- Tình trạng đẳng cấp trong
chính trị nưa là: Đeo bám
chức quyền, địa vị vẫn còn
nặng nề trong xã hội.
2/ Những vấn đề thực tiễn
cấp bách của việc hình thành
và giáo dục văn hóa chính trị
hiện nay:
Từ khi nước ta chuyển đổi
nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN thì
những nhân tố mới xuất hiện
tác động trực tiếp đến sự
hình thành văn hóa chính trị
ở nước ta. Đó là:
- Do tính năng động của nền
kinh tế thị trường đẫ giải
phóng sức sản xuất và các


tiềm năng xã hội làm xuất
hiện tư duy mới về nền kinh
tế hàng hoa và kinh tê thị
trường. Trong nền kinh tế thị

trường, yếu tố cạnh tranh đã
trở thành một thực tế trong
SXKD, trong các quan hệ
kinh tế - xã hôi. Do quan hệ
về lợi ích, con người quan
tâm nhiều đến năng xuất
chất lượng và hiệu quả
SXKD, tính năng động của
mỗi con người với tư cách là
con người kinh tế tăng lên rõ
rệt, con người bớt đi màu
sắc giáo điều, tính hình thức
và ngày càng có chiều
hướng thiết thực hơn trong
quan hệ lợi ích và giải pháp
thực hiện lợi ích.
Tuy nhiên kinh tế thị trường
cũng bộc lộ nhiều mặt tiêu
cực như là: Chủ nghĩa cá
nhân, lối sống thực dụng, ích
kỷ, chạy theo đồng thiền,
thậm chí coi thường các
chuẩn mực đạo đức, các giá
trị nhân văn, các di sản
truyền thông tốt đẹp của dân
tộc… Từ những mặt trái đó
dẫn đến khuynh hướng con
người thuần túy về kinh tế,
thờ ơ trước các vấn đề tiêu
cực, ít hoặc không quan tâm

đến vấn đề chính trị, đến
công việc nhà nước. Đồng
thời với nó là cách nhìn
nhận thiển cận về chính trị,
về văn hóa tinh thần, gây rối
loạn về trật tự, kỷ cương xã
hội và ảnh hưởng trực tiếp
đến chính trị.
- Quá trình dân chủ hóa đời
sống kinh tế – xã hội đã tạo
động lực mạnh mẽ cho việc
xây dựng xã hội thành một
xã hội dân chủ theo hướng
xã hội công dân và nhà
nước pháp quyền XHCN,
trong đó dân chủ hóa đời
sống tinh thần đã tạo điều
kiện giải phóng tự do tư
tưởng con người, đặc biệt là
sự phát tiễn tính độc lập suy
nhĩ trong tư duy và tính sáng
tạo trong hành động. Song,
trong điều kiện chuyển đổi
mo hình kinh tế và cơ chế
quản lý mới thì hệ thống
pháp luật chậm sữa đổi,

thiếu đồng bộ, quản lý kinh
tế xã hội còn nhiều sơ hở
dẫn đến tính vô chính phủ,

phats sinh và tái sinh những
tư tưởng bảo thủ, trì trệ gây
bất lợi cho sự ổn định chính
trị và hình thành văn hóa
chính trị theo hướng tích cực
-Quá trình đổi mới, sự phát
triển nhu cầu đa dạng về văn
hóa là dấu hiệu tiến bộ. Nhờ
đó con người có điều kiện
tiếp nhận thông tin, nâng cao
hiểu biết, nâng cao nhạy
cảm trong cuộc sống. Song,
nặt trái của nền kinh tế thị
trường là khuynh hướng
thương mại hóa văn hóa đã
tạo nên những lệch lạc về thị
hiếu nghệ thuật, về cách
đánh giá, cách nhìn nhận các
sự kiện chính trị đã tác động
ảnh hưởng tiêu cực tới sự
hình thành văn hóa chính trị
ở nước ta.
- Về tình hình thế giới: Sự
sụp đổ của Liên Xô và các
nước XHXN ở Đông Au đã
gây nên những bất lợi trong
tương quan trật tự thế giới
và trong cuộc đấu tranh giữa
2 hệ tư tưởng vô sản và tư
sản. Đồng thời khuynh

hướng chủ nghĩa cơ hội, xét
lại và phản bội chủ nghĩa
Mac LÊNIN và CNXH là
cơn dịch bệnh lan tràn, gây ô
nhiểm bầu không khí tinh
thần, đạo đức và chính trị và
gây ảnh hưởng không lành
mạnh đến sự hình thành văn
há chính trị ở nướcta. Biểu
hiện của nó là thái độ thờ ơ,
phủ nhận hoặc hoái nghi hệ
tư tưởng Mác-xit và con
đường đi lên CNXH, đặc
biệt là đối với lớp trẻ thiếu
bản lĩnh và kinh nghiệm về
chính trị.
3/ Một số phương hướng cơ
bản để nâng co trình độ văn
hóa chính trị của nhân dân ta
trong giai đoạn hiện nay.
Từ việc phân tích về thực
trạng tình hình văn hóa
chính trị và những ván đề
thực tiễn cấp bách của việc
hính thành và giáo dục văn
hóa chính trị ở nước ta hiện
nay. Qua đó chúng ta cần

chú ý một số phương hướng
cơ bản để nâng cao trình độ

văn hóa chính trị của nhân
dân ta như sau:
- Nâng cao trình độ học vấn,
trình độ văn hóa nói chung
cho nhân dân, vì trình độ
học vấn, trình độ văn hóa
chính là cơ sở của văn hóa
chính trị. Về trình độ học
vấn và trình độ dân trí, một
học giả phương Tây nói:”
Xây một trường học thì bớt
đi một nhà tù “
- Đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính
trị để góp phần hình thành
thể giới quan khoa họcvà
niềm tin trong nhân dân, đặc
biệt là đối với cán bộ, đảng
viên, trí thức, văn nghệ sỹ,
thanh niên, sinh viên ở các
trường đại học và cao
đẳng… Yêu cầu trong đổi
mới cần chú ý những nội
dung sau:
+ Coi trọng giáo dục tính
cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác Lênin.
+ Giáo dục phải phù hợp với
từng loại hình cụ thể.
+Giáo dục trên cơ sở sáng

tạo, khắc phục giáo điều
trong thực tiễn, khuyến
khích tìm tòi trên một số
định hướng đúng.
+ Trong quá trình học tập lý
luận chính trị, học tập nghị
quyết thì cần phải khuyến
khích tìm tòi và dân chủ
trong tranh luận.
+ Phải đầu tư cho các mặt
giáo dục lý luận chính trị:
Tài liệu, giáo viên, báo cáo
viên, tài liệu học tập, giảng
dạy, trường lớp…
- Sử dụng tối đa các phương
tiện thông tin đại chúng để
tuyên truyền trong đông đảo
quần chúng nhân dân
nhữngậnnnn thức mới mẽ về
CNXH, những triễn vọng và
thành tựu trong công cuộc
đổi mới đất nước, những
thành tựu về : Kinh tế, văn
hõa khoa học kỹ thuật của
nhân loại. Đặc biệt chú trọng
tổng kết thực tiễn quá trình
đổi mới, đông thời tạo ra sự
thống nhất rộng rãi về

đường lối chr trương chính

sách của Đảng và Nhà nước
( vì mục đích tuyên truyền
và tăng niềm tin cho nhân
dân ).
- Tăng cường hình thức giao
tiếp văn hóa tinh thần theo
yêu cầu dân chủ hóa và mở
rộng hoạt động đối ngoại
trao đổi kỷ năng và phương
pháp văn hóa tranh luận
( Mở rộng giao lưu văn hóa
như chương trình SV 2000,
giờ thứ 9 của Tổng liên đoàn
lao động Việt nam, ở nhà
chủ nhật, gặp nhau cuối tuần
của đài truyền hình Trung
ương, chương trình về
nguồn thăm lại chén trường
xưa của Trung ương đòan,
Gặp mặt truyền thống của
Hội cựu chiến binh Việt
nam).
- Mở rộng hình thức và
phương pháp tập hợp giáo
dục quần chúng theo các
đoàn thể, các hội, các hiệp
hội. Sự phát triễn sâu rộng
các hội của quấnchung là
biểu hiện trính độ phát triển
của văn hóa dân chủ. Đây là

môi trường rất tốt để trao
đổi, giáo dục văn hóa cho
công dân trong một xã hội
đang đổi mới.
- Chúng ta đặc biệt coi trọng
nghiên cứu khai thác di sản
tư tường Hô Chí Minh về
văn hóa chính trị. Đó
là:những bài viết, lời nói,
cách ứng xử của Hồ CHí
Minh.
+ Hồ Chí Minh đòi hỏi cán
bộ, đảng viên phảo ham học
hỏi, trong đó chú trọng học
lý luận chính trị và phải biết
tự vượt lên cao hơn chính
mình. Người cho rằng: Lý
luận chính trị như là trí
khôn, là bàn chỉ nam của
con tàu.
+ Hồ Chí Minh đòi hỏi cán
bộ, đảng viên phải thường
xuyên rèn luyện chính mình
: Cần, kiệm, liêm chính, chí
công vô tư và phải” cả quyết
sữa lỗi của mình”.
+ Trong ứng xử quan hệ với
đồng chí, đồng nghiệp, với
nhân dân không nên nói một



đằng, làm một nẻo mà phải
sống với nhau có tình, có
nghĩa. Người cho rằng: Đọc
hết sách vở của Chủ nghĩa
Mác Lênin mà sống với
nhau không có tình, có nghĩa
thì không hiểu gì về chủ
nghĩa Mác Lênin.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu khi
có chức có quyền cần đề
phòng một só bệnh nó dễ đi
liền với chức quyền như:
Bệnh cậy thế, bệnh tham
nhũng, bệnh địa phương chủ
nghĩa, bệnh chia rẽ, bè phái,
bệnh kiêu ngạo.
Ngoài ra để văn hóa chính
trị trở thành phổ biến và
thâm nhập rộng rãi vào quần
chúng nhân dân thì cần sớm
tập trung lực lượng chuyên
gia để nghiên cứu và tiễn
khai các đề tài về chính trị
và khoa học chính trị, trong
đó có vấn đề về văn hõa
chính trị.

Câu 11:


Đồng chí hãy
trình bày phương pháp luận,
những yêu cầu cơ bản của
việc xây dựng, tổ chúc thực
hiện quyết sách chính trị và
vai trò của quyết sách chính
trị.

Bài Làm
Việc xây dựng tổ chúc
thực hiện quyết sách chính
trị là chức năng lãnh đạo của
Đảng. Bởi ví trong quá trình
lãnh đạo nhằm cải tạo hiện
thực, cải tạo xã hội cũ. Xây
dựng xã hội mới luôn xuất
hiện những vấn đề mới phát
sinh, đòi hỏi cơ quan lãnh
đạo giải quyết để thúc đẩy

sự vận động tiến lên của xã
hội. Chính vì vậy, việc xây
dựng tổ chức thực hiện
quyết sách chính trị là việc
làm tất yếu của hoạt động
lãnh đạo nhằm giải quyết
vấn đề nảy sinh từ thực tế,
chuyển từ trạnh thái có sang
trạng thái cần phải có theo
đúng quy luật phát triển nội

tại của xã hội.
I.
Cơ sở phương pháp
luận để xây dựng và tổ chức
thực hiện quyết sách chính
trị
1) khái niệm quyết
sách chính trị và vai trò của
quyết sách chính trị:
Quyết sách chính
trị là đường lối, là NQ của
Đảng. Đường lồi của Đảng
là khoa học, là nghệ thuật
lãnh đạo chính trị của GC
cônh nhân trong cuộc đấu
tranh từng bước cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới;
đường lối còn là bao quát
một hệ thống những quan
điểm của Đảng và mang tíng
chiến lược ở từng thời kì
cách mạng cụ thể. Có thể có
đường lối chung cho toàn bộ
quá trình cách mạng, và có
thể có đường lối cho từng
giai đoạn ứng với từng
nhiệm kì của ĐH Đảng.
Nghị quyết của Đảng bao
gồm: Nghị Quyết của trung
ương, Đảng bộ, chi bộ, của

các ngành địa phương…, là
sự cụ thể hoá đường lối
thành những mục tiêu,
những nhiệm vụ cụ thể cho
một lĩnh vực của đời sống xã
hội, cho một địa phương,
một địa bàn, một cơ sở hoặt
một khu vực của đất nước.
Giữa đường lối và nghị
quyết có sự đồng nhất và
khác nhau. Với ý nghĩa
đường lối là sự bao quát một
hệ thống quan điểm của
Đảng mang tính chiến lược
ở những giai đoạn cách
mạng nhất định và nghị
quyết là sự cụ thể hoá đường
lối với một ngành, một địa
phương, một cơ sở… thì
giữa nghị quyết của TW, của
Đảng bộ của các ngành và

đường lối có sự đồng nhất
về nội dung cơ bản. Nhưng
xét về mức độ của tính toàn
diện, tính bao quát, về phạm
vi tác động, mức độ của tính
phổ biến… thì so với đường
lối mọi nghị quyết mang tính
hạn hẹp hơn. Đồng thời

phạm vi của mọi nghị quyết
càng hạn hẹp bao nhiêu thì
mọi nội dung cùa nghị quyết
càng mang tính cụ thể bấy
nhiêu.
Vai trò của quyết
sách chính trị:
Quyết sách chính trị luôn
có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với một Đảng. Nó
bảo đảm tính tự giác, tính
định hường đúng đắn và tính
hiệu quả của hoạt động
chính trị nhằm biến đổi xã
hội một cách thực tế thei
hướng tiến bộ. Sự quan
trọng của quyết sách chính
trị đối với một Đảng đựoc
thể hiện ở 2 cơ sở sau:
+ Xuất phát từ nội dung
của quyết sách chính trị. Nôi
dung của quyết sách chính
trị luôn thể hiện 3 nội dung
cơ bản sau:

Quyết sách chính
trị đề ra mục tiêu và định
hướng cho cách mạng (kể cả
GC VS và GC TS). Đây là
nội dung cơ bản nhất, quan

trọng nhất. Minh chứng là
quyết sách chính trị cùa
Đảng ta được thể hiện đúng
đắn với chính cương vắn tắt
và sách lược vắn tắt của
Đảng tại hội nghi thành lập
Đảng 3/02/1930, tuy còn sơ
lược nhưng đã vạch ra
đường lối cơ bản, đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam, và
là cương lĩnh đầu tiên của
Đảng, đó là: “chủ trương
làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”.
Với cương lĩnh của Đảng,
nhiệm vụ vủa cách mạng tư
sản dân quyền là đánh đuổi
đế quốc pháp xâm lược và
bọn phong kiến tay sai, làm
cho nước nhà độc lập, tự do;
tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc, phong kiến chia

cho dân cày nghèo, quốc
hữu hoá toàn bộ xí nghiệp
của bọn đế quốc, thành lập
chính phủ công nông binh và
tổ chức quân đội công nông.
Đồng thời cương lĩnh xác

định lực lượng cách mạng
trước hết là công-nông do
GC công nhân lãnh đạo,
song phải lôi kéo cho được
nhiều thành phần tiểu TS, trí
thức, trung nông về phía
cách mạng. Đối với phú
nông , trung tiểu địa chủ và
TS Việt Nam chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi
dụng hoặc trung lập, bộ
phận nào rõ mặt thì phải
đánh đổ. Sự ra đời của Đảng
và tính đúng đắn của cương
lĩnh đã đánh dấu một bước
ngoặc căn bản của lịch sử
cách mạng Việt Nam, chấm
dứt thời kì khủng hoảng về
đường lối cứu nước, là sự
kiện có ý nghĩa quyết định
đối với toàn bộ quá trình
phát triển cách mạng Việt
Nam từ đó và về sau này.

Quyết sách chính
trị là cần phải xác định bạn
đồng minh và kẻ thù để từ
đó bố trí tương quan lực
lựơng cách mạng. Hực tiễn
cách mạng Việt Nam đã

chứng minh là cách mạng
tháng 8/1945 với khẩu hiệu
“nhật pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”, Hội
nghị toàn quốc của Đảng
họp từ ngày 13 đến
15/08/1945 khẳng địng
Đảng lãnh đạo toàn dân nổi
dậy giành chính quyền trong
cả nước trước khi quân đồng
minh kéo vào đông dương,
và khi được yin nhật đầu
hàng thì Đảng ta ra quân
lệnh tổng khởi nghĩa ngay
đêm 13/08/1945 và sau hơn
2 tuần lễ cuộc tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi, ngày
2/9/1945 chính thức khai
sinh ra nước VNDCCH, kết
thúc chế độ phong kiến hàng
nhìn năm, sự thống trị gần
80 năm của thực dân, mở
đầu kỉ nguyên mới, kỉ
nguyên độc lập đi lên
CNXH ở nước ta.


Một dẫn chứng khác nữa
về tương quan lực lượng
cách mạng là sau cách mạng

tháng 8/1945, quân tưởng
với danh nghĩa giải giáp
quân nhật kéo ồ ạt vào nước
ta. Am mưu đen tối của
chúng là “diệt cộng, cầm
Hồ”. Chúng tiến hành đánh
phá, cướp bóc nhiều nơi ở
nước ta. Bác Hồ của chúng
ta lặng lẽ chia sẻ những đau
thương do quân tưởng và
bọn bán nước gây ra. Song,
Bác kết luận, phải nhận thức
đúng về ta (biết mìmh); về
địch (biết người) nếu đánh
tưởng lúc này khó nói vời
thế giới vì chúng mang danh
nghĩa quân đồng minh, vả
lại quân tưởng chúng ăn gạo
lứt, đi giày cỏ, luồn rừng lội
suối không kém gì bộ đội ta.
điều quan trọng là chúng
đang bị hai sức ép lớn là do
Đảng cộng sản trung quốc
đánh chúng, hai là theo hiệp
ước pháp-tưởng thì tưởng sẽ
rút toàn bộ quân lực về
nước. Nghĩa là không đánh
ta cũng thắng. Và thực tế đã
chứng minh được điều đó:
quân tưởng đã rrút về nước

theo đúng nhận định của
Bác.

Quyết sách chính
trị còn đề ra con đường, biện
pháp và những bước đi cụ
thể cho từng giai đoạn cách
mạng để từ đó tránh được
bệnh hữu khuynh và tả
khuynh. Điều này thề hiện
rõ nét trong cách mạng
XHCN, Đảng ta đã chủ
quan, nóng vội mắc phải
nhiều sai lầm về một số vấn
đề có tính chiến lược như
mô hình KT, CNH, hợp tác
hoá, cải tạo XHCN…, chúng
ta đã xác định sai lầm bước
đi, không tập trung phát
triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ mà thiên về xây
dựng công nghiệp nặng, ham
làm nhanh, làm nhiều,
không tận dụng và phát triển
lực lượng sản xuất đã có, cải
tạo ồ ạt, nhanh chóng xoá bỏ
thành phần KT tư nhân để
xác lập một cách phổ biến

hình thức sở hữu tập thể và

toàn dân đối với tư liệu sản
xuất ngay cả khi lực lượng
sản xuất còn thấp kém…,
duy trì quá lâu mô hình KT
tập trung quan liêu bao cấp
đã đưa đến sự trì trệ và
khủng hoảng về KT-xã hội.
Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã đánh giá thực
trạng tình hình đất nước,
thẳng thắn chỉ ra những sai
lầm, khuyết điểm, những
khó khăn về KT và đời sống
nhân dân. Đảng đề ra đường
lối đổi mới đúng đắn, đề ra
con đường biện pháp và
bước đi thích hợp, phản ánh
đúng quy luật vận động
khách quan của lịch sử và
thực trạnh tình hình KT của
nước ta, nhờ đó nền KT dần
dần ổ định và phát triển.
+ Quyết sách chính trị đúng
thì chính là xu hướng chính
trị tiến bộ tạo điều kiện cho
KT phát triển nhanh và
ngược lại. Trong điều kiện
Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, để xây dựng xã hội
mới, xã hội XHCN. Quyết

sách chính trị của Đảng từ
TW đến cơ sở đều trở thành
quyết định của các đoàn thể
nhân dân, trở thành cơ sở
của các chính sách và pháp
luật cùa nhà nước, tác động
trực tiếp đến đời sống của
nhân dân và của toàn dân
tộc. Vì vậy, mỗi sai lầm nhỏ
của quyết sách chính trị đều
có ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của nhân dân và
của toàn dân tộc. Xuất phát
từ các cơ sở trên, Lênin đã
nhấn mạnh vai trò quan
trọng của quyết sách chính
trị: “Đảng không được phạm
sai lầm về chính trị”.
Để quyết sách chính trị
của Đảng (đường lối, nghị
quyết) biến thành hững nhân
tố góp phần cải biến hiện
thực thì phải đưa nó vào
nhân dân, làm cho quyết
sách chính trị có được sức
mạnh của nhân tố hoạt động
thực tiễn và có tính vật chất
của nhân dân. Có nghĩa là
quyết sách chính trị của


Đảng phải xuất phát từ thực
tiễn và được kiểm chứng từ
thực tiễn sinh động của quần
chúng nhân dân, và điều này
cho thấy nếu xây dựng mục
tiêu sai thì không bao giờ có
hành động đúng.
2) Những cơ sở và
phương pháp luận cơ bản
trong việc xây dựng và tổ
chức thực hiện quyết sách
chính trị:
- Do quyết sách chính trị
được luận chứng một cách
KH đáp ứng được yêu cầu
của cách mạng. Vì vậy,đòi
hỏi các quyết sách chính trị
phải được xây dựng và tổ
chức thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của phép
biện chứng duy vật. Phép
biện chứng duy vật đóng vai
trò là cơ sở của phương pháp
luật để xây dựng và tổ chức
thực hiện quyết sách chính
trị của chúng ta vì:
+ Chỉ có phép biện chứng
duy vật mới giúp cho chúng
ta nhận thức được sự vật và
xã hội một cách đầy đủ nhất

(phát iện ra những mâu
thuẫn, những động lực của
sự phát triển xã hội), và chỉ
có nhận thức đầy đủ nhất về
sự vật và xã hội thì chúng ta
mới có khả năng đưa ra
được quyết sách chính trị
đúng.
+ Chỉ có phép biện chứng
duy vật mới cho phép chúng
ta phân định một cách rõ
ràng đâu là tính nguyên tắc,
đâu là bệnh chủ quan giáo
điều, đâu là tính linh hoạt
của cách mạng, đâu là chủ
nghĩa cơ hội, xét lại. Thực tế
đã chứng minh là Đảng và
Bác Hồ của chúng ta đã
khôn khéo kí hiệp định sơ bộ
ngày 6/03/1946 với pháp
nhằm tránh tình thế bất lợi
phải cô lập chiến đấu cùng
một lúc với nhiều lực lượng
phản động (thực dân pháp,
tàu tưởng, bọn phản cách
mạng trong nước) chúng
được sự giúp đỡ của đế quốc
Anh, mĩ trong khi các lực
lượng hoà bình, tự do và tiến
bộ trên thế giới như: Liên


Xô, phong trào cách mạng ờ
pháp, cách mạng thuộc địa
chưa thể trực tiếp giúp ta
được. Đồng thời kí kết hiệp
định sơ bộ còn nhằm bảo
toàn lực lượng, lấy giây phút
nghỉ ngơi và củng cố vị trí
đã chiếm được, chấn chỉnh
đội ngũ, bổ sung cán bộ, bồi
dưỡng và củng cố phong
trào… Đồng thời ta cũng
khôn khéo kí với pháp tạm
ước 14/09/1946 là thể hiện
thiện chí hoà bình trước sau
như một của nhân dân Việt
Nam và tranh thủ thêm thời
gian hoà hoãn để chuẩn bị
đối phó sự bội ước của pháp,
tạo coơ hội tốt cho giai đoạn
cách mạng mới: đó là chuẩn
bị lực lượng về mọi mặt cho
toàn quốc khánh chiến.
+ Chỉ có phép biện chứng
duy vật mới giúp chúng ta
nhận thức đúng đắn và khoa
học về mối quan hệ giữa
mục tiêu và phương tiện.
D9ối với mục tiêu mà quyết
sách chính trị đề ra chúng ta

phải kiên trì thực hiện, còn
đối với các phương tiện thì
chúng ta phải hết sức linh
hoạt. Đảng ta chủ trương
nến KT hàng hóa nhiều
thành phần, định hướng
XHCN, có nghĩa là mục
yiêu CNXH phải giữ vững,
kinh tế quốc doanh phải
được sắp xếp, chấn chỉnh và
hoạt động có hiệu quả để
nắm được những ngành,
những lĩnh vực then chốt và
qua đó giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, chi phối
các thành phần KT khác,
còn các thành phần KT khác
chỉ là những phương tiện để
thực hiện mục tiêu CNXH.
Để xay dựng và tổ
chức thực hiện tốt quyết
sách chính trị chúng ta phải
nắm vững về mối quan hệ
biện chứng giữa khách quan
và chủ quan. Trong đó
khách quan luôn luôn là tính
thứ nhất và chủ quan là tính
thứ hai. Đây là phương pháp
luận đầu tiên để xây dựng và
tổ chức thực hiện mọi quyết

sách chính trị.


+ Cơ sở thứ nhất là sự phát
triển của xã hội nói chung và
của CNXH nói riêng là nó
luôn thống nhất giữa khách
quan và chủ quan. Trong đó,
chủ quan chính là quyết sách
chính trị. Do vậy, nếu chủ
quan phản ánh đầy d8ủ hiện
thực khách quan thì đó là
quyết sách chính trị đúng và
ngược lại. Cho nên mọi
đường lối chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước
phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan.
Lênin cho rằng: “người ta
không thể chỉ dựa trên tình
cảm cách mạng mà định ra
một sách lược cách mạng
được. Khi định ra sách lược
phải trấn tĩnh, phải hết sức
khách quan”.
Ngoài ra, quyết sách chính
trị cần phải rất coi trọng mối
quan hệ GC. Chỉ có nghiên
cứu khách quan toàn bộ mối
quan hệ qua lại giữa các GC

trong một xã hội nhất định,
không loại trừ GC nào, và
do đó sẽ liên kết được trình
độ phát triển chung của xã
hội ấy và mối quan hệ qua
lại giữa xã hội ấy với các xã
hội khác thì mới có cơ sở
cho một sách lược đúng của
GC tiên phong. Lênin chỉ ra
rằng: “cuộc đấu tranh giữa
các lượng xã hội sinh động,
những lực lượng ấy được đặt
trong những điều kiện khách
quan nhất định”.
+ Quyết sách chính trị còn là
sự biểu hiện ý chí của Đảng
và nhân dân trong việc cải
tạo tự nhiên, cải tại xã hội.
Nhưng để cải tạo tự nhiên và
xã hội thì chúng ta phải nhận
thức được đầy đủ về nó. Có
nghĩa là chúng ta phải nắm
bắt được CN Mác-Lêninkhoa học làm cách mạng của
GC VS.
chúng ta phải nắm
vững quan điểm chân lí cụ
thể, cách mạng là sáng tạo.
Nó được thể hiện ở 2 lí do
sau:
+ Mọi quyết sách chính trị ở

tầm vĩ mô hay vi mô đều
nhằm giải quyết vấn đề cụ

thể do cách mạng đề ra. Vì
vậy, việc xây dưng, tổ chức
thực hiện quyết sách chính
trị dứt khoát phải xuất phát
từ thực tế khách quan.
+ Quyết sách chính trị đúng
thì bao giờ cũng nhằm giải
quyết những vấn đề cụ thể
do thực tiễn cách mạng đề
ra. Nhưng cụ thể ở đây là nó
phải phát huy được tính chủ
động, sáng tạo làm cơ sở cho
việc phân tích tình hình cụ
thể của sự vật trong những
không gian nhất định, biết
đề ra những quyết sách đúng
đắn, đồng thời cũng hết sức
tránh chủ nghĩa giáo điều,
rập khuôn, máy móc (chúng
ta học tập kinh nghiệm của
các nước khác nhưng không
rập khuôn máy móc mà phải
linh hoạt sáng tạo).
Chúng ta phải nắm
vững quan điểm về tính biện
chứng của sự vật và xã hội
là diễn ra trong mâu thuẫn

và thông qua mâu thuẫn để
sự vật và xã hội phát triển.
Dựa trên 2 lí do sau:
+ Cơ sở và phương pháp
luận nàychỉ cho chúng ta
mâu thuẫn bên trong của sự
vật và của xã hội. Hơn thế
nữa, nó còn chỉ cho chúng ta
đâu là mâu thuẫn cơ bản để
từ đó chúng đưa ra được
những quyết sách chính trị
đúng, như là: đường lối
chiến lược cách mạng; xây
dựng nghị quyết cho từng
thời kì, từng lĩnh vực, từng
địa bàn…Mục tiêu của mọi
quyết sách chính trị là nhằm
thay đổi bản chất xã hội theo
hướng tiến bộ. Có nghĩa là
nếu chúng ta không phát
hiện đúng mâu thuẫn khách
quan đang tồn tại thì chúng
ta không xác địng đúng
khuynh hướng phát triển và
cũng không thể đề ra những
biện pháp, phương tiện đúng
để giái quyết cho chúng.
+ Cơ sở và phương pháp
luận này còn giúp chúng ta
xác định khuynh hướng phát

triển của sự vật và xã hội
cũng như chỉ ra con đường
và biện pháp để giải phóng

xã hội.
II.
Những yêu cầu cơ
bản trong việc xây dựng và
tổ chức thực hiện quyết sách
chính trị
1) những yêu cầu cơ
bản ttong việc xây
dựng quyết sách
chính trị:
Yêu cầu tổng quát:
yêu cầu cơ bản nhất của mọi
quyết sách chính trị là chúng
ta phát hiện và giải quyết
đúng đắn, kịp thời và có
hiệu quả những vấn đề do
thực tiễn cách mạng đặt ra
để từ đó đưa sự vật và xã hội
phát triển theo hướng khách
quan (yêu cầu khi giải quyết
sự việc phải tính toán cụ thể,
nhưng đôi lúc cũng không
nên tính quá kĩ, quá cầu toàn
sẽ lỡ mất thời cơ).
Yêu cầu cụ thể, bao
gồm 4 yêu cầu sau:

+ Quyết sách chính trị
không dừng lại ở việc phản
ánh thực trạng mà nó chứa
đựng những triển vọng biến
đổi của nó vì xã hội luôn vận
động và phát triển, nên
quyết sách chính trị đựơc coi
là đúng với thực trạng hiện
có thì không chỉ đáp ứnh
nhu cầu trước mắt mà nó
cònn phải chủ động dự kiến
cho sự phát triển tương lai
của xã hội. Có như vậy
chúng ta mới không bị động.
+ QUYẾT SÁCH CHÍNH
TRỊ đúng phải bảo đảm
được tính toàn diện, d0ồng
thời phát huy được tính chủ
động sáng tạo của từng địa
phương, đơn vị hoặc cơ sở.
+ Quyết sách chính trị phải
thể hiện được lợi ích chính
đáng của nhân dân lao động,
được nhân dân đồng tình; có
như vậy thì quyết sách chính
trị mới được đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia.
Thí dụ: qui định cấm đốt
pháo, bãi bỏ chính sách ngăn
sông cấm chợ là “phù hợp

với thực tiễn” và “chín
muồi” nên được đông đảo
quần chúng đồng tình ủng
hộ.
+ Quyết sách chính trị phải

phát huy được tinh thần cách
mạng tiến công của quần
chúng. Tinh thần tự lực tự
cường của quần chúng nhân
dân. Có như vậy thì quyết
sách chính trị mới có khả
năng chống lại những cản
trở, vượt khó khăn thử
thách.
2) những yêu cầu cơ bản
trong việc thực hiện quyết
sách chính trị:
Nguyên tắc quan
trọg nhất của việc tổ chức
thực hiện quyết sách chính
trị là sự thống nhất giữa lời
nói và việc làm, giữa nghị
quyết và hành động.
Trong tổ chức thực
hiện quyết sách chính trị yêu
cầu phải kết hợp chặt chẽ
việc kiên trì, bền bỉ thực
hiện mục tiêu đã đề ra với
việc linh hoạt, nhạy bén

trong việc sử dụng những
biện pháp hình thức tổ chức
thích hợp.
Để thực hiện tốt
quyết sách chính trị thì
người lãnh đạo cần phải đạt
được những yêu cầu sau:
+ Hiểu rõ được nhiệm vụ cụ
thể của mình để từ đó lập ra
kế hoạch chính xác.
+phải có năng lực, phẩm
chất ngang tầm với nhiệm
vụ được giao.
+ phải thực sự là tấm gương
cho quần chúng noi theo.
để tổ chức thực
hiện tốt quyết sách chính trị
thì phải có sự phân côn hợp
lí, phân định rõ ràng giữa
nghĩa vụ và quyền lợi, giữa
trách nhiệm và quyền lợi,
giữa các cấp với nhau, và
chúng ta cần hết sức tránh
việc phô trương hình thức và
bệnh quan liêu.
Phải coi trọng việc
tổng kết rút kinh nghiệm, để
từ đó góp phần làm cơ sở
cho việc hoạch định, quyết
sách cũng như việc nâng cao

chất lượng tổ chức thực hiện
các quyết sách tiếp theo.
Quyết sách chính
trị phải được thể chế hoá
thành chủ trương, chính sách
và pháp luật của nhà nước


để buộc mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành.
III.
kết luận
thực hiện cương lĩnh 1930,
trong suốt 45 năm, Đảng ta
do chủ tịchHCM sáng lập và
rèn luyện đã lãnh đạo nhân
dân ta đấu tranh cách mạng
giành thắng lợi vĩ đại với:
cách mạng tháng tám thành
công khai sinh ra nước Việt
Nam DCCH; đánh thắng
thực dân pháp, miền bắc
chuyển sang giai đoạn cách
mạng XHCN; kháng chiến
chống mĩ cứu nước thắng
lợi, cả nước cùng quá độ tiến
lên CNXH.
Trong
cách
mạng

XHCN, Đảng ta đã có nhiều
cố gắng nghiên cứu, tìm tòi,
xây dựng đường lối, xác
định mục tiêu và phương
hướng XHCN; nhưng Đảng
ta cũng đã phạm nhiều sai
lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan:
nóng vội cải tạo XHCN, xoá
bỏ ngay nền kinh tế nhiều
thành phần, duy trì quá lâu
cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp… làm cho đời sống
KT khủng hoảng, trì trệ
nghiêm trọng.
Nhận thức những sai lầm
trên, tại ĐH toàn quốc lần
thứ VI (1986), Đảng ta tự
phê bình và đề ra đường lối
đổi mới. ĐH VI là cột mốc
lịch sử quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng XHCN ở
nước ta. từ ĐH Đảng VI,
VII, VIII cho đến nay. Với
những thắng lợi ban đầu qua
15 năm đổi mới (1986-2000)
đã cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm quý báu và còn có
giá trị lớn, đồng thời qua
thực tiễn đổi mới càng thấy

nổi bật nhiều điều sâu sắc.
Trong quátrình đổi mới
từ ĐH VI của Đảng khởi
xướng và được phát triển
hơn một bước ở “cương lĩnh
xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên CNXH”,
các quyết sách chính trị của
Đảng ta phải luôn dựa vào
nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn sang tạo và có

những khâu đột phá mới.
Trong tiến trình đổi mới
Đảng ta luôn kiên trì mục
tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng tư
tưởng CN Mác-Lênin và tư
tưởng HCM. Đồng thời, đổi
mới phải trên cơ sở kết hợp
sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng
là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới
ở nước ta hiện nay.

Câu 12:

Thông qua lí

luận về lợi ích chính trị và
thực tiễn giải quyết vấn đề
lợi ích chính trị ở nước ta.
đồng chí hãy chứng minh:
lợi ích chính trị là động lực
của quá trình phát triển xã
hội.
Bài Làm
A, Lợi ích chính trị là một
phạm trù cơ bản cùa CT học,
là khâu trung tâm trong cơ

chế tác động của quy luật
chính trị. Nó tạo ra tính tích
cực của chủ thể.
lợi ích chính trị là
toàn bộ những giá trị (vật
chất và tinh thần) thoả mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển
của chủ thể (cái chính là
GC) được thực hiện trên cơ
sở địa vị xã hội-CT (địa vị
KT-xã hội, địa vị CT-xã
hội, địa vị văn hoá-xã hội)
mà mình có được do hậu quả
của cuộc chiến tranh thực thi
quyền lực chính trị của GC
tronh tiến trình lịch sử. Chỉ
khi nào con người nhận thức
được điều đó và có được

những giá trị bằng cách đó
thì anh ta mới là chủ thể của
lợi ích chính trị.
Lợi ích chính trị
xuất phát từ nhu cầu chính
trị-là những nhân tố, những
hình thức, những điều kiện
chính trị thoả mãn được nhu
cầu của chủ thể. Nếu xét lợi
ích chính trị tự việc phân
loại lợi ích chính trị trên cơ
sở lĩnh vực mà lợi ích chính
trị trực tiếp hướng tới thì lợi
ích chính trị là lợi ích của
con người trên lĩnh vực
chính trị. Thực ra mọi lợi ích
chính trị đều nhằm đạt tới
lợi ích KT.
Lợi ích chính trị
hình thành từ những quan hệ
KT và gần hơn, từ các nhu
cầu và lợi ích KT. Trong xã
hội có GC, sự khác nhau về
KT dẫn đến hình thành
QHKT khác nhau từ đó nhu
cầu về lợi ích KT không
giống nhau, các nhu cầu về
lợi ích KT luôn luôn đòi hỏi
một cách khách quan việc
thực hiện chúng thông qua

những điều kiện, hình thức
và phương pháp của CT. từ
đó các nhu cầu và lợi ích KT
phản ánh thành các nhu cầu
và lợi ích chính trị. Có thể
nói rằng trong các xã hội có
GC hoạt động chính trị, văn
hoá, xã hội do nhà nướctiến
hành, xét đến cùng xuất phát
từ lợi ích của GC thống trị.
Anggghen viết: “nhà nước
nói chung chỉ là sự phản ánh

dưới hình thức tập trung của
những nhu cầu KT của GC
thống trị trong sản xuất”.
Như vậy, khái niệm lợi ích
chính trị gắn liền với sự xuất
hiện của GC và nhà nước.
Nó được tghực hiện thông
qua đường lối chính trị của
GC cầm quyền.
Động lực chính trị
là khả năng và phương thức
thôi thúc hành động của chủ
thể diễn ra trong quá trình
chính trị thực tiễn đưa xã hội
ngày càng tiến lên do nhận
thức được lợi ích của GC
trong hoàn cảnh lịch sử nhất

định. Nói đến lợi ích chính
trị là nói đến giá trị của GC.
Giá trị của GC không chỉ là
nội dung của động lực chính
trị mà còn là mục tiêu và
hành động CT thữc tiễn chủ
thể hướng tới. Những giá trị
GC cũng chỉ là giao điểm
của các mối quan hệ xã hộiCT; đồng thời là trung tâm
của mọi động lực chính trịxã hội cũng là động lực phát
triển của xã hội có GC.
Các nhân tố, các
quá trình trong quan hệ với
con người biểu hiện hư là lợi
ích chính trị của họ. Đồng
thời nó lại có vai trò như là
con đường và phương tiện
để thực hiện hoá lợi ích CT.
toàn bộ quá trình này được
diễn ra thông qua một số
khâu có liên hệ tác động
nhân quả với nhau để cuối
cùng đưa đến một mục đích
nhất định. Đó chính là cơ
chế hiện thực hoá lợi ích
chính trị:
+ Mục tiêu lí tưởng CT với
tư cách là sự thể hiện lợi ích
chính trị:


Mục tiêu lí tưởng
chính trị của chủ thể lợi ích
chính trị thể hiện ở chỗ để
hiện thực hoá lợi ích chính
trị, chủ thể lợi ích bao giờ
cũng phải hình thành sự định
hướng chung mang tính
chỉnh thể ở cấp độ cộng
đồng rộng rãi. Đó là việc
liên kết, thống nhất các dấu
hiệu chung trong hệ thống
lợi ích của từng cá nhân,


từng nhóm thành lợi ích
chung của GC, tập đoàn,
quốc gia dưới dạng mục tiêu
lí tưởng chíng trị.

Mục tiêu lí tưởng
chính trị là cái ổn định và
bền vững đối với chủ thể
nếu nó được xây dựng trên
một cơ sở thật sự khách
quan và khoa học. Do đó, nó
không những là cái chi phối
hoạt động chính trị của chủ
thể mà còn là tác nhân phát
triển trình độ giác ngộ và
khả năng thực tiễn của họ.

Không có thống nhất về
mụctiêu, lí tưởng chính trị
thì chủ thể CT là một khối
lỏng lẻo hỗn tạp, phong trào
chính trị không vược qua
được trình độ tự phát và lợi
ích chính trị trở nên mờ
nhạt, không có khả năng
hiện thực hoá. Việc xác định
mục tiêu lí tưởng chính trị
đòi hỏi trước hết cần phải có
vai trò lãnh đạo, tổ chức xã
hội của lực lượng chính trị
tiên phong.
+ Vai trò của người đại diện
trong việc thực hiện lợi ích
chính trị:
Lênin đã từng nhận định:
“trong lịch sử chưa hề có
một GC nào giành được
quyền thống trị nều nó
không đào tạo ra được trong
hàng ngũ của mình những
lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có đủ khả
năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào”… Vai trò của
họ được xác định do: họ
nhìn xa trông rộng, có ý chí
mãnh liệt hơn người trong

việc đề xuất khai phá, xây
dựng các mục tiêu, phương
hướng trọng đại. Họ giải
quyết được vần đề hiện tại
mà sự phát triển trước đó tạo
ra. Họ phát hiện những nhu
cầu xã hội mới và là người
đi đầu việc thoả mãn các
nhu cầu đó.
+ Vai trò của các tổ chức
chính trị trong việc thực hiện
lợi ích chính trị:

Các tổ chức chính
trị là những nhân tố khác
nhau của hệ thống chính trị,

có vai trò không giống nhau
trong việc thực hiện lợi ích
chính trị. Trong đó, nhà
nước và Đảng chính trị có
vai trò tiêu biểu. Đặc biệt
nhà nước bao giờ cũng biểu
hiện ra như một trung điểm
của lợi ích chính trị và là đối
tượng cơ bản của cuộc đấu
tranh giữa các Đảng phái
chính trị. Các tổ chức chính
trị hoạt động một mặt với tư
cách là hình thức, phương

tiện, công cụ để thực hiện
lợi ích chính trị của chủ thể,
mặt khác chúng là đại diện
cho lợi ích chính trị của họ.

Trên thực tế tuỳ
theo mỗi điều kiện có sự
phân hoá về lợi ích trong nội
bộ các tổ chức cũng như
phân hoá giữa bản thân tổ
chức chính trị với cơ sở xã
hội của nó. Từ đó dẫn đến
tình trịng đấu tranh, bè phái
cao hơn là xung đột chính
trị. Khi đó vấn đề lợi ích
càng trở nên phức tạp. Để
nhận thức đúng trạng thái
chính trị đó, phải chỉ ra được
lợi ích của GC nào và nhóm
nào quyết định bản chất và
chi phối chính sách của mỗi
tổ chức chính trị.
+ Tổ chức hoạt động chính
trị thực tiễn nhằm hiện thực
hoá lợi ích chính trị:

Nếu không tổ chức
hoạt động chính trị thực tiễn
thì lợi ích chính trị chỉ tồn
tại dười dạng khả năng, lợi

ích chính trị là vấn đề không
chỉ dừng lại ở tư tưởng mà
còn là nhân tố bên trong của
quá trình hoạt động chính trị
của chủ thể. Nó chuyển tác
động của hoàn cảnh khách
quan thành tính tích cực
chính trị của chủ thể, nó vừa
là động lực kích thích chủ
thể, vừa là mục tiêu chính
trị, mà chủ thể vươn tới để
hiện thực hoá nó.

Hiệu quả thực hiện
lợi ích chính trị được quyết
định bởi một loạt các yếu tố:
nội dung lợi ích chính trị
được phản ánh đầy đủ trong
hệ tư tưởng chính trị và văn
kiện, đường lối, chủ trương

chính sách của chủ thể, mức
độ thâm nhập, khả năng đưa
những nội dung ấy vào quần
chúng; năng lực điều hành,
lãnh đạo thế nào?… sự hạn
chế ở một trong những yếu
tố đó nhất định sẽ dẫn đến
toàn bộ hiệu quả công việc
hiện thực hoá lợi ích chính

trị.

Hình thức hoạt
động chính trị thực tiễn
thuờng bị chế định bởi các
nhân tố: trình độ chín muồi
của chủ thể, kĩ năng nắm bắt
các khâu liên hệ chủ yếu của
quá trình chính trị, nhiệm vụ
đặt ra phù hợp với lợi ích
chính trị căn bản, lực lượng
xã hội và điều kiện vật chất
của nó. Mác: “lúc nào hành
động chính trị cũng đều phát
sinh từ những sự thúc đẩy
vật chất trực tiếp chứ không
phải từ những câu nói chính
trị và pháp lí đi kèm theo”.
Những nhân tố trên đây
tuy chưa đầy đủ nhưng được
xem đó là những nhân tố căn
bản nhất của cơ chế hiện
thực hoá lợi ích chính trị.
Xét từ phươnh diện của cơ
chế tác động của quy luật
CT, lợi ích chính trị có vị trí
như là nhân tố trung tâm của
cơ chế đó. Bởi vì quy luật
chính trị chỉ phát huy tác
dụng khi có sự kết hợp giữa

chủ thể hoạt động có ý thúc
cao với những điều kiện,
môi trường và phương diện
chính trị tương ứng.
Tóm lại, việc hiện
thực hoá lợi ích chính trịphát huy động lực của các
chủ thể chịu sự quy định và
tác động bởi nhiều nhân tố
và điều kiện khác nhau trong
những môi trường xác định
nhưng cơ bản nhất vẫn là
hiệu quả chính trị, thực tiễn
của GC; điều này được thể
hiện trên những mặt cơ bản
sau:
+ Đó là sự xác lập địa vị xã
hội-CT của GC: thể hiện ở
việc chủ thể có thể xác lập
được địa vị của mình mà
nhất là địa vị KT-xã hội
trong tương quan với các

GC và các tầng lớp khác
trong xã hội; mức độ chi
phối của GC mà nhất là của
chính Đảng vào cơ chế thực
thi quyền lực CT-xã hội, đặc
biệt là quyền lực nhà nước;
việc phát huy vai trò cá
nhân, nhóm người lãnh đạo

GC đối với tiến trình phát
triển của dân tộc, nhân loại.
+ Đó cũng là sự xác lập thiết
chế CT-xã hội với hệ thống
tố chức thực thi quyền lực
chính trị của xã hội; hệ
thống pháp luật, nguyên tắc,
thể lệ… và pháp chế trong
toàn xã hội; trực tiếp hơn cả
là hệ thống chính sách và
phương thức thực hiện từng
chính sách của nhà nước đối
với xã hội nói chung, các
chủ thể nói riêng.
+ Cơ sở thực tế của việc thụ
hưởng các giá trị vật chất và
tinh thần của chủ thể là thực
trạng nền KT-xã hội của đất
nước với sự phát triển của
LLSX; trình độ phát triển
của nền văn hoá xã hội nói
chung, nền văn hoá CT và
trình độ mọi mặt của các chủ
thể nói riêng; cái quy định
tất cả những vấn đề trên lại
là bản chất của QHSX thống
trị.
Ngoài ra, truyền thống
của dân tộc, của GC, của
chính Đảng; tình hình chính

trị trong nước và sự tác động
của thời đại có ảnh hưởng
đáng kể đến việc hiện thực
hóa lợi ích chính trị-phát
huy động lực của các chủ
thể.
B, Thực tiễn giải quyết vấn
đề lợi ích chính trị ở nước
ta:
để sự nghiệp đổi
mới ở nước ta tiếp tục phát
triển đúng địng hướng và
ngày càng đạt được nhiều
thành tựu to lớn, một trong
những đòi hỏi sống còn là
phải giữ vững ổn định chính
trị. Muốn vậy, trên lĩnh vực
đời sống chính trị, đổi mới
phải có bước đi vững chắc
và phải tạo ra được những
thành tựu trên thực tế làm
cho xã hội không rơi vào


tình trạng hỗn loạn. Xuất
phát từ phương diện lợi ích
chính trị, vấn đề ấy được
quyết định trựctiếp, từ việc
tạo ra sự thống nhất căn bản
về lợi ích chính trị trong xã

hội. Điều đó có ý nghĩa cần
tạo ra mối quan hệ thống
nhất hữu cơ giữa nhân dân
lao động (với tính cách là
chủ thể của lợi ích chính trị)
và các nhân tố của HTCT
(với tư cách là đại biểu lợi
ích và thực thi lợi ích của
nhân dân lao động) trên
những vấn đề bức bách nhất
hiện nay.
ĐH VI của Đảng
đánh dấu bước ngoặc quan
trọng trong sự lãnh đạo
chính trị của Đảng. Đó là
việc Đảng phát động công
cuộc đổi mới và dân chủ
hoá. Nhờ đó trên lĩnh vực
đời sống chính trị, nhân dân
ta có bước trưởng thành
đáng kể về chính trị. Bước
tiến ấy thể hiện trong việc
họ nhận thức lợi ích chính trị
và hoạt động chính trị để
thực hiện lợi ích đó. Đối với
hệ thống chính trị, sự đổi
mới diễn ra theo xu hướng
dân chủ hơn: Bộ máy nhà
nước được xây dựng theo
tinh thần là của dân, do dân

và vì dân. Cụ thể, tổ chúc bộ
máy nhà nước đang chuyển
theo hướng tinh gọn,
phương thức hoạt động ngày
càng được rõ hơn; chức
năng của các cơ quan trong
bộ máy nhà nước cũng như
mối quan hệ của nhà nước
và các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị bớt dần sự
cản trở chồng chéo lẫn nhau,
trách nhiệm của các cơ quan
trong việc bảo vệ lợi ích
được nâng cao.
Tuy vây, vẫn còn
những hạn chế: một bộ phận
nhân dân, nhất là tầng lớp
thanh niên thờ ơ, lãnh đạm
chính trị mà thực chất là
giảm sút động lực lợi ích
chính trị, trình độ nhận thức
và hành động chính trị của
nhân dân còn thấp. Tình
trạng đó là do một số

nguyên nhân:
+ Sự thấp kém trong đời
sống kinh tế vật chất của
nhân dân lao động trở thành
vấn đề nổi cộm thu hút toàn

bộ tâm lực của họ vào giải
quyết. Do vậy, chính trị bị
lãng quên.
+ Trình độ văn hoá chính trị
của nhân dân còn thấp; thói
quen phó mặc công việc
chính trị cho người kãnh đạo
và quản lí còn khá trầm
trọng, công tác giáo dục
chính trị còn khá nhiều hạn
chế cả bề rộng lẫn bề sâu.
+ HTCT chưa biểu hiện thực
sự rõ là các tổ chức đại diện,
bảo vệ và thực hiện lợi ích
chính trị cho nhân dân lao
động, chưa lôi cuốn họ tham
gia quản lí với tính cách là
chủ thể chân chính của xã
hội.
Phương hướng thực
hiện lợi ích chính trị ở nước
ta hiện nay:
+ Phương hướng căn bản
bao trùm là bảo đảm sự định
hướng XHCN là nhằm phấn
đấu thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, tiến lên dân giàu,
nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Chỉ có CNXH mới là chế độ

bảo đảm thực hiện đầy đủ và
thực chất những nhu cầu, lợi
ích của nhân dân lao động
và toàn dân ta.
+ Phương hướng cụ thể:
Nâng cao văn hoá

chính trị, GD nhu cầu, lợi
ích chính trị cho nhân dân
lao động
Dân chủ hoá như là

lợi ích chính trị căn bản, là
con đường đạt đến lợi ích
chính trị của nhân dân lao
động.
Thể chế hoá lợi ích

chính trị của các chủ thể
chính trị trong xã hội của
nước ta.
Đổi mới Đảng
người đại diện cho lợi ích
của nhân dân lao động.
Tóm Lại: thông qua lí
luận về lợi ích chính trị và
thực tiễn giải quyết vấn đề
lợi ích chính trị ở nước ta đã

cho thấy rằng: lợi ích chính

trị là động lực của quá trình
phát triển xã hội.

Câu 2: Đồng chí hãy trình
bày những nội dung cơ bản
của lịch sử tư tưởng chính trị
ở phương tây thời cổ đại và
cận đại. Nêu giá trị của nó
đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở
nước ta hiện nay.

Bài làm
A, Những nội dung cơ bản
thời cổ đại:

Đây là thời quá độ từ xã hội
công xã công xã nguyên
thuỷ sang thời kì chiếm hữu
nô lệ. Đặc điểm của thời kì
này là mâu thuẫn giữa GC
chủ nô với GC nô lệ. (GC nộ
lệ phương tây là LLSX chủ
yếu của xã hội, bị đối xử
một cách tàn tệ, xã hội đo sự
giàu có của nhau bằng số nô
lệ mình có được). Xuất hiện
tầng lớp dân tự do mâu
thuẫn với chủ nô. Chủ nghĩa
DT đại diện cho chủ nô quý

tộc mâu thuẫn với chủ nô
dân chủ đại diện cho thị dân
tự do. Trong xã hội có nhiều
trường phái, học thuyết khác
nhau. Nội dung cơ bản:
1, quan điểm về thủ lĩnh
chính trị:
SOCRAT cho rằng:
thủ lĩnh chính trị phải là
người có đạo đức. Nhưng
đạo đức lại phụ thuộc vào trí
tuệ. Vậy chỉ có thiểu số quý
tộc mới là người có trí tuệ,
mới là những người sáng tạo
đúng đắn. Ong đại diện cho
tầng lớp chủ nô quý tộc.
DEMOCRITE: yêu
cầu thủ lĩnh chính trị phải là
người có tài năng, kể cả bình
dân cũng có tài năng. Ong
thuộc trường phái duy vật
chủ nô dân chủ.
SENOPHONE: yêu
cầu thủ lĩnh chính trị phải có
kỷ luật giỏi, phải có sức
thuyết phục cao, người thủ
lĩnh phải biết vì lợi ích
chung nghĩa là phải biết
chăm sóc cho người bị trị.
Biết tập hợp và nhân sức

mạnh của nhân dân lên. Ong
là người đầu tiên đặt ra yêu
cầu về thủ lĩnh chính trị khá
toàn diện như: phải có
chuyên môn giỏi, có uy tín,
vì dân…
PLATON: yêu cầu
thủ lĩnh chính trị phải thực
sự có KHCT, có tính khí phù
hợp với nhiệm vụ đảm
đương. Ong xem tiêu chuẫn
chính trị là tiêu chuẩ của
mọi tiêu chuẩn. Ong quan
niệm người lãnh đạo trong
xã hội không được có qyền
tư hữu. Vì tư hữu sẽ làm mất


công tâm. Lực lượng võ sĩ
bảo vệ thì không được có gia
đình riêng vì có gia đình
riêng thì sẽ không thể chiến
đầu dũng cảm được. Theo
ông, thủ lĩnh chính trị phải
biết hy sinh lợi ích cá nhân
vì những giá trị chung. Ong
co sai lầm khi cho rằng một
thủ lĩnh chính trị như vậy
chỉ có ở chủ nô quý tộc.
ARISTOTE: xem

thủ lĩnh chính trị là người
sung túc, là người ở tầng lớp
trung lưu không phải giàu,
không nghèo. Người sung
túc dễ uốn mình theo các
bên (vì quan điểm của ông
theo nhị ngyên luận).
CICÉRON: như là
một sự tổng kết về của
nhhững tư tưởng về người
thủ lĩnh chính trị trước đó.
Ong nêu ra rằng người thủ
lĩnh chính trị phải có sự
thông thái, có tráchnhiệm,
có sự cao thượng về phẩm
hạnh, phải thống nhất trong
minh giữa tài năng và quyền
uy. Có uy thế tinh thần, có
tinh thần cao thượng, biết hy
sinh vì lợi ích chung, bỏ qua
các lợi ích tiền bạc không
chính đáng. Quan niệm của
ông đến ngày nay cũng khó
có người đạt được, đó là nhà
chính trị phải có chính trị, có
đạo đức…
2, quan điểm về nguồn gốc
của quyền lực nhà nước:
HERACLIT: xem
trạng thái tự nhiên của con

người tự nó đã hoàn hảo,
không có vấn đề công bằng
hay không công bằng ở đó.
Công bằng do con người tạo
ra xã hội con người là một
trạng thái tự nhiên, tự nó,
không ai sinh ra, không ai
sắp đặt nó, tự nhiên sinh ra
có kẻ trí và người ngu cho
nên kẻ trí thống trị người
ngu là lẽ tự nhiên, kẻ trí là
người quí tộc, nô lệ là người
ngu. Ong cho rằng quyền
lực là quy luật vĩnh viễn.
Không bao giờ trong xã hội
lại không có quyền lực.
Pháp luật nhằm thực hiện
tính tất yếu của quyền lực,

xã hội phải phục tùng ý chí
của một cá nhân là điều tất
yếu cho sự thống nhất. Theo
ông bất bình đẳng là tự
nhiên. Một quý tộc phải
được trị giá bằng một nhìn
dân thường. Ong thuộc tầng
lớp chủ nô quý tộc, có lập
trường duy tâm; không nhớ
rằng kẻ nắm tư liệu sản xuất
mới là người thống trị.

PLATON:
xem
quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước là quyền lực
thống trị của kẻ trí đối với
người ngu. Đó là đặc tính
của trí tuệ. Chỉ có người có
trí tuệ mới có quyền lực. Trí
tuệ chỉ có ở quý tộc.
ARISTOTE: quan
niệm quyền lực của xã hội
cũng là một trạng thái tự
nhiên. Nó xuất phát từ gia
đình, quyền của cha đối với
con, chồng đối với vợ, anh
đối em; xuất phát từ quyền
lực đối với xã hội. Trong xã
hội có nhiều gia đình, GĐ
này có sự xâm hại đối với
GĐ khác. Do đó mỗi GĐ
phải nhượng lại quyền lực
của từng gia đình thành
quyền lực chung. Người
nắm quyền lực chung là nhà
nước. Quyền lực nhà nước là
tự nhiên.
CICÉRON
cho
rằng quyền lực nhà nước
hình thành trong quá trình

lịch sử lâu dài, nó là của
nhân dân, của chung chứ
không riêng của một ai dù
đó là người tài giỏi nhất
cũng sinh ra quyền lực được.
3, quan điểm về thể chế nhà
nước:
HÉRODOT:

người đầu tiên trong lịch sử
nhân loại đã phân biệt và so
sánh các thể chế của nhà
nước khác nhau. Theo ông
có 3 hình thức cơ bản:
+ Thể chế quân chủ: tức là
thể chế cầm quyền của một
người-đó là vua. Thể chế
này có 2 mặt:

Nhược: là sự độc
đoán, chuyên quyền, dễ bị
xu nịnh, luôn có xu hướng là
lạm dụng quyền lực.


Ưu: là thể chế ra
đời thường là do những
người có công khai quốc,
thường là vì lợi ích chung
của nhân dân. Nó là một bàn

tay sắt cần thiết khi chế độ
dân chủ bị rối loạn
+ thể chế quý tộc: thể chế
của một số ít người thông
thái và tiêu biểu về phẩm
hạnh của quốc gia để cầm
quyền.

Ưu: đây chính là
chính quyền của những
người có trình độ caonên
mọi công việc đều được bàn
bạc giữa những người trí tuệ
nên công việc có KH, ít sai
lầm .

Nhược: giữa các
nhà thông thái làm việc bên
nhau rồi sẽ tiêu diệt lẫn
nhau, vì không ai chịu thua
ai, các nhà thông thái đều
muốn làm thầy của nhau.
+ Thể chế dân chủ: thể chế
này là của đông đảo nhân
dân nắm quyền và nó được
thành lập bời chế độ bỏ
phiếu để bầu ra các pháp
quan.

Ưu: các quyết định

đều do tập thể. Nó có xu
hướng công bằng vì lợi ích
chung.

Nhược: số đông
cngười ít học cầm quyền thì
dễ rơi vào tiểu tiết mà quên
đi tầm chiến lược, thường
thấy những chuyện trước
mắt mà không thấy trước
những chuyện lâu dài. Dễ bị
kẻ xấu kích động lôi kéo. Từ
đó ông kết luận loại thể chế
tốt nhất là thể chế hỗn hợp
những ưu của từng thể chế
trên.
DEMOCRIT: ông
ủng hộ chế độ dân chủ cộng
hoà chủ nô.
SOCRAT: ông là
người ủng hộ chế độ chuyên
chế độc tài. Ong cho rằng
dân chủ là sai lầm. Dân chủ
là chính quyền của ngừơi
ngu dốt, ông gọi đó là chính
quyền “bình dân”.
ARISTOTE: ông
luận chứng cho tính hợp lí
của chế độ chiếm hữu nô lệ.


Ong cho rằng chế độ chiếm
hữu nô lệ có lợi cho cả chủ
nô lẫn nô lệ.
B, Những nội dung cơ bản
thời cận đại:
Về lịch sử đây là thời kì của
các cuộc cách mạng tư sản,
chuẩn bị cho tư tưởng tự do
dân chủ chống lại chuyên
chế của phong kiến. Tư
tưởng tự do, dân chủ tư sản
hình thành. Nội dung tư
tưởng cơ bản của thời kì này
thể hiện qua các đại diện
tiêu biểu sau:
1, DIDEROT:
Nguồn gốc và bản
chất của nhà nước: nhà nước
ra đời do khế ước xã hội.
Nhà nước phải bảo đảm bình
đẳng và tự do. Nhà nước nào
vi phạm điều đó thì không
còn tư cách để tồn tại. Về
luật pháp: bản chất con
người phải phù hợp với
trạng thái tự nhiên, luật pháp
quán triệt điều đó, chứ
không phải ngược lại. Người
ta gọi ông là tác giả của tác
phẩm cộng sản tuyệt vời và

của18 “bộ luật tự nhiên”.
Về tư cách lãnh
đạo: mọi chúc vụ của người
cầm quyền phải được thực
hiện bằng thi cử. “dòng đầu
tiên của một bộ luật là hạn
chế quyền lực của người
cầm quyền”. (Diderot)
Về phương pháp
thay đổi chế độ xã hội: ông
không tán thành phương
pháp cách mạng. Tiến bộ về
lí trí sẽ làm that đổi xã hội.
Phủ nhận vai trò
của tôn giáo: nhà thờ không
thể dung hoà với chân lí
được.
2, VOLTAIRE:
ông phê phán nhà
thờ và chuyên chế. Mọi tội
ác trong xã hội là do nhà thờ
mà ra.
Ong chủ trương tự
do tín ngưỡng, báo chí, ngôn
luận và sở hữu.
Ong lịch liệt chống
chiến tranh. Theo ông, chiến
tranh còn kinh khủng hơn
dịch hạch và điên khùng.
Bất bình d0ẳng về



×