Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Đề tài Chế độ quằng và đời sống văn hóa của người Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.38 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

BÙI THỊ NGA

CHÕ §é QU»NG Vµ §êI SèNG V¡N HãA
CñA NG¦êI TµY ë B¶O L¹C (CAO B»NG)
TR¦íC N¡M 1945
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số:

60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. §µo Tè Uyªn

Hà Nội, 2014


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đào Tố
Uyên, người đã tận tâm, tận tình chỉ bảo, động viên và hướng dẫn tác giả trong
suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong Khoa Lịch sử đặc
biệt là Tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam, Phòng sau đại học trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình lựa chọn
và hoàn thiện đề tài luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời biết ơn chân thành đến gia đình, bạn bè và các đồng
nghiệp đã luôn ủng hộ, giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và
thực hiện luận văn.


Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng10 năm 2014
Tác giả luận văn

Bùi Thị Nga


DANH MỤC BẢNG VIẾT TẮT

Nxb

: Nhà xuất bản

QSQTN

: Quốc sử quán triều Nguyễn

KHXH

: Khoa học xã hội

VHTT

: Văn hóa thông tin

VHDT

: Văn hóa dân tộc

CTQG


: Chính trị quốc gia

ĐHSPHN

: Đại học sƣ phạm Hà Nội

TTLTQG I

: Trung tâm lƣu trữ quốc gia I

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích, đối tƣợng, nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài .............. 5
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................. 6
5. Đóng góp của Luận văn ................................................................................ 7
6. Bố cục của Luận văn ..................................................................................... 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BẢO LẠC (CAO BẰNG) .............. 9
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .............................................................. 9
1.1.1. Vị trí địa lý .......................................................................................... 9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên ............................................................................. 10
1.2. Lịch sử hành chính ................................................................................... 16

1.3. Các thành phần dân tộc ............................................................................ 18
1.4. Kinh tế ...................................................................................................... 21
1.4.1. Kinh tế nông nghiệp .......................................................................... 21
1.4.2. Công - thƣơng nghiệp ....................................................................... 27
1.4.2.1. Thủ công nghiệp......................................................................... 27
1.4.2.2. Thƣơng nghiệp ........................................................................... 31
Tiểu kết chương 1........................................................................................... 34
Chƣơng 2. CHẾ ĐỘ QUẰNG CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẢO LẠC
(CAO BẰNG) TRƢỚC 1945 ........................................................................ 35
2.1. Khái quát chính sách của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với
các dân tộc ít ngƣời miền núi .......................................................................... 35
2.2. Lịch sử chế độ Quằng và các dòng họ Quằng trong dân tộc Tày ở
Bảo Lạc - Cao Bằng trƣớc 1945 ..................................................................... 39


2.2.1. Lịch sử chế độ Quằng ....................................................................... 39
2.2.2. Các dòng họ Quằng ở Bảo Lạc - Cao Bằng ..................................... 41
2.2.2.1. Dòng họ Nông .......................................................................... 41
2.2.2.2 Dòng họ Ma Sĩ .......................................................................... 49
2.2.2.3. Dòng họ Dương Đình ............................................................. 50
2.3. Kết cấu kinh tế - xã hội của chế độ Quằng ở Bảo Lạc............................. 51
2.3.1. Chế độ ruộng đất và các hình thức bóc lột của Quằng ..................... 51
2.3.1.1. Giai đoạn trước khi Thực dân Pháp xâm lược và thống trị .... 51
2.3.1.2. Giai đoạn Thực dân Pháp xâm lược và thống trị .................... 66
2.3.2. Kết cấu xã hội trong chế độ Quằng ................................................... 67
2.3.2.1. Giai cấp thống trị ..................................................................... 68
2.3.2.2. Giai cấp bị trị ........................................................................... 71
2.3.3. Bộ máy thống trị và phƣơng thức thống trị ...................................... 73
2.3.3.1. Thời kỳ trước khi Pháp thống trị ............................................. 73
2.3.3.2. Thời kỳ Pháp thống trị ............................................................. 78

2.4. Một số nhận xét về chế độ Quằng đối với chính trị - xã hội của Bảo
Lạc trƣớc năm 1945 ........................................................................................ 80
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 83
Chƣơng 3: ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẢO LẠC
(CAO BẰNG) ................................................................................................. 84
3.1. Đời sống văn hoá vật chất ........................................................................ 84
3.1.1. Làng bản và nhà cửa ......................................................................... 84
3.1.1.1. Làng bản .................................................................................... 84
3.1.1.2. Nhà cửa ...................................................................................... 85
3.1.2. Ăn uống ............................................................................................. 86
3.1.2.1. Các món ăn ngày thường ........................................................... 86
3.1.2.2. Các món ăn ngày lễ, tết.............................................................. 86


3.1.2.3. Cách chế biến một số món ăn .................................................... 87
3.1.3. Y phục, trang sức .............................................................................. 92
3.1.3. 1. Y phục ........................................................................................ 92
3.1.3.2. Trang sức ................................................................................... 92
3.2. Đời sống văn hoá tinh thần ...................................................................... 92
3.2.1. Các tục lệ xã hội ................................................................................ 92
3.2.1. 1. Hôn nhân ................................................................................... 92
3.2.1. 2. Tang ma..................................................................................... 97
3.2.1.3. Tục mừng thọ ............................................................................. 99
3.2.1. 4. Tục “Vàng rùng” .................................................................... 100
3.2.1. 5. Đầy tháng (ma nhét) ............................................................... 101
3.2.1. 6. Lễ tết ........................................................................................ 101
3.2.2. Tín ngƣỡng, tôn giáo ....................................................................... 104
3.2.2.1. Tín ngưỡng ............................................................................... 104
3.2.2.2. Tôn giáo ................................................................................... 106
3.2.3. Lễ hội........................................................................................... 106

3.2.3.1. Lễ hội Lồng tồng (Xuống đồng) ............................................... 106
3.2.3.2. Hội “Háng Toán”(hội chợ) ..................................................... 108
3.2.3.3. Mừng cơm mới ......................................................................... 109
3.2.4. Văn học dân gian............................................................................. 110
3.2.5. Tri thức dân gian ............................................................................. 112
Tiểu kết chương 3......................................................................................... 113
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 116
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cao Bằng là một tỉnh miền núi, cao nguyên biên giới thuộc vùng đông bắc Tổ
quốc, là địa bàn cƣ trú của hơn 20 dân tộc anh em. Đại Nam nhất thống chí ghi:
Tỉnh Cao Bằng “đông tây cách nhau 165 dặm, nam bắc cách nhau 115 dặm, phía
đông giáp Long Châu phủ Thái Bình nước Thanh 133 dặm, phía tây giáp huyện
Cảm Hoá tỉnh Thái Nguyên 32 dặm, phía nam giáp huyện Cảm Hoá và huyện Thất
Khê tỉnh Lạng Sơn 60 dặm, phía bắc giáp châu Qui Thuận phủ Trấn Yên nước
Thanh 55 dặm, phía đông nam giáp huyện Thất Khê tỉnh Lạng Sơn và châu Hạ
Đống nước Thanh 45 dặm, phía tây nam giáp huyện Cảm Hoá tỉnh Thái Nguyên 45
dặm, phía đông bắc giáp châu An Bình thuộc phủ Thái Bình nước Thanh 152
dặm,…” [37, Tr. 401]
Với vị trí địa lý nhƣ vậy, ngay từ buổi sơ khai, Cao Bằng chính là một mảnh
đất “địa linh nhân kiệt” với bề dày truyền thống lịch sử và văn hoá rất đáng trân
trọng và tự hào. Từ xa xƣa, nơi đây đã diễn ra sự cộng cƣ của nhiều dân tộc: Kinh,
Tày, Nùng, Mông, Dao…Các dân tộc sống xen kẽ, phân bố không đồng đều nhƣng
cùng nhau đoàn kết lao động và sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần của
riêng mình. Có thể nói, vị trí địa lý đã tạo nên một Cao Bằng vừa độc đáo, vừa gần
gũi mang đậm đà bản sắc văn hoá các dân tộc miền núi phía Bắc nƣớc ta. Ngày nay,

có cả một khúc hát Cao Bằng:
“Nước Cao Bằng chảy ngược,
Một lần uống vẫn còn nhớ mãi!
Gạo Cao Bằng thật trắng,
Ăn vào mới biết hát lượn “Nàng ơi”!
[9, Tr. 10]
Cũng giống nhƣ châu Vị Xuyên (Hà Giang), châu Bảo Lạc (Cao Bằng) thuộc
trấn Tuyên Quang từ xƣa vốn là đất “phên giậu”, có vị trí chiến lƣợc quan trọng về
quốc phòng và an ninh ở biên cƣơng phía Bắc của Tổ quốc. Vì vậy, ngay khi chế độ
phong kiến trung ƣơng tập quyền đƣợc xác lập, các triều đại phong kiến Việt Nam

1


luôn coi trọng gìn giữ vùng quan ải, phiên trấn của Tổ quốc ở biên giới phía bắc
(đặc biệt là nơi đồng bào dân tộc sinh sống), để giữ yên bờ cõi bằng cách gả công
chúa, phong chức tƣớc cho thổ tù địa phƣơng,…nhƣ ở thời nhà Lý: “Thời bấy giờ
không đặt tiết trấn, các việc quân sự và dân sự đều giao cho các châu mục cai
quản. Các miền thượng du lại giao cho bọn tù trưởng địa phương cai quản. Nhà
vua sợ khó khống chế được họ nên mới kết mối giao hảo bằng các cuộc hôn nhân
để ràng buộc họ… từ đó, việc gả công chúa cho các châu mục trở thành lệ thường
của nhà Lý” [12, Tr. 33]
Nhƣ vậy, trƣớc cách mạng tháng Tám 1945, dƣới sự cai trị của các triều đại
phong kiến trung ƣơng tập quyền, ở một số vùng dân tộc miền núi đã tồn tại một
chế độ xã hội mà trong đó quyền lực của các thổ tù địa phƣơng là hết sức lớn – gọi
chung là chế độ thổ ty với nhiều tên gọi và hình thức khác nhau nhƣ: Lang đạo (hay
Nhà Lang) của ngƣời Mƣờng, Phìa tạo của ngƣời Thái, hoặc Quằng trong tiếng gọi
của ngƣời Tày.
Chế độ Quằng của ngƣời Tày đã tồn tại dai dẳng đến cách mạng tháng Tám
mới thực sự tan rã. Những tàn dƣ của nó đã ảnh hƣởng lớn đến đời sống của đồng

bào Tày.Theo đó, đã hình thành nên một chế độ chính trị - xã hội hết sức độc đáochế độ Quằng. Tìm hiểu về chế độ Quằng của ngƣời Tày sẽ góp phần dựng lại một
bức tranh sống động về hiện thực quá khứ, từ đó, thấy đƣợc chính sách, biện pháp
của triều đình trung ƣơng đối với dân tộc thiểu số vùng biên viễn của Tổ quốc.
Trƣớc năm 1945, chế độ Quằng trong dân tộc Tày tiêu biểu ở Hà Giang; ở Chiêm
Hoá (Tuyên Quang); tiêu biểu là ở Bảo Lạc (Cao Bằng) với dòng họ Nông có thế
lực lớn nhất.
Mang đặc thù của vùng biên viễn xa xôi, Bảo Lạc cũng là nơi cộng cƣ của
nhiều dân tộc khác nhau (nhƣ Tày, Nùng, Dao, Mông,…). Trong đó, dân tộc Tày
với dân số đông nhất và cũng là tộc ngƣời còn bảo lƣu đƣợc nhiều nét văn hóa độc
đáo, tiêu biểu nhất ở Bảo Lạc giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám.
Do yếu tố lịch sử và địa lý đã khiến không chỉ chế độ Quằng mà cả những nét
văn hóa truyền thống của đồng bào Tày nơi đây mang những nét riêng hết sức độc

2


đáo. Nghiên cứu về chế độ Quằng và văn hóa của ngƣời Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng)
tuy đã có một vài tác giả quan tâm nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, nhƣng, chƣa
có một công trình nào nghiên cứu vấn đề này một cách toàn diện và có hệ thống.
Tìm hiểu về chế độ Quằng và đời sống văn hóa của đồng bào Tày là cần thiết
để thấy rằng lịch sử phát triển của ngƣời Tày gắn liền với tiến trình phát triển của
lịch sử dân tộc. Trong đó, đồng bào Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) cũng có vai trò và vị
trí vô cùng quan trọng, là bộ phận hữu cơ trong cơ thể Việt Nam. Mặt khác, tìm
hiểu thấu đáo vấn đề này sẽ góp phần thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của
Đảng, đồng thời, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp tô
thắm vƣờn hoa văn hóa của cộng đồng dân tộc Tày của Cao Bằng nói riêng và đồng
bào Tày Việt Nam nói chung.
Là một giáo viên Lịch sử, bản thân tôi có tâm nguyện đƣợc tìm hiểu về lịch sử
của các dân tộc với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác nghiên cứu
khoa học về đồng bào miền núi để phục vụ cho công tác giảng dạy Lịch sử tại

trƣờng phổ thông.
Với những lí do trên, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Chế độ Quằng và
đời sống văn hoá của người Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trước năm 1945” làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lĩnh vực nghiên cứu lịch sử và văn hóa của các dân tộc ít ngƣời ở miền núi
phía Bắc nƣớc ta từ trƣớc đến nay đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
dƣới các góc độ khác nhau.Việc tìm hiểu về thiết chế Quằng của ngƣời Tày (hay
chế độ Quằng) ở vùng Việt Bắc nói chung và của huyện Bảo Lạc (Cao Bằng) nói
riêng đã có các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Nghiên cứu về vấn đề này trƣớc hết phải kể đến các bài nghiên cứu của các
nhà sử học, nhà nghiên cứu nhƣ Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng, Nguyễn Tuấn
Liêu, Hoàng Hoa Toàn, … trên Tạp chí Dân tộc học, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử…
+ Nguyễn Tuấn Liêu trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 44 (1962) với bài
“Mấy nét tình hình và nhận xét về chế độ Quằng trong dân tộc Tày ở Hà Giang” đã

3


trình bày những nét chính về tình hình chế độ Quằng trong dân tộc Tày ở Hà Giang
trƣớc 1945. Từ đó, tác giả đã đƣa ra một số nhận xét khá thuyết phục của bản thân
về đặc điểm chế độ Quằng nơi đây.
+ Cầm Trọng (1968) với bài nghiên cứu “Khái niệm Quằng của người Tày có
liên quan gì đến khái niệm Quảng của người Thái”, Tạp chí Dân tộc học. Trong đó,
tác giả đã có những phân tích, liên hệ và chứng minh hai khái niệm “quằng” của
ngƣời Tày và “quảng” của ngƣời Thái về bản chất là một.
+ Đặng Nghiêm Vạn (1977) với bài nghiên cứu“Người gia nô trong xã hội có
chế độ thổ ty, lang đạo, phìa tạo”đã phản ánh khá chi tiết tình cảnh và số phận của
những ngƣời gia nô (nô lệ) trong xã hội còn tồn tại chế độ thổ ty, lang đạo, phìa tạo
trƣớc năm 1945.

+ Hoàng Hoa Toàn (1983), với bài viết “Sở hữu tập thể của mường bản” và “sở
hữu của thổ ty” đối với ruộng đất ở vùng Tày” đƣợc đăng trên Tạp chí Dân tộc học đã
trình bày khá cụ thể về các loại hình sở hữu ruộng đất trong xã hội thổ ty ở vùng Tày
trong đó có đề cập tới sở hữu của thổ ty về ruộng đất ở Bảo Lạc trƣớc năm 1945.
- Báo cáo điền dã “Vài nét khái quát về chế độ thổ ty ở Bảo Lạc - Cao Bằng”
(1973) của Sinh viên trƣờng Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, đã nêu lên một cách khái
quát về chế độ Quằng tại địa phƣơng.
- Lã Văn Lô, “Về bảy dòng họ Thổ ty Lạng Sơn” (bản phục chế của Viện
Dân tộc học 2008) đã cung cấp những thông tin quý báu về nguồn gốc cũng
nhƣ phả hệ của các dòng họ Quằng ở Lạng Sơn, trong đó có nhắc đến dòng họ
Nông ở Bảo Lạc là một chi của dòng họ Nông.
- Hoàng Bé (1985), Các quan hệ hôn nhân gia đình trong xã hội người Tày ở
Bảo Lạc”, tác giả có đề cập đến mối quan hệ hôn nhân trong các dòng họ Thổ ty
của địa phƣơng.
- Cuốn sách “Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc” (1994) của tác giả
Hoàng Quyết - Tuấn Dũng. Trong đó, tác giả đã trình bày khá chi tiết và sinh động
những nét phong tục tục tâp quán truyền thống của đồng bào Tày ở Việt Bắc.

4


- Luận án tiến sĩ “Huyện Quảng Hoà (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến
giữa thế kỷ XIX” (2000) của tác giả Đàm Thị Uyên có phân tích về chế độ
Quằng và ảnh hƣởng của nó đến đời sống của cƣ dân địa phƣơng Quảng Hoà
tỉnh Cao Bằng.
- Cuốn “Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng” (2002) trong đó có địa chí các xã
huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm đã trình bày những nét khái quát nhất về đặc điểm, vị
trí địa lý, tự nhiên, dân cƣ, dân tộc, lịch sử và văn hóa truyền thống các xã trong
toàn huyện.
- Đề tài nghiên cứu khoa học: “Thiết chế chính trị - xã hội Quằng ở Hà

Giang trước năm 1945” của sinh viên Hoàng Diệu Thúy (2003) - Khoa Lịch sử ĐHSP Thái Nguyên, tác giả đã phân tích khá sâu sắc về tình hình và thiết chế
chính trị xã hội Quằng ở Hà Giang. Trong đó, có nhắc đến mối quan hệ gắn bó và
họ hàng giữa các dòng họ Quằng ở Hà Giang với các dòng họ Quằng ở Bảo Lạc
tại thời điểm mà chế độ Quằng vẫn còn tồn tại ở đây.
Những công trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả những luận cứ
khoa học quan trọng và cũng là những ý kiến gợi mở quý báu để tác giả có điều
kiện thực hiện và hoàn thành đề tài của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng, nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Thực hiện đề tài “Chế độ Quằng và đời sống văn
hoá của người Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trước năm 1945” trên cơ sở nguồn tƣ
liệu có đƣợc, tác giả đề tài mong muốn bƣớc đầu khôi phục lại một cách chân
thực, khoa học diện mạo của chế độ Quằng và đời sống văn hoá của đồng bào Tày
ở Bảo Lạc trƣớc năm 1945. Từ đó, tác giả sẽ rút ra những nhận xét, đánh giá của
bản thân về đặc điểm của chế độ Quằng - một chế độ chính trị - xã hội đã từng
tồn tại dai dẳng, chi phối đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào địa phƣơng.
Đồng thời làm nổi bật đƣợc những nét văn hoá truyền thống trong đời sống văn
hóa của đồng bào Tày nơi đây.
- Đối tƣợng nghiên cứu: Chế độ Quằng và đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở
Bảo Lạc (Cao Bằng) trƣớc năm 1945

5


- Nội dung nghiên cứu: Tìm hiểu Chế độ Quằng) và đời sống văn hoá của
đồng bào Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trƣớc năm 1945. Từ đó, tác giả rút ra đặc điểm
và ảnh hƣởng của chế độ Quằng tới đời sống ngƣời dân bản địa.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Đề tài nghiên cứu “Chế độ Quằng và đời sống văn hoá của
ngƣời Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trƣớc 1945” ở phạm vi không gian là một châu châu Bảo Lạc (thuộc xứ Tuyên Quang cũ) nay là huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng
(bao gồm hai huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm ngày nay).

+ Về thời gian: Đề tài “Chế độ Quằng và đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở
Bảo Lạc(Cao Bằng) trƣớc 1945”có giới hạn thời gian là trong phạm vi trƣớc năm
1945.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
*Nguồn tài liệu:
Để nghiên cứu đề tài “Chế độ Quằng và đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở
Bảo Lạc (Cao Bằng) trƣớc năm 1945” nguồn tài liệu đƣợc sử dụng gồm nhiều
nguồn khác nhau. Riêng nguồn tài liệu gốc chủ yếu tiếp cận với bộ sử nhƣ Đại Việt
sử kí toàn thƣ, Lịch triều hiến chƣơng loại chí, Kiến văn tiểu lục, Đại Nam thực
lục, Đại Nam nhất thống chí và nguồn tƣ liệu địa bạ triều Nguyễn.
Nguồn tài liệu chủ yếu là tài liệu tham khảo từ địa phƣơng, Sở Văn hoá Cao
Bằng, Phòng Văn hoá huyện Bảo Lạc, các bài viết, bài nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu và các thông tin thu thập đƣợc từ các cụ cao niên trong các chuyến đi
điền dã tại địa phƣơng. Song, các tài liệu còn rất nhỏ lẻ, phân tán.
*Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên
cứu chuyên và liên ngành nhƣ: Phƣơng pháp luận (gồm phƣơng pháp biện chứng,
phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic) và phƣơng pháp cụ thể (phân tích, tổng
hợp, so sánh đối chiếu, phƣơng pháp khai thác tƣ liệu thành văn kết hợp với phƣơng
pháp điền dã dân tộc học).

6


- Phương pháp luận:
+ Phƣơng pháp biện chứng: Nghiên cứu đề tài “Chế độ Quằng và đời sống văn
hoá của ngƣời Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trƣớc năm 1945” là tác giả đặt Chế độ
Quằng và văn hoá của ngƣời Tày trong mối tƣơng quan với tình hình chính trị xã
hội Việt Nam tại thời điểm đó trong sự tác động qua lại của các sự vật hiện tƣợng.
+ Phƣơng pháp lịch sử: Nghiên cứu đề tài, chúng tôi đặt đối tƣợng nghiên cứu

(tức là đặt Chế độ Quằng và đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bảo Lạc)trong một
không gian, thời gian, bối cảnh và tiến trình lịch sử của nó để giải thích đƣợc và làm
rõ vấn đề.
- Phƣơng pháp cụ thể:
+ Phƣơng pháp sƣu tầm tƣ liệu, phân loại tƣ liệu và chỉnh lí tƣ liệu
+ Phƣơng pháp điền dã dân tộc học
5. Đóng góp của Luận văn
Nghiên cứu về “Chế độ Quằng và đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bảo Lạc
(Cao Bằng) trƣớc năm 1945” sẽ góp phần phục dựng lại chế độ Quằng của đồng
bào Tày đã từng tồn tại dai dẳng trong lịch sử. Qua đó, thấy đƣợc những đặc điểm
riêng biệt của chế độ Quằng nơi đây so với các nơi khác.
Thông qua tìm hiểu về Chế độ Quằng, đề tài cũng sẽ bƣớc đầu dựng lại một
cách chân thực bức tranh xã hội miền núi phía Bắc nƣớc ta dƣới sự tác động của
chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trên cơ sở đó, thấy
đƣợc ý nghĩa quan trọng về quốc phòng và an ninh của những vùng dân tộc ít
ngƣời miền núi biên giới của nƣớc ta, từ đó có những chính sách dân tộc phù hợp
và kịp thời để thực hiện mục tiêu đƣa miền núi và miền xuôi xích lại gần nhau.
Qua tìm hiểu về đời sống văn hoá của đồng bào Tày sẽ giúp ta thấy đƣợc
những nét văn hoá truyền thống của đồng bào Tày ở Bảo Lạc mà cho đến ngày
nay vẫn còn lƣu giữ đƣợc. Từ đó có những chính sách gìn giữ, bảo tồn và phát
huy những nét văn hoá truyền thống trong công cuộc hội nhập hiện nay.

7


Luận văn cũng là nguồn tài liệu bổ sung cho phần lịch sử cổ - trung đại
Việt Nam và đồng thời cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy
lịch sử địa phƣơng ở trƣờng phổ thông.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phục lục và tài liệu tham khảo, phần

nội dung của Luận văn đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng
Chƣơng 2: Chế độ Quằng của ngƣời Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng) trƣớc năm 1945
Chƣơng 3: Đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bảo Lạc (Cao Bằng)

8


NỘI DUNG

Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BẢO LẠC (CAO BẰNG)
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Bảo Lạc “phía bắc giáp huyện Nà Po của tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) với đường biên giới dài 54,5 km. Phía đông giáp với huyện Thông Nông
và huyện Nguyên Bình. Phía Tây giáp với huyện Mèo Vạc, Yên Minh và huyện
Bắc Mê tỉnh Hà Giang. Phía nam giáp với huyện Ba Bể tỉnh Bắc Cạn và huyện
Na Hang (Tuyên Quang)” [47, Tr. 831], với tọa độ địa lý đƣợc xác định:
Vĩ độ bắc từ 22038‟07” đến 230 7‟12” (Từ Bản Vàng - Yên Thổ đến Nà Luông
- Đức Hạnh)
Kinh độ đông từ 105016‟15” đến 1050 52‟52” (từ núi Lũng Gia - Quảng Lâm
đến Thông Tiên - Hồng An).
Các sách của nhà Nguyễn biên chép về địa giới của Bảo Lạc nhƣ sau:
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”: châu Bảo Lạc thế kỷ XIX: “Đông
tây cách nhau 93 dặm, nam bắc cách nhau 140 dặm, phía đông đến địa giới
châu Chiêm Hoá 33 dặm, phía tây đến địa giới huyện Vị Xuyên và châu Chiêm
Hoá 96 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Để Định 18 dặm (phía bắc của huyện
Để Định đến địa giới huyện Trấn Yên nƣớc Thanh 81 dặm, vậy phía bắc của
châu Bảo Lạc khi chƣa tách huyện có địa giới giáp huyện Trấn Yên nƣớc Thanh
99 dặm - TG) [37, Tr. 338]

Hoặc “Địa hạt hai huyện (huyện Vĩnh Điện và Để Định - tức châu Bảo Lạc)
phía đông giáp địa giới châu Bạch Thông tỉnh Thái Nguyên và huyện Thạch Lâm
tỉnh Cao Bằng; phía tây giáp huyện Vị Xuyên; phía nam giáp châu Chiêm Hoá;
phía bắc giáp hai phủ Khai Hoá, Trấn An nước Thanh…” [54, Tr. 871]
Với vị trí địa lý nhƣ vậy, Bảo Lạc là một huyện biên giới, vùng cao,vùng
sâu, nằm ở phía tây của tỉnh Cao Bằng. Mặt khác, Bảo Lạc cũng có vị trí quan
trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng.

9


1.1.2. Điều kiện tự nhiên
- Về địa hình
Nằm trong khu vực địa bàn núi cao phía bắc của tỉnh Cao Bằng cũng là vùng
miền núi cao phía Bắc Việt Nam, huyện Bảo Lạc là một quần thể núi non hùng vĩ,
có địa hình hiểm trở, phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi hệ thống núi cao kéo dài, có độ
dốc lớn với nhiều khe núi, nhiều núi đá, trong đó, chủ yếu là núi đá vôi xen kẽ các
sông suối, thung lũng hẹp.
Xét trong tổng thể địa hình Cao Bằng, địa hình Bảo Lạc thuộc Cao nguyên
Lang Cá và Cao nguyên Bình Lạng, đây là cao nguyên đá vôi đồ sộ nằm ở phía tây
của huyện Bảo Lạc và huyện Bảo Lâm. Cao nguyên này bị cắt xẻ bởi nhiều thung
lũng sâu với những vách đá dựng đứng, có nhiều vực thẳm có nhiều ngọn núi cao từ
1200m - 1800m, là một cao nguyên hiểm trở giao thông đi lại khó khăn, dân cƣ
thƣa thớt.
Dãy Bảo Lạc - Tắp Ná chạy sang phía đông Bảo Lạc kéo dài qua Thông Nông,
tây Hòa An đến đông bắc Nguyên Bình. Đỉnh cao nhất có độ cao 1803m thuộc xã
Khánh Xuân (Bảo Lạc). Dãy núi này cũng bị chia cắt thành nhiều hẻm vực sâu,
nhiều thung lũng rộng, điển hình là thung lũng Đồng Mu, một thung lũng nổi tiếng
ở độ cao 893 m so với mặt nƣớc biển.
Trong cuốn Đồng Khánh Dƣ địa chí cũng đã ghi chép về núi sông của Bảo Lạc (bấy

giờ là hai huyện Vĩnh Điện và Để Định thuộc phủ Tƣơng An - tỉnh Tuyên Quang):“Núi
đá núi đất liên tiếp, khó đếm được thực có bao nhiêu ngọn núi. Duy có núi đất Cổ Long ở
xã Yên Phú là tương đối cao. Núi đá Ngọc Nữ ở xã Mông Ân, núi đá ở trang Ngọc Mạo,
núi đá Tam Phùng là những núi rất cao và hiểm trở…” [54, Tr. 872]
Các ngọn núi của huyện Bảo Lạc thƣờng cao dần về phía Đồng Văn. Núi
cao hùng vĩ, địa hình hiểm trở đã tạo nên một Bảo Lạc với nhiều sản vật quý từ
gỗ quý, thú vật quý, dƣợc liệu quý, kim loại quý,… Trong “Non nƣớc Cao
Bằng”, Hoàng Tuấn Nam đã chép về Bảo Lạc nhƣ sau: “Tại xã Mông Ân huyện
Bảo Lạc có đến 4 ngọn núi cao 1805 m đến 1244m so với mặt nước biển. Đây là
một vùng núi cao hùng vĩ, chứa nhiều gỗ quý, thú vật quý và còn là nơi có trữ

10


lượng dồi dào về cây dược liệu quý hiếm như trĩ, hổ, gấu, báo, sơn dương, hà
thủ ô,...” [32, Tr. 20]. Đáng chú ý nhất là ngọn núi Phja Dạ cao tới 1980m so với
mặt biển, nằm giữa huyện Bảo Lạc và huyện Ba Bể (Bắc Cạn). Núi Phja Dạ có
cấu tạo từ đá granit, quanh năm đƣợc mây mù bao phủ, núi rừng rậm rạp, âm u, về mùa
đông, núi có tuyết và băng giá. Dân bản địa thƣờng gọi phja Dạ là “núi tiên”, có câu ca
“Phja Dạ chẳng bao giờ vắng mặt các nàng tiên”.
Ngoài ra, còn phải kể đến các ngọn núi Ngọc Mạo; núi đá Tam Phùng; núi bản
Miơng, cao 1200m; núi Phja Rạc, cao 1500m; núi Phja Khao, cao 1200m; núi Nạm
Phùm, cao 1800m,… Sử cũ chép về núi Ngọc Mạo: “Ở phía tây huyện Để Định,
khoảng đất bằng phẳng rộng hơn 2000 mẫu, ở giữa nổi vọt lên một quả núi, như hình
cái mũ, nên tên gọi thế; phía trước núi có hồ tức hồ ngọc Mạo, rộng hơn một mẫu,
nước hồ trong trẻo đáng ưa” [37, Tr.347]. Có thể nói, mang đặc trƣng của một huyện
miền núi với nhiều ngọn núi cao đã khiến Bảo Lạc có một thiên nhiên hùng vĩ.
- Về sông suối
Sông suối Bảo Lạc có độ dốc khá cao, hƣớng chảy tập trung và chảy về phía
tây nhƣ sông Gâm và sông Neo.

Thời Nguyễn, ghi chép châu Bảo Lạc có các con sông: “Một sông từ sông
Bách Nam ở phủ Trấn An nước Thanh đổ xuống cửa sông xã Ân Quang huyện Để
Định, (đây có thể chính là sông Gâm ngày nay - TG), một sông từ sông phủ Khai
Hoá đổ xuống cửa sông xã Yên Lãng huyện ấy. Hai sông này hợp dòng ở xứ Nà
Sài (tục gọi là ngã ba Nà Sài) chảy đến xứ Hạ Lam xã Lạc Nông, tiếp vào giang
phận châu Chiêm Hoá, làm thượng lưu sông Khâm Giang” [54, Tr. 872].
Nhƣ vậy, nếu chiếu vào vị trí và địa hình ngày nay thì hai con sông mà sách
Đồng Khánh Dƣ địa chí đã chép chính là hai con sông là sông Gâm và sông Neo,
ngã ba Nà Sài rất có thể chính là ngã ba Kéo Cò Luồng (nơi còn gắn liền với câu
chuyện truyền thuyết về chặt đầu rồng đƣợc các cụ già nơi đây kể lại liên quan tới
vị thủ lĩnh họ Nông - TG) ở địa phận thị trấn Bảo Lạc ngày nay. (Xem thêm hình 21,
phụ lục C)

11


- Sông Gâm (tiếng địa phƣơng gọi là Pác Miào) là con sông quan trọng nhất
chảy về phía tây của cánh cung sông Gâm. “Sông này bắt nguồn từ Trung Quốc
chảy qua dãy núi đá vôi Bảo Lạc, Tắp Ná một đoạn đường dài hàng chục
kilômét, rồi mới đi qua vùng đá phiến. Đến tây nam Bảo Lạc sông lại cắt ngang
qua khối núi đá vôi của cao nguyên Lang Cá để sang đất Hà Giang. Lòng sông
rộng trung bình khoảng 70m và thu lại rất hẹp khi đi qua các hẻm đá nên mùa lũ
nước dâng lên rất nhanh, thuyền bè đi lại khó khăn.” [4, Tr.35].
Một số ngƣời dân địa phƣơng sống dọc ven sông khi đƣợc hỏi đã cho biết,
dân bản thƣờng nói với nhau rằng dƣới sông có thuồng luồng to ăn thịt ngƣời,
hàng năm đều lấy ngƣời thì sông mới yên, nhất là khi mới lũ xong. Họ còn cho
biết, “thần sông” hay “thuồng luồng” thƣờng “lấy” ngƣời lạ từ nơi khác đến. Bởi
vậy, những ngƣời lạ từ nơi khác đến thƣờng không dám xuống vì sợ thuồng
luồng kéo chân.
Nƣớc sông Gâm quanh năm xanh biếc, đoạn sông chạy qua thị trấn Bảo Lạc

ít thác ghềnh hơn. Đấy là khi mùa cạn, còn khi mùa nƣớc lũ về (từ tháng 6 đến
tháng 7 âm lịch) hàng năm thƣờng có lũ lớn, dòng nƣớc cuồn cuộn đục ngầu làm
đổ và cuốn trôi cả cây to.
Hai bên bờ sông Gâm thƣờng có độ dốc cao, không sử dụng làm thủy lợi
tƣới tiêu đƣợc. Tuy vậy, sông Gâm cũng có khá nhiều ƣu điểm: Có nhiều loại cá
có giá trị kinh tế nhƣ cá anh vũ, cá chiên, cá lăng, cá trầm xanh, cá bống …
Trong đó, cá chiên chính là chúa tể của dòng sông này. “Sông Gâm có nhiều cá
quý sinh sống: cá anh vũ (trước kia dùng để tiến vua), cá trầm xanh, cá chiên, cá
lăng, cá bống. Đây là năm loài cá quý mà người dân quanh dòng sông gọi là “ngũ
quý hà thủy”” [32, Tr.16]
Nhƣ vậy, cá chiên là một giống cá nƣớc ngọt quý hiếm trong “Ngũ quý hà
thủy” của sông Gâm. Theo lời kể của các cụ cao niên mà tác giả thu thập đƣợc
trong quá trình điền dã thì trƣớc kia các loại cá trên có rất nhiều ở sông Gâm. Cá
chiên có hình thù giống nhƣ một con “quái vật”, đầu cá nham nhở nhƣ một khúc gỗ
mục, toàn thân trơn nhẵn không vảy, nhƣng xù và có màu sắc loang lổ. Bản tính loài

12


cá này dữ dằn và hung ác. Giống cá này rất lớn nặng tới vài chục cân thƣờng sinh
sống tại các khu vực nƣớc sâu có hang đá, khe đá và đặc biệt là vị trí nƣớc chảy
xiết. Chúng nằm sát đáy sông, ẩn mình trong hốc đá khiến thân hình khổng lồ
không bị dòng nƣớc cuốn đi và tạo thành nơi ngụy trang, trú ẩn lý tƣởng để đón
lõng con mồi đi qua và tránh đƣợc sự giăng bẫy của các thợ săn.
Trƣớc năm 1945, cá chiên có rất nhiều ở đây. Đồng bào thƣờng đi săn loại cá
này để cải thiện bữa ăn. Thời kỳ trƣớc, hễ có thợ săn nào bắt đƣợc loại cá này là
đem về mổ thịt khao cả làng và coi nhƣ đó là “lộc trời” ban tặng và đầu cá Chiên
thƣờng đƣợc thợ săn đem làm lễ cúng thần linh để tỏ lòng thành kính của mình”.
Ông Lƣơng Văn Vàng (65 tuổi) sống bên bờ sông Gâm là một thợ săn có thâm
niên 30 năm săn cá chiên cho biết ông đã từng săn đƣợc một con cá chiên nặng tới

60 kg. Ngày nay, do tình trạng đánh bắt bừa bãi nên các loại cá này ngày càng trở
nên khan hiếm.
- Sông Neo (ngƣời dân quen gọi là sông Reo, tiếng địa phƣơng gọi là sông Tà
Miào), con sông này bắt nguồn từ Nặm Pắt xã Đình Phùng và Huy Giáp chảy đến xã
Hƣng Đạo giáp với xã Hồng Trị tại bản Nà Tồng dọc theo quốc lộ 34 chảy qua các
xóm Pác Luồng, Bản Piậy, Bản Khuông, Thang Buổng, Nà Chùa, Nà Phạ đến điểm
tiếp giáp cuối tại Nà Cán khu 10 thị trấn Bảo Lạc rồi đổ ra sông Gâm tại Kéo Cò Luồng
với tổng chiều dài 12km. “Sông Neo có độ sâu là 1m đến 4m, rộng 10 - 15m, nước
chảy siết, lúc lên lúc xuống không ổn định lưu lượng dòng chảy 2m/s.” [48, tr.71]
Ngoài sông Gâm và sông Neo, mật độ các con suối, hồ ở Bảo Lạc cũng khá
dày nhƣ: cách thị trấn Bảo Lạc khoảng 15km theo đƣờng chim bay về phía đông có
hồ Đồng Mu, mặt hồ cao gần 900m so với mặt nƣớc biển có vài con suối từ trên núi
đổ xuống hồ. Hồ Đồng Mu có tác dụng điều hoà thời tiết và tƣới nƣớc cho đồng
ruộng. Cho tới ngày nay, nhân dân sinh sống quanh hồ cũng chƣa biết chính xác độ
sâu của hồ là bao nhiêu và họ chỉ biết rằng mùa khô hồ cũng không bao giờ bị cạn.
- Sinh vật
Là một huyện miền núi của tỉnh Cao Bằng, 90% diện tích Bảo Lạc là đồi núi.
Bảo Lạc cũng là huyện vẫn còn hệ thống rừng nguyên sinh nhƣ rừng Bản Bét, rừng

13


Lũng Lèng, Lũng Lô, Lũng Cắm,… Theo thống kê của Hoàng Tuấn Nam khi tìm hiểu
về non nƣớc Cao Bằng, hiện nay, trong các khu rừng nguyên sinh của huyện còn có rất
nhiều các loại lâm, thổ sản quý hiếm nhƣ: gỗ nghiến, thông đá, dổi, khảo, dẻ đỏ, dẻ
trắng, cắng cò,… và các loại gỗ khác. Hay những rừng cây Mạy Kẹo, Mạy Cáng Lò,
Mạy Xả Cài, Mạy Khỉ Lếch cao vút và bạt ngàn cây lát - đây là một loại gỗ quý của
huyện đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trƣớc 1970, trong các rừng còn có nhiều cây sa
nhân - thuốc quý, song, do chặt phá bừa bãi nên số lƣợng giảm dần.
Nhân dân địa phƣơng có nhắc tới một loại cây gọi là cây mác cai, là một

loại cây đặc sản của thị trấn Bảo Lạc. Loại cây này thƣờng mọc nhiều ở ven bờ
sông Gâm. Ở thị trấn Bảo Lạc “từ bến phà Pác Gào đến Pác Pẹt, dài 4km, có
đến 20 cây to, cứ vài chục mét lại có một gốc cây to đến hai, ba người ôm
không xuể, cây cao, cành lá xum suê, từng chùm quả khi chưa chín có màu lá
mạ, khi chín màu vàng như quả xoài, to bằng quả trứng gà, hạt như hạt xoài,
ăn vừa thơm, vừa bùi, quả mác cai có thể ăn thay cơm.” [48, Tr.4].
Trong chuyến thực tế điền dã, tác giả có tiếp xúc với một số ngƣời dân sống
dọc ven sông Gâm, sông Neo nhƣ: Bà Quan Thị Méo (63 tuổi) có kể rằng: Hồi bà
còn nhỏ, cây mác cai mọc rất nhiều ven sông Gâm, sông Neo, cây to một ngƣời ôm,
ở trong bìa rừng còn có cây rất to, hai, ba ngƣời ôm không xuể, quả sai trĩu, lũ trẻ
con những khi đi chăn bò, lấy củi thƣờng trèo hái quả ăn. Có năm, mác cai sai trĩu,
dân trong bản còn đi lấy qua đựng vào giậu hàng gánh gánh về, ăn no mà không
chán. Cũng theo kinh nghiệm dân gian của dân bản rằng hễ năm nào mác cai trĩu
quả thì năm đó lúa trên nƣơng trên rẫy cũng thƣờng bị mất mùa. Mác cai thƣờng
mọc sát bờ nên cá sộp, cá chày hay tụ tập ăn quả chín rụng. Ngày nay, cây mác cai
còn rất ít do ngƣời dân chặt làm củi đun và do đã có quả xoài thay thế nên quả mác
cai không còn đƣợc ƣa chuộng nhƣ xƣa nữa, nhƣng, đồng bào vẫn lấy quả mác cai
xanh để kho thịt, cá ăn rất ngon.. [88]
- Khí hậu
Khí hậu Bảo Lạc cũng chịu tác động lớn của yếu tố địa hình. Do huyện
miền núi nên mùa hạ rất mát mẻ còn mùa đông lại rét buốt: “… hàng năm, đến

14


mùa đông giá rét, nước đóng băng (xã Mậu Duệ thuộc huyện Để Định…) giáp
với nước Thanh mùa đông rét buốt, nước đóng lại thành băng, người ta lấy dao
sắt đào từng khối bỏ vào sọt tre gánh về, dùng lửa đun cho chảy ra, mới có thể
thổi nấu được” [37, Tr.334]
Bảo Lạc “mùa hè và mùa thu thường mưa nhiều, mùa đông và mùa xuân

thường âm u, mỗi khi mưa lâu tiếp đến ngày nắng thì khí nóng khác thường; đến
tiết sương giáng thường có gió rét, tháng ba và tháng chín khí nóng nung nấu,
nhiều người bị cảm. Ngạn ngữ có câu: tháng chín thì quýt đỏ trôn. Tháng ba ngái
nở cái con cùng về” [37, Tr.334]
Nhƣ vậy, các sách đều chép và miêu tả về khí hậu của Bảo Lạc diễn biến
phức tạp, là nơi “hang thâm cùng cốc”, âm u. Điều đó chứng tỏ đây là một
miền xa xôi hẻo lánh với chính quyền trung ƣơng. “Đất giáp nước Thanh,
nhiều sương núi khí độc, đến giờ thìn, giờ tỵ trời mới hửng nắng. Đến mùa
xuân còn rét. Mùa hè nhiều mưa lũ, đường thủy, đường bộ đều khó đi. Mùa
đông sương độc như mưa, đến giờ ngọ mới tan, rét buốt” [54, Tr. 872]
Do đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi núi, nhiều khe suối, địa hình bị cắt xẻ nên
giao thông Bảo Lạc đi lại hết sức khó khăn. Trong “Gia phả họ Nông” do Nông
Hồng Loan (chắt đời thứ tƣ của Nông Văn Vân - thổ tù của bảo Lạc thời phong kiến
- TG) có ghi: “Bảo Lạc là một châu hẻo lánh thuộc Cao Bằng, cách tỉnh lỵ hơn trăm
cây số. Ngày trước, … từ Nguyên Bình vào châu lỵ phải đi qua ba ngày ngựa qua trạm
Nặm Pắt và Pác Lũng. Đường xa hun hút, phong cảnh tiêu sơ… Châu Bảo Lạc là một
thị trấn nhỏ nằm gọn trong thung lũng… có sông Reo (tức sông Neo - TG) trong vắt
chảy qua ghềnh đá … đối diện là núi Vân Trung hiểm trở…” [83, Tr.3]
Trong những năm gần đây, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm, với những
chính sách 134, 135, 327, của Đảng và chính phủ, giao thông đi lại của đồng bào
các dân tộc nơi đây đã có những bƣớc cải thiện rõ rệt, đƣờng huyện lỵ, tỉnh lỵ, thậm
chí có cả đƣờng liên xã.
Nhƣ vậy, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nhƣ vậy đã mang lại cho Bảo Lạc
khá nhiều thuận lợi xong cũng không ít những khó khăn. Bảo Lạc là một huyện có

15


thế mạnh về lâm nghiệp, tài nguyên rừng khá phong phú đặc biệt là những rừng
nguyên sinh với nhiều cây gỗ quý nhƣ trúc, trẩu, sở,… Do vậy, nếu đƣợc đầu tƣ cơ

sở vật chất hạ tầng, giao thông,.. thì Bảo Lạc có thể phát triển công nghiệp chế biến
lâm thổ sản mang lại giá trị kinh tế cao. Mặt khác, huyện cũng có điều kiện để phát
triển chăn nuôi đại gia súc nhƣ trâu, bò. Bên cạnh đó, khí hậu Bảo Lạc cũng có hạn
chế gây khó khăn trong sản xuất và đời sống sinh hoạt của đồng bào nơi đây nhƣ
hiện tƣợng băng giá, sƣơng muối, lũ quét, hạn hán, mƣa đá,…
Do giao thông khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu nên nhìn chung Bảo Lạc vẫn
là một huyện khó khăn của tỉnh Cao Bằng, kinh tế kém phát triển, chủ yếu là nông lâm nghiệp, cuộc sống của đồng bào nơi đây phải phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên.
Tuy nhiên, với sự quan tâm một cách thiết thực thông qua các chính sách, dự án của
Đảng và Nhà nƣớc, nhân dân các dân tộc Bảo Lạc đã và đang thực hiện công cuộc
xoá đói giảm nghèo, từng bƣớc xây dựng đời sống văn hoá mới, tiên tiến và đậm đã
bản sắc dân tộc.
1.2. Lịch sử hành chính

Căn cứ vào những tài liệu gốc nhƣ: Lịch triều hiến chƣơng loại chí,
Đồng Khánh dƣ địa chí, … cho thấy Bảo Lạc ngày nay trong lịch sử có nhiều
thay đổi, với những tên gọi khác nhau, trực thuộc những đơn vị hành chính
khác nhau.
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú viết: Tuyên Quang
“đời cổ là nước Lạc Long, Tần là quận Nam Hải, thuộc Hán gọi là quận Giao Chỉ,
Đường là Châu Thang. Thời Trần thuộc lộ Quốc Oai. Đầu thời Lê là trấn Tuyên
Quang, giữa năm Quang Thuận (1466) đặt làm thừa tuyên Tuyên Quang, có 1 phủ,
1 huyện, 5 châu: Phủ Yên Bình, huyện Phúc Yên (Hàm Yên); 5 châu: Thu Vật, Lục
Yên, Đại Man, Vị Xuyên, Bảo Lạc” [12, Tr. 143].
Nhƣ vậy, chiếu theo Lịch triều hiến chƣơng loại chí, Bảo Lạc là một châu
thuộc trấn Tuyên Quang. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Bảo Lạc đã có nhiều lần
thay đổi về tên gọi và địa giới hành chính. Địa chí Cao Bằng cũng ghi rõ: “Châu
Bảo Lạc, từ thời Lý là huyện Bảo Lạc thuộc châu Quảng Nguyên. Năm Quang

16



Thuận thứ 10 (1469) đổi làm huyện Định Châu, sau lại đổi thành châu Bảo Lạc.
Đầu thời Nguyễn vẫn giữ nguyên, thuộc xứ Tuyên Quang gồm 4 tổng 21 xã (tổng
Vân Quang có 6 xã tổng Đông Quang có 4 xã, tổng Mông Ân có 5 xã, tổng Yên Phú
có 6 xã, .... Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) Nông Văn Vân khởi nghĩa chống lại
triều đình. Sau khi dẹp được Nông Văn Vân, năm 1835, vua Minh Mệnh đã chia đặt
2 huyện Vĩnh Điện và Để Định. Đến cuối thế kỷ XIX, châu Bảo Lạc được lập lại
thuộc tỉnh Hà Giang. Đến những năm đầu thế kỷ XX, huyện mới được tách về địa
phận của tỉnh Cao Bằng” [47, Tr. 831 - 832]. Sau khi sáp nhập vào tỉnh Cao Bằng,
Bảo Lạc có 2 tổng:
“- Tổng Nam Quang, có 7 xã:
+ Xã Ân Quang: Gồm các xã Phan Thanh, Khánh Xuân, Xuân Trƣờng, Hồng
An và một phần đất của xã Huy giáp ngày nay.
+ Xã Yên Lạc: Gồm các xã Hƣng Đạo, Đình Phùng, Huy Giáp và xã Sơn Lộ
ngày nay.
+ Xã Thƣợng Yên: Gồm các xã Hồng Trị, Hƣng Đạo, Vĩnh Phong và một
phần xã Vĩnh Quang ngày nay.
+ Xã Yên Lãng: Gồm các xã Thƣợng Hà và Bảo Toàn ngày nay.
+ Xã Nặm Quét:Là xã Cô Ba ngày nay.
+ Xã Cốc Pàng: Gồm các xã Cốc Pàng và Đức Hạnh ngày nay.
+ Xã Yên Đức: Gồm xã Lý Bôn và xã Vĩnh Quang ngày nay.
- Tổng Mông Ân có 5 xã:
+ Xã Nam Cao
+ Xã Quan Quang gồm xã Nam Quang và xã Tân Việt ngày nay.
+ Xã Mông Ân: Gồm các xã Mông Ân, xã Quảng Lâm và một phần xã Thái
Học ngày nay.
+ Xã Mông Yên.
+ Xã Lạc Thổ gồm xã Yên Thổ và một phần xã Thái Học ngày nay”.
[47, Tr.832]


17


Nhƣ vậy, sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, đến thời điểm trƣớc khi
tách huyện (9/2000),Bảo Lạc có tổng diện tích tự nhiên là 1821,75km2 gồm một thị
trấn - thị trấn Bảo Lạc và 23 xã: Cốc Pàng, Tân Việt, Hồng Trị, Vĩnh Quang, Hồng
An, Huy Giáp, Yên Thổ, Bảo Toàn, Đức Hạnh, Thƣợng Hà, Cô Ba, Khánh Xuân,
Xuân Trƣờng, Phan Thanh, Lý Bôn, Nam Quang, Quảng Lâm, Mông Ân, Vĩnh
Phong, Hƣng Đạo, Đình Phùng, Sơn Lộ và Thái Học.
Tháng 9/2000, sau khi điều chỉnh địa giới hành chính Bảo Lạc để thành lập huyện
Bảo Lâm, diện tích huyện là 918km2 với 1 thị trấn và 16 xã: Sơn Lộ, Đình Phùng,
Hƣng Đạo, Huy Giáp, Hồng An, Xuân Trƣờng, Khánh Xuân, Phan Thanh, Hồng Trị,
Cô Ba, Bảo Toàn, Cốc Pàng, Thƣợng Hà, Hƣng Thịnh, Sơn Lập, và Kim Cúc.
1.3. Các thành phần dân tộc
Bảo Lạc là một huyện vùng cao biên giới, giao thông đi lại khó khăn, nên dân cƣ
sinh sống trên địa bàn huyện khá thƣa thớt. Chiếu theo biên chép của triều Nguyễn
trong Đồng Khánh dƣ địa chí “huyện Vĩnh Điện: Theo sổ cũ 334 người. Huyện Để
Định: theo sổ cũ là 467 người ” [54, Tr.873]. Vậy, dân hai huyện, tƣơng đƣơng với
châu Bảo Lạc, là 801 ngƣời. Ngoài ra, còn có dân số thuộc hộ, khách hộ, ngƣời Thanh,
ngƣời Nùng, ngƣời Mán, … cũng theo biên chép trên thì huyện Vĩnh Điện có 140 ngƣời,
huyện Để Định có 711 ngƣời.
Đến nay, mặc dù giao thông có những bƣớc cải thiện nhiều, song, vẫn còn
nhiều khó khăn và vì thế dân cƣ sinh sống trên địa bàn huyện vẫn còn rất thƣa thớt.
Theo số liệu thống kê dân số 31/12/2009 của phòng thống kê huyện Bảo Lạc, toàn
huyện Bảo Lạc có 8905 hộ với tổng số dân là 48920 (bình quân 5,4 ngƣời/1 hộ).
Mật độ dân số bình quân 53 ngƣời/km2. Có 7 dân tộc chính gồm:
-

Tày: 13.580 ngƣời


- Nùng: 11.550 ngƣời

-

Mông: 7572 ngƣời

- Dao: 11.722 ngƣời

-

Sán chỉ: 2377 ngƣời

- Lô Lô: 1301 ngƣời

-

Kinh: 407 ngƣời

- Dân tộc khác: 411 ngƣời

Về phong tục, sách Đồng Khánh dƣ địa chí đã chép về phong tục của ngƣời
dân bản địa sinh sống trên địa bàn châu Bảo Lạc, khi đó là 2 huyện Vĩnh Điện và

18


Để Định nhƣ sau: “Dân hai huyện nguyên có người Thổ (Tày), Nùng, Mèo, Mán,
mỗi dân tộc có một hai tộc, gồm ba bốn hạng dân, phong tục tiếng nói đều khác
nhau, không học hành, ít hiểu biết. Trong đó, người Thổ (Tày) tương đối có văn lễ,
biết điều sỉ nhục. Các tục cưới xin, tang ma, cúng tế nửa xa xỉ, nửa tiết kiệm. Người

Nùng, người Anh Miêu,, người Mán La Quả thì ngu độn nhưng thật thà. Người
Bạch Miêu (Mèo trắng), người Mán sư tử, Đại Bản thì rất gian ác, hung hãn không
biết văn lễ. Cưới xin, tang ma, cúng tế đều sơ sài không có nghi lễ. Người Nùng ở
chân núi, người Mán ở sườn núi, người Mèo ở đỉnh núi, quần áo đơn giản, không
trang sức hoa văn. Họ đều ở chỗ rừng núi…” [54, Tr. 871]
Nhƣ vậy, qua cách miêu tả trên về phong tục tập quán của các tộc ngƣời,
ta thấy họ phần lớn rất lạc hậu, sống trên núi cao, nhiều dân tộc phần lớn chƣa
có nét văn hóa, văn lễ trong sinh hoạt. Do sống sâu trong núi và thung lũng
hiểm trở, nên họ gần nhƣ không giao tiếp với bên ngoài, sống phân tán, cục bộ.
Đây là nguyên nhân tạo nên tính chất riêng rẽ, cát cứ và khép kín cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu, đói nghèo của các tộc ngƣời nơi đây.
Cuốn “Gia phả họ Nông”, phần “Nguồn gốc” có chép tóm tắt vài nét về dân
tộc Tày nhƣ sau: “khi dân tộc Hán làm chủ trung nguyên vào thời Hoàng Đế, họ
không ngừng bành trướng thế lực, mở rộng bờ cõi, đẩy lùi những dân tộc nhỏ về
phương Nam. Dân tộc Tày do chữ Thái đọc theo thổ âm cư trú tại lưu vực sông
Dương Tử phải di cư xuống Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam rồi vào miền
Bắc Việt Nam bấy giờ, khoảng thế kỷ thứ IV TCN sau thời kỳ dân tộc Việt Nam ít
lâu, người đến trước chiếm vùng châu thổ. Di cư theo đường này, người Tày có bốn
họ chính: Nông, Hoàng, Chu, Vi và nhiều họ lẻ khác. Trong các họ này, họ Nông
đông hơn, ở tập trung hơn nên mạnh hơn… Phong kiến Trung Quốc gọi người Tày
là Phiên nhân nghĩa là phiên dân thần phục. Tiếng phiên nhân đọc thành Cần Phén
ở vùng Hải Ninh. Phong kiến Việt Nam mệnh danh bà con Tày là người Thổ, nghĩa
là dân bản thổ để phân biệt với dân tộc khác”. [83, Tr.5]
Sử cũ còn ghi lại về nguồn gốc của ngƣời Tày Cao Bằng hiện nay là con
cháu của ngƣời Tày cổ - một cƣ dân giỏi nghề trồng lúa nƣớc. Nơi cƣ trú của

19



×