BỘ CÔNG THƯƠNG
TỔNG CÔNG TY CP ĐIỆN TỬ VÀ TIN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG CAO ÐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT TRIỂN DU LỊCH NHÂN VĂN TẠI
ĐỒ SƠN - HẢI PHÒNG
Người hướng dẫn
Đơn vị
Sinh viên
Lớp
Ngành
: Nguyễn Thị Huệ
: Khoa Quản trị kinh doanh
: Lê Thị Mỹ Hạnh
: 2VH9
: Văn hoá du lịch
Hải Phòng, tháng 06 năm 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại khao Văn Hoá Du lịch
trường Viettronics, em xin chân thành cám ơn quý thầy cô đã truyến đạt kiến
thức và kinh nghiệm quý báu giúp em có hành trang cơ bản cho em tự tin hơn để
bước vào đời.
Trong suốt thời gian làm đề tài “ Tiềm năng và giải pháp nhằm phát triển
du lịch nhân văn tại Đồ Sơn Hải Phòng”, em đã được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận
tình của cô giáo Nguyễn Thị Huệ. Em xin chân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đối với sự giúp đỡ quý báu của cô!
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến: Cán bộ thư viện thành phố Hải Phòng,
cán bội thư viện trường cao đẳng công nghệ Viettronics, sở văn hóa thể thao và
du lịch thánh phố Hải Phòng đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ em để em hoàn thành
bài khóaluận này!
Do hiểu biết thực tế và thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những
thiếu sót, khiếm khuyết, em rất ,mong nhận được sự góp ý và bổ xung của quý
thầy cô, các nhà nghiên cứu và nhưng người quan tâm dến đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC LỤC
ĐỀ TÀI: TIỀM NĂNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM.......................................................................1
PHÁT TRIỂN DU LỊCH NHÂN VĂN TẠI .............................................................................1
ĐỒ SƠN - HẢI PHÒNG.............................................................................................................1
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hải Phòng là một cảng biển quốc tế lớn của miền Bắc, đầu mối giao thông
đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, có cơ sở hạ tầng tương
đối hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn của đô thị loại một cấp quốc gia, có bờ biển
tương đối dài, với bán đảo Đồ Sơn, Đảo Cát Bà cùng nhiều di tích lịch sử, công
trình văn hóa nghệ thuật. Đó thực sự là những tiềm năng to lớn, là lợi thế phát
triển du lịch của Hải Phòng.
Nói tới Hải Phòng không thể không nói tới Đồ Sơn, điểm du lịch nổi tiếng
với những phong cảnh hữu tình, với những bãi tắm rộng, bờ cát mịn trải dài và
những hàng thông xanh ngày đêm vi vút. Ngay từ thời Pháp, người Pháp đã xây
dựng tại Đồ Sơn những khu nghỉ dưỡng cao cấp. Sau khi đất nước thống nhất,
Trung ương và thành phố Hải Phòng đã xây dựng tại Đồ Sơn các khu nhà nghỉ
điều dưỡng của các bộ ngành. Trong những năm gần đây, nhu cầu du lịch của
người dân tăng lên do chất lượng cuộc sống được cải thiện, du khách đến với Đồ
Sơn ngày càng nhiều. Tuy nhiên, du lịch Đồ Sơn có hạn chế bởi biển Đồ Sơn là
vùng biển nằm gần cửa sông, chịu ảnh hưởng của các cửa sông Văn Úc, Lạch
Tray, Nam Triệu biến nước biển thành màu “ sôcôla” chứ không có được độ
trong xanh lý tưởng. Thêm vào đó du lịch biển lại có tính thời vụ cao, chỉ tập
chung vào mùa hè cho nên chất lượng phục vụ không cao trong lúc chính vụ du
khách tập chung quá đông mà ngoài thời vụ thì lại rất vắng vẻ. Làm thế nào để
Đồ Sơn từ nơi du lịch mang đậm tính thời thành chốn du lịch lý tưởng quan
năm? Đây là câu hỏi luôn được đặt ra các cấp quản lý du lịch ở trung ương và
địa phương. Một trong những giải pháp đó là khai thác những tiềm năng của tài
nguyên du lịch nhân văn mà từ lâu nay vẫn ở dạng tiềm ẩn. Đồ Sơn là vùng đất
có lịch sử lâu đời, cư dân lại từ nhiều vùng di cư đến lập nghiệp, chính vì vậy
Đồ Sơn có một nền văn hóa đa dạng, phong phú với lễ hội, di tích lịch sử, tính
ngưỡng. Đây chính là những tài nguyên vô cùng quý giá có thể khai thác phục
vụ hoạt động kinh doanh du lịch. Đặc biệt, Đồ Sơn có nhiều lễ hội được diễn ra
quanh năm và các di tích lịch sử văn hóa, các di tích lịch sử cách mạng, các
công trình kiến trúc…độc đáo, phong phú để phát triển du lịch nhân văn tại Đồ
Sơn nhằm khắc phục được tính thời vụ du lịch. Chính vì vậy, với lòng yêu mến
quê hương và mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển
4
du lịch Đồ Sơn, cùng với sự đông viên khích lệ của cô giáo hướng dẫn Nguyễn
Thị Huệ.
Em xin mạnh dạn chọn đề tài :
Tiềm năng và giải pháp nhằm phát triển du lịch nhân văn tại Đồ Sơn Hải
Phòng.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé mọi hiểu biết rõ hơn về những giá trị văn
hóa của tài nguyên du lịch nhân văn tại Đồ Sơn và sẽ khai thác tốt hơn những
tiền năng cũng như đưa ra những giải pháp nhằm cho du lịch Đồ Sơn thêm khởi
sắc.
2 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu, tìm hiểu về tài nguyên du lịch nhân văn tại Đồ Sơn để nâng
cao những hiểu biết về các lễ hội, các di tích lịch sử văn hóa – cách mạng, các
công trình kiến trúc tại đây của mọi người đặc biệt là đối tượng khách du lịch
nằm khai thác phục vụ phát triển du lịch.
Từ đó đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường, khai thách các giá trị nhân
văn nhằm phát triển du lịch tại Đồ Sơn.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là những giá trị văn hóa, những nét độc đáo trong
các lễ hội, các di tích và các công trình kiến trúc…tại Đồ Sơn, Hải Phòng và
hoạt động du lịch lễ hội.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận chủ yếu nghiên cứu tại địa bàn thị xã Đồ
Sơn trong đó chủ yếu tập trung sâu khai thác nghiên cứu về tài nguyên du lịch
nhân văn tại Đồ Sơn.
4 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được các mục đích trên khóa luận phải đạt được các nhiệm vụ sau:
Cơ sở lý luận làm nền tảng cho vấn đề nghiên cứu. Tổng quan về quận Đồ Sơn,
thực trạng, tiềm năng phát triển du lịch của Đồ Sơn và vị thế của các di tích lịch
sử tôn giáo tín nguỡng trong hệ thống tài nguyên du lịch ở đây. Giới thiệu khái
quát về một số di tích lịch sử tôn giáo tín ngưỡng ở Đồ Sơn như: Chùa Hang,
Chùa Tháp Tường Long, Đền Bà Đế, Đền Nghè. Nghiên cứu những giá trị độc
đáo của các di tích nói trên từ đó cho thấy tiềm năng phát triển du lịch của các
di tích này. Thực trạng việc khai thác phục vụ và phát triển du lịch tại các di tích
5
nói trên. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy du lịch Đồ Sơn phát
triển.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu.
Phương pháp quan sát thực tế.
Phương pháp điều tra xã hội học.
6. Bố cúc của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của kháo luận chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Đồ Sơn.
Chương 2: Thực trạng và phát triển du lịch nhân văn tại Đồ Sơn Hải
Phòng.
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch nhân văn tại Đồ Sơn Hải
Phòng.
6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỒ SƠN
1.1. Khái quát chung về Hải Phòng.
Hải Phòng là thành phố duyên hải nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái
Bình thuộc đồng bằng sông Hồng có vị trí nằm trong khoảng từ 20035’ đến 210
01’ vĩ độ Bắc, và từ 106029’ đến 107005’ kinh độ Đông; phía Bắc và Đông Bắc
giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp
tỉnh Thái Bình và phía Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có
5 cửa sông lớn là Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.
Diện tích tự nhiên là 1.507,57 km2, dân số 1.837.3 ngàn người (tính đến
01/04/2009), mật độ dân số trung bình của thành phố là 1.218,78 người/km2,
vào loại trung bình so với các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
Hải Phòng ngày nay là thành phố trực thuộc Trung ương - là đô thị loại 1
cấp quốc gia gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân, Dương Kinh, Đồ
Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại thành (Thuỷ Nguyên, Hải An, An Lão,
Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải, Bạch Long Vĩ) với
228 phường và thị trấn (70 phường, 10 thị trấn và 148 xã) .
Hải Phòng từ lâu đã nổi tiếng là một cảng biển lớn nhất ở miền Bắc, một
đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt,
hàng không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của thủ đô Hà Nội và
các tỉnh phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng của Vùng Kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam Trung Quốc. Chính vì vậy trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội vùng châu
thổ sông Hồng, Hải Phòng được xác định là một cực tăng trưởng của vùng kinh
tế động lực phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh); là Trung tâm kinh tế
- khoa học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong
những trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước.
(Quyết định 1448 /QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
Hải Phòng có điều kiện tự nhiên rất phong phú, giầu đẹp, đa dạng và có
nhiều nét độc đáo mang sắc thái của cảnh quan nhiệt đới gió mùa. Nơi đây có
rừng quốc gia Cát Bà - khu dự trữ sinh quyển thế giới - là khu rừng nhiệt đới
nguyên sinh nổi tiếng, đặc biệt phong phú về số lượng loài động thực vật, trong
đó có nhiều loài được xếp vào loài quý hiếm của thế giới. Đồng thời, nơi đây
7
còn có cả một vùng đồng bằng thuộc vùng đồng bằng tam giác châu thổ sông
Hồng, tạo nên một cảnh quan nông nghiệp trồng lúa nước là nét đặc trưng của
vùng du lịch ven biển Bắc Bộ và cả một vùng biển rộng với nguồn tài nguyên vô
cùng phong phú, nhiều hải sản quý hiếm và bãi biển đẹp.
Khí hậu của Hải Phòng cũng khá đặc sắc, ôn hoà, dồi dào nhiệt ẩm và
quanh năm có ánh nắng chan hoà, rất thích nghi với sự phát triển của các loài
động thực vật nhiệt đới, đặc biệt rất dễ chịu với con người vào mùa thu và mùa
xuân.
Hải Phòng là vùng đất đầu sóng, ngọn gió, “phên dậu” phía Đông của đất
nước, có vị thế chiến lược trong toàn bộ tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta. Người Hải Phòng với tinh thần yêu nước nồng nàn, tính
cách dũng cảm, kiên cường, năng động, sáng tạo, đã từng chứng kiến và tham
gia vào nhiều trận quyết chiến chiến lược trong chiến tranh giải phóng dân tộc
và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là vùng đất in đậm dấu ấn chống ngoại xâm trong suốt quá trình lịch
sử 4000 năm của dân tộc Việt Nam, với các chiến thắng trên sông Bạch Đằng
của Ngô Quyền năm 938, của Lê Hoàn năm 981, của Trần Hưng Đạo năm
1288 ... mà đến nay, các chiến tích đó vẫn còn tồn tại rất nhiều di tích lịch sử,
lưu truyền biết bao truyền thuyết dân gian, để lại cho hậu thế nhiều công trình
văn hoá, nghệ thuật có giá trị. Cho nên đến Hải Phòng, đặt chân đến bất cứ đâu
chúng ta cũng bắt gặp các di tích, các lễ hội gắn với những truyền thuyết, huyền
thoại về lịch sử oanh liệt chống ngoại xâm của Hải Phòng. Những di tích, lễ hội
này chính là nguồn tiềm năng quan trọng cần được quan tâm bảo vệ tôn tạo để
phục vụ phát triển du lịch.
Có thể nói rằng, Hải Phòng là nơi có lịch sử vinh quang ngàn năm, một
vùng đất hội tụ đầy đủ khí thiêng sông núi, và một cư dân anh dũng, sáng tạo và
rất cởi mở, dễ hoà hợp với bè bạn bốn phương. Những người dân từ nhiều miền
quê đến sinh sống tại vùng đất cửa biển này đã hình thành nên tính cách kiên
nghị, năng động, sáng tạo trong lao động, luôn nhạy bén với cái mới, làm cho
người Hải Phòng sớm tiếp thu được những tinh hoa của thời đại trước biến thiên
của lịch sử. Tất cả những yếu tố trên đã và sẽ làm cho Hải Phòng trở thành một
địa danh du lịch nổi tiếng trong nước và quốc tế và Hải Phòng thực sự là một
8
trong những trọng điểm du lịch hấp dẫn của vùng ven biển Bắc Bộ, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam.
1.2 Khái quát chung về quận Đồ Sơn.
* Mảnh đất:
Quận Đồ Sơn được thành lập ngày 12 tháng 9 năm 2007 trên cơ sở toàn bộ
diện tích của thị xã Đồ Sơn cũ (bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu
của các phường: Ngọc Hải, Vạn Sơn, Vạn Hương, Ngọc Xuyên và xã Bàng La)
và 1.095,40 ha diện tích tự nhiên và 15.856 nhân khẩu của xã Hợp Đức, huyện
Kiến Thụy, theo nghị định 145/2007/NĐ-CP của Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam.
Phân chia hành chính
Quận Đồ Sơn có 4.237,29 ha diện tích tự nhiên và 51.417 nhân khẩu, có 7
đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Ngọc Hải, Vạn Sơn, Vạn
Hương, Ngọc Xuyên, Bàng La, Minh Đức và Hợp Đức.
Địa hình khu du lịch Đồ Sơn
Đồ Sơn là một bán đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển tới 5 km, với
hàng chục mỏm đồi cao từ 25 đến 130 m.
Địa giới hành chính quận Đồ Sơn: Đông giáp Vịnh Bắc Bộ; Tây giáp
huyện Kiến Thụy; Nam giáp Vịnh Bắc Bộ; Bắc giáp quận Dương Kinh.
Do ở phía bắc và phía nam của quận là hai cửa sông Lạch Tray và Văn Úc
thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa nên nước biển
ở khu vực này đục nhưng vẫn có sức thu hút du khách.
Cơ cấu Kinh tế của Đồ Sơn. Đồ Sơn có bãi cát khá mịn, với nhiều loại cây
như phi lao, bàng, dừa trồng ven bờ. Đằng sau bãi biển là những ngọn núi và đồi
thông. Trước đây Đồ Sơn là nơi lui tới nghỉ ngơi, hưởng thụ của vua chúa quan
lại. Hiện nay còn ngôi nhà bát giác kiên cố của Bảo Đại - ông vua cuối cùng của
chế độ phong kiến Việt Nam.
Bãi tắm Đồ Sơn chia làm 3 khu chính: khu I nằm ngay đầu thị xã Đồ Sơn,
khu II có nhiều khách sạn hiện đại, khu III yên tĩnh và kín đáo. Vào mùa hè, Đồ
Sơn rất đông du khách từ khắp mọi miền Việt Nam cũng như khách quốc tế về
đây tắm biển, nghỉ ngơi và leo núi, ngắm nhìn phong cảnh biển đẹp buổi chiều
tà.
Đồ Sơn còn có đền bà Đế, hằng năm thu hút rất nhiều người viếng thăm.
9
Tại đây hiện nay có sòng bạc Do Son Casino duy nhất ở miền Bắc Việt
Nam, phục vụ cho du khách quốc tế.
Từ Đồ Sơn bằng tàu cao tốc du khách có thể đi ra đảo Cát Bà hoặc vịnh Hạ
Long.
Cách đây 4000 năm, thời Vua Hùng dựng nước, đất Đồ Sơn đã có tên là
Bộ Thang Truyền. Qua các triều đại đổi tên nhiều lần, đến đời Trần mới gọi là
Đồ Sơn. Ngay từ ngày đầu đặt chân đến Hải Phòng, người Pháp đã xây dựng Đồ
Sơn thành khu nghỉ mát nổi tiếng cho sĩ quan Pháp và giới thượng lưu người
Việt Nam. Năm 1950, xây dựng sân bay Đồ Sơn.
Đồ Sơn xưa vốn là những hòn đảo trên bãi bùn, về sau được phù sa của các
con sông Bạch Đằng, Lạch Tray, Văn Úc bồi đắp đồng thời nhờ công khai phá
của con người nên Đồ Sơn mới được như ngày nay. Có truyền thuyết cho rằng
xa xưa Đồ Sơn có tên là Nê Lê, nơi đầu tiên nước ta tiếp nhận Phật giáo do các
nhà sư Ấn Độ truyền vào và từ đây đạo Phật được truyền qua Luy Lâu (Bắc
Ninh ngày nay ), rồi truyền sang Lạc Dương, Trung Quốc. Tên gọi Đồ Sơn cũng
có rất nhiều các giải thích khác nhau, tuy nhiên hầu hết các cụ già người bản địa
am hiểu đều giải thích “Đồ” bùn, “Sơn” là núi bởi nơi đây xưa kia có những
ngọn núi nhô lên trên những vũng bùn lầy. Tên gọi Đồ Sơn đã có từ rất lâu đời.
Trong thư tịch cũ nhất “Việt sử lược” đời nhà Trần thế kỉ XIII nói về việc xây
tháp Tường Long của vua Lý Thánh Tông có ghi: “Năm Mậu Tuất niên hiệu
Long Thụy Thái Bình thứ 5 (1058), mùa thu tháng 9, vua ngự ra cửa biển Ba Lộ,
nhân đó ngự ra chỗ xây tháp Tƣờng Long ở Đồ Sơn …”. Như vậy có thể nói địa
danh Đồ Sơn có vào đời nhà Lý. Trải qua thăng trầm của lịch sử, đơn vị hành
chính của Đồ Sơn cũng có nhiều thay đổi song hai chữ Đồ Sơn vẫn đƣợc giữ
nguyên cho đến tận ngày nay. Thời Minh vùng đất Đồ Sơn ngày nay thuộc
huyện An Lão. Năm 1469 đời Lê Thánh Tông An Lão đổi thành huyện Nghi
Dương, Đồ Sơn thuộc huyện này. Năm 1813 tổng Đồ Sơn gồm 3 xã: Đồ Sơn,
Đồ Hải, Ngọc Tuyền. Đến đời Đồng Khánh Ngọc Tuyền đổi thành Ngọc Xuyên.
Theo “Đại Nam nhất thống chí” do sử quán triều Nguyễn biên soạn khởi thảo
năm 1864, hoàn thành năm 1882 có viết về Đồ Sơn như sau : “…chu vi 30 dặm,
cao 80 trượng, ở giữa có 9 ngọn núi nên cũng gọi là Cửu Long … dưới chân núi
là cư dân 3 xã : Đồ Sơn, Đồ Hả, Ngọc Xuyên. Hai ngọn thứ 7 và thứ 8 có nước
chảy quanh ôm lấy, tục gọi là vụng Mát, rộng hơn 100 trượng … Một ngọn đằng
10
sau phía hữu đứng một mình gọi là Độc Sơn, các giải núi phía tả đối với đồi
Song Ngư ở đằng xa tục gọi là Cồn Dừa …”.
Năm 1898 Đồ Sơn thuộc huyện Nghi Dương, phủ Kiến Thụy,tỉnh Phù
Liễn. Từ ngày 17 tháng 2 năm 1906 thuộc tỉnh Kiến An. Ngày 18 tháng 5 năm
1909 thành lập trấn Đồ Sơn gồm hai xã Đồ Sơn và Đồ Hải thuộc tổng Đồ Sơn,
huyện Nghi Dương, phủ Kiến Thụy, tỉnh Hải Dương. Xã Ngọc Xuyên được
ghép vào tổng Nãi Sơn, phủ Kiến Thụy. Ngày 31 tháng 12 năm 1921 thị trấn Đồ
Sơn thuộc thành phố Hải Phòng. Ngày 20 tháng 10 năm 1923 lại thuộc tỉnh Kiến
An. Những năm tiếp theo lúc thì Đồ Sơn thuộc Kiến An, lúc thì thuộc Hải
phòng. Ngày 14 tháng 3 năm 1963 thành lập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải
Phòng Sinh viên: Vũ Thị Duyên – Lớp VH 1003 24 gồm khu vực xã Đồ Sơn
và hai xã Vạn Sơn, Ngọc Hải. Ngày 7 tháng 4 năm 1966 chuyển thêm xã Bàng
La thuộc thị xã Đồ Sơn. Ngày 26 tháng 12 năm 1970 giải thể xã Bàng La và
chuyển các thôn của xã này thành các tiểu khu thuộc thị xã Đồ Sơn. Ngày 5
tháng 3 năm 1980 thành lập huyện Đồ Sơn gồm xã Bàng La, thị trấn Đồ Sơn và
21 xã của huyện An Thụy vốn là 21 xã của huyện Kiến Thụy cũ. Huyện Đồ Sơn
tồn tại đến ngày 6 tháng 6 năm 1988 sau đó tái lập thị xã Đồ Sơn trên cơ sở thị
trấn Đồ Sơn và xã Bàng La, phần còn lại của huyện Đồ Sơn thuộc huyện Kiến
Thụy. Ngày 12 tháng 9 năm 2007 theo nghị định 145/2007/NĐ-CP của Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thành lập quận Đồ Sơn trên cơ
sở diện tích tự nhiên của thị xã Đồ Sơn và diện tích tự nhiên của xã Hợp Đức
thuộc huyện Kiến Thụy. Quận có 7 phường : Bàng La, Hợp Đức, Minh Đức,
Ngọc Hải, Ngọc Xuyên, Vạn Hương, Vạn Sơn.
*Con người:
Về dân cư, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân cư Đồ Sơn có nhiều thay
đổi về cơ học. Ngoài những người dân bản sứ, Đồ Sơn còn có nhiều dân cư từ
vùng khác đến đây định cư lập nghiệp bởi thấy vùng đất này khí hậu trong lành,
sẵn nước ngọt, đủ rừng và biển bạc, dân bản địa cởi mở, thân thiện. Từ đó mà
dân cư ngày càng thêm đông đúc. Đồ Sơn chia làm 4 phường: Vạn Sơn, Vạn
Hương, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên và một xã là xã Bàn La.
Người dân Đồ Sơn biết đến tổ tiên của mình qua truyền thuyết về Lục vị
tiên công – là 6 vị đầu tiên đến “khai sơn phá thạch” bất chấp mọi gian khổ, khó
khăn khai sinh ra mảnh đất Đồ Sơn nổi tiếng tươi đẹp. Đó là các cụ: Lương Nuôi
11
Mường, Lê Hải Bộ, Đinh Chàng Ngọ, Hoàng Đại Hùng, Nguyễn Than Sam và
Phạm Cao Sơn. Sáu cụ đã được nhân dân phong tôn thần là Lục vị Tiên công.
Tưởng nhớ công ơn các cụ, nhân dân đã lập đền thờ nhưng trải qua bao nhiêu
thăng trầm lịch sử miếu mạo không còn, nay chỉ còn Đền Nghè là nơi thờ chung
6 vị ở khu Vạn Hương, khói hương không bao giờ tắt.
Noi gương các thế hệ đi trước, người dân Đồ Sơn cũng phấn đấu tạo dựng
cuộc sống tươi đẹp kèm theo đó là sáng tạo ra nền văn hóa đặc trưng mang đặc
trưng của cư dân ven biển góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc.
Chỉ có ở Đồ Sơn mới có tục chọi trâu thờ thủy thần – thần vết chân chim sẻ.
Ngoài ra dân Đồ Sơn còn thờ Nam Hải Thần Vương, Bà Đế hiển thánh… đều
gắn liền với các yếu tố nước. Lễ phẩm dân thần, trò diễn xướng nghinh thần
cũng gắn liền với sông nước bãi biển. Kiến trúc cổ với tiền tầu hậu bảy, mái dài,
hiên thấp, cửa sổ hẹp để chống chọi với bão biển, nóng ẩm.
Người dân Đồ Sơn còn nổi tiếng với sự gan dạ dũng cảm thể hiện trong
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và chống Mỹ. Noi đây đã lưu giữ nhiều dấu tích lịch sử trở
thành điểm tham quan hấp dẫn để con cháu đời sau hiểu được chiến công oanh
liệt của cha ông đi trước.
Nền văm hóa lâu đời cùng nhiều sự kiện lịch sử quan trọng gắn liền với
lịch sử của dân tộc đã để lại cho Đồ Sơn một tài nguyên nhân văn phong phú
gồm nhiều di tích lịch sử văn hóa, di tích khảo cổ, các lễ hội đặc sắc. Đây chính
là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, du lịch tín ngưỡng tôn giáo có khả năng
đưa du lịch của quận Đồ Sơn phát triển mạnh nếu được khai thác một cách hợp
lý và đúng đắn.
* Tiềm năng du lịch.
Đồ Sơn có rất nhiều lợi thế để phát triển du lịch, để trở thành một trong
những trung tâm du lịch không chỉ riêng Hải Phòng mà cuart cả nước. Là một
trong ba cục quan trọng của tam giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc gồm Hà Nội
– Hải Phòng – Quảng Nainh vad một trong ba trung tâm du lịch của thành phố
(khu vực nội thành – Cát Bà – Đồ Sơn), Đây là một điều kiện thuận lợi để Đồ
Sơn có những quy hoạch, chiến lược mở rộng du lịch trong quá trình phát triển
chung của thành phố Hải Phòng.
12
1.3 Ý nghĩa, vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn đối với sự phát triển tại
Đồ Sơn Hải Phòng.
Xưa kia, Hải Phòng có tên gọi là “Hải tần phòng thủy” vì Hải Phòng là
vùng của tiền tiêu, vùng phên dậu của đất nước. Vùng cửa tiền tiêu đó chính là
địa bàn quận Đồ Sơn hiện nay – một vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ đất
nước. Do có vị trí địa lý giáp biển mà Đồ Sơn là vùng đất đã từng chứng kiến
nhiều thăng trầm của lịch sử, vưn hóa xã hội của dân tộc và đã để lại nhiều dấu
ấn quan trọng qua số lượng lớn các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội độc đáo nay trở
thành nguồn tài nguyên nhân văn có giá trị.
Những truyền thống lịch sử văn hóa với những sắc thái văn hóa đặc sắc mà
người dân Đồ Sơn xây dựng lên chính là tiềm năng phát triển nhiều loại hình du
lịch văn hóa: du lịch tham quan, du lịch với mục đích tôn giáo tín ngưỡng, du
lịch nghien cứu học tập...
Dưới đây là bảng thống kê về các tài nguyên nhân văn của Đồ Sơn.
Danh sách lễ hội của quận Đồ Sơn.
STT
TÊN
LỄ
HỘI
1
Lễ hội
Chọi
trâu
2
Lễ hội
Hòn
Dáu
3
Lễ hội
Đền
Bà Đế
LOẠI
LỄ
HỘI
THỜI
GIAN
TỔ
ĐỊA
ĐIỂM
TỔ
CẤP
QUẢN
LÝ
Sân
Lễ hội 8/6, 9/8
vận
Thành
dân
Âm
động
phố
gian
lịch
thị xã
Đồ Sơn
8,9,
Lễ hội
Hòn
10/2
dân
Dáu xã Thị xã
Âm
gian
Đồ Sơn
lịch
Đền Bà
Lễ hội
10/1
Đế
tín
Âm
phường Thị xã
ngưỡng
lịch
Ngọc
Hải
13
NỘI DUNG LỄ HỘI
ĐỐI
TƯỢNG PHẦN
ĐƯỢC
LỄ
THỜ
Thần
Hoàng
Làng
Nghi
lễ tế
thần
Nam
Hải Đại
Vương
Dâng
hương
Bà Đế
Dâng
hương
PHẦN
HỘI
Múa cờ,
chọi
trâu
Danh sách các di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố,cấp quốc gia.
TÊN DI
TÍCH
LOẠI DI
TÍCH
1
Bến tàu không
số (K15)
Di tích lich
sử văn hóa
2
Bến Nghiêng
3
Đảo Dáu
4
Di tích tháp
Tường Long
Đình Ngọc
Xuyên
Chùa Thiên
Phúc
Đền Nghè
Di tích lịch
sử văn hóa
Di tích
danh lam
thắng cảnh
Di tích
khảo cổ học
Di tích lịch
sử tôn giáo
Di tích lịch
sử tôn giáo
Di tích lịch
sử tôn giáo
Di tích lịch
sử tôn giáo
Di tích lịch
sử văn hóa
STT
5
6
7
8
9
Đình Qúy
Kim
Kho Xăng
XẾP
Năm công
ĐỊA ĐIỂM HẠNG DI
nhận
TÍCH
Ở chân đồi Cấp quốc
Năm 2008
Vạn Hoa
gia
thuộc khu
III Đồ Sơn
Cuối khu II Cấp quốc
Năm 2009
Đồ Sơn
gia
Phường Vạn Cấp quốc Ngày 22/1/2009
Hương
gia
Phường
Ngọc Xuyên
Phường
Ngọc Xuyên
Phường
Bàng La
Phường Vạn
Hương
Phường
Hợp Đức
Gần sân bay
Đồ Sơn
14
Cấp quốc
gia
Cấp quốc
gia
Cấp thành
phố
Cấp thành
phố
Cấp thành
phố
Cấp thành
phố
Ngày
16/11/2005
Năm2008
Năm 2004
Danh sách các di tích lịch sử, điểm tham quan, du lịch nổi tiếng khác của
Đồ Sơn.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
TÊN DI TÍCH
Đền Bà Đế
Khu Casino –
Đồ Sơn
Chợ Cầu Vồng
Biệt thự Bảo Đại
Đền Cô Chín
(Đền Long Sơn)
Chùa Hang
Sân Gold
Khu Resot Hòn
Dáu
LOẠI DI TÍCH
Di tích lịch sử tôn giao
Khu vui chơi giải trí
ĐỊA ĐIỂM
Phường Ngọc Hải
Khu 3, Phường Vạn Sơn
Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử tôn giáo
Khu 3, Phường Vạn Sơn
Phường Ngọc Xuyên
Di tích lịch sử tôn giáo
Khu vui chơi giải trí
Khu vui chơi giải trí
Phường vạn Sơn
Phường Bàng La
Khu 3, Phường Vạn Sơn
Tất cả các di tích lịch sử văn hóa, di tích lịch sử cách mạng, công trình kiến
trúc và lễ hội trên đều có thể trở thành nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng hấp
dẫn khi mở rộng các loại hình du lịch dịch vụ tại các điểm di tích này.
Nguồn tài nguyên nhân văn trên cảu Đồ Sơn không chỉ đa dạng và phong
phú mà ở mỗi điểm di tích, mỗi dạng tài nguyên lại chứa đựng trong đó những
giá trị sâu sắc điển hình về lịch sử và văn hóa của vùng.Tháp Tường Long chính
là dấu tích còn lại của một nền văn hóa tín ngưỡng, kiến trúc gắn liền với Phật
Giáo một thời đã trở thành Quốc giáo của Đại Việt xưa. Bến Nghiêng, bến tàu
không số K15, ngọn Hải Đăng Hòn Dáu là những nơi lưu giữ về một thời kỳ hào
hùng của toàn dân, toàn quân ta trong công cuộc kháng chiến chống lại Thực
dân, Đế quốc để dành lại độc lập, thống nhất đất nước.
Hơn nữa, các tài nguyên nhân văn này còn có một sức hấp dẫn đặc biệt.
Đến tham quan du lịch tại các điểm di tích hoặc xem lễ hội ở Đồ Sơn, du khách
không chỉ được thưởng thức cái hay, cái đẹp, được tìm hiểu những giá trị lịch
sử, văn hóa mà còn được nghe những truyền thuyết gắn liền với các di tích lễ
hội đó. Là một vùng đất chưa đựng nhiều huyền thoại, nhiều truyền thuyết, Đồ
Sơn càng trở nên hấp dẫn với du khách gần xa đến thăm quan, du lịch ở Đồ Sơn.
Hơn nữa mỗi câu chuyện, mỗi huyền thoại đó không chỉ ly kỳ lý thú mà còn
chứa đựng trong đó những bài học đạo lý, răn dạy con người cách đối nhân xử
thế trong cuộc sống.
15
Đặc biệt mỗi hình tượng của thiên nhiên, núi rừng cuãng gợi người dân Đồ
Sơn những tưởng tượng để sáng tạo ra những hiện tượng kỳ thú và cũng gắn liền
với những đạo lý làm người. Người dân Đồ Sơn đã hình tượng hóa dáy núi kéo
dài ra biển như 9 con rồng con rồng cùng quay về với mẹ (đỉnh Mẫu Sơn) nhưng
lại có một ngọn tách ra khỏi ngọn núi đó (núi Độc) như thể có một con không
nghe lời tách ra khỏi đần nên có câu:
“Chín con theo mẹ dòng dong
Một con út lại ra lòng bất nhân”
Câu ca như muốn nhắn nhủ với con người cách sống sao cho có trước có
sau, đoàn kết tương trợ lẫn nhau mới mong được yên ổn anh bình.
Cho dù các truyền thuyết hay các câu chuyện đó có thực hay chỉ là những
câu chuyện truyền miệng, những tưởng tượng của con người nhưng nó vẫn thể
hiện được văn hóa đặc trưng của người dân miền biển ngày đêm đối mặt với
sóng, gió… và nó vô cùng gần gũi với tâm linh, văn hóa tín ngưỡng và văn hóa
ứng xử của người Việt Nam, người phương Đông.Nếu khai thác được thế mạnh
này của các di tích thì du lịch Đồ Sơn sẽ có bước phát triển mới.
Hơn nữa, bản thân các di sản văn hóa hiện có thể hiện khả năng phát triển
du lịch ở Đồ Sơn thực sự là một nguông tài nguyên nhân văn phục vụ cho định
hướng lâu dài trong việc phát triển du lịch của quận. Bởi giá trị văn hóa là một
yếu tố quan trọng và có đóng góp rất lớn vào phát triển du lịch. Do vậy cần phải
có kế hoạch nghiên cứu thống kê và đánh giá một cách nghiên túc, đầy đủ các
nguồn tài nguyên nhân văn đó. Đồng thời tiến hành việc khai thác hoạt động du
lịch tại các điểm di tích phải có quy hoạch và hợp lý mới đêm lại hiệu quả tốt
mà không ảnh hưởng xấu đến giá trị của tài nguyên nhân văn của du lịch Đồ
Sơn.
16
Tiểu kết chương 1.
Ngày nay nói đến du lịch là nói đến một nhu cầu không thể thiếu của con
người. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống của con người được
nâng cao rõ rệt thì nhu cầu vui chơi, giải trí …càng trở nên đa dạng, phong phú.
Du lịch cũng góp phần rất lớn trong sự phát triển kinh tế chung của mỗi quốc
gia. Nó không chỉ thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển mà còn tạo
công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động góp phần giải quyết tình trạng
thất nghiệp, nâng cao mức sống của người dân địa phương…. Hiện nay cùng với
xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa các quốc gia còn mở rộng quá trình hội
nhập. Chính sự hội nhập ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết nhu cầu giao
lưu, tìm hiểu, học hỏi… lẫn nhau giữa các dân tộc. Đây là những điều kiện rất
thuận lợi cho du lịch phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn không chỉ ở
Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam – đất nước của hòa bình đã và đang mang trong mình một nền
văn hóa phương Đông với bề dày lịch sử bốn nghìn năm, nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc, đa dạng trong thống nhất mà không phải quốc gia nào cũng có.
Với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, núi non sơn thủy hữu tình, con người thân
thiện, mến khách và chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước ta trong những
năm qua du lịch nước ta không ngừng phát triển mạnh mẽ và gặt hái được nhiều
thành tựu đáng kể.
Hải Phòng không chỉ được biết đến là thành phố trực thuộc Trung ương
của Việt Nam mà còn được biết đến như là một trung tâm du lịch đầy tiềm năng.
Cùng với Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng là một trong ba thành phố phát triển
mạnh nhất miền Bắc với nhiều dự án lớn đã và đang được triển khai. Với tài
nguyên phong phú, vị trí địa lí thuận lợi, con người mến khách và một nền văn
hóa có bề dày lịch sử … Nơi đây đã trở thành một trung tâm du lịch hấp dẫn du
khách trong và ngoài nước.
Nói đến Hải Phòng không thể không nhắc tới Đồ Sơn – một điểm du lịch
nổi tiếng của Hải Phòng. Với đặc thù về địa hình núi rồng uốn, khu du lịch Đồ
Sơn nổi tiếng với những phong cảnh sơn thủy hữu tình, có đường bờ biển dài
2.450 m được chia thành ba khu riêng biệt. Điều hay nhất là cả ba khu vực đều
có nhiều di tích lịch sử giá trị, các dịch vụ du lịch hấp dẫn, hệ thống đường giao
thông hiện đại thông suốt…. Cùng với các di tích lịch sử văn hóa như Bến
17
Nghiêng, Bến tàu không số, Biệt thự Bảo Đại, … các công trình kiến trúc về tôn
giáo tín ngưỡng cũng đóng góp một phần không nhỏ trong tài nguyên du lịch
của Đồ Sơn. Có thể kể đến như: Đền Bà Đế, Đền Nam Hải Thần Vương, Chùa
Hang … Các công trình này không chỉ mang ý nghĩa về đời sống tâm linh mà
còn là một minh chứng về đời sống văn hóa của người dân Đồ Sơn từ quá khứ
đến hiện tại. Nơi đây hàng năm đã và đang thu hút đông đảo khách du lịch từ
các nơi đến tham quan. Tiềm năng du lịch tại các di tích lịch sử tôn giáo to lớn
như vậy nhưng hiện tại các điểm du lịch này khai thác chưa thực sự hiệu quả.
Đặc biệt các hoạt động du lịch ở một số di tích lịch sử tôn giáo tín ngưỡng còn
đơn lẻ, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, cở sở vật chất phục vụ cho du lịch còn
thiếu. Do đó tuy là một điểm du lịch rất hấp dẫn nhưng lượng khách đến đây còn
chưa tương xứng, vai trò đối với sự phát triển của xã hội đặc biệt là du lịch còn
hạn chế.
Xuất phát từ điều này nên tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu và
đánh giá vai trò cũng như tiềm năng của du lịch nhân văn đối với sự phát triển
chung của khu du lịch ở Đồ Sơn. Từ đó đề xuất một số giải pháp thu hút, hấp
dẫn du khách góp phần thúc đẩy du lịch Đồ Sơn phát triển.
18
CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH NHÂN VĂN TẠI ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG
2.1 Tiềm năng du lịch nhân văn tại Đồ Sơn Hải Phòng.
Đến với Đồ Sơn du khách không chỉ được thưởng thức những khung cảnh
thơ mộng trữ tình nơi đây, được ngâm mình trong làn nước trong mát của biển
xanh. Mà đến đây du khách còn được khám phá những công
trình kiến trúc, những di tích lịch sử văn hóa qúy giá.
Do có vị trí địa lí quan trọng nên ngay từ những buổi đầu dựng nước con
người đã sớm biết đến mảnh đất Đồ Sơn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử
mảnh đất Đồ Sơn đã và đang thay đổi từng ngày nhưng những dấu tích lịch sử
và giá trị văn hóa thì vẫn còn đó. Nó được nhân dân bảo tồn từ thế hệ này qua
thế hệ khác nhằm mục đích giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn, nhớ
ơn tổ tiên”. Đồng thời thể hiện những giá trị văn hóa đặc sắc trong cuộc sống
sinh hoạt thường ngày của người dân Đồ Sơn. Hiện nay quận Đồ Sơn có 5 di
tích lịch sử, văn hóa, danh thắng cấp quốc gia, 4 di tích cấp thành phố và một số
lễ hội nổi tiếng…Trong đó bao gồm các di tích lịch sử tôn giáo tín ngưỡng, các
di tích lịch sử ghi lại dấu tích sự kiện trọng đại, những địa điểm gắn liền với tên
tuổi của các anh hùng dân tộc ... Ngoài các di tích lịch sử cấp thành phố,cấp
quốc gia Đồ Sơn còn nổi tiếng với rất nhiều điểm tham quan du lịch hấp dẫn
nhƣ : đền Bà Đế, Khu Casino – Đồ Sơn, Chợ Cầu Vồng, Biệt thự Bảo Đại, Suối
Rồng, đền Cô Chín (đền Long Sơn) ... Nơi đây hàng năm thu hút rất đông khách
đến tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu.
2.1.1 Lễ hội.
Lễ hội chọi trâu.
Theo nghiên cứu đánh giá ở nước ta có tới hàng nghìn lễ hội độc đáo, trong
đó phần lớn chủ yếu tập chung ở miền Bắc. Tại Hải Phòng cũng có rất nhiều lễ
hội nhưng tiêu biểu nhất là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, hàng năm lẫ hội được tổ
chức vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm. Từ lâu nơi đây đã nổi tiếng với câu ca dao:
"Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu"
19
Không biết từ bao giờ, câu ca mộc mạc trên đã trở thành tiếng gọi của quê
hương, nhắc nhở người Đồ Sơn nhớ về nơi "chôn rau cắt rốn". Nơi có lễ hội
truyền thống "độc nhất vô nhị" tại Việt Nam. Đó là Lễ hội chọi trâu được tổ
chức hàng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ và bắt đầu từ đâu thì không ai biết, nhưng
những truyền thuyết về lễ hội này thì có rất nhiều, mỗi truyền thuyết đều gắn với
một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ
tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc
đáo của người Đồ Sơn.
Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công
phu trong khoảng 8 tháng trời. Theo người dân Đồ Sơn thì điều quan trọng bậc
nhất là việc tìm và nuôi dưỡng trâu. Thông thường, sau Tết Nguyên đán, các sới
chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải
lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình,
thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Cạn... mới tìm được con trâu vừa ý.
Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những
con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Thanh
Hà (Hải Dương) thường "giật" giải nhiều hơn. Bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng
năm, người Đồ Sơn lại đổ xô đến những địa phương trên lùng mua trâu.
Một chủ trâu có nhiều năm kinh nghiệm cho biết: "Chọn trâu là một công
việc cầu kỳ và tỷ mỉ, trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh,
có khả năng chống chịu được đòn của đối phương (nghĩa là phải gan lỳ). Thông
thường, những chú trâu da đồng, lông móc, một khoang bốn khoáy, hàm đen,
tóc tráp (lông trên đầu cứng, dày để tránh nắng)... là trâu gan. Trâu phải có ức
rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng
tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng
trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có
túm tóc hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt
trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay...".
Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu càng khó
khăn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc huấn luyện trâu
thường là những người có nhiều kinh nghiệm. Trâu chọi được nuôi ở chuồng
riêng, tách biệt và kín đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông
20
thấy trâu nhà cốt để trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó.
Trường huấn luyện trâu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng
xung quanh gõ chiêng trống và hò hét.
Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu, mình trâu để cho trâu
quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có
những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo. Sau khi huấn luyện, trâu nào được
chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là "ông trâu". Trâu nào đoạt
giải nhất, được tôn lên thành "cụ trâu".
Ở Đồ Sơn, phường nào cũng có người mê trâu chọi, có kinh nghiệm tìm
mua trâu, chăm sóc, huấn luyện trâu chọi, những người này được coi là nghệ
nhân. Trong ngày lễ hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của "ông
trâu"…
Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thuỷ thần, và cũng là
Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần ngày hội chọi trâu là lễ lớn
nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần đây, những thủ tục của phần lễ
ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. Tuy nhiên, phần hội chọi trâu luôn có sức
hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn phương đến cổ vũ.
Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi… Từ hai phía của sới chọi,
"ông trâu" được dẫn ra có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai "ông trâu"
cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút "sẹo" cho trâu rồi khẩn trương thoát
ra ngoài sới chọi. Hai trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, hai đôi sừng
đập vào nhau kêu chan chát... Cứ thế, hai trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò
reo vang dậy của hàng ngàn khán giả.
Kết thúc hội chọi trâu là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế
thần. Cuộc rước này phải có tất cả mọi người dân Đồ Sơn (cả chủ trâu thua
cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu
nhất hàng tổng được phần thưởng là một lá cờ vóc hồng thêu hai chữ "Thượng
Đẳng" bằng kim tuyến, một bát hương bằng đá xanh đem theo đám rước trở về.
Theo tập tục của địa phương, các trâu tham gia chọi, dù thắng, dù thua, đều
phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết)
để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần... Du khách đến dự lễ hội có thể
mua thịt trâu về ăn để cầu may và chúc phúc…
21
Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, Lễ hội chọi trâu Đồ
Sơn đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương
đến với Hải Phòng. Năm 2000, Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được Nhà nước công
nhận là một trong 15 lễ hội lớn của cả nước
Lễ hội đua thuyền Rồng.
Ngày 29-1 (tức mồng 4 hằng năm), tại Hải Phòng đã diễn ra lễ hội đua
thuyền rồng Đồ Sơn thu hút hàng nghìn du khách đến xem. Đây là lễ hội mùa
Xuân đầu tiên mở đầu hàng loạt lễ hội dân gian sau Tết Nguyên đán của các địa
phương thuộc thành phố Hải Phòng.
Thuyền rồng để vua dùng gọi là "thuyền ngự". Thuyền rồng trong lễ hội
dân gian mang ý nghĩa linh thiêng, trang trọng. Đặc biệt, ở những lễ hội thờ các
vị anh hùng dân tộc, võ tướng, có công đức thì theo ý niệm dân gian, chính các
Ngài đã về "ngự" trên thuyền để việc cầu phúc, cầu sức khỏe, an khang thịnh
vượng của người tổ chức hội, dự hội, xem hội được như ý nguyện. Dân đi biển
Cát Bà, Cát Hải, Đồ Sơn... thường tổ chức đua thuyền hình rồng khi kết thúc vụ
cá Bắc mở đầu vụ cá Nam khoảng tháng 4, 5 dương lịch... tạo thành nét văn hóa
biển độc đáo. Dịp lễ cúng thần nước hay hạ thủy con thuyền cũng là thời điểm
đua thuyền của cư dân ven sông, biển tại khu nghỉ mát nổi .
Lễ hội Hòn Dáu.
Vào dịp tháng hai âm lịch hằng năm, ở Đồ Sơn có một lễ hội độc đáo của
người dân miền biển Hải Phòng: đó là lễ hội đảo Hòn Dáu.
Lễ hội đảo Hòn Dáu chính là ngày lễ hội đền Dáu. Đó là một ngôi đền cổ
trên đảo soi bóng xuống mặt biển. Theo lời một số ngư dân thường đánh cá
chung quanh khu vực, thì đây là một trong những nơi linh thiêng, sùng kính của
người dân Đồ Sơn. Ngôi đền cổ ở đảo Dáu có tự bao giờ chưa rõ Những người
già ở Đồ Sơn kể rằng, vào một ngày nọ, người dân đánh cá ở khu vực này thấy
xác của một vị tướng không đầu trôi về, người dân vớt lên đem chôn, rồi từ đó,
thỉnh thoảng trên các mỏm đá ngoài đảo xuất hiện hình bóng của một cụ già
ngồi câu cá, vì thế người Đồ Sơn gọi đó là Lão đảo thần vương và ngôi đền thờ
trên đảo nằm ở phía Nam bán đảo Đồ Sơn nên đền thờ có tên là Nam Hải đại
vương.
Truyền thuyết thì có nhiều nhưng người Đồ Sơn và cư dân làm nghề biển
trong vùng cho rằng, vị thần trên đảo Dáu dã phù trợ cho họ được thuận buồm,
22
xuôi gió, tôm cá đánh bắt được nhiều. Lễ hội chính của đảo Dáu thường được tổ
chức vào các ngày mồng7, 8,9,10 tháng hai âm lịch hằng năm. Đó cũng là lúc
tiết trời thay đổi để ngư dân chuẩn bị bước vào mùa cá mới. Trong các ngày lễ
hội, ngày mồng 9 là ngày chính hội, với phần lễ đặc trưng là tục rước đèn về
đêm và tế lễ, thả thuyền giấy.
Theo người Đồ Sơn, rước đèn về đêm là rước thần hiển linh để phù hộ cho
nhân dân trong vùng. Lễ rước đèn bắt đầu từ 23 giờ đến sáng. Cho dù trong tiết
tháng 2 sóng biển nổi lên rất mạnh nhưng người dự hội vẫn thắp đèn trên biển.
Đêm ấy, cả đảo Dáu lung linh trong ánh lửa từ những ngọn đèn và trong ánh lửa,
người đồ Sơn muốn gửi gắm ước mơ của mình vào thiên nhiên, vào cõi tâm linh
mong cho những chuyến đi biển về khoang thuyền đầy ắp cá, tôm.
Đến với Hòn Dáu là đến với không gian tĩnh lặng của thiên nhiên, du khách
thả hồn theo tiếng xào xạc của cây lá, tiếng sóng biển nhẹ nhàng vỗ vào bờ đá.
Vượt qua đoạn đường nhỏ khoảng 20 m, du khách sẽ đặt chân đến trung tâm của
đảo với những con đường uốn lượn quanh co. Hai bên đường cây cối đan xen
chằng chịt khiến du khách cảm thấy mình đang lạc giữa màu xanh huyền diệu
của núi rừng và điều mà người dân Đồ Sơn cho là linh thiêng và tôn trọng vị
thần đảo: đó là không ngắt lá, bẻ cành cây trên đảo; chính vì thế cây cối trên đảo
không bị chặt phá, bốn mùa xanh tốt. Theo con đường nhỏ khoảng gần 600m, du
khách sẽ đến với hải đăng đảo Dáu. Đó là một toà nhà 2 tầng và chính giữa toà
nhà là tháp đèn. Ngọn hải đăng anh hùng trên biển hằng ngày dẫn dắt tàu thuyền
ra vào cảng Hải Phòng đã từng là nơi oanh tạc của máy bay Mỹ. Sau nhiều lần
xây dựng, tu sửa để có vóc dáng như ngày hôm nay, ngọn hải đăng đã trở thành
điểm du lịch hấp dẫn trên đảo. Bước lên cầu thang gỗ xoáy tiến ra hành lang của
ngọn đèn, phóng tầm mắt nhìn ra phía biển, du khách sẽ thấy núi non Đồ Sơn
thấp thoáng, từng đàn én chao liệng trên mặt biển, xa xa là những con tàu lớn
ngày đêm cần mẫn đi trên biển.
Lễ hội Chùa Hang
Chùa Hang có tên chữ là Cốc tự, xưa thuộc địa bàn Vạn Tác, xã Đồ Sơn,
huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, đạo Hải Dương; nay thuộc phường Vạn
Sơn, Quận Đồ Sơn.
Chùa Hang phần xây mới.
23
Chùa Hang là chùa thiên tạo lớn của Đồ Sơn, theo truyền ngôn có từ trước
công nguyên. Nhà sư Bần – tên dân dã người nước Thiên Trúc theo thuyền đi
truyền bá đạo Phật đã đến cư trú tại hang và mở chùa. Dân Đồ Sơn vẫn truyền
rằng sư Bần còn dựng chùa Bần trên núi Mẫu Sơn, sau người viên tịch ở chùa
Hang.Nhiều thơ ca về chùa Hang Đồ Sơn hiện còn lưu:
“Chùa Hang , động Phật, hang Dơi
Bốn phương tám hướng chẳng nơi nào bằng
Chùa hang cảnh Phật nhiệm mầu
Ấy là Bụt mọc hay bầu Tiên xây”
Chùa Hang Đồ Sơn cùng với miếu Thị Đa ở Cốc Liễn, Kiến Thụy gần đó
thờ Chử Đồng Tử là những chứng tích quí liên quan đến quá trình đạo Phật du
nhập vào nước ta khoảng những năm trước Công Nguyên.
2.1.2 Các du tích lịch sử cách mạng.
Bến tàu Không số -K15.
Cảnh đẹp ở khu du lịch Đồ Sơn không chỉ là những đồi thông và bãi tắm
trải dài, mà nơi đây còn ẩn chứa tiềm năng du lịch rất phong phú, thu hút du
khách đến tham quan. Bến tàu Không số là một trong những điểm du lịch hấp
dẫn đó.
Bến tàu không số - K15 dưới chân đồi Nghinh Phong thuộc khu III Đồ
Sơn, nơi xuất phát của những con tàu không số chở hàng hóa, vũ khí chi viện
cho chiến trường miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, vừa được
Bộ văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Cách đây gần nửa thế kỷ, năm 1959 quân đội nhân ta đã thành lập hai
đường vận chuyển chiến lược nhằm chi viện sức người sức của cho đồng bào và
chiến sỹ miền Nam, một trên bộ và một trên biển, vượt núi Trường Sơn và
xuyên biển Đông. Sau gần bốn tháng chuẩn bị, ngày 8/4/1962, chuyến tàu trinh
sát và mang chỉ thị của Trung ương về mở đường vận chuyển chiến lược trên
biển do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy đã đến được miền Nam, Mở hướng chi
viện mới hiệu quả, bảo đẩm bí ,mật, bất ngờ.
Tháng 10 – 1961, Bộ quốc phòng thành lập Đoàn 759, đoàn vận tải thủy có
trách nhiệm chở hàng chi viện cho miền Nam bằng đường biển. Bắt đầu từ đây,
cán bộ, chiến sỹ Đoàn 759 với những chiến công hiểm hách, việc làm phi
thường làm nên con đường huyền thoại làm mang tên Bác, kỳ tích có một không
24
hai trong lịch sử dân tộc. Cũng bắt đầu từ đây xây sựng những con tàu không số
lúc ẩn lúc hiện như thần thoại, hàng trăm lượt tàu xuất phát từ địa điểm này, chở
không biết bao nhiêu hàng hóa, vũ khí chi viện cho miền Nam ruột thịt, đánh
giặc thắng lợi, góp phần vào chiến thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền
Nam thống nhất nước nhà.
Ngày nay, những ai có dịp đến Đò Sơn, khi đến thung lũng Xanh dưới chân
đồi Nghinh Phong đều thấy tượng đài kỷ niệm di tích lịch sử đường Hồ Chí
Minh trên biển lồng lộng và trang trọng giữa mây trời. Đây là công trình được
xây dựng và hoàn thành đứng dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng Hải Phòng. Giữa
màu xanh của núi đồi Đồ Sơn trong tiếng rì rào của sóng biển, di tích K15 là
biểu tượng anh hùng ca ngợi làng quả cảm, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Tổ
quốc của cán bộ chiến sĩ trên cán bộ chiến sỹ teen những con tàu không số năm
xưa. Hiện, K15 còn lại những cột bê tông trường tồn như nốt nhạc của bài ca đi
cùng năm tháng, khắc ghi chiến cốn chói lọi, đánh dấu trang sử hào hùng của
quân đội ta.
Tượng đài kỷ niệm đường Hồ Chí Minh trên biển và di tích bến tàu không
số K15 trong những năm gần đây đón hàng nghì lượt khách đến tham quan,
không những mở hướng phát triển du lịch mà còn trở thành địa chỉ giáo dục
truyền thống lịch sử cho các thế hệ trẻ hôm nay, nhỡ về những chiến công chói
lọi của quân và dân ta, chung sức đồng lòng chiến đấu xây dựng Đồ Sơn ngày
càng phát triển, xứng đáng là trọng điểm du lịch quốc gia.
Bến Nghiêng – biểu tượng chiến thắng.
Bến Nghiêng tọa lạc giữa phong cảnh hữu tình, sau lưng là ngọn núi thuộc
dải Cửu Long, phía trước là bãi tắm khu II trong ra cửa biển “Ba Lộ”, nơi thế kỷ
11 vua Lý Thánh Tông từng ngự du thị sát để bảo vệ bờ cõi, rồi cho xây dựng
tháp Tường Long.
Ngày 15/5/1955, tại bến Nghiêng những lính Pháp cuối cùng rút khỏi Việt
Nam. Từ đây, Hải Phòng và miền Bắc sạch bóng quân xâm lược và bến Nghiêng
trở thành di tích minh chứng cho thắng lợi hoàn thành sau 9 năm kháng chiến
chống Pháp của quân và dân ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bến Nghiêng trở thành bến
tàu phục vụ vận tải tiếp tế hàng hóa cho cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Hòn Dáu,
25