Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA MALAYSIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.27 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
1.

2.

3.

4.

Tổng quan về đất nước Malaysia.
1.1 Điều kiện tự nhiên.
1.2 Điều kiện văn hóa xã hội.
1.3 Cơ sở hạ tầng của Malaysia.
1.4 Những thành tựu nổi bật về kinh tế của Malaysia trong những năm qua.
Chính sách thương mại quốc tế của Malaysia.
2.1 Giai đoạn trước năm 1970.
2.2 Giai đoạn từ 1970 – 1989.
2.3 Giai đoạn 1990 – nay.
2.4 Kết quả đạt được.
2.5 Bài học cho Việt Nam.
Chính sách đầu tư quốc tế của Malaysia
3.1 Giai đoạn 1970 - 1980
3.2 Giai đoạn 1980 – nay
3.3 Thực trạng đầu tư quốc tế của Malaysia.
3.4 Bài học cho Việt Nam.
Quan hệ Việt Nam – Malaysia
4.1 Hiệp định đã ký giữa hai nước Việt Nam – Malaysia.
4.2 Quan hệ thương mại.
4.3 Quan hệ đầu tư.
4.4 Quan hệ hợp tác về lao động, giáo dục, du lịch, dầu khí, an ninh – quốc
phòng.



CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA MALAYSIA
1


Malaysia là một nước NIC thế hệ thứ hai. Mặc dù có đường lối phát triển kinh tế
tương đối gần với các nước NICS thế hệ thứ nhất, nhưng Malaysia thực hiện tiến
trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu tương đối muộn. Do đó mà sự phát triển
của nền kinh tế Malaysia chỉ thực sự trở nên nổi bật từ sau những năm 1980. Điều
đáng nói là sự thành công của Malaysia không bắt nguồn từ những điều kiện bên
ngoài thuận lợi, mà do những tác động tích cực của chính sách kinh tế đối ngoại. Cụ
thể là chính sách thương mại và đầu tư quốc tế đã có những đóng góp to lớn vào sự
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước này.
1. TỔNG QUAN VỀ MALAYSIA
1.1 Điều kiện tự nhiên.
1.1.1 Vị trí địa lý.
Đất nước Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á, nằm ở 230 độ về phía Bắc,112,30
độ về phía đông.
Malaysia gồm hai phần:
• Malaysia bán đảo, gọi là bán đảo Malaysia, phía bắc giáp Thái Lan, phía đông
giáp Biển Đông, phía nam giáp Singapore thông qua eo biển Johor, phía đông
giáp eo biển Malacca.
• Malaysia hải đảo, gồm hai bang Sabah, Sarawak và một lãnh thổ liên
bang Labuan ở phía bắc đảo Borneo, giáp Brunei và Indonesia.
Tóm lại, Malaysia có biên giới đất liền được chia sẻ với Thái Lan, Indonesia, và
Brunei và biên giới hàng hải tồn tại với Singapore, Việt Nam, và Philippines.
1.1.2 Diện tích.
Tổng diện tích lãnh thổ: 329.847 km2 , trong đó diện tích đất liền chiếm 328.550
km2 và diện tích biển chiếm 1.703 km2.
Đường biên giới đất liền có tổng chiều dài là 2.669 km, trong đó đường biên giới

đất liền của các quốc gia tiếp giáp như sau: Brunei 381 km, Indonesia 1.782 km, Thái
Lan 506 km.
Đường bờ biển dài 4.675 km (trong đó bán đảo Malaysia dài 2.068, phía Đông
Malaysia dài 2.607 km).
1.1.3 Khí hậu
Nhiệt đới, mưa nhiều. Lượng mưa trung bình ở mức 2.300mm, thay đổi theo mùa
hơn là thay đổi theo nhiệt độ gió. Gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 2 và gió
mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9 đem theo nhiều mưa đến Malaysia. Nhiệt độ
trung bình hàng năm từ 25-28˚C. Vào mùa nóng, nhiệt độ thường ở mức 32˚C, độ ẩm
80%.
1.1.4 Tài nguyên thiên nhiên
Malaysia giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các lĩnh vực như nông
nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản.
2


Về nông nghiệp: Nhờ có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, Malaysia có điều kiện tốt
để trở nước xuất khẩu hàng đầu thế giới sản phẩm cao su tự nhiên và dầu cọ; gỗ xẻ và
gỗ nguyên liệu, cacao, hạt tiêu, dứa và thuốc lá cũng là những mặt hàng chủ lực trong
lĩnh vực này. Dầu cọ là một nguồn thu ngoại tệ lớn của Malaysia.
Về các nguồn tài nguyên lâm nghiệp: hiện nay, ước tính 59% diện tích Malaysia
được rừng bao phủ. Sự cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ môi trường và hệ
sinh thái, các nguồn tài nguyên rừng đang được quản lý trên cơ sở bền vững và tỷ lệ
cây bị khai thác đang giảm dần, khuyến khích trồng những loại cây có giá trị cao như
tếch và các loại cây nguyên liệu giấy giá trị cao khác.
Về khoáng sản: thiếc và dầu mỏ là hai nguồn tài nguyên khoáng sản có giá trị của
kinh tế Malaysia. Năm 2004 Malaysia được xếp hạng thứ 24 về trữ lượng dầu và 13
cho trữ lượng khí gas. 56% trữ lượng dầu nằm tại Bán đảo và 19% tại Đông
Malaysia.
Các sản phẩm khoáng sản khác cũng khá quan trọng gồm đồng, vàng, bô xít,

quặng sắt và than cùng với các khoáng sản công nghiệp như đất sét, cao lanh, silica,
đá vôi, barite, phốt phát và các sản phẩm đá cắt như đá granite và đá mable khối hoặc
tấm.
1.2 Điều kiện văn hóa - xã hội.
1.2.1 Dân số.
Dân số: khoảng 31 triệu người ( đầu năm 2016).
Tỷ lệ giới tính: 50,7% nam- 49,3% nữ
Mật độ dân số 94,4 người/km2 tính đến đầu năm 2016.
76.2% là tỉ lệ cư dân sống tại đô thị Kuala Lumpur là thủ đô và thành phố lớn nhất
tại Malaysia, cũng như là trung tâm thương mại và tài chính lớn.
1.2.2 Dân tộc.
Malaysia là quốc gia đa dân tộc: 50,1% người Malay, 22,6% người Trung Quốc,
11,8% người bản xứ, 6,7% người Ấn Độ, khác 0,7%, không phải công dân 8,2%
( năm 2010).
Văn hóa ban đầu của khu vực bắt nguồn từ các bộ lạc bản địa, cùng với những
người Mã Lai nhập cư sau đó.
Văn hóa Malaysia tồn tại các ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa Trung Quốc và văn hóa
Ấn Độ, bắt nguồn từ khi xuất hiện ngoại thương.
Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ văn hóa Ba Tư, Ả Rập và Anh Quốc. Do cấu
trúc của chính phủ, cộng thêm thuyết khế ước xã hội, có sự đồng hóa văn hóa tối
thiểu đối với các dân tộc thiểu số.
1.2.3 Tôn giáo
Hiến pháp Malaysia đảm bảo quyền tự do tôn giáo và xác định Hồi giáo là quốc
giáo. Theo số liệu ước tính năm 2010, Malaysia có xấp xỉ 61,3% dân số theo Hồi
giáo, 19,8% theo Phật giáo, 9,2% theo Kito giáo, 6,3% theo Ấn Độ giáo, 1,3% theo
Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo truyển thống của Trung Hoa, 0,7% tuyên bố là
3


người không tôn giáo và 1,4% còn lại theo tôn giáo khác hoặc không cung cấp thông

tin.
1.2.4 Ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính thức tại Malaysia là tiếng Malaysia, đây là một hình thái tiêu chuẩn
hóa của tiếng Mã Lai.
Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến thứ hai.
Bên cạnh đó, còn nhiều ngôn ngữ khác đang được sử dụng tại quốc gia này, khoảng
137 ngôn ngữ : tiếng trung, và các thổ ngữ, tiếng Tamil, Telugu, Panjabi, Thái; các
thứ tiếng bản địa như Iban và Kadazan được sử dụng nhiều, nhất là ở miền Đông
Malaysia...
1.2.5 Chế độ chính trị.
Hiện nay, Malaysia theo chế độ quân chủ tự do hiến pháp liên bang. Hệ thống của
chính phủ đang theo sát hình thức của hệ thống nghị viện Anh.
Người đứng đầu nhà nước là vua - nguyên thủ quốc gia. Vua được bầu với nhiệm
kỳ 5 năm và do Hội đồng Tiểu vương bầu ra và được lựa chọn trong số 9 Tiểu vương
của 9 bang (có 4 bang không có Tiểu vương).
Chính phủ
Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng, lãnh tụ phe đa số tại Hạ viện, nhiệm kỳ 5 năm.
Quốc hội Malaysia bao gồm Hạ viện, Thượng viện. Có 222 thành viên Hạ viện
được bầu với nhiệm kỳ tối đa là 5 năm từ các đơn vị thành viên . Tất cả 70 thượng
nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm, 26 người được bầu bởi 13 quốc hội bang , còn lại 44
người được chỉ định bởi nhà vua theo đề nghị Thủ tướng Chính phủ. Từ khi độc lập
Malaysia đã được chi phối bởi một liên minh đa đảng được gọi là Barisan Nasional.
Mỗi tiểu bang có một quốc hội lập pháp đơn viện Nhà nước mà các thành viên được
bầu từ các đơn vị thành viên. Chính quyền tiểu bang được dẫn dắt bởi trưởng Bộ
trưởng, là thành viên hội đồng nhà nước từ đảng chiếm đa số trong hội đồng. Trong
mỗi tiểu bang có một người cai trị cha truyền con nối.
Đảng phái chính trị:
Malaysia có nhiều đảng phái chính trị gồm 14 đảng, trong đó có 4 đảng có ghế
trong Quốc hội bao gồm:
• UMNO: đảng lớn nhất của người Mã Lai;

• MCA: đảng lớn thứ hai, của người Hoa;
• MIC: đảng lớn thứ ba, của người Ấn Độ;
• Gerakan: đảng lớn thứ tư, của người Hoa.
Phe đối lập hợp pháp gồm 7 đảng chiếm 19 ghế trong Quốc hội Liên bang và 53
ghế tại các Hội đồng Lập pháp bang, bao gồm:
• PAS: Đảng hồi giáo, đảng lớn thứ nhất;
• DAP: Đảng Dân chủ Hành động, đảng lớn thứ hai.
Quyền hành pháp được trao cho nội các, đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ. Hệ
thống pháp luật của Malaysia dựa trên thông luật của Anh. Chính trị ở Malaysia nói
4








riêng tương đối ổn định. Thỉnh thoảng do những tranh giành quyền lực mà xảy ra
mâu thuẫn, nhưng nhìn chung vẫn là một đất nước hòa bình, phù hợp phát triển các
ngành du lịch dịch vụ.
Malaysia có môi trường chính trị tương đối ổn định, có được sự lãnh đạo sáng
suốt, sớm dành được độc lập dân tộc (1957), có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi
dào phong phú so với quy mô dân số của quốc gia này, những cơ chế chính sách
thích hợp được kế thừa từ thời thuộc địa, tính minh bạch cao, tham những thấp...tất
cả những lợi thế này đã tạo đà cho Malaysia đạt đến tầm phát triển như hiên nay.
1.3 Cơ sở hạ tầng của Malaysia hiện nay.
Malaysia là quốc gia có cơ sở hạ tầng thuộc hàng phát triển nhất tại châu Á.
Đường bộ: Mạng lưới đường bộ rộng lớn. Tuyến đường cao tốc chạy từ Bắc xuống
Nam được mở rộng, thông suốt phục vụ ô tô rất thuận lợi. Malaysia có tuyến đường

sắt thông suốt từ Bắc đến Nam, nối liền đến phía bắc BangKok và phía Nam
Singapore.
Đường hàng không: Malaysia có 118 sân bay (những sân bay tầm vóc quốc tế: Kuala
Lumpur, Penang, Kuchinh, Langkawi), có hãng máy bay MAS bay cùng 36 hãng
quốc tế đến 75 sân bay và các nước trên thế giới. Nội địa có 3 hãng đảm bảo đi lại
cho hành khách giữa các bang.
Đường biển: Malaysia có 7 cảng quốc tế (cảnh chính :Klang).
1.4 Những thành tựu kinh tế nổi bật của Malaysia.
Kể từ khi giành được độc lập năm 1957, Malaysia đã và đang trở thành một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất Châu Á, với mức GDP trung bình
khoảng 6.5%/năm trong khoảng thời gian 50 năm qua (1957 – 2005). Đặc biệt,
Malaysia đạt được tốc độ công nghiệp hóa rất nhanh trong 3 thập kỷ gần đây, chuyển
từ một nền kinh tế phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và sản phẩm nông nghiệp
trong thập niên 60 của thế kỷ XX sang một nền kinh tế dựa trên công nghiệp chế tạo
và dịch vụ.
Ngày nay, Malaysia trở thành quốc gia có nền kinh tế thị trường công nghiệp mới
(NICs thế hệ thứ 2). Nền kinh tế của Malaysia hiện nay hướng ra xuất khẩu với các
ngành chủ đạo là công nghệ cao, các ngành thâm dụng vốn và tri thức.
Những thành tựu kinh tế nổi bật của Malaysia được thể hiện qua những chỉ tiêu cơ
bản sau:
1.4.1 GDP:
GDP danh nghĩa và GDP bình quân/người của Malaysia tăng khá nhanh trong giai
đoạn từ năm 2006 – 2014.

Hình 1.1. GDP của Malaysia giai đoạn 2006 – 2014
5


Trong giai đoạn 2006 – 2014, GDP danh nghĩa của Malaysia đã tăng hơn 2 lần (từ
162.69 tỷ USD năm 2006 lên 338.1 tỷ USD năm 2014). Theo ước tính của Ngân

hàng thế giới (WB), GDP danh nghĩa của Malaysia năm 2014 đứng thứ 35 thế giới và
đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á chỉ sau Indonesia và Thái Lan.
Hình 1.2: GDP bình quân/người của Malaysia giai đoạn 2006 – 2014

Trong giai đoạn 2006 – 2014, GDP bình quân/người của Malaysia tăng hơn 1.2 lần
(từ 5756.44 USD năm 2006 lên mức 7304.14 USD năm 2014).Theo ước tính của
6










Ngân hàng thế giới (WB), giá trị GDP bình quân/người của Malaysia năm 2014 đứng
thứ 62 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau Singapore và Brunei.
Nền kinh tế Malaysia trong năm 2014 – 2015 được đánh giá là một trong những nền
kinh tế có tính cạnh tranh nhất ở Châu Á. Cụ thể theo bảng xếp hạng chỉ số năng lực
canh tranh toàn cầu (GCI), Malaysia hiện xếp thứ 6 ở Châu Á và thứ 20 trên thế giới.
1.4.2.Cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế của Malaysia là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp với Công
nghiệp chiếm 46%, nông nghiệp: 12% và dịch vụ: 42% trong GDP (2010).
1.4.3 Thành tựu kinh tế nổi bật:
Malaysia là quốc gia:
Xuất khẩu hàng đầu thế giới về các sản phẩm chế biến như chất bán dẫn nghe nhìn,
điện gia dụng, sản phẩm từ cao su và hóa chất dẻo.
Sản xuất hàng đầu thế giới về dầu cọ, cao su tự nhiên, hạt ca cao, tiêu và ga tự nhiên

lớn nhất trên thế giới.
Xếp hạng môi trường kinh doanh “Doing Business 2015” do WB công bố ngày 29/10
Malaysia xếp thứ 18/199 nền KTTG trong khi Việt Nam xếp thứ 28.
Ngành công nghiệp ô tô lớn mạnh:
Ra đời vào những năm đầu thập kỷ 80, ngành công nghiệp ô tô Malaysia đã phát triển
mạnh mẽ và đang dần khẳng định vị thế trên trường quốc tế với hai hãng xe ô tô nội
địa Proton và Parodua.
Theo Bộ Giao thông Vận tải tính đến 31/12/2012: Là thị trường ô tô lớn thứ 22 trên
thế giới và thứ 3 ở ĐNÁ sau Thái Lan và Indonesia.
Mục tiêu lâu dài của Malaysia: Thực hiện hai chương trình là Chương trình
chuyển đổi chính phủ và Chương trình chuyển đổi kinh tế, Malaysia sẽ đạt đến tình
trạng nước phát triển vào năm 2018, sớm hơn so với mục tiêu vào năm 2020.
Malaysia là một nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công
nghiệp hóa mới. Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong hướng dẫn hoạt động
kinh tế thông qua các dự án kinh tế vĩ mô, song vai trò này đang giảm xuống.
2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA MALAYSIA
2.1.Nội dung chính sách.
2.1.1.Giai đoạn trước năm 1970.
Những năm đầu sau khi giành độc lập, Malaysia là một nước nông nghiệp lạc hậu,
kinh tế phụ thuộc nặng nề vào nước ngoài. Trước tình hình trên chính phủ Malaysia
đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1957 – 1970 với mục tiêu
thay thế nhập khẩu. Do điều kiện tự nhiên, Malaysia chọn cây cao su và cây cọ làm
cây trồng chủ đạo để xuất khẩu. Song song với việc phát triển nông nghiệp, ngành
công nghiệp khai khoáng thời kỳ này cũng được phát triển để thay thế hàng nhập
khẩu và từng bước hướng ra xuất khẩu.
7


Các chính sách thương mại của Malaysia giai đoạn này mang tính bảo hộ nhiều
hơn là mở cửa, chủ yếu hướng nội. Chính phủ sử dụng hệ thống bảo hộ thuế quan

làm công cụ khuyến khích khu vực chế tạo.
Môi trường kinh tế thời kỳ này đã được tự do hóa không còn những giới hạn về
nhập khẩu hay các doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, khoảng cách chênh lệch thu
nhập giữa người Malaysia gốc hoa và bản xứ ngày một lớn. Thời kỳ này kết thúc
bằng cuộc xung đột sắc tộc 5/1969.
2.1.2.Giai đoạn 1970 – 1990.
a)


b)




c)







Mô hình chính sách: Malaysia quyết định thực hiên “kế hoạch triển vọng lần thứ
nhất” (OPP1) tiến hành trong vòng 20 năm nhằm thúc đẩy sự phát triển công nghiệp,
chuyển hướng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa hướng vào
xuất khẩu.
Chính sách công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
Nội dung chính sách:
Chính sách mặt hàng:
Thực hiện mô hình chính sách thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng khai thác lợi thế

về điều kiện tự nhiên (cao su, gỗ, dầu cọ, dầu mỏ) và sử dụng lao động (dệt may, da
giầy)  xuất khẩu chiến lược.
Bên cạnh đó Malaysia thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch đối với các ngành
công nghiệp non trẻ, sau này bây giờ là 1 trong những sản phẩm xuất khẩu mũi
nhọn: máy giặt, điều hoà, ti vi, ô tô…(công nghiệp chế tạo)
Chính sách thị trường:
Khuyến khích xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước phát triển như Nhật
Bản, Mỹ và EU...
Biện pháp thực hiện.
Trong giai đoạn này, chính phủ Malaysia thực hiện chính sách kinh tế mới. Để thúc
đẩy xuất khẩu, Malaysia đã thực hiện những biện pháp sau:
Áp dụng chính sách miễn phí giảm thuế: thuế đầu vào sản xuất và thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các công ty sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Bên cạnh đó còn
miễn giảm thuế doanh thu đối với các ngành hàng xuất khẩu và các sản phẩm xuất
khẩu có sử dụng nguyên liệu trong nước.
Chính sách trợ cấp về thuế và chi phí cho những hàng hóa liên quan đến xuất khẩu.
Mức thuế trung bình cho các ngành công nghiệp chỉ còn 13% và hàng rào phi thuế
quan gần như không có.
Thực hiện biện pháp khấu hao nhanh đối với các công ty xuất khẩu chiếm tỷ lệ trên
20% tổng doanh thu hàng năm. Vì trong giai đoạn đầu sẽ giảm bớt gánh nặng thuế,
còn phần lợi nhuận để doanh nghiệp đầu tư tái sản xuất.
8











a)

Xây dựng và phát triển các khu mậu dịch tự do, khu chế xuất nhằm tạo điều kiện cho
các hoạt động sản xuất khẩu. Chính phủ Malaysia tiến hành đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, xây dựng hệ thống kho hàng miễn phí tại những khu vực có quy mô sản xuất
hàng xuất khẩu lớn, đặc biệt là đối với hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu chủ yếu dựa
vào điều kiện tự nhiên cần có chế độ bảo quản đặc biệt như rau quả, thuỷ sản… Hệ
thống kho sẽ đảm bảo đầu mối, tiêu thụ sản phẩm kịp thời, đảm bảo chất lượng sản
phẩm. Năm 1980, 70% hàng chế tạo xuất khẩu là sản phẩm của các khu chế xuất.
Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu thông qua việc bảo lãnh và cho vay với lãi suất ưu đãi cho
các công ty tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch đối với các ngành công nghiệp non trẻ chủ yếu
thông qua công cụ thuế quan và hạn chế về mặt số lượng. Bên cạnh đó đối với những
sản phẩm làm nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất các sản phẩm công nghiệp chế
tạo hay hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu được áp dụng miễn giảm thuế nhập khẩu.
Từng bước thực hiện xuất khẩu những sản phẩm chế tạo: hàng dệt may, giày dép
thông qua tự do nhập khẩu những yếu tố đầu vào cho sản xuất.
Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại MATRADE (1986), tổ chức hội chợ hàng
xuất khẩu, tạo ra những kênh thông tin về sản phẩm trên thị trường các quốc gia khác
nhau, hỗ trợ thương mại, tư vấn,…
2.1.3.Giai đoạn 1990 đến nay.
Mô hình chính sách.
Thực hiện tự do hoá thương mại kết hợp với thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm công
nghiệp chế tạo.

b)



Nội dung chính sách:
Chính sách mặt hàng:
Tập trung đầu tư cho các ngành có thể mạnh, đến nay, các ngành này đã có những
vị thế nhất định, là những mặt hàng được ưa chuộng trong thương mại (ôtô, sản phẩm
viễn thông, máy điều hóa, đĩa cứng…). Thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm công
nghiệp chế tạo và chế biến (thép, ô tô, điện tử...)



Chính sách thị trường:
Mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực, đặc biệt là thị trường các nước
ASEAN và Trung Quốc.
Malaysia chuyển hướng phát triền kinh tế từ hướng nội sang ngoại, hoạt động ngoại
thương của Malaysia trở nên rất năng động, là động lực chính thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế của Malaysia.

c)

Các biện pháp thực hiện.

9


Malaysia từng bước thực hiện quá trình tự do hóa thương mại và đa dạng hóa thị
trường: Thực hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình quy định của khu vực mậu dịch tự
do ASEAN hoàn thành năm 2003, danh mục các mặt hàng được cắt giảm xuống còn
0 – 5%, đồng thời giảm dần các mặt hàng áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu về số
lượng (hạn ngạch). Điều kiện áp dụng của Malaysia là do thời kỳ này Malaysia đã có
những thành công nhất trong hoạt động đầu tư vào các mặt hàng công nghiệp chế tạo;
chú trọng tới quan hệ với các nước ASEAN. Bên cạnh đó, chính phủ cũng thành lập

các trung tâm xúc tiến thương mại: nhằm hỗ trợ cho các công ty xuất khẩu mở rộng
và đa dạng hoá thị trường mà trong đó tổ chức tiêu biểu thực hiện thành công: cơ
quan xúc tiến thương mại của Malaysia với khẩu hiệu “sản xuất cho thế giới”.
Khuyến khích các công ty mở rộng thị trường sang các nước đang phát triển, đặc biệt
là các nước trong khối Asean.
Để tự do hóa thương mại, chính phủ Malaysia tích cực tham gia ký kết các hiệp
định thương mại tự do:








Tham gia WTO : Malaysia tham gia WTO ngày 1/1/1995. Trong khi Malaysia tiếp
tục dành ưu tiên cao cho các hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ thuộc
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Malaysia cũng đang theo đuổi các thỏa thuận
thương mại khu vực và song phương để bổ sung cho các phương pháp tiếp cận đa
phương để tự do hóa thương mại.
ASEAN : Malaysia cùng với Thái Lan, Indonesia, Philipines, Singapore là 5 quốc gia
thành viên sáng lập của của ASEAN. Đặc biệt, năm 2015, Malaysia đã tiếp quản vị
trí Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và thực hiện trách nhiệm
thúc đẩy một cộng đồng ASEAN mạnh hơn. Vai trò lãnh đạo của Malaysia là đặc biệt
quan trọng vào năm chuyển đổi 2015 khi có sự hội nhập và thành lập Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC), cũng như quản lý các căng thẳng tại Biển Đông.
Tham gia Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và rất nhiều FTA
khác.
Ký kết FTA với các nước: Nhật Bản, Pakistan, New Zealand, Ấn Độ, Chile, Thổ Nhĩ
Kỳ, Australia.

Ở cấp độ khu vực, Malaysia và các đối tác ASEAN đã thiết lập Khu vực Mậu dịch
Tự do ASEAN (AFTA). ASEAN cũng đã ký kết FTA với Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc và Ấn Độ, cũng như Úc và New Zealand.
Bảng 2.1.Một số hiệp định Thương mại tự do Malaysia đã ký kết
Ngày ký kết
Hiệp định Thương mại tự do ASEAN:

1.

Hiệp định ATIGA hoặc trước đó Hiệp định CEPT 1992
10

26 /2/ 2009


2.

Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Trung Quốc

29 /11/2004

3.

Hiệp định thương mại hàng hóa Hàn Quốc-ASEAN

24/8/2006

4.

Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản


14 /4/2008

5.

Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Ấn Độ

13/8 /2009

6.

Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Australia-New Zealand

27/2/2009

Hiệp định thương mại song phương:
7.

Hiệp định đối tác kinh tế chặt chẽ hơn Malaysia-Pakistan

8/11/2007

8.

Hiệp định Đối tác Kinh tế Malaysia-Nhật Bản

13/12/2005

9.


Hiệp định thương mại tự do Malaysia-New Zealand

26/10 /2009

Nguồn: MITI - Ministry of International Trade and Industry, Malaysia
Ưu đãi các dụ án đầu tư (gồm cả đầu tư trong nước và nước ngoài) đồng thời miễn
giảm thuế cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu; thành lập các khu thương mại tự do
(FTA); khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Malaysia cũng cho phép
nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu 100% vốn cổ phần của xí nghiệp nếu xuất khẩu
được từ 80% sản phẩm trở lên.
Năm 2009 do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế
Malaysia rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên kể từ quý IV/2009, nền kinh tế đã tăng
trưởng dương sau ba quý liên tiếp suy thoái. Trong năm 2010, Malaysia tăng trưởng
kinh tế 7,2%, vượt mức dự báo 6%. Năm 2012, Malaysia tăng trưởng 5,6% do có
Chương trình chuyển đổi Chính phủ và Kế hoạch Chuyển đổi kinh tế đã mang
lại tăng trưởng đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Chính phủ Malaysia tin tưởng nền
kinh tế nước này có thể tăng cường khoảng 4,5-5% trong năm 2013, dựa trên các kết
quả tích cực có được từ các chính sách kinh tế và tài chính được thử nghiệm, cũng
như triển vọng dài hạn của Malaysia dựa vào khả năng phục hồi của khu vực đầu tư
tư nhân, nhu cầu trong nước mạnh mẽ cũng như đa dạng hóa xuất khẩu. Hiện nay,
Malaysia là một quốc gia thương mại lớn.
Malaysia có các khu vực tự do (FZs) dành cho việc thành lập các nhà máy sản xuất
định hướng xuất khẩu và các cơ sở lưu giữ hàng hoá. Nguyên liệu thô và thiết bị có
thể được nhập khẩu miễn thuế vào các khu vực này theo các thủ tục hải quan tối
thiểu. Để có thể lưu hành trên thị trường, một số loại sản phẩm cuối cùng (end
products) bắt buộc phải có các loại giấy chứng nhận do Bộ Y tế Malaysia (Ministry
of Health) cấp: Giấy chứng nhận Y tế (Health Certificate); Giấy chứng nhận Kinh
doanh Tự do (Free Sale Certificate - FSC); Giấy chứng nhận áp dụng Tiêu chuẩn
HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Certificate); Giấy chứng nhận áp
11



dụng Phương pháp Sản xuất tốt (Good Manufacturing Pratices (GMP) Certircate);
Giấy chứng nhận áp dụng Biện pháp Vệ sinh Dịch tễ tốt (Good Hygienne Practice
(GHP) Certificate).
d)

Các công cụ chính sách.
• Cắt giảm thuế quan:
Cắt giảm thuế quan nhập khẩu theo quy định của khu vực mậu dịch tự do
(AFTA). Mức thuế nhập khẩu từ 0-300% . Mức thuế cao được áp dụng đối với mặt
hàng xa xỉ và được bảo hộ. Mức thuế thấp hơn được áp dụng đối với nguyên liệu thô
và tăng lên đối với các mặt hàng giá trị gia tăng hoặc gia công chế biến. Ngoài thuế
nhập khẩu, hầu hết hàng nhập khẩu đều phải chịu thuế bán hàng (sales tax) là 10%.
6,8% số dòng thuế có mức thuế nhập khẩu 16-20%. 16,9% số dòng thuế có mức thuế
nhập khẩu trên 20% . Một số dòng thuế khác như ô tô nhập khẩu là trên 100%. Năm
2000, thuế nhập khẩu áp dụng cho 136 loại thực phẩm (tươi, khô và chế biến) được
giảm từ khoảng 5%-20% xuống còn 2%-12%. Thuế nhập khẩu thuốc lá, các sản
phẩm thuốc lá, đồ uống có cồn và một số thực phẩm chế biến có giá trị cao vẫn cao.
Thuế xuất khẩu ở mức khoảng 5% đến 10% đối với những mặt hàng chính là dầu mỏ,
gỗ xẻ, cao su, dầu cọ và thiếc. Thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Malaysia ở mức 030%.
Nguyên liệu thô được miễn thuế nhập khẩu khi nó sử dụng trực tiếp để sản xuất
hàng xuất khẩu nếu nguyên liệu đó không được sản xuất ở trong nước hoặc nếu
nguyên liệu trong nước không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về chất lượng và giá cả,
chẳng hạn như linh kiện bán dẫn dùng để lắp ráp hàng bán dẫn xuất khẩu. Malaysia
cũng miễn thuế cho máy móc và thiết bị sử dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất
hoặc trong nước không sản xuất được.
Thuế xuất khẩu vào khoảng 5 – 10% đặt ra với những mặt hàng chính: dầu mỏ, gỗ
xẻ, cao su, dầu cọ và thiếc. Thuế xuất khẩu dầu mỏ là 10%. Thuế xuất khẩu các hàng
hoá khác được tính trên cơ sở giá ngưỡng và hàng sẽ không bị đánh thuế nếu giá

giảm xuống dưới mức giá ngưỡng đưa ra. Tháng 8/2000, chính phủ cho phép một số
nhà xuất khẩu dầu cọ xuất khẩu dầu cọ thô miễn thuế để giảm bớt lượng dự trữ dư
thừa và đẩy giá lên. Chính phủ đã điều chỉnh mức thuế xuất khẩu các sản phẩm gỗ
cây – xoá bỏ thuế hoàn toàn cho một số loại – để khuyến khích xuất khẩu trong thời
gian kinh tế khó khăn. Tuy nhiên, xuất khẩu gỗ, cao su vẫn phải theo hạn ngạch.
Biểu thuế CEPT từ 0-5% được thực hiện vào năm 2003. Hiện nay,Malaysia có
96,6% dòng thuế cho các mặt hàng được đưa vào CEPT, trong đó 97,1% đã ở mức
0%-5%; 60,4% đang ở mức 0%.
Mức thuế MFN được áp dụng trung bình là 9,29%. Nguyên vật liệu và máy móc
sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu thuế nhập khẩu và thuế bán
hàng. Malaysia cũng miễn thuế cho máy móc và thiết bị trong nước không sản xuất
được. Trong đó 17% số dòng thuế của Malaysia (bao gồm các ngành: thiết bị xây
12


dựng, nông sản, khoáng sản và phương tiện vận tải) chịu chế độ giấy phép nhập khẩu
không tự động. Malaysia đã áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 1 số mặt hàng
nhập khẩu.


Các công cụ biện pháp phi thuế quan:

Malaysia tuân theo Hệ thống Thuế hài hòa (Harmonized Tariff Schedule - HTS)
để phân loại hàng hóa. Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa, thường được gọi
tắt là hệ thống hài hòa hoặc hệ thống HS, là hệ thống được tiêu chuẩn hóa quốc tế về
tên gọi và mã số để phân loại hàng hóa được buôn bán trên phạm vi toàn thế giới
của Tổ chức hải quan Thế giới.
Kể từ tháng 1/2004, Chính phủ Malaysia đã bãi bỏ các quy định về tỉ lệ nội địa hóa
do trái với các qui định của Hiệp định TRIMS. Malaysia cũng phản đối các hình thức
bảo hộ trá hình của các nước phát triển, như các vấn đề về Tiêu chuẩn Lao động, Quy

chế đầu tư, Chính sách Cạnh tranh, Chương trình mua sắm Chính phủ, đồng thời áp
dụng điều kiện kĩ thuật (có giấy chứng nhận Halal- thịt thú vật bị giết theo luật Hồi
giáo) đối với nhập khẩu gia súc, gia cầm và các sản phẩm từ gia súc, gia cầm nhưng
không hạn chế số lượng.
Một số quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật đối với hàng hóa, dịch vụ phải tuân theo để
được lưu hành trên thị trường Malaysia:
Quy định về tiêu chuẩn đối với hàng hóa dịch vụ: Để có thể lưu hành trên thị
trường, một số loại sản phẩm cuối cùng (End-products) bắt buộc phải có các loại giấy
phép chứng nhận do Bộ Y Tế Malaysia (Ministry Of Health) cấp.
Quyền sở hữu trí tuệ: Quyền sở hữu trí tuệ (IPR) được đề cập đến trong Đạo luật mô
tả thương mại năm 1972, Luật bằng sáng chế năm 1983, Luật bản quyền năm 1987
và Luật mẫu mã công nghiệp năm 1996. Năm 2000, Chính phủ Malaysia đã thông
qua nhiều luật mới và sửa đổi các luật hiện hành nhằm tăng cường chính sách bảo vệ
sở hữu trí tuệ của Malaysia và phù hợp với quy định của WTO liên quan đến Hiệp
định bảo vệ sở hữu trí tuệ (TRIPs).
Quy định về bao bì đóng gói, nhãn mác như: CE (European Conformity) là nhãn
hiệu bắt buộc đối với hàng hóa (theo quy định) và được coi là hộ chiếu thương mại
vào thì trường EU. Trước hết, CE chú trọng đến vấn đề an toàn cho người tiêu dùng
và bảo vệ thiên nhiên hơn là đến chất lượng của sản phẩm, CE là bắt buộc đối với các
sản phẩm tại 25 nước EU.
2.2.Kết quả đạt được:
2.2.1.Kim ngạch xuất nhập khẩu:
Hình 2.1.Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia giai đoạn 1995-2015
13


(tỷ RM)
Nguồn: 1-million-dollar-blog.com
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia đã tăng gần 2 lần (tương đương 86.9%)
sau 20 năm (từ năm 1995 đến năm 2015). Đã có những bước nhảy vọt đáng chú ý

vào thời điểm năm 1995 khi kim ngạch XNK (784 tỷ RM) tăng hơn 2,5 lần chỉ trong
vòng 1 năm (năm 2014 kim ngạch XNK đạt 308 tỷ RM), đây thực sự là một thành
tựu đáng nể mà các nước có thể học hỏi. Tính đến hết năm 2015, kim ngạch XNK
của Malaysia đạt gần 1,466 nghìn tỷ RM, tăng 1.2% so với năm 2014 (1449 nghìn tỷ
RM). Đây là năm thứ 9, thương mại Maylaysia đã vượt mức 1 nghìn tỷ RM.
Từ những năm 2005 Malaysia đã có thặng dư trong cán cân thanh toán quốc tế,
trong những năm trước tình trạng nhập siêu phổ biến và thâm hụt khá sâu, mức thặng
dư này được duy trì từ thời gian đó đến nay và mức thặng dư khá cao, luôn duy trì
trong khoảng 80 đến 100 tỷ RM, xấp xỷ 26 tỷ USD, đây là mức thặng dư rất ấn tượng
khi mà trước đó khoảng chục năm Malaysia vẫn là nước nhập siêu trong thời gian
dài.
a)

Xuất khẩu
Malaysia đã có những bước chuyển mình đáng kể từ những năm 70 thế kỉ trước chỉ
đơn giản xuất khẩu chủ lực các nguyên liệu thô như cao su, thiếc,...và đến nay đã là
một trong nước nước xuất khẩu mạnh nhất trong khu vực với cơ cấu mặt hàng đa
dạng.
Hình 2.2.Kim ngạch xuất khẩu của Malaysia giai đoạn 2000-2015 (tỷ RM)

Nguồn: 1-million-dollar-blog.com
Kim ngạch xuất khẩu của Malaysia tăng mạnh và đều trong các năm 2001 đến
2008, tác động của các hiệp định tự do hóa thương mại là khá rõ ràng, thị trường xuất
khẩu được mở rộng sang các thành viên của các tổ chức thương mại Malaysia tham
gia như WTO. Năm 2009, chịu tác động nặng nề của khủng hoảng kinh tế thế giới,
kim ngạch có bước xụt giảm đáng chú ý nhất trong giai đoạn 15 năm từ 2000 đến
2014, nhưng ngay sau đó, bằng những biện pháp can thiệp kịp thời và theo xu thế
phục hồi chung, kim ngạch xuất khẩu Malaysia lại tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và
chưa có dấu hiệu bị chững lại, đạt 766 tỷ RM vào năm 2014. Xuất khẩu của Malaysia
tiếp tục tăng 1,9% so với năm 2014 mặc dù môi trường kinh tế khó khăn, đạt 779,95

tỷ RM năm 2015.
Đối tác xuất khẩu chính của Malaysia.
14


Hình 2.3: Những đối tác xuất khẩu lớn nhất của Malaysia (năm 2015)

Nguồn: www.miti.gov (Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Malaysia)
Những bạn hàng chính đóng góp cho tăng trưởng thương mại của Malaysia trong
nhiều năm chính là các nước ASEAN. Bên cạnh đó là các quốc gia Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hoa Kỳ, các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), Ấn
Độ ,…Trong năm 2015, đối tác xuất khẩu lớn nhất của Malaysia là Singapore
(13.9%), tiếp đến là Trung Quốc (13.0%), Nhật Bản xếp thứ 3 (9.5%)...
Mặt hàng xuất khẩu chính của Malaysia
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Malaysia tronh nhiều năm mang lại nguồn
ngoại tệ lớn cho đất nước này là các mặt hàng điện điện tử, sản phẩm hóa học, các
sản phẩm từ dầu mỏ, khí gas hóa lỏng, dầu dừa.

15


Hình 2.4: Kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của Malaysia năm 2014 và
2015

Nguồn: www.miti.gov (Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Malaysia)
Năm 2015, kim ngạch của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Malaysia bao gồm:
sản phẩm điện tử, chế phẩm xăng dầu tăng so với năm 2014; trong khi kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm hóa học, khí ga hóa lỏng, dầu lá cọ giảm so với năm 2014.
b)


Nhập khẩu.
Hình 2.5: Kim ngạch nhập khẩu của Malaysia giai đoạn 2000-2015 (tỷ RM )
Nguồn: 1-million-dollar-blog.com
Kim ngạch nhập khẩu của Malaysia có xu hướng thay đổi khá giống với kim ngạch
xuất khẩu, tuy nhiên ở mức tăng chậm hơn so với kim ngạch xuất khẩu. Chính sự
khác biệt về tốc độ tăng về kim ngạch xuất và nhập, đã tạo nên thặng dư cán cân
thanh toán khá lớn vào những năm từ những năm 2005.
Đối tác xuất khẩu chính của Malaysia
16


Hình 2.6 : Những đối tác nhập khẩu của Malaysia (năm 2015)

Nguồn: www.miti.gov (Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Malaysia)
Top 5 nước chiếm thị phần cao trong nhập khẩu của Malayasia năm 2015 gồm:
Trung Quốc 18.9%, Singapore 12,0%, Nhật Bản 7,8%, Mỹ 8,1%, Thái Lan 6,1%.
Đây là những quốc gia truyền thống mà Malaysia nhập khẩu hàng hóa.
Mặt hàng nhập khẩu chính của Malaysia.
Những mặt hàng nhập khẩu chính của Malaysia là các sản phẩm điện , điện tử; các
sản phẩm hóa học; sản phẩm từ dầu mỏ, linh kiện máy móc, kim loại...

Hình2.7: Kim nghạch nhập khẩu một số mặt hàng chính của Malaysia năm 2014 và
2015

17


Nguồn: www.miti.gov (Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Malaysia)
Trong năm 2015, kim ngạch xuât khẩu các mặt hàng xăng dầu, điện và điện tử, hóa
chất và các sản phẩm hóa chất, linh kiện điện tử, kim loại công nghiệp tăng so với

năm 2014…còn lại mặt hàng sản phẩm chế phẩm từ dầu mỏ giảm đáng kể so với năm
2014.
c)

Cán cân thương mại của Malaysia
Xuất khẩu tăng trưởng nhanh hơn nhập khẩu trong năm 2015 dẫn đến thặng dư
thương mại cao hơn 94.29 tỷ RM, đại diện cho thành tựu của năm thứ 18 liên tiếp của
thặng dư thương mại của Malaysia. Thặng dư thương mại đạt mức tăng trưởng hai
con số 14,3%.

Hình 2.8: Biểu đồ tình hình thương mại của Malaysia trong 2 năm 2014 và 2015
18


Nguồn: www.miti.gov (Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Malaysia)
Tóm lại: Các chính sách thương mại quốc tế của Malaysia đã có tác động đáng kể
tới thương mại nước này:
Việc

chuyển hướng từ xu hướng bảo hộ sang nâng đỡ thương mại đã khuyến khích
các doanh nghiệp Malaysia nghiên cứu, đổi mới công nghệ đầu tư cho xuất
khẩu... dẫn đến các mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng, chất lượng ngày
càng cao.
Malaysia hướng đầu tư vào công nghiệp chế tạo, phát triển các mặt hàng chứa
hàm lượng chất xám cao. Những mặt hàng này, đến nay đã có những vị thế nhất
định trên trường quốc tế (viễn thông, điện và điện tử, ô tô,...). Thay vì xuất khẩu
sản phẩm tự nhiên, sản phẩm thô, tài nguyên thiên nhiên như trước, Malaysia tập
trung phát triển xuất khẩu các mặt hàng đã tinh chế , chế biến mang lại hiệu quả
cao hơn.
Malaysia đã chú trọng mở rộng quan hệ thương mại với nhiều quốc gia, nhiều vùng

lãnh thổ trên thế giới bằng cách tham gia nhiều tổ chức, ký kết các hiệp định
thương mại, hiệp định kinh tế song phương, đa phương...
2.3 Bài học rút ra đối với Việt Nam.
Với những chính sách TMQT của Malalaysia đã để lại những bài học cho việc
hoạch định chính sách TMQT của VN vô cùng quý báu:
19


Thứ nhất, Việt Nam đã xác định rõ các mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù hợp với
từng thời kỳ phát triển của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để càng
nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Trong đó đặc biệt chú ý đến việc khẳng định thương hiệu sản phẩm trên thị trường.
Hiện nay, chính phủ Việt Nam đã có chương trình “Phát triển thương hiệu quốc gia”
nhưng chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn. Tự bản thân các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu cũng như doanh nghiệp phân phối hàng ra nước
ngoài đều cần phải có những biện pháp tích cực thực hiện chiến lược khẳng định
thương hiệu của mình.
Thứ hai, Malaysia là một trong những nước rất thành công trong việc xây dựng và
phát triển các khu chế xuất cũng như khu mậu dịch tự do. Một trong những nguyên
nhân là quốc gia này có ngành công nghiệp phụ trợ phát triển. Trong khi đó, Việt
Nam hiện nay chưa phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, chưa quy hoạch các
khu chế xuất, chính sách thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều
so với các nước láng giềng như Malaysia. Theo số liệu chưa hoàn chỉnh của Cục Phát
triển Công nghiệp Malaysia (MIDA), tính tới đầu năm 2010, có khoảng 1.000 doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ tại Malaysia hoạt động trong ngành gia công cơ khí, khuôn
mẫu, dập kim loại, xử lý nhiệt và mạ, ngoài ra có thêm khoảng 2.000 doanh nghiệp
chế tạo kim loại. Hầu hết các doanh nghiệp này phục vụ cho ngành công nghiệp ô tô
hoặc điện/điện tử (E&E). Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vẫn là các sản phẩm thô, độ
tinh chế thấp. Học tập Malaysia, Việt Nam có thể phát triển các ngành công nghiệp
phụ trợ, từ đó xây dựng nên các khu chế xuất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát

triển nền kinh tế quốc gia.
Thứ ba, với điều kiện hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm từ
Malaysia trong việc xây dựng hệ thống các kho chứa hàng miễn phí, đáp ứng nhu cầu
cấp thiết trong việc mua-bán hàng hoá với các nước khác. Các kho này sẽ là nơi bảo
quản hàng hoá, đảm bảo chất lượng sản phẩm (đặc biệt hữu dụng trong trường hợp
hàng xuất khẩu đang chờ xuất hoặc bị trả lại do không đáp ứng được tiêu chuẩn chất
lượng từ phía đối tác). Nhờ vậy sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí lớn, giúp tăng lợi
nhuận cho các doanh nghiệp.
Thứ tư, hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại (XTTM) của Việt Nam hiện nay
đầy đủ, có thể phân ra là tổ chức XTTM của chính phủ, phi chính phủ và của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế các tổ chức này lại chưa có sự gắn kết chặt chẽ
với nhau, các hoạt động mới chủ yếu tập trung vào việc cung cấp thông tin, giới thiệu
sản phẩm. Nhìn vào Malaysia, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm như tăng cường
sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường, cần mở
thêm các văn phòng đại diện, các trung tâm thương mại tại nước ngoài, tích cực tìm
20


hiểu tập quán thương mại của đối tác. Về hoạt động của tổ chức XTTM, cần mở rộng
thêm như dịch vụ tư vấn, tìm kiếm các khách hàng, các thị trường tiềm năng.
3. Chính sách đầu tư quốc tế của Malaysia.
3.1
a)


Giai đoạn 1970-1980.
Mô hình chính sách
Khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng cho sự phát triển các ngành




công nghiệp của Malaysia.
Hỗ trợ cho quá trình xây dựng các công ty và tập đoàn kinh tế lớn trong nước để phục



vụ cho phát triển xuất khẩu.
Dựa vào các công ty xuyên quốc gia nước ngoài để phát triển hoạt động của các công
ty Malaysia. Đồng thời hình thành những công ty lớn đại diện cho các công ty nhỏ

b)


làm ăn với các công ty xuyên quốc gia.
Nội dung chính sách
Khuyến khích thu hút FDI vào các ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu và sử



dụng nhiều lao động như lắp ráp điện tử, dệt may…
Đối tác đầu tư chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản,

c)

EU…
Công cụ, biện pháp thực hiện
Ban hành Luật ưu đãi đầu tư (năm 1968), dựa trên các tiêu chí về tổng vốn đầu tư
lớn và tạo việc làm.
Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài theo thông lệ quốc




tế:
Chính phủ cam kết không trưng thu và quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư nước
ngoài
• Cho phép nhà đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước
• Miễn giảm thuế cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh
nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu
• Giảm thuế thu nhập đến mức 5% đối với các công ty mà vốn đầu tư của các nhà đầu



tư trong nước chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên.
• Miễn thuế nhập khẩu các yếu tố đầu vào phục vụ xản xuất
Chính phủ thực hiện cung cấp vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động của các công
ty có vốn đầu tư nước ngoài đối với trường hợp các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
sản xuất chủ yếu sử dụng nguyên liệu nội địa và lao động trong nước phục vụ cho



việc xuất khẩu (chiếm trên 50% tổng chi phí).
Chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn đạt tỷ lệ trên 50% đối với các dự
án sản xuất hàng xuất khẩu và sử dụng yếu tố đầu vào chủ yếu là nhập khẩu.
21




Chính phủ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực dựa vào vốn ODA,
vốn chính phủ, vốn huy động trên trên thị trường chứng khoán, vốn của doanh


3.2
a)


nghiệp…
Giai đoạn 1980 đến nay.
Mô hình chính sách
• Khu vực FDI định hướng xuất khẩu
Kết hợp giữa chính sách khuyến khích thu hút FDI và từng bước tạo điều kiện thuận



lợi cho các công ty trong nước đầu tư ra nước ngoài
Nội dung chính sách
• Khuyến khích thu hút FDI vào phát triển công nghiệp chế tác
Khuyến khích thu hút FDI cho các dự án có công nghệ, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội

c)


địa hóa cao, có liên kết công nghiệp
• Đối tác đầu tư đã được mở rộng sang các nước trong khu vực
Công cụ, biện pháp
Năm 1986, Luật khuyến khích đầu tư được ban hành thay cho Luật ưu đãi đầu tư năm




1968.

Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích thu hút FDI của giai đoạn trước.
Thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp lần thứ nhất (1985 – 1995), thực

b)

hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu, khuyến khích các dự án tạo việc làm, đầu tư


mở rộng, cải thiện cơ cấu ngành công nghiệp và phát triển các khu vực nông thôn.
Thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển công nghệ lần thứ hai (1996 – 2005), hướng
tới các ngành công nghiệp chế biến, phát triển cụm công nghiệp, xây dựng tập đoàn
phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, thành lập công viên công nghệ và tập trung vào



phát triển nguồn nhân lực.
Tăng cường vai trò hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại với việc thực hiện
kết hợp giữa xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư các hoạt động cung cấp thông tin
và tư vấn đầu tư trong việc lựa chọng quy mô dự án, lĩnh vực, ngành và thị trường







đầu tư.
Tăng cường đầu tư cho cở sở hạ tầng, phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Phát triển nguồn nhân lực trong nước.
Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.

Cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua bất động sản đăng kí tên mình.
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán để hỗ trợ tích cực cho việc phát triển



quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài đặc biệt là thực hiện chính sách tư nhân hóa.
Chính phủ tích cực kí kết các hiệp định hợp tác kinh tế song phương và đa phương
đảm bảo đầu tư với chính phủ nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty

22


của Malaysia đầu tư ra nước ngoài: tránh đánh thuế hai lần, minh bạch hóa thông


tin…
Tính đến nay, các FTAs mà Malaysia đã kí kết bao gồm: AFTA, FTA của ASEAN
với Úc, New Zeland, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc; FTA song phương

3.3
a)

với Nhật Bản, Ấn Độ, New Zeland, Pakistan, Úc; TPP,…
Thực trạng đầu tư quốc tế của Malaysia.
Đầu tư ra nước ngoai của Malaysia.
Các công ty của Malaysia đã bắt đầu đầu tư ra nước ngoài từ những năm 70, tuy
nhiên chỉ từ đầu thập kỉ 90, dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của nước này mới thật sự
trở thành điểm đáng chú ý của nền kinh tế nước này
Năm 2005: Malaysia đang nổi lên như là nhà đầu tư lớn thứ 5 trong số các quốc gia
đang phát triển của khu vưc châu Á (UNCTAD 2005) do nền kinh tế Malaysia đã có

được những phát triển ấn tượng trong một thời gian tương đối, trở thành một trong
những quốc gia phát triển nhất Đông Nam Á, mức sống của người dân Malaysia tăng
rõ rệt và tất nhiên đi cùng với đó là chi phí lao động tăng cao. Hơn nữa chính phủ
nước này cũng có những chính sách khuyến khích các công ty trong nước đầu tư
chiếm lĩnh những thị trường mới. Đặc biệt ttrong thời gian nhiệm kì của thủ tướng
Mahathir, người đã từng là một tiến sĩ kinh tế, ông đã kêu gọi các doanh nghiệp của
Malaysia phải “Di chuyển ra nước ngoài – Mở rộng quy mô – Thay đổi công nghệ
cao”. Chính phủ Malaysia cũng khuyến khích cả công ty nhà nước và công ty tư nhân
phải biết tận dụng cơ hội nhanh chóng đi tìm các dự án đầu tư ra nước ngoài với lợi
nhuận cao.
Nguồn đầu tư ra nước ngoài của Malaysia luôn được xếp hạng khá cao trên bản đồ
thế giới .Ta có thể thấy Malaysia luôn nằm trong top 50 nước có lượng vốn đầu tư ra
nước ngoài cao nhất thế giới. Điều này là một bước tiến lớn đối với một nước đang
phát triển như Malaysia trong quá trình nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh chiếm
lĩnh thị trường của các công ty trong nước.
Tổng lợi nhuận, cổ tức đổ về các công ty tại Malaysia khi đầu tư tại nước ngoài đã
tăng từ 0,4 tỷ RM năm 1999 lên đến 4,1 tỷ RM năm 2005. Năm 2012, đầu tư ra nước
ngoài đóng góp 25,2% vào GDP của Malaysia.
23


Dòng OFDI của Malaysia đã tăng từ: 0,45 tỷ RM trong năm 1980 lên đến 10,41 tỷ
RM năm 1997 và đạt tới 36,7 tỷ RM năm 2007. Lần đầu tiên trong năm 2007, dòng
vốn đầu tư ra nước ngoài của Malaysia cao hơn dòng vốn thu hút vào trong nước.
Trong năm 2011, Malaysia đã đầu tư ra nước ngoài 46,69 tỷ RM.
Trong 3 tháng đầu năm 2012, lượng OFDI của Malaysia đạt 16,91 tỷ RM.
b)

Đầu tư nước ngoài vào Malaysia.
Theo UNCTAD 2015 Báo cáo đầu tư thế giới, Malaysia là quốc gia tiếp nhận vốn

FDI lớn thứ năm trên thế giới. Malaysia cũng là một trong số 15 quốc gia được ưa
chuộng nhất của các công ty đa quốc gia trong 2015 - 2017. Sau khi đạt mức kỷ lục
trong năm 2013, dòng vốn FDI giảm xuống 10,799 triệu USD trong năm 2014
(12,155 triệu USD trong năm 2013).
Các nhà chức trách Malaysia muốn biến quốc gia này trở thành cửa ngõ vào thị
trường ASEAN, bằng cách đất nước này cung cấp nhiều ưu đãi cho các công ty
nước ngoài và thực hiện cắt giảm thuế liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh đó,
những lợi thế của Malaysia còn tới từ lực lượng lao động có tay nghề cao và có
trình độ tiếng Anh tốt.
Lượng FDI thu hút vào Malaysia:
Hình 3.3. FDI đầu tư vào Malaysia giai đoạn 1990 – 2012

Có thể thấy rằng, cùng với việc đẩy mạnh dòng vốn OFDI ra nước ngoài thì
Malaysia cũng áp dụng những biện pháp phù hợp để thu hút lượng FDI vào.
24


FDI vào Malaysia giai đoạn 1990 – 2012 tuy sự biến động cả về dòng vốn lẫn chứng
khoán do khủng hoảng kinh tế nhưng nhìn chung vẫn tăng, dòng vốn tăng từ 2,4 tỷ
USD năm 1990 lên 10 tỷ USD năm 2012.
Năm 2013, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Malaysia lên tới 38,774 tỷ
RM (tương đương 12 tỷ USD). Đây cũng mức vốn FDI lớn nhất tại Malaysia từ trước
tới nay, vượt mức kỷ lục 37,325 tỷ RM (tương đương 11,17 tỷ USD) hồi năm 2011.
Sơ bộ năm 2014, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 64,6 tỷ RM, chiếm hơn 27%
tổng vốn đầu tư.
Ngành thu hút đầu tư.
Malaysia thu hút lượng vốn đầu tư chủ yếu vào các ngành dịch vụ, sản xuất và một
số lĩnh vực chủ chốt.
Theo báo cáo của Eurostat, năm 2013, FDI vào Malaysia chủ yếu tập trung vào các
ngành xương sống của nền kinh tế như sản xuất (chiếm 37,6%), dịch vụ (28,8%) và

khai khoáng (28,7%).
Sang đến năm 2014, dịch vụ đạt tỷ lệ thu hút đầu tư cao nhất, hơn 63%, tiếp theo là
ngành sản xuất 30,5% và một số lĩnh vực chủ chốt như: khai thác mỏ, nông nghiệp
và sản xuất hàng hóa, với tổng vốn đầu tư trên 6% (14,4 tỷ RM).
Các quốc gia đầu tư chính vào Malaysia.
Hiện nay, Nhật Bản vẫn là nhà đầu tư FDI lớn nhất của Malaysia. Tính đến cuối
năm 2014, trong tổng số 64,6 tỷ RM thì dẫn đầu là Nhật Bản chiếm gần 11 tỷ RM với
55 dự án, tiếp theo là Singapore (7,8 tỷ RM, 121 dự án), Trung Quốc (4,8 tỷ RM, 24
dự án), Đức (4,4 tỷ RM, 13 dự án) và Hàn Quốc (1,5 tỷ RM, 11 dự án).
3.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ nhất, chú trọng phát triển các công ty đa quốc gia. Đây là một hướng đi rất
đúng đắn của Malaysia. Việt Nam nên học tập điều này vì nó góp phần đặc biệt quan
trọng vào quá trình cải thiện trình độ kỹ thuật, máy móc công nghệ tiên tiến từ các

25


×