Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Âm nhạc sử dụng trong trị liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.61 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Môn: Tâm lý học lâm sàng

******

BÀI KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI: ÂM NHẠC SỬ DỤNG TRONG TRỊ LIỆU

Giảng viên hướng dẫn: BS. Lâm Hiếu Minh
Nhóm thực hiện: nhóm 3

Thành phố Hồ Chí Minh tháng 4 năm 2016

1


Danh sách thành viên
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10


Họ và tên
Trần Ngọc Băng Tâm
Võ Quang Công
Đào Xuân Sơn
Nguyễn Thái Nguyên
Đặng Thị Diễm Hằng
Võ Ngọc Hoàng Doanh
Trần Văn Tài
Tạ Thị Mỹ Hồng
Thái Thị Kiều Loan
Nguyễn Thiện Hân

MSSV
131A100088
131A100010
131A100029
131A100074
131A100078
131A100082
131A100086
131A100089
131A100105
131A100110

Điểm

2


Mục lục

A. Mở bài ........................................................................................................................ 1
B.Nội dung...................................................................................................................... 3
I.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LIỆU PHÁP ÂM NHẠC.............................................. 3
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ......................................................................................... 3
Liệu pháp âm nhạc trong các nền văn hóa tiền văn tự ........................................... 3
Âm nhạc và chữa bệnh trong nền văn minh sớm ................................................... 4
Sử dụng âm nhạc thời cổ đại: các nghi thức chữa bệnh ......................................... 5
Âm nhạc và chữa bệnh trong thời trung cổ và thời kỳ phục hưng ......................... 6
Âm nhạc và chữa bệnh thời cận đại ....................................................................... 7
Sự phát triển liệu pháp âm nhạc chuyên nghiệp ..................................................... 8
II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ ÂM NHẠC VÀ Y HỌC.............................................. 9
Lý thuyết về sự rung động trong thế giới vi mô và vĩ mô .................................... 10
Y học khí chất ....................................................................................................... 11
Học thuyết bản chất tinh thần ............................................................................... 12
Âm nhạc và tinh thần ............................................................................................ 12
Sự phục hồi nhửng ý tưởng cổ điển qua vật lý lượng tử ...................................... 13
III. NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ LIỆU PHÁP ÂM NHẠC .................................... 14
Liệu pháp âm nhạc là gì? ...................................................................................... 14
IV. CÁC CÁCH TIẾP CẬN TÂM LÝ ĐƯỢC DÙNG TRONG LIỆU PHÁP ÂM
NHẠC ................................................................................................................... 16
V. Ý NGHĨA CỦA ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU TRỊ ......................... 21
Âm nhạc là một tác nhân điều trị.......................................................................... 22
Âm nhạc và những hiệu lực siêu tự nhiên ............................................................ 23
Âm nhạc là một sự diễn tả cảm xúc...................................................................... 24
Âm nhạc trong các thể chế xã hội ........................................................................ 25
Lợi ích của liệu pháp âm nhạc .................................................................................. 26
Liệu pháp âm nhạc có thể vận dụng đối với những người kém phát triển về tâm
thần, mất khả năng học hỏi. .................................................................................. 28
3



Âm nhạc làm sống lại ký ức ................................................................................. 29
Bạn sẽ chọn cho mình loại nhạc nào? .................................................................. 31
ỨNG DỤNG LIỆU PHÁP ÂM NHẠC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN TÂM
THẦN Ở VIỆT NAM ............................................................................................... 33
Một số kỹ thuật trị liệu âm nhạc ở việt nam ......................................................... 36
Kỹ thuật hòa tấu nhạc cụ Tây Nguyên ................................................................. 36
Hướng dẫn nhạc cụ cá nhân.................................................................................. 38
BIỂU DIỄN HÁT TẬP THỂ ................................................................................ 38
Một số hình thức hát tập thể ................................................................................. 39
Hướng dẫn hát cá nhân ......................................................................................... 39
Phương pháp ứng tác hò nam bộ .......................................................................... 40
Kết luận......................................................................................................................... 42
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 44

4


A. Mở bài
Âm nhạc là biểu hiện sự vui vẻ của con người, khi người ta vui, người ta ca hát.
Vì âm nhạc là phương tiện biểu lộ cảm xúc của con người mà con người thì không
phải lúc nào cũng vui, vì thế người ta lại chế ra loại nhạc để hát trong lúc buồn. Vậy là
âm không những xuất hiện khi người ta vui mà còn có mặt khi người ta buồn. Âm
nhạc lại trở thành một phương tiện nữa để con người bộc lộ sự đau khổ, tuyệt vọng, cô
đơn, hờn giận, than phận, trách thân…. Âm nhạc giúp con người bộc lộ những cảm
xúc của mình.
Trong cuộc sống, không phải tất cả mọi điều chúng ta gặp phải đều tốt đẹp.
Chúng ta vui mừng, hân hoan khi gặp những điều tốt. Còn gặp những điều xấu, điều
không như ý, chúng ta có những cảm xúc tiêu cực, và những vấn đề trong tâm lý con
người nảy sinh khi chúng ta có nhiều thứ cảm xúc và suy nghĩ xáo trộn trong tâm lý

và gây ảnh hưởng tới sức khỏe cũng như cuộc sống .
Khi các vấn đề về tâm lý xuất hiện, phần lớn chúng ta bước đầu tiên sẽ chọn
chính là tìm đến những nhà tư vấn không chính thức hoạt động trong một hoàn cảnh
không bình thường. Nhiều người trong chúng ta thì quay sang nhờ sự trợ giúp từ các
thành viên trong gia đình, hay từ những người bạn thân thiết, một bác sĩ riêng, các luật
sư hoặc một giáo viên nào đó để có được sự trợ giúp, hướng dẫn và tư vấn.
Những ai theo tôn giáo thì tìm đến sự chỉ dẫn từ các giáo sĩ. Một số người khác
có được lời khuyên và cơ hội nói chuyện khi tâm sự với người nào đó sẵn lòng nghe
họ bày tỏ mặc dù giữa họ có mối quan hệ quen biết hay không.
Trong xã hội của chúng ta, những liệu pháp không chính thức này giảm bớt
phần lớn gánh nặng hằng ngày, giảm bớt sự bối rối và xung đột. Khi các vấn đề xảy ra
được bó hẹp trong một phạm vi, các nhà trị liệu không chính thức thường có thể giúp
đỡ.
Ngày nay, có nhiều người tìm đến các liệu pháp hơn trước kia, đặc biệt người
ta thường quay sang và tìm đến những chuyên gia sức khỏe tâm thần được đào tạo khi
các vấn đề về tâm thần của họ trở nên nghiêm trọng hay kéo dài.
1


Các cách trị liệu khác nhau được tiến hành trong nhiều bối cảnh : các bệnh viện,
phòng khám, trường học, phòng tham vấn ….
Hiện nay có rất nhiều các liệu pháp điều trị các rối loạn tâm lý và cũng có
nhiều lý do khiến một số người tìm đến sự giúp đỡ. Kết quả của mục đích trị liệu,
những bối cảnh điều trị và các dạng trị liệu cũng thay đổi. Tuy nhiên, cho dù có sự
khác biệt giữa các liệu pháp, nhưng tất cả đều nhằm một mục đích là can thiệp đến
cuộc sống của một người. Được tạo ra để thay đổi hoạt động cá nhân theo một cách
nhất định. Nhưng điều quan trọng nhất khi bạn bước vào một tiến trình điều trị, bạn
nên tin rằng mình có thể mình có thể thiết lập sự hợp tác điều trị vững vàng với
chuyên gia liệu pháp.
Các liệu pháp tâm lý học được gọi chung là trị liệu tâm lý, tập trung vào việc thay đổi

những hành vi không phù hợp mà con người đã học được: ngôn ngữ, suy nghĩ, hiểu
biết và sự hồi đáp chỉ đạo các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống. Các liệu pháp
này được các nhà tâm lý học lâm sàng cũng như các bác sĩ tâm thần thực hiện. Có bốn
cách điều trị chính bằng tâm lý: tâm lý động học, hành vi, nhận thức và sinh tồn nhân
văn.
Và tại đây chúng ta cùng tìm hiểu một liệu pháp mới được các nhà trị liệu sử
dụng: “Liệu pháp âm nhạc”.

2


B.Nội dung
I.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LIỆU PHÁP ÂM NHẠC
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ
Từ thời cổ xưa, âm nhạc đã được dùng làm một phương tiện chữa bệnh. Những
nghi thức chữa bệnh bao gồm âm thanh và âm nhạc đã tồn tại ở nhiều nền văn hóa.
Trong hầu hết các nên văn hóa đã ghi lại những huyền thoại về hiệu lực chữa bệnh của
âm nhạc. Ví dụ, truyện về Saul và David là truyện nổi tiếng nhất ở phương Tây. David
đã dùng đàn hạc (harp) để chữa bệnh cho vua Saul như một loại thuốc an dịu thần
kinh. Một nhân vật khác, Orpheus cũng là một huyền thoại đầy hấp dẫn cho các nhà
liệu pháp âm nhạc. Orpheus là một trong những đại thi hào, nhạc sĩ thuở sơ khai, thời
Hy Lạp cổ đại. Ông là người sáng tạo và cải tiến đàn lia (Lyre). Tương truyền rắng
những bài hát của Orpheus có thể làm siêu lòng vạn vật và khiến cho đất trời, thần
linh phải rơi lệ. Ngay ở Việt Nam, tiếng đàn của Thạch Sanh khiến cho công chúa
mắc chứng câm đã nói được trở lại cũng là một huyền thoại. Sau đây là tóm lược về
lịch sử của việc sử dụng âm nhạc trong chữa bệnh trên thế giới.
Liệu pháp âm nhạc trong các nền văn hóa tiền văn tự
Các xã hội tiền văn tự là các xã hội chưa có hệ thống giao tiếp, truyền thông
bằng chữ viết. Những người du mục đã tập hợp lại thành những nhóm nhỏ để duy trì
sự sinh tồn và bổ khuyết cho đời sống của họ như săn bắt, tìm kiếm thức ăn. Họ chưa

có nền nông nghiệp, chưa có cấu trúc đời sống chính trị, và chưa có nhà ở lâu dài.
Những nhóm nỏ này dần dần hình thành, phát triển các phong tục tập quán, nghi lễ
khác nhau và điều đó đã tạo ra sự khác nhau giữa các nhóm này với các nhóm khác.
Họ đã nhận thức được rằng ma thuật là một phần không thể thiếu được của sức khỏe
và cuộc sống bình yên của họ.
Những người thuộc nền văn hoá tiền văn tự cũng tin vào hiệu lực của âm nhạc
đối cảm xúc, tinh thần và sức khỏe thể chất. Họ cho rằng âm nhạc là sự kết nối với các
thế lực siêu nhiên. Ví dụ, ở một số xã hội nhất định đã dùng một bài hát trong những
3


nghi lễ quan trọng. Họ cho rằng những bài hát này có nguồn gốc siêu nhiên, siêu
phàm và nó có quyền lực không thể giải thích nổi. Những bài hát này nhằm để cầu trời
hoặc cầu xin sự giúp đỡ thể hiện trong nghi thức chữa bệnh.
Trong một số xã hội tiền văn tự, một người bệnh được xem là nạn nhân của
những câu thần chú và bỏ bùa của kẻ thù địch. Họ là người vô tội và do đó được
hưởng sự điều trị chuyên biệt từ cộng đồng (nhóm bộ lạc). Tuy nhiên ở các xã hội
khác, người ta lại tin rằng một người mắc bệnh là để chuộc lại tội lỗi, đã chống lại
Chúa bộ lạc của họ. Trong các nền văn hoá như vậy, nguyên nhân và điều trị bệnh sẽ
do “người thầy thuốc” xác định và quyết định. “Người thầy thuốc” này chính là những
người luôn áp dụng các yếu tố ma thuật và tôn giáo để ểm bùa, trừ ta ma, xua đuổi
linh thần ác tâm hoặc yêu ma từ cơ thể người bệnh. Loại âm nhạc được dùng chữa
bệnh được xác định tùy thuộc vào bản chất của tinh thần đang xâm lấn cơ thể. Do có
sự khác nhau chút ít về khái niệm bệnh trong xã hội tiền văn tự, vai trò của nhạc sĩ,
người chữa bệnh và kiểu âm nhạc được lựa chọn chữa bệnh có khác nhau. Đôi khi âm
nhạc có chức năng mở đầu cho nghi thức chữa bệnh thực tế. Điều quan trọng là người
nhạc sĩ chữa bệnh không bao giờ hành động đơn lẻ. Các xã hội tiền văn tự nhận thức
được hiệu lực của nhóm bao gồm các thành viên trong gia đình và xã hội trong nghi
lễ. Hát đồng thanh chữa bệnh sẽ tạo ra sự trợ giúp cho tinh thần và cảm xúc để bệnh
nhân phục hồi nhanh chóng.

Âm nhạc và chữa bệnh trong nền văn minh sớm
Những người săn bắt và tìm kiếm thức ăn của nền văn hóa tiền văn tự chiếm
ưu thế khoãng 500.000 năm. Đến khoảng 8.000 đến 10.000 năm trước Công Nguyên,
với sự xuất hiện của nông nghiệp đã dẫn đến cuộc sống ổn định hơn, dân số phát triển
lớn hơn và xuất hiện nên văn minh. Nền văn minh được đặc trưng bởi sự tiến hóa
trong giao tiếp chữ viết, sự phát triển thành phố và những thành tựu kỹ thuật ở các lĩnh
vực bao gồm khoa học và y học. Những đặc trưng đó là phương thức sống cho nhóm
người đông đúc hơn, họ sống trong mối liên minh liên kết lâu dài hơn với hệ thống
đặc biệt về tập quán và cách nhìn vể thiên nhiên. Những nền văn minh đầu tiên xuất
hiện vào giữa năm 5.000 và 6.000 trước Công Nguyên là vùng mà ngày nay là Iraq, đã
được thiết lập vững chắc vào năm 3.500 trước Công Nguyên. Âm nhạc đã trở thành bộ
4


phận quan trọng trong y học lý trí, hợp lý (rational medicine) đồng thời cũng còn
những nghi lễ chữa bệnh ma thuật, tôn giáo
Sử dụng âm nhạc thời cổ đại: các nghi thức chữa bệnh
Với sự xuất hiện của nền văn minh, các bộ phận cấu thành của nền y học trước
đó là ma thuật, tôn giáo và lý trí bắt đầu phát triển theo khuynh hướng chia tách. Ở Ai
Cập cổ đạin người làm nghề chữa bệnh bằng âm nhạc thường được hưởng đặc ân vì
họ có mối quan hệ chặt chẽ với tu sĩ và những quan chức nhà nước quan trọng khác.
Thầy thuốc tu sĩ, thầy tu Ai Cập cho rằng âm nhạc là thuốc chữa bệnh cho linh hồn và
luôn sử dụng hát tụng niệm như một bộ phận thực hành y học.
Trong thời đỉnh cao của văn hóa Babylon (1850 trước Công Nguyên), bệnh tật
được nhìn nhận trong khuôn khổ tôn giáo. Nếu người bệnh có được phép cho điều trị
thì phương pháp điều trị bao gồm các nghi lễ tôn giáo để xoa dịu nỗi khó chịu của
thần thánh. Và các nghi lễ chữa bệnh như vậy luôn bao gồm âm nhạc
Âm nhạc được cho là hiệu lực đặc biệt trên suy nghĩ, cảm xúc và sức khỏe thân
thể ở thời Hy Lạp cổ đại. Năm 600 trước Công Nguyên, Thales có uy tính trong việc
chữa dịch bệnh bằng hiệu lực âm nhạc ở Sparta. Điện, đền thờ và những bài ca tụng

đặc biệt cùng âm nhạc được dùng để chữa bệnh cho những người rối loạn cảm xúc.
Qua việc dùng âm nhạc để chữa các rối loạn tâm thần đã phản ánh niềm tin thời đó
rằng âm nhạc có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cảm xúc và phát triển tính cách. Trong số
những người Hy Lạp nổi tiếng tán thành hiệu lực điều trị của âm nhạc có Aristotle,
ông đánh giá nó như một sự phấn khích cảm xúc; Plato, người mô tả âm nhạc là thuốc
cho linh hồn; Caelius Aurelianus, người cảnh báo đề phòng sử dụng bừa bãi âm nhạc
trong chữa bệnh tâm thần.
Vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, y học hợp lý (lý trí) hầu như đã thay thế
hoàn toàn các nghi thức tôn giáo, ma thuật ở Hy Lap. Mặc dù vẫn còn một thiểu số qui
cho bệnh tất là do lực lượng siêu nhiên, nhưng đa số đả ủng hộ những nghiên cứu hợp
lý vào nguyên nhân bệnh. Lần đầu tiên trong lịch sử, những nghiên cứu về sức khỏe
và bệnh tật đã dựa trên những bằng chứng kinh nghiệm.

5


Một sự giải thích về sức khỏe và bệnh tật chiếm ưu thế thời gian này là lý
thuyết về bốn khí chất chủ yếu. Lý thuyết này được Polybus, con rể của
Hippocrates,mô tả trong luận thuyết của ông về “bản chất con người”, vào khoảng
năm 380 trước Công Nguyên. Bốn khí chất hay dịch thể là máu, đờm, mật vàng và
mật đen, và mỗi nguyên tố chứa chất lượng riêng. Sức khỏe tốt là kết quả của sự duy
trì cân bằng giữa bồn dịch thể, trong khi một sự mất cân bằng của hai hay nhiều hơn
các nguyên tố này sẽ dẫn đến bệnh. Cá nhân mắc bệnh được xem là người cấp thấp
hơn. Cho đến thời kỳ này, chỉ với một sự thay đổi nhỏ quan điểm về bệnh tật, lý
thuyết này đã ảnh hưởng đến y học 2000 năm tiếp theo sau đó, trở thành lý thuyết
quan trọng nhất trong thời cổ đại
Âm nhạc và chữa bệnh trong thời trung cổ và thời kỳ phục hƣng
Mặc dù những sự huy hoàng và tráng lệ của Hy Lạp cổ đại đã bị mất đi trong
thời trung cổ, ở thời kỳ trung cổ này (khảng năm 476-1450 dau Công Nguyên) là đại
diện cho sự kết nối quan trọng giữa cổ xưa và ngày nay. Sau sự sụp đổ của đế quốc La

Mả, đạo cơ Đốc trở thành lực lương chủ yếu của văn minh phương Tây. Ảnh hưởng
của đạo cơ đốc đã thúc đẩy sự thay đổi về bệnh tật. Trái với suy nghĩ trước đó, người
bệnh không còn bị coi là người thấp kém và cũng không phải bị “chúa” trừng phạt.
Khi đạo Cơ Đốc phát triển khắp châu Âu, các xã hội bắt đầu chăm sóc vào điều trị cho
các thành viên ốm đau của họ. Các bệnh viện được thiết lập để cung cấp sự chăm sóc
nhân đạo cho những người đau ốm về cơ thể.
Một số lớn các chính khách và triết gia tin vào hiệu lực chữa bệnh của âm nhạc
trong đó gồm có Boethius, người tuyên bố rằng âm nhạc hoặc làm cải thiện hoặc làm
suy giảm đạo đức con người; Cassiodorus, giống như Aristole, xem âm nhạc như sự
phấn chấn tiềm tàng; trong khi St.Basil biện hộ cho âm nhạc như một phương tiện
truyền bá dương tính cho cảm xúc thiêng liêng thần thánh. Nhiều bài thánh ca được tin
là có tác dụng chống bệnh hô hấp không chuyên biệt nhất định.
Trong thời kỳ Phục hưng, những tiến bộ trong giải phẩu học, sinh lý học và y
học lâm sàng đánh dấu bắt đầu sự tiếp cận khoa học với y học. Tuy nhiên, mặc dù đã
có sự phát triển labo thực nghiệm, việc điều trị bệnh nhân vẫn còn dựa trên bài giảng
của Hippocrates và Galen và những giải thích phức tạp của bốn loại khí chất. Trong
6


thời kỳ này đã có một số lống ghép âm nhạc, y học và nghệ thuật. Ví dụ, những bài
viết của Zarlino, một nhạc sĩ, và Vesahus, một thấy thuốc đề cập đến mối quan hệ
giữa âm nhạc và y học
Trong thời kỳ Baroque (1580-1750), âm nhạc tiếp tục được liên kết với thực
hành y học hàng ngày, như trước đó dựa vào lý thuyết về bốn khí chất. Thêm vào đó,
lý thuyết về khí chất và cảm xúc của Lircher (1602-1680) đã cung cấp quan điểm
trong lành về sử dụng âm nhạc trong điều trị bệnh. Kircher cho rằng đặc tính của con
người gắn kết với kiểu âm nhạc nhất định. Ví dụ, cá nhân trầm cảm đáp ứng với âm
nhạc buồn; người vui vẻ hầu như bị tác động bởi nhạc múa vì nó kích thích máu. Do
đó điều cần thiết là phải lựa chọn những kiểu âm nhạc chính xác điều trị cho từng
người bệnh. Ủng hộ cho việc sử dụng âm nhạc điều trị trầm cảm, Burton đã tuyên bố:

“bên cạnh hiệu lực xuất sắc, nó phải trục xuất nhiều bệnh khác, nó là phương thuốc
thần hiệu chống lại sự tuyệt vọng và trầm uất, và sẽ xua đuổi ma quỉ trong người”.
Shakespeare và Armstrong cũng đã viết nhiều về âm nhạc là liệu pháp, thể hiện trong
các tác phẩm kịch và thơ của họ.
Âm nhạc và chữa bệnh thời cận đại
Cuối thế kỷ 18, âm nhạc vẫn còn được các thầy thuốc châu Âu ủng hộ trong
điều trị bệnh, nhưng đang hình thành sự thay đổi định nghĩa về liệu pháp âm nhạc
trong triết lý, lý luận. Với sự nhấn mạnh nhiều về y học khoa học, âm nhạc đã không
được sử dụng ở những ca bệnh chuyên biệt và chỉ có một số ít thầy thuốc áp dụng điều
trị theo khuôn khổ da liệu pháp. Tuy vậy, những báo cáo về liệu pháp âm nhạc vẫn
xuất hiện ở Mỹ trong suốt cuối thế kỷ 18 khi các thầy thuốc, các nhạc sĩ, các nhà tâm
thần học sử dụng điều trị cho các rối loạn cơ thể và tâm thần.
Trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, liệu pháp âm nhạc được sử dụng đều
đặn ở bệnh viện và một số nơi khác nhưng hầu như luôn kết hợp với các liệu pháp
khác.
Trong đại chiến thế giới 2, liệu pháp âm nhạc được tăng cường sử dụng để
nâng nhuệ khí cho những cựu chiến binh. Âm nhạc cũng được dùng trong phục hồi

7


chức năng cảm xúc, tâm thần và xã hội. Từ giữa thế kỷ 20, liêu pháp âm nhạc được
phát triển mang tính chuyên nghiệp cao ở châu Âu và đặc biệt là ở nước Mỹ.
Sự phát triển liệu pháp âm nhạc chuyên nghiệp
Những năm 1940 , ở nước Mỹ, việc sử dụng âm nhạc trong điều trị rối loạn tâm
thần đã trở nên rộng rãi hơn, một phần vì sự thay đổi dần về triết lý điều trị. Nhiều nhà
trị liệu, bao gồm Karl Menninger, nhà tâm thần học lỗi lạc, bắt đầu bảo vệ cách tiếp
cận điều trị đa liệu pháp (sáp nhập nhiều phương thức điều trị). Với sự thay đổi về
triết lý điều trị như vậy và với kiến thức tăng lên trong việc áp dụng điều trị bệnh nhân
có hiệu quả, liệu pháp âm nhạc cuối cùng đã trở thành một phương thức điều trị được

chấp nhận ở nhiều bệnh viện. Người ta thừa nhận rằng những nổ lực này là do Frances
Paperte, người sáng lập quỹ tài trợ nghiên cứu liệu pháp âm nhạc năm 1944, và sau đó
chỉ đạo áp dụng âm nhạc tại Bệnh viện Đa khoa Waiter Reed ở Washinton. DC.
Trong thế chiến thứ hai, nhiều tổ chức, bao gồm quỹ khẩn cấp cho nhạc sĩ, dịch
vụ âm nhạc bệnh viện cựu chiến binh và nhiều tổ chức khác đã cung cấp các nhạc sĩ
cho các bệnh viện. Những người tình nguyện này đã trợ giúp cho nhân viên bệnh viện
tổ chức các chương trình âm nhạc điều trị cho bệnh nhân.
Nhiều người đã nhận ra rằng tương lai phát triển của nghề phải dựa vào sự lãnh
đạo có hiệu quả của những nhà liệu pháp âm nhạc được đào tạo. Trong năm 1940, các
cơ sở như Trường Đại học Tổng hợp quốc gia Michigan, Đại học Tổng hợp Kannas,
Trường Cao đẳng Âm nhạc Chicago, Cao đẳng Pacific, Cao đẳng Alverno đã bắt đầu
chương trình đào tạo các nhà liệu pháp âm nhạc ở trình độ đại học và sau đại học.
Trong khi những chương trình đào tạo đang được phát triển ở những trường
cao đẳng và đại học, phong trào hướng về thành lập các tổ chức quốc tế cũng xuất
hiện. Hội đồng về âm nhạc trong trị liệu của Hội Giáo viên âm nhạc Quốc gia Mỹ đã
trình bày một chương trình trong những năm 1940 để đào tạo các nhạc sĩ, bác sĩ, các
nhà tâm thần học và những thành viên khác về phương pháp áp dụng liệu pháp âm
nhạc trong nhà trường và trong bệnh viện. Ray Green đã chủ trì một hội nghị để thành
lập Hội liệu pháp âm nhạc quốc gia Mỹ. Hội nghị đầu tiên của tổ chức mới ở Mỹ đã
tiến hành vào tháng 6 năm 1950. Sau đó, Hội quốc gia về Liệu pháp âm nhạc đã liên
8


kết với Hội Giáo viên âm nhạc Quốc gia và hoạt động tập trung vào cải thiện đào tạo
về giáo dục và lâm sàng, cũng như thiết lập tiêu chuẩn và qui trình cho việc chứng
nhận nhà liệu pháp âm nhạc cũng tăng lên.
Vào những năm 1960, các nhà trị liệu âm nhạc đã điều trị âm nhạc cho những
người chậm phát triển tâm thần cả người lớn và trẻ em, những người khuyết tật cơ thể,
và những bệnh nhân giảm cảm giác. Vào năm 1990, đã có hình thức điều trị điều
dưỡng tại nhà cho người cao tuổi, điều trị cho những bệnh nhân bị bệnh nội khoa, và

còn điều trị cho cả những tù nhân. Những năm cuối thế kỷ 20, các nhà liệu pháp âm
nhạc tiếp tục làm việc với các đối tượng lâm sàng khác nhau ngày càng tăng lên. Một
số lượng đáng kể các nhà liệu pháp âm nhạc đã giúp cải thiện cuộc sống của những
người mắc hội chứng Retts, AIDS, lạm dụng chất và giai đoạn cuối cùng của người
bệnh.
Một tổ chức thứ hai, Hội Nước Mỹ về Liệu pháp âm nhạc (AAMT) được thành
lập năm 1971. Rất nhiều mục đích giống như của Hội Quốc gia về Liệu pháp âm nhạc,
nhưng khác nhau về cách thức mà các nhà liệu pháp âm nhạc được đào tạo về lý luận
và lâm sàng. Tháng giêng năm 1998, hai tổ chức Hội Quốc gia về Liệu pháp âm nhạc
và Hội nước Mỹ về Liệu pháp âm nhạc thấy cần phải hợp nhất vào một tổ chức, và
Hội Liệu pháp âm nhạc Mỹ đã ra đời (AMTA)
Từ sự khởi đầu của Hội Quốc gia về Liệu pháp âm nhạc năm 1950, và Hội
Nước Mỹ về liệu pháp âm nhạc năm 1971, sự chuyên nghiệp của liệu pháp âm nhạc
ngày càng phát triển, nhấn mạnh vào tiêu chuẩn cao về giáo dục, đào tạo lâm sàng và
thực hành lâm sàng. Các ấn phẩm giá trị cũng ra đời và có uy tín ở Mỹ như Liệu pháp
âm nhạc, Tạp chí Liệu pháp âm nhạc và Những Viễn cảnh của Liệu pháp âm nhạc,…
Nghề chuyên nghiệp về liệu pháp âm nhạc sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ
21.

II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ ÂM NHẠC VÀ Y HỌC
Đề cập đến lịch sử liệu pháp âm nhạc một cách khoa học, hiệu lực chữa bệnh của âm
nhạc là một chủ đề phổ biến trong các tài liệu về triết lý và lý thuyết âm nhạc từ thời
9


Plato, tuy nhiên các chuyên luận về điều trị bằng âm nhạc một cách nghiêm túc còn có
ít và thất thường trong lịch sử y học. Mãi đến thời trung cổ, Boethius mới trình bày
một chuyên đề nổi tiếng là De Institutione Musica và chuyên để này đã lưu hành khắp
châu Âu. Chuyên đề là một tài liệu yêu cầu sinh viên phải đọc ở Trường Đại học
Quadrivium và nó được đưa vào danh mục khóa trình của sinh viên y khoa. Đây được

coi là lý thuyết về sự tiếp nối giữa âm nhạc và y học.
Lý thuyết về sự rung động trong thế giới vi mô và vĩ mô
Âm nhạc và sức khỏe có một mối liên hệ chặt chẽ, điều này Pythagoras (triết
gia Hy Lạp nổi tiếng khoảng 500 năm trước công nguyên) đã nhận thấy từ 2500 năm
trước, mặc dù những khám phá cơ bản của ông là đơn giản và triết lý của ông cũng
khá khó hiểu. Pythagoras là nhà khoa học nghiêm túc vừa là nhà khoa học thần bí và
cũng làm việc một cách kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông đã nghiên cứu thế giới bao
quanh và có khám phá thú vị đóng góp cho con người và cho nền văn hóa nhân loại.
Ông cũng tìm ra mối quan hệ của các nốt nhạc với ý thức của con người.
Âm nhạc tồn tại dưới dạng vật chất. Một sợi dây đàn sinh ra một âm thanh gọi
là tông (tone) do sự rung động của sợi dây với một tốc độ nhất định. Chúng ta nghe
được âm thanh nốt đó do sợi dây rung động với cùng tốc độ đó. Khi tốc độ rung này
đến tai nghười nghe, sẽ diễn ra quá trình tri giác và ý thức phức tạp trong não và người
nghe kết luận tone đó là nốt gì. Nốt nhạc thật ra la một “quãng hòa thanh” và nó là
một sự thỏa thuận lịch sử.
Những tâm hồn con người khi trải nghiệm (nghe) âm nhạc thì về phương diện
tâm lý học thì sẽ ra sao? Chúng ta cảm nhận được những rung động đã tạo ra nốt nhạc,
nhưng sự tác động qua lại của các nốt nhạc đã tạo thành âm nhạc. Những nốt nhạc và
âm nhạc là “chất lượng”. Khi nghiên cứu sự rung động theo quan điểm chất lượng,
người ta đã khám phá ra rằng sợi dây được chia đôi sẽ sinh ra cùng một nốt nhạc
(đồng âm) nhưng cao hơn một quãng tám (gọi là octave) so với để nguyên sợi dây. Ví
dụ, nốt Đô và nốt Đố là đồng âm nhưng cách nhau một quãng tám. Quãng tám là một
nguyên lý cơ bản của âm học và tâm lý học mà mọi người cảm nhận và trãi nghiệm
được về nó. Giọng hát của nữ và trẻ em cao hơn nam giới một quãng tám. Điều quan
trọng là nếu không có qui luật bản tám thì nam nữ và trẻ em không thể hát chung một
10


dàn hợp xướng. Quãng tám là một hiện tượng của vũ trụ. Âm nhạc, là âm thanh do
con người sinh ra và sắp xếp theo trật tự thời gian, cũng không thể thiếu quãng tám.

Nhưng con người phân khối quãng tám và xếp đặt trật tự các quãng bậc, thang âm
khác nhau, tạo nên các điệu khúc khác nhau. Đây là sự chuyên biệt một cách văn hóa
của các dân tôc.
Với hệ thống âm nhạc phức tạp, con người đã sáng chế ra “các hệ thống giai
điệu”, đã điều chỉnh tỷ lệ quãng tự nhiên theo yêu cầu của thực hành âm nhạc, thông
qua công nghệ dụng cụ đàn. Những ý tưởng của người nghệ nhân làm đàn và sự ưa
thích trong âm nhạc đã “bẻ cong” những qui luật tự nhiên và chuyển dạng chúng vào
trong thực hành âm nhạc.
Pythagoras đã khám phá rằng âm nhạc dựa trên các quy luật của tự nhiên. Ông
tiến thêm một bước nữa, rằng tâm trí của con người có khả năng cảm nhận những rung
động và tỉ lệ âm thanh theo các nốt nhạc và quãng cách âm nhạc. Một triết lý, theo
ông, nốt nhạc và quãng cách âm nhạc là phản ánh một mức độ vũ trụ và tinh thần. Trật
tự được tổ chức của các nốt trong âm nhạc là một sự phản ánh thế giới vi mô của thế
giới vĩ mô, bao gồm mọi thứ trong vũ trụ, cả cơ thể, trí tuệ và tinh thần. Triết lý này
đã được Plato phát triển thêm.

Y học khí chất
Y học khí chất là một học thuyết có ảnh hưởng lớn qua nhiều thế kỷ. Học
thuyết này cho rằng sức khỏe bị ảnh hưởng của bốn chất dịch cơ thể hoặc “khí chất” là
máu, đờm, mật vàng và mật đen. Sức khỏe tốt là kết quả của sự cân bằng, hài hòa giữa
khí chất, trong khi bệnh tật là phản ánh một số kiểu mất thăng bằng giữa các khí chất.
Học thuyết này có từ khoảng 400 năm trước công nguyên và một trong những người
nổi tiếng phát biểu nhiều về nó là Galen, nhà lý thuyết y học có tầm ảnh hưởng lớn
thời kỳ đế chế La Mã. Đây là cơ sở lý thuyết y học cho tới thế kỷ 18.
Âm nhạc được xem là phương tiện điều trị có tác động và thậm chí có khả năng
phục hồi cân bằng giữa các khí chất trong cơ thể

11



Trên cơ sở liên quan đến lý thuyết về khí chất, Các tác giả ở thế kỷ 16, 17 như
Robert Fludd (1617), Agrippa Von Nettesheirn (1510) đã nêu ra mối liên quan giữa
âm nhạc và con người theo 3 mức độ. Con người được hiểu bao gồm cơ thể, trí tuệ và
tinh thần (body, mind and spirit). Mối liên quan theo 3 mức độ là:
* Thế giới vật chất tương ứng với cơ thể con người và tương ứng với rung động
của âm nhạc
* Thế giới ngôn ngữ tương ứng với trí tuệ con người và tương ứng với nốt và
quảng của âm nhạc
* Vũ trụ tương ứng với tinh thần con người và tương ứng với tỷ lệ siêu phàm
của âm nhạc.
Học thuyết bản chất tinh thần
Theo các tài liệu triết học trong lịch sử, các triết gia phương tây như Plato,
Aristole, Augustine, Schopenhauer, Nietzsche… đã xem xét kỹ lưỡng về vai trò có
tính chất lý thuyết và thực hành của âm nhạc ở các mức độ như sau:
- Âm nhạc có vai trò với cá nhân: đó là vấn đề sức khỏe cá nhân.
- Âm nhạc có vai trò với nhà nước, đó là vấn đề điều chỉnh sức khỏe theo dịch
vụ y tế, giáo dục và giải quyết xung đột…
- Âm nhạc có vai trò với xã hội: đó là vấn đề giá trị xã hội, những nguyên tắc
đạo đức và tín ngưởng.
Âm nhạc và tinh thần
Plato đã đề cập đến ảnh hưởng của âm nhạc lên tinh thần của con người, thể
hiện trong bài viết state của ông. Socrates đã nêu ra và ca ngợi những điệu thức nhất
định của âm nhạc để khuyến khích con người vươn tới cuộc sống hài hòa và dũng
cảm, đồng thời ông cũng nêu ra sự hạn chế của những điệu thức khiến người ta lười
biếng và buồn rầu.
Nhiều lý thuyết âm nhạc và lý thuyết y học qua nhiều thế kỷ đã có ý tưởng
tương tự các nhà triết học nổi tiếng nêu trên về ảnh hưởng trực tiếp của âm nhạc trên

12



tinh thần con người. Âm nhạc thực sự tác động lên tinh thần con người và như vậy,
ảnh hưởng đến trạng thái cảm xúc, tính cách và sức khỏe con người.
Sự phục hồi nhửng ý tƣởng cổ điển qua vật lý lƣợng tử
Do sự phát triển của khoa học tự nhiên, của giải phẩu học và y học theo tính
chất thông tin và kinh nghiệm sau thời kỳ phục hưng, âm nhạc và lý luận cổ điển đã
dần dần lui vào lịch sử. Chỉ có một số ít bác sĩ còn thực nghiệm âm nhạc và viết báo
cáo hoặc chuyên đề về âm nhạc. Nói chung trong khoa học y học, người ta viết về
những vấn đề khác.
Mãi cho đến “làn sóng mới” những năm 1960 và 1970, đặc biệt là những triết
lý, những mô hình “thời đại mới” về vật lý học, tâm lý học và âm nhạc… thì những
chủ đề và học thuyết cổ điển lại được phục hồi và được kết hợp với những khám phá
khoa học đương thời. Thế kỷ 20 đã chứng kiến sự quay trở lại của nhiều ý tưởng cổ
điển. Người ta đã xem xét lại vấn đề cơ thể và tinh thần của con người và sự phản ánh
của thế giới vĩ mô vào thế giới vi mô của âm nhạc.
Sự phục hồi này trở nên nghiêm túc hơn, liên quan chặt chẽ tới vật lý học
lượng tử hiện đại với sự chứng minh đầy ấn tượng về mối quan hệ nghịch thường giữa
trạng thái vật chất như sự đồng thời của sống và hạt. Những phát minh của Bohr và
Emstem đã có ảnh hưởng to lớn tới tư duy koa học và cũng được phản ánh trong liệu
pháp âm nhạc.
Người ta không còn nghi ngờ rằng cuộc sống là một cuộc hành trình vĩnh cửu
giữa các mức độ khác nhau của sự tồn tại của con người, đi từ vật chất tới tinh thần.
Âm nhạc là một trật tự đặc biệt, ảnh hưởng đến cơ thể, trí tuệ và tinh thần con người
và nó phản ánh nguyên tắc vũ trụ của cuộc sống. Đây chính là những lý thuyết kinh
điển về âm nhạc và y học, nó là một lý tưởng cũ đã được đặt trong khuôn khổ mới.

13


III. NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ LIỆU PHÁP ÂM NHẠC

Liệu pháp âm nhạc là gì?
Trong liệu pháp âm nhạc, từ âm nhạc đùng để mô tả phương tiện đặc biệt được
sử dụng. Ở đây âm nhạc được sử dụng làm phương tiện điều trị, nhưng lợi ích tối ưu
của nó trong việc điều trị phụ thuộc vào việc nhà trị liệu sử dụng nó môt cách thích
hợp. Âm nhạc khoog phải là thuốc chữa bệnh. Ví dụ, điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta
đưa vé xem hòa nhạc hay băng đĩa nhạc cho những người bị não hoặc bị trầm cảm ?
Những người này có thể thích âm nhạc thậm chí có thể thay đổi tạm thời về khí sắc do
họ yêu thích âm nhạc. Nhưng chắc chắn họ không thể cải thiện được lâu dài về chức
năng cơ thể hoặc cảm xúc theo những trải nghiệm ngắn hạn này. Mặt khác, âm nhạc
mà chúng ta thưởng thức hằng ngày chưa phải là công cụ điều trị. Tác dụng của âm
nhạc như một công cụ điều trị khi nó được áp dụng một cách chuyên biệt và còn tùy
thuộc vào kỹ năng và kiến thức của nhà trị liệu. Tuy nhiên, bởi vì âm nhạc là một hiện
tượng vũ trụ cho nên loài người bao gồm tất cả các thế hệ và tất cả các nền văn hóa
đều nghe, chơi, sáng tạo và thích nó. Một số loại âm nhạc có tính phức tạp cao, thách
thức sự hiểu biết của con người. Loại âm nhạc khác lại rất đơn giản và dễ theo. Một số
người thích sáng tác và chơi âm nhạc. Những người khác thấy dễ chịu đáng kể đơn
giản khi nghe âm nhạc. Rất nhiều kiểu âm nhạc và cách thức đa dạng của âm nhạc có
thể lôi cuốn con người nên nó có thể là phương tiện điều trị rất linh hoạt.
Từ liệu pháp được hiểu là phép chữa bệnh, thường được sử dụng đẻ chỉ một sự
giúp đỡ hoặc trợ giúp cho con người, đây là những con người có vấn đề có các vấn đề
về cơ thể hoặc tâm thần. Trong cuộc sống hằng ngày, liệu pháp có thể xảy ra dưới
nhiều hình thức. Thí dụ, những nhà tâm lý học nghe và nói chuyện với thân chủ của
họ ; chuyên gia dinh dưỡng giáo dục mọi người về thức ăn nào có dinh dưỡng cao,
phù hợp với nhu cầu cá nhân của họ ; nhà điều trị cơ thể chỉ định các bài tập cơ thể
khác nhau; nhà phẫu thuật sử dụng dụng cụ chuyên biệt như dao mổ và kệp để sửa
chữa các bộ phận cơ thể bị hủy hoại… Và nhà liệu pháp âm nhạc dùng âm nhạc và
hoạt động âm nhạc để tạo thuận lợi cho tiến trình trị liệu.
Liệu pháp âm nhạc là một lĩnh vực nổi lên hơn 50 năm qua ở nhiều nước. Tuy
nhiên, định nghĩa về liệu pháp âm nhạc phụ thuộc vào định hướng và hoàn cảnh của
14



các nhà thực hành liệu pháp hoặc những nền văn hóa khác nhau. Hàng năm có số liệu
lớn định nghĩa về âm nhạc. Trong thập niên đầu phát triển nghề nghiệp, cuốn sách
mang tên “Liệu pháp âm nhạc là một nghề nghiệp” (Hội Quốc gia về Liệu pháp âm
nhạc, Mỹ, 1960) đã định nghĩa.
“Liệu pháp âm nhạc là sự áp dụng khoa học nghệ thuật âm nhạc để đạt các mục
đích điều trị. Đó là sự sở hữu âm nhạc và bản thân nhà trị liệu để tác động tới những
thay đổi hành vi”
Hai thập niên sau, khi nghề nghiệp đã phát triển đáng để, trong cuốn sách:
“Nghề nghiệp trong Liệu pháp âm nhạc” (Hội Quốc gia về liệu pháp âm nhạc, 1980)
đã miêu tả liệu pháp âm nhạc như sau:
“Liệu pháp âm nhạc là sử dụng âm nhạc trong việc thực hiện mục tiêu điều trị:
phục hồi, duy trì và phát triển sức khỏe tâm thân và cơ thể. Đó là sự áp dụng có hệ
thống về âm nhạc, do những nhà trị liệu âm nhạc trực tiếp thực hiện trong một môi
trường âm nhạc, dẫn đến những thay đổi mong muốn về hành vi. Những thay đổi như
vậy làm cho cá nhân có khả năng hiểu biết sâu sắc hơn về bản thân và thế giới xung
quanh, để thành công trong điều chỉnh xã hội thích hợp hơn. Nhà trị liệu âm nhạc
chuyên nghiệp tham gia việc phân tích các vấn đề cá nhân và hình thành trong đầu
những mục tiêu điều trị chung trước khi đặt kết hoạch và tiến hành các hoạt động âm
nhạc chuyên biệt. Định kỳ đánh giá để xác định hiệu quả của qui trình công việc đã
làm.”
Định nghĩa Liệu pháp âm nhạc có thể khác nhau phục thuộc vào thân chủ và
nhà thực hành liệu pháp. Với một số thân chủ hoặc “bệnh nhân”, tiến trình liệu pháp
chủ yếu là để phục hồi các kỹ năng hoặc các chức năng tâm lý. Với một số người bệnh
mãn tính, họ mất một số năng lực tìm năng nên mục tiêu là giải quyết về cơ thể, cảm
xúc và các khó khăn về mất nặng lực, về tâm lý do bệnh mãn tính.
Liệu pháp âm nhạc cũng được dùng cho những người không bệnh khi đó người
ta muốn qua liệu pháp để khám phá những nguồn lực của họ, muốn phát hiện bản thân
để đạt kết quả tốt hơn về sức khỏe và cuộc sống.

Như vậy, mục dích của liệu pháp âm nhạc giúp thay đồi đối với các đối tượng,
tuy nhiên, sự tiếp cận của các nhà liệu pháp là không thay đổi.
15


IV. CÁC CÁCH TIẾP CẬN TÂM LÝ ĐƢỢC DÙNG TRONG LIỆU PHÁP ÂM
NHẠC
Sự phát triển của liệu pháp âm nhạc ở nhiều nước trên thế giới chịu ảnh hưởng của
các lý thuyết và phương pháp tâm lý. Nhưng nhìn chung, cách tiếp cận nhân văn
hiện sinh là cách được sử dụng rộng rãi trong liệu pháp âm nhạc.
Theo qua điểm nhân văn hiện sinh, các rối loạn bệnh lý là kết quả của sự thất bại trong
việc tìm ra ý nghĩa và chiệu trách nhiệm về cuộc sống của bản thân mình và người
khác. Thế nên, lý thuyết nhân văn hiện sinh quan tâm đến việc xác định các nhu cầu
trung tâm cho chức năng con người.
Abraham Maslow, một trong các nhà tự tưởng nhân văn sớm nhất và có tầm ảnh
hưởng nhất, đã đứng đối lập với thuyết hành vi về bản chất con người. Ông mô tả nhu
cầu con người được sắp xếp theo hệ thống thứ bậc hình chóp, từ sự cần thiết về sinh
học đến tự hiện thực hóa, đó chính là khuynh hướng tới sự tròn vẹn và đầy đủ. Sự hiện
thực hóa của cá nhân là làm sao tạo ra khả năng làm việc có mục đích, hành động theo
kế hoạch, chiến lược và theo những lựa chọn cá nhân. Khi sự tự hiện thực hóa bị cản
trở sẽ phát sinh một số rối loạn và khi đó cá nhân không thể đương đầu với những vấn
đề cơ bản nhất trong cuộc sống. Thí dụ, bệnh nhân bị vướng mắc trong các câu hỏi cái
gì là ý nghĩa của cuộc sống? Làm sao tôi có thể sống với tiềm năng thiếu khuyết, kém
cỏi của tôi? Làm sao tôi có thể đối mặt với cái chết?
Mô hình tiếp cận nhân văn hiện sinh không đưa ra quy trình kỹ thuật chuyên biệt cho
rối loạn tâm thần mà nó gợi về cách cư xử hiện tại, thái độ hướng đến sự thay đổi,
phương pháp để hướng dẫn bệnh nhân giải quyết các vấn đề cơ bản, hiện sinh của con
người.
3.1 Liệu pháp tâm lý con người là trung tâm
Liệu pháp tâm lý con người là trung tâm- person centered psychotherapy do Carl

Rogers phát triển đầu tiên vào những năm 1940. Liệu pháp trở nên phổ biến và là nền
tảng cho mối tương tác và mối quan hệ bình đẳng giữa nhà điều trị và bệnh nhân trên
cơ sở niềm tin.
Quan điểm của Rogers nhấn mạnh vào niềm tin và chấp nhận bản ngã của bệnh nhân
như một cá thể bình thường nhưng độc đáo. Đồng nghĩa với việc cho bệnh nhân chủ
16


động một số vấn đề trong quá trình trị liệu: thời gian, điều học muốn nói… như một
nhà kiến trúc tự thiết kế cuộc sống riêng của học. Đồng thời nhấn mạnh vào trải
nghiệm của bệnh nhân ở hiện tại hơn những kinh nghiệm trong quá khứ.
3.2 Liệu pháp Gestalt
Năm 1940, Frederick Saloman và vợ Laura Perls là người sáng lập ra liệu pháp
Gestalt. Gestalt cho rằng những thành phần cấu thành các trải nghiệm của con người
không thể khảo sát một cách riêng lẻ mà phải xem xét dưới dạng tổng thể.
Trường phái trị liệu Gestalt chống lại phân tâm của Freud. Do phân tâm chi phối quá
hiều đối với bệnh nhân và điều này không giúp bệnh nhân tăng trưởng nhận thức. Do
đó, họ chủ trương thiết lập hệ thống trị liệu nhằm tăng trưởng khả năng nhận thức thay
vì chú ý đến giảm thiểu trạng thái tâm lý bệnh lý.
Với khuynh hướng hiện sinh, liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến sự hiện hữu đúng như
những gì con người có thể trải nghiệm mà không đặt nặng những cách thức lý giải
trừu tượng. Nhà trị liệu Gestalt đặt niềm tin vào con người , vào khả năng , sự tăng
trưởng và tự điều chỉnh của họ thông qua sự tiếp xúc giữa người với người và sự thấu
hiểu từ bên trong.
Mục tiêu chính của liệu pháp Gestalt là sự nhận biết- một sự nhận biết sâu sắc về các
khu vực đặc biệt, nhận biết về người khác, nhận biết về tình trạng mà bệnh nhân đang
phải đối phó, nhận biết về các điều vướng mắt hay bệnh lý và làm sao để giải quyết
chúng. Cụ thể hơn, mục tiêu của liệu pháp này là giúp bệnh nhân nhận biết được họ
đang làm gì, làm ra sao, và sẽ làm như thế nào để họ thay đổi tốt hơn, đồng thời phải
để họ chấp nhận và tự đánh giá về mình.

3.3 Liệu pháp nhóm
Joshep Pratt( 1974) là một thầy thuốc ở Boston được thừa nhận là người đề xuất liệu
pháp tâm lý nhóm. Vào đầu thế kỉ XX, ông nhóm những bệnh nhân lâu khỏi lại để chỉ
dẫn cho họ các khía cạnh về y khoa của căn bệnh họ đang gặp phải.
Nhiều năm sau đó, một số nhà tâm thần học Mỹ đã kết hợp các ý tưởng của Pratt để
ứng dụng điều trị bệnh nhân tâm thần. Lazell ( 1921) và Marsk ( 1974) cũng đã áp

17


dụng mô hình tương tự, tổ chức các nhóm bệnh nhân mà bệnh nhân được xem là
những sinh viên, được dạy về sức khỏe tâm thần.
Các kĩ thuật trị liệu bằng âm nhạc sử dụng trong mô hình này khuyến khích bệnh nhân
nhìn vào sự chữa bệnh riêng của mình. Mục tiêu là giúp bệnh nhân tự nhận biết, làm
sáng tỏ giá trị cá nhân, giải phóng nguồn năng lượng trực giác bị nghẽn, mang về sự
thư giãn sâu.
3.4 KẾT LUẬN
 Những người đi đâu trong liệu pháp âm nhạc ở Mỹ là E. Thayer Gaston,
William Sears nêu ra nhiều định nghĩa về liệu pháp âm nhạc nằm trong liệu
pháp hành vi.
 Juliet Alvin , nhà liệu pháp âm nhạc, nghệ sĩ cello, phát triển tiến trình dựa
trên liệu pháp âm nhạc và y học.
 Mary Priestley người đi đầu và sáng lập liệu pháp âm nhạc theo tâm lý học
phân tích dùng cả dùng cả lý thuyết của Freud và Jung .
 Helen Bonny, người sáng lập phương pháp hình tượng âm nhạc có hướng
dẫn.

Do đó, có nhiều định nghĩa về Liệu pháp âm nhạc phục thuộc vào triết lý hoặc
tiếp cận của nhà thực hành hoặc nhóm thực hành. Ví dụ:


Liệu pháp âm nhạc hành vi
Dùng âm nhạc nhằm tăng cường hoặc biến đổi hành vi cho thích hợp, làm giảm
hoặc loại bỏ những hành vi xấu, không thích hợp. trong liệu pháp hành vi này, âm
nhạc có thể được dùng làm gia tăng (hay cũng cố) hành vi (theo cách thức dương tính
hoặc âm tính) theo nguyên lý phản xạ có điều kiện kinh điển hoặc điều kiện thực thi.
Liệu pháp âm nhạc trong liệu pháp tâm lý
Ở đây, âm nhạc được sự dụng để giúp thân chủ thấu hiểu thế giới nội tâm của
họ, nhu cầu của họ và cuộc sống của họ. Liệu pháp âm nhạc liên quan khá chặt chẽ
với liệu pháp tâm lý động lực tâm thần (Psychodynamic)
18


Liệu pháp âm nhạc giáo dục
Liệu pháp âm nhạc đặt trong nhà trường, học sinh có thể tiếp cận Liệu pháp âm
nhạc. Nhà liệu pháp tìm thấy ở trẻ em sự liên quan của âm nhạc đến tiến trình học tập,
nhận ra tìm năng phát triển và đáp ứng các nhu cầu của trẻ.
Nhằm làm sáng tỏ các loại định nghĩa về Liệu pháp âm nhạc, GS. Kenneth
Bruscia đã viết cuồn sách “Defining Music Therapy” (định nghĩa liệu pháp âm nhạc,
1998). Ông định nghĩa liệu pháp âm nhạc như sau: “Liệu pháp âm nhạc là một tiến
trình can thiệp có hệ thống, ở đó nhà liệu pháp giúp thân chủ có sức khỏe. Tiến trình
can thiệp này sử dụng những trãi nghiệm âm nhạc và những mối quan hệ phát triển
thông qua trãi nghiệm âm nhạc làm sức mạnh động lực cho sự thay đổi thân chủ.
Trong cuốn sách trên, Bruscia đã định nghĩa các lĩnh vực khác nhau và các
mức độ khác nhau của Liệu pháp âm nhạc. Các lĩnh vực Liệu pháp âm nhạc khác nhau
ví dụ như: để dạy học, y học, chữa bệnh, liệu pháp tâm lý, tái sáng tạo và sinh thái
học. Ở các mức độ thức hành, Bruscia mô tả bốn mức độ can thiệp chuyên biệt:
- Mức độ phụ trợ: sử dụng chức năng âm nhạc hoặc bất kỳ cấu trúc âm nhạc
nào khác không nhằm mục tiêu điều trị, nhưng có liên quan đến mục đích của liệu
pháp.
- Mức độ tăng cường: bất kỳ thực hành nào, trong đó âm nhạc và liệu pháp âm

nhạc được sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả của các phương thức điều trị khác và để
đóng góp cho toàn bộ kế hoạch điều trị cho thân chủ.
- Mức độ tập trung sâu: bất kỳ thực hành nào, trong đó liệu pháp âm nhạc
chiếm vai trò trung tâm và độc lập. nhằm vào mục tiêu hàng đầu trong kế hoạch điều
trị cho thân chủ, đưa đến kết quả thay đổi lớn, đáng kể tình trạng hiện tại của thân chủ.
- Mức độ chủ yếu: bất kỳ thực hành nào, trong đó liệu pháp âm nhạc chiếm vai
trò không thể thiếu hoặc độc nhất nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị chính và đưa đến kết
quả tạo ra những thay đổi toàn bộ cuộc sống chủ thể.
Tác giả Dileo (1993) đã bổ sung và phát triển cho phan loại nêu trên của
Bruscia, người đã đưa ra ba mức độ lâm sàng
1 Trợ giúp
19


2 Chuyên biệt
3 Toàn diện
Ví dụ minh họa cho mô hình này để chữa các triệu chứng đau ở thân chủ như
sau:

Các mức độ của liệu pháp âm nhạc

Thực hành giải quyết chứng đau

1. Mức độ trợ giúp
Những nhu cầu chủ thể:

Giảm đau tạm thời

Trình độ nhà liệu pháp:


Mới vào nghê hoặc trung bình

Khả năng giải quyết:

Làm sao lãng đau, cung cấp kỹ năng

chống đỡ
Chức năng liệu pháp âm nhạc:

Trợ giúp cho can thiệp y học

Liệu pháp âm nhạc can thiệp chung:

Thư giãn dựa trên cơ sở âm nhạc, liệu
pháp rung động âm thanh

2. Mức độ chuyên biệt
Những nhu cầu của chủ thể:

Hiểu biết về đau

Trình độ nhà liệu pháp:

Trình độ cao học

Khả năng giải quyết:

Đương đầu với đau

Chức năng liệu pháp âm nhạc:


Bình đẳng với can thiệp y học

Liệu pháp âm nhạc can thiệp chung:

Ứng tác, các kỹ thuật hình tượng âm
nhạc

3. Mức độ toàn diện
Nhưng nhu cầu của chủ thể:

Hợp tác với nhà trị liệu giải quyết đau

Trình độ nhà liệu pháp:

Bậc nhất

Khả năng giải quyết:

Giải quyết đau

Chức năng liệu pháp âm nhạc:

Độc lập giải quyết đau

Liệu pháp âm nhạc can thiệp chung:

Mức độ cao cấp/luyện tập chuyên biệt
20



Những nhà liệu pháp âm nhạc làm việc trong hệ thống chăm sóc sức khỏe
thường thiệt lập mối quan hệ chuyên nghiệp cộng tác với các bác sĩ, y tá, các nhà điều
trị vật lý, lao động nghề nghiệp, các nhà chỉnh sửa âm thanh và ngôn ngữ và các nhà
tâm lý học là một sự kết hợp toàn diện để điều trị bệnh nhân.
Đối tƣợng điều trị của liệu pháp âm nhạc
Trong quá khứ các nhà liệu pháp âm nhạc thường làm việc nhiều nhất với
những người bệnh tâm thần và chậm phát triển tâm thần. Ngày nay do nhấn mạnh
nhiều vào công việc cung cấp chăm sóc dự phòng, lồng ghép trẻ em giảm năng lực
vào nhà trường công cộng, tăng cường dịch vụ cho người cao tuổi, các nhà liệu pháp
âm nhạc đang mở rộng các lĩnh vực âm nhạc mới. Liệu pháp âm nhạc ngày nay được
sử dụng trong quản lý đau, quản lý stress, kích thích trẻ sơ sinh, chăm sóc người lớn
ban ngày, điều dưỡng tại nhà, các chương trình chăm sóc bà mẹ mang thai và trẻ sơ
sinh, chăm sóc y khoa và cả ở nhà tù. Dưới đây là thống kê năm 1998 của liệu pháp
âm nhạc Mỹ về đối tượng đã được tiến hành điều trị bằng âm nhạc:
- Người cao tuổi
- Người khuyết tật trong phát triển
- Người có vấn đề sức khỏe tâm thần
- Người khuyết tật cơ thể
- Tuổi nhà trường
- Tuổi thơ âu
- Lạm dụng chất
- Giảm cảm giác
- Suy giảm, hư hại các chức năng thần kinh
- Bệnh vô phương cứu chữa
V. Ý NGHĨA CỦA ÂM NHẠC LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU TRỊ
Đối với nhiều nhà liệu pháp âm nhạc, âm nhạc luôn được xem như một ngôn
ngữ tượng trưng, cho phép nhà trị liệu khám phá ý nghĩa của nó đối với thân chủ trong
kỹ thuật ứng tác âm nhạc tiếp theo sự hội thoại bằng miệng.
21



×