Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

TỔNG QUAN TÀI LIỆU LÀNG NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.08 KB, 10 trang )

CHUYÊN ĐỀ: TỔNG QUAN TÀI LIỆU LÀNG NGHỀ
2.1.Sự hình thành và phát triển của làng nghề Việt Nam
Làng nghề Việt Nam mang tính tập tục truyền thống, đặc sắc, có tính
kinh tế bền vững, mang đến nhu cầu việc làm tại chỗ và những lợi ích thiết
thực cho các cộng đồng cư dân nhỏ lẻ trên mọi miền đất nước (chủ yếu ở các
vùng ngoại vi thành phố và Nông thôn Việt Nam), đồng thời góp phần vào
sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội. Các làng nghề thủ công, làng
nghề truyền thống, hay làng nghề cổ truyền... có mặt khắp nơi trên đất nước
Việt Nam, và thường được gọi chung là Làng nghề.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt
Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư
dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc
trồng lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông
thường chỉ những ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân
mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt
lúa, phơi khô... còn những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc
để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm
nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng
ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng
mây, tre, lụa... phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề


phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã
mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ
vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng
học làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều
làng gần nhau.


Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại
mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì
phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù
hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những
làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng
làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng...
Những phát hiện về khảo cổ học, những cứ liệu lịch sử đã chứng minh
được các làng nghề Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước đây. Các
làng nghề thường tập trung chủ yếu ở các vùng châu thổ sông lớn như châu
thổ sông Hồng, tại Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định ...
Nguồn: />Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam.Nhiều
sản phẩm được sản xuất trực tiếp tại các làng nghề đã trở thành thương phẩm
trao đổi, góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng những lao động
dư thừa lúc nông nhàn.Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển
hàng trăm năm, song song với quá trình phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa và
nông nghiệp của đất nước. Ví dụ như làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh
) với hơn 900 năm phát triển, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) có gần 500
năm tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm (Thái Bình) hay nghề điêu khắc đá


mỹ nghệ Non Nước (Thành phố Đà Nẵng) cũng đã hình thành cách đây hơn
400 năm,…Nếu đi sâu vào tìm hiểu về nguồn gốc của các sản phẩm từ các
làng nghề đó, có thể thấy rằng hầu hết các sản phẩm này ban đầu đều được
sản xuất để phục vụ sinh hoạt hàng ngày hoặc là công cụ sản xuất nông
nghiệp, chủ yếu được làm trong lúc nông nhàn. Kỹ thuật, công nghệ, quy
trình sản xuất cơ bản dể làm ra các sản phẩm này truyền từ hệ này sang thế
hệ khác.
Trước đây, làng nghề không chỉ là trung tâm sản xuất sản phẩm thủ
công nghiệp mà còn là điểm văn hóa của khu vực, của vùng.Làng nghề là
nơi hội tụ những thợ thủ công có tay nghề cao mà tên tuổi đã gắn liền với

sản phẩm trong làng.Ngoài ra, làng nghề cũng chính là điểm tập kết nguyên
vật liệu, là nơi tập trung những tinh hoa trong kỹ thuật sản xuất sản phẩm
của làng. Các mặt hàng sản xuất ra không chỉ để phục vụ sinh hoạt hàng
ngày mà còn bao gồm cả các sản phẩm mỹ nghệ, đồ thờ cúng, dụng cụ sản
xuất…nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường khu vực lân cận.
Trong vài năm gần đây, làng nghề đang thay đổi nhanh chóng theo nền
kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất tiểu thủ công phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu được tạo điều kiện phát triển. Qúa trình công
nghiệp hóa cùng với việc áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển
nghành nghề nông thôn, các công nghệ mới đang ngày càng được áp dụng
phổ biến.Các làng nghề mới và các cụm làng nghề không ngừng được
khuyến khích phát triển nhằm đạt được sự tăng trưởng, tạo công ăn việc làm
và thu nhập ổn định ở khu vực nông thôn.
Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như vị trí địa lý, đặc điểm tự
nhiên, mật độ phân bố dân cư, điều kiện xã hội và truyền thống lịch sử, sự


phân bố và phát triển làng nghề giữa các vùng của nước ta là không đồng
đều, thông thường tập trung vào những khu vực nông thôn đông dân cư
nhưng ít đất sản xuất nông nghiệp, nhiều lao động dư thừa lúc nông nhàn.
Trên cả nước, làng nghề phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông Hồng
(chiếm khoảng 60%); còn lại là ở miền Trung (chiếm khoảng 30%) và miền
Nam (khoảng 10%) (Nguồn: Tổng cục Môi trường tổng hợp, 2008)
2.2.Vấn đề sản xuất và bảo vệ môi trường làng nghề Việt Nam
Cùng với những thay đổi tích cực, các làng nghề cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức. Một trong những thách thức hàng đầu là duy trì bản sắc
làng nghề, hội nhập mà không đánh mất bản sắc riêng; mặt khác, phải bảo vệ
môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững.Hiện nay, các chất
thải phát sinh từ nhiều làng nghề đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, tác động trực tiếp tới sức khỏe người dân và ngày càng trở thành vấn

đề bức xúc.
Ô nhiễm môi trường làng nghề có đặc điểm là ô nhiễm phân tán trong
phạm vi một khu vực (thôn, làng, xã...). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán,
đan xen với khu sinh hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và
kiểm soát. Ô nhiễm môi trường làng nghề còn mang đậm nét của hoạt động
sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm, tác động trực tiếp tới môi
trường nước, khí, đất trong khu vực. Tại khu vực sản xuất, ô nhiễm môi
trường thường khá cao, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động.
Chất lượng môi trường tại hầu hết khu vực sản xuất trong các làng nghề đều
không đạt tiêu chuẩn. Các nguy cơ mà người lao động tiếp xúc khá cao: 95%
số người lao động tiếp xúc với bụi, 85% tiếp xúc với nhiệt, 59,6% tiếp xúc
với hóa chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề điển hình trong cả nước vừa qua


cho thấy, trong số đó có 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng (đối
với không khí, nước, đất hoặc cả ba dạng), 27% ô nhiễm vừa và 27% ô
nhiễm nhẹ.
Các kết quả quan trắc trong thời gian gần đây cho thấy mức độ ô nhiễm
của làng nghề không giảm mà còn có xu hướng gia tăng, nhất là, ô nhiễm
bụi tại các làng nghề gốm, sứ, vật liệu xây dựng, khai thác đá, đồ gỗ mỹ
nghệ và các làng nghề tái chế. Đặc trưng nổi bật là phát sinh một lượng lớn
bụi chứa kim loại nặng và bụi vật liệu độc hại. Tại các làng nghề chế biến
lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ, nước thải có độ ô nhiễm hữu
cơ cao. Ô nhiễm chất vô cơ tại các làng nghề dệt nhuộm, tái chế giấy tạo ra
nước thải có hàm lượng cặn lớn; làng nghề tái chế kim loại có hàm lượng
kim loại nặng độc hại vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần. Hầu hết chất
thải rắn ở các làng nghề vẫn chưa được thu gom xử lý mà xả thẳng vào môi
trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng không khí và các nguồn nước mặt, nước
dưới đất tại các địa phương.
Ô nhiễm môi trường làng nghề có tác hại rất lớn đến sức khỏe cộng đồng

dân cư. Trong thời gian gần đây, ở nhiều làng nghề tỷ lệ người mắc bệnh,
nhất là nhóm người trong độ tuổi lao động đang có xu hướng tăng cao. Theo
kết quả của một nghiên cứu, tuổi thọ trung bình của người dân tại các làng
nghề ngày càng giảm, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn quốc
và so với làng không làm nghề tuổi thọ này cũng thấp hơn từ 5 đến 10 năm.
Theo thống kê, tại tỉnh Hà Nam, so sánh giữa 7 làng nghề: dệt lụa Nha Xá,
trống Đọi Tam, rượu Hợp Lý, bánh đa nem Mão Câu, dũa Đại Phúc, đá La
Mát, làng đa nghề Nhật Tân và những làng không làm nghề như Yên Nam,
Trắc Văn, Hợp Lý, thị trấn Quế, Ngọc Sơn, Liêm Phong có thể thấy, tỷ lệ


mắc các bệnh ngoài da, tiêu chảy, hô hấp và đau mắt tại 7 làng nghề cao hơn
rất nhiều so với các làng không làm nghề. Làng nghề tái chế kim loại Châu
Khê (Bắc Ninh) có trên 60% dân cư trong vùng mắc các triệu chứng bệnh
liên quan đến thần kinh, hô hấp, ngoài da, điếc; làng nghề cơ khí Vân Chàng
(Nam Định) ô nhiễm đất, nguồn nước và không khí đã làm cho phần lớn cư
dân trong làng mắc các bệnh về đường hô hấp, bệnh ngoài da và phụ khoa,
4,7% số người trong làng bị mắc bệnh lao phổi, 8,3% mắc bệnh viêm phế
quản, số người chết vì ung thư ngày càng tăng. Làng nghề chế biến rượu
Vân Hà (Bắc Giang) có đến 68,5% số người dân mắc bệnh ngoài da, 58,8%
bệnh đường ruột, 44,4% bệnh hô hấp. Tại làng sản xuất nước mắm Thanh
Hải (Thanh Hóa) tỷ lệ người mắc bệnh là 15%, bao gồm các loại bệnh như
tiêu hóa, phụ khoa, đường hô hấp và cao huyết áp.
So sánh giữa các khu vực làng nghề và không làm nghề cho thấy, tỷ lệ
mắc bệnh của các đối tượng khu vực làng nghề cao hơn hẳn so với khu vực
làng thuần nông. Mức độ ô nhiễm môi trường của các làng nghề đã có ảnh
hưởng đáng kể tới sức khỏe cộng đồng dân cư. Mỗi nhóm làng nghề thường
có nguy cơ ô nhiễm môi trường đặc trưng, vì vậy ảnh hưởng của các hoạt
động làng nghề đến sức khỏe người dân cũng khác nhau. Tại làng nghề
nhuộm, ươm tơ, thuộc da người dân thường mắc các bệnh hô hấp, tiêu hóa,

thần kinh. Ở làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá, tái chế phế
liệu, người dân thường mắc các bệnh hô hấp, ngoài da, tiêu hóa, thần kinh,
ung thư... Đáng chú ý là, các chủ cơ sở sản xuất vẫn chưa quan tâm đến
quyền lợi bảo vệ sức khỏe cho người lao động. Nhiều cơ sở còn không trang
bị những thiết bị bảo hộ lao động cho công nhân như khẩu trang, găng tay,
quần áo bảo hộ. Ô nhiễm môi trường làng nghề còn gây ảnh hưởng trực tiếp
tới các hoạt động kinh tế, xã hội của chính các làng nghề, gây ra những tổn


thất không nhỏ về kinh tế và dẫn đến những xung đột môi trường trong cộng
đồng.
Công tác quản lý môi trường còn nhiều bất cập, hạn chế. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề còn chưa đầy đủ, chưa
cụ thể hóa; chức năng, nhiệm vụ về bảo vệ môi trường làng nghề của các bộ,
ngành và địa phương chưa rõ ràng và còn chồng chéo; tuy đã có quy hoạch,
nhưng các cụm, khu công nghiệp tập trung của làng nghề vẫn chưa có hệ
thống quản lý môi trường chung; nhân lực, tài chính cho bảo vệ môi trường
làng nghề còn thiếu; công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường làng nghề chưa
được triển khai cụ thể, chưa huy động được nguồn lực xã hội cho bảo vệ môi
trường làng nghề. Việc ứng dụng công nghệ môi trường tại các làng nghề
còn chưa được chú trọng đúng mức. Các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường
quan niệm phát triển kinh tế, tăng thu nhập là chính, không quan tâm tới bảo
vệ môi trường. Mặt khác, do đặc thù làng nghề, các chủ doanh nghiệp trình
độ học vấn hạn chế (khoảng 83,5% lao động nông thôn không qua đào tạo,
85% mới học hết phổ thông cơ sở) do đó ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng
quản lý hay tổ chức sản xuất của từng hộ gia đình. Thực tế cho thấy, ở
những nơi người dân có tính cộng đồng cao, việc phối hợp và liên kết giữa
các hộ sản xuất cũng thuận lợi hơn, nhưng đôi khicũng rất khó khăn trong
việc phá bỏ nhữngquan niệm lạc hậu. ở những nơi có tính cộng đồng thấp,
việc quản lý còn khó khăn hơn nhiều.

Nguồn:
2.3.Tác động của sản xuất, sinh hoạt của làng nghề đến môi trường
Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề
cũng mang lại nhiều bất cập, đặc biệt về vấn đề môi trường và xã hội.


Những tồn tại từ nhiều năm qua trong quá trình phát triển làng nghề có thể
coi là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng môi trường nhiều
làng nghề ngày càng suy giảm, ảnh hưởng không nhỏ không chỉ tới sự phát
triển bền vững ở làng nghề, mà của cả nền kinh tế đất nước.Đó là:
1.Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% tổng số
cơ sở sản xuất)
Quy mô sản xuất tại nhiều làng nghề là quy mô nhỏ, khó phát triển vì
mặt bằng sản xuất chật hẹp xen kẽ với khu vực sinh hoạt, phát thải ô nhiễm
tới khu dân cư càng lớn, dẫn đến chất lượng môi trường ngày càng xấu đi.
2.Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông dân đã
ảnh hưởng mạnh tới sản xuất tại làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi
trường
Không nhận thức được tác hại lâu dài của ô nhiễm, chỉ quan tâm đến lợi
nhuận trước mắt, các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường lựa chọn quy trình
sản xuất thô sơ tận dụng nhiều sức lao động, trình độ thấp.Hơn thế, nhằm hạ
giá thành sản phẩm. tăng tính cạnh tranh, nhiều cơ sở sản xuất còn sử dụng
các nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại (kể cả đã cấm sử dụng), không đầu tư
phương tiện , dụng cụ bảo hộ lao động, không đảm bảo điều kiện lao động
nên đã làm tăng mức đọ ô nhiễm tại đây.
3.Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã
Nhiều làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, sản xuất theo kiểu
“bí truyền”, giữ bí mật cho dòng họ, tuân theo “hương ước” không cải tiến
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nên đã cản trở việc áp dụng giải



pháp kỹ thuật mới, không khuyến khích sáng kiến mang hiệu quả BVMT
của người lao động.
4.Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu chắp vá, kiến
thức tay nghề không toàn điện dẫn tiêu hao nhiều nguyên nhiên liệu, làm
tăng phát thải nhiều chất ô nhiễm môi trường nước, đất, khí ảnh hưởng tới
giá thành sản phẩm và chất lượng môi trường.Trình độ kỹ thuật ở các làng
nghề chủ yếu là thủ công, bán cơ khí. Hoàn toàn chưa có làng nghề nào áp
dụng tự động hóa.
Bảng 1.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề
Đơn vị tính: %
Trình độ kỹ Chế
thuật

biến Thủ công mỹ Các

nông,lâm,sản nghệ và vật dịch vụ

ngành Các

ngành

khác

liệu xây dựng
Thủ công,bán 61,55

70,69

43,90


59,44

cơ khí
Cơ khí

38,49

29,31

56,10

40,56

Tự động hóa

0

0

0

0

5.Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề quá thấp, khó có điều
kiện phát triển phát triển hoặc đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với
môi trường


Sản xuất mang tính tự phát, không có kế hoạch lâu dài, nên khó huy động

tài chính và vốn đầu tư lớn từ các nguồn khác (quỹ tín dụng, ngân hàng). Do
đó, khó chủ động trong đổi mới kỹ thuật và công nghệ, lại càng không thể
đầu tư cho xử lý môi trường.
6.Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn hóa
thấp, nên hạn chế nhận thức đối với công tác BVMT
Theo điều tra của Bộ NN&PTNN thì chất lượng lao động và trình độ chuyên
môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động phỏ
thông, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I,II chiếm trên 60%.Mặt khác đa số
người lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập từ nông nghiệp hoặc bổ sung
thu nhập trong những luc nông nhàn, nên ngại học hỏi, không quan tâm tới
BVMT…
7.Nhiều làng nghề chưa quan tâm tới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho
BVMT
Cạnh tranh trong một số loại hình sản xuất đã thúc đẩy một số làng nghề
đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất.Tuy nhiên đây không phải là
đầu tư cho kỹ thuật bảo vệ môi trường.Vì vậy hầu hết các cơ sở sản xuất
trong làng nghề đều không có các hệ thống xử lý chất thải trước khi thải ra
môi trường.
Hầu hết các làng nghề không có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thu gom và
xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường, như không có hệ thống thu gom và
xử lý nước thải, không có bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh, không chú
ý đầu tư phương tiện thu gom quản lý chất thải nguy hại.Đây là một thách
thức lớn vì để khắc phục điều này đòi hỏi nhiều kinh phí và thời gian.



×