Tính đến tháng 2/2012, doanh thu của ngành gia công phần mềm và dịch vụ CNTT của Ấn Độ
đã vượt 100 tỷ USD. Ấn Độ đã tập trung đào tạo 2,5 triệu nhân lực CNTT để làm ra 100 tỷ USD.
Số nhân lực CNTT của Ấn Độ chỉ chiếm 0,25 tổng dân số nhưng đã đóng góp 8% GDP của quốc
gia này. Điều này chứng tỏ CNTT đóng vai trò rất quan trọng cho nền kinh tế của Ấn Độ.
OUTSOURCING
Định nghĩa
Một thực tế được sử dụng bởi các công ty khác nhau để giảm chi phí bằng cách chuyển
một phần công việc cho các nhà cung cấp bên ngoài chứ không phải là hoàn thành nó
trong nội bộ.
Investopedia giải thích 'Gia công phần mềm'
Gia công phần mềm là một chiến lược tiết kiệm chi phí hiệu quả khi được sử dụng đúng
cách. Nó là đôi khi giá cả phải chăng hơn để mua một tốt từ các công ty có lợi thế so sánh
hơn là để sản xuất tốt trong nội bộ. Một ví dụ về một công ty sản xuất gia công phần
mềm sẽ được Dell mua một số linh kiện máy tính của mình từ nhà sản xuất khác để tiết
kiệm chi phí sản xuất. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể quyết định thuê ngoài sổ sách thuế
cho các công ty hạch toán độc lập, vì nó có thể rẻ hơn so với một kế toán giữ lại trong
nhà.
Thuê ngoài
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Thông tin trong bài (hay đoạn) này không t
Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách b
Thuê ngoài là một thuật ngữ trong lĩnh vực kinh tế. Nó là việc một thể nhân hay pháp
nhân chuyển giao việc thực hiện toàn bộ một chức năng sản xuất-kinh doanh nào đó, bao
gồm cả tài sản vật chất và nhân lực cho một nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài chuyên môn
hóa trong lĩnh vực đó, gọi là nhà thầu phụ. Dịch vụ có thể được cung cấp bên trong hay
bên ngoài công ty khách hàng; có thể thuộc nước sở tại hoặc ở nước ngoài. Các chuyển
giao như vậy nhằm mục đích hạ giá thành và nâng cao tính cạnh tranh. Nó khác với việc
mua bán sản phẩm từ nhà cung cấp ở chỗ giữa hai bên có sự trao đổi thông tin để quản lý
việc sản xuất-kinh doanh đó, tức là có sự hợp tác trong sản xuất.
Hiện nay, hoạt động thuê ngoài được áp dụng rất nhiều trong ngành công nghệ thông tin.
Các công ty hàng đầu trong ngành công nghệ thông tin có thể thuê người bên ngoài thực
hiện mảng công nghệ thông tin của công ty mình. Một đối tác như vậy sẽ cung cấp nhân
lực làm việc sát cánh với nhân viên của công ty, có khả năng nắm bắt các vấn đề của
riêng công ty và từ đó giúp công ty chuyển giao và thực hiện các giải pháp thích hợp.
Thuê ngoài gần giống với chuyển ra ngoài khi thể nhân hay pháp nhân thuê mướn nhà
thầu phụ tại nước ngoài, nhưng khác khi họ chỉ thuê mướn nhà thầu phụ trong cùng quốc
gia hoặc khác ở chỗ thuê ngoài luôn là thuê mướn nhà thầu phụ không thuộc về pháp
nhân đó, trong khi chuyển ra ngoài có thể chỉ là việc chuyển giao công việc cho chi
nhánh của chính pháp nhân đó tại nước ngoài.
Mục lục
•
1 Lợi ích của thuê ngoài
•
2 Các điểm bất lợi
•
3 Xem thêm
•
4 Các công ty cung cấp dịch Outsourcing
•
5 Liên kết ngoài
Lợi ích của thuê ngoài
Để giải quyết các vấn đề về lợi ích và chi phí, có một giải pháp chung: outsourcing một
phần hoặc toàn bộ dịch vụ về CNTT. Điều này mang đến những điểm lợi về:
•
Chuyên môn: nhà cung cấp outsourcing là đơn vị chuyên nghiệp về CNTT nên có
hệ thống đào tạo bài bản cho nhân viên, cũng như các phòng lab để thử nghiệm
giải pháp trước khi đưa ra cho khách hàng. Họ cũng có các hệ thống giám sát về
chất lượng công việc của nhân viên và đảm bảo quy trình dịch vụ. Các dịch vụ họ
cung cấp do đó có tính chuyên nghiệp cao.
•
Hiệu suất: nhà cung cấp outsourcing có thể điều phối nhân lực, do đó với những
nhân lực quý hiếm, họ sẽ sử dụng triệt để. Kết quả là họ có thể tính mức phí thấp
hơn là khách hàng tự làm. Hầu hết các công ty chuyển sang dùng outsourcing đều
ghi nhận mức chi phí hỗ trợ CNTT giảm từ 20-30%.
•
Dự phòng: là thế mạnh rõ ràng của outsourcing. Với lực lượng đông đảo, các nhà
cung cấp không khó khăn gì để đảm bảo khách hàng được phục vụ liên tục. Họ
thường có cơ chế để luôn luôn có một số nhân viên có thể thay thế lẫn nhau cho
một khách hàng. Nhiều nhà cung cấp outsourcing cẩn thận cất giữ một bản sao các
tham số hoặc cơ sở dữ liệu hệ thống của từng khách hàng, để nếu có rủi ro vật lý
(cháy, thiên tai) thì vẫn có thể khôi phục lại hệ thống. Các rủi ro về gián đoạn hoạt
động do thiếu dự phòng của DN do đó sẽ chuyển hết sang nhà cung cấp
outsourcing.
•
Tâm lý: đối với nhà cung cấp outsourcing, nhân viên CNTT là lực lượng lao động
chính, nên họ có thể cất nhắc nhân viên lên các vị trí cao, thậm chí là lãnh đạo
công ty. Do đó các nhân viên cũng có động lực mạnh hơn để trau dồi chuyên môn
và gắn bó với nhà cung cấp.
•
Tiết kiệm chi phí: Chi phí cho dịch vụ outsourcing thường thấp hơn so với chi phí
xây dựng một cơ cấu làm việc trong doanh nghiệp. Bạn sẽ phải trả thêm khoản
thuế thu nhập cá nhân cho nhân viên, đó là chưa kể các khoản tiền đóng bảo hiểm
y tế, bảo hiểm xã hội.
•
Tiết kiệm chỗ ngồi làm việc: Việc tạo dựng cơ cấu tổ chức nhân sự làm việc toàn
phần trong doanh nghiệp đòi hỏi bạn phải có đủ diện tích văn phòng, các trang
thiết bị làm việc (bàn ghế, máy tính, máy fax, văn phòng phẩm, nước uống…)
•
Đảm bảo công việc luôn được vận hành: Nhân viên làm việc toàn thời gian của
bạn có quyền lợi nghỉ phép, nghỉ ốm, trong khi bạn cần đảm bảo khối lượng công
việc được liên thông. Bên nhận dịch vụ outsourcing của bạn đảm bảo công việc
luôn luôn được vận hành.
•
Tiết kiệm thời gian và đảm bảo chất lượng. Hình thức gia công bên ngoài giúp bạn
tiết kiệm được rất nhiều thời gian đồng thời đảm bảo chất lượng.
...
Các điểm bất lợi
•
Bảo mật: là vấn đề nhiều CIO lo ngại nhất. Họ sợ các nhân viên outsourcing sẽ tiết
lộ thông tin của công ty ra ngoài, thậm chí cho các đối thủ.
•
Trách nhiệm: nhà cung cấp thiếu trách nhiệm, chậm trễ và không cung cấp nhân
viên với phẩm chất cần thiết sẽ làm gián đoạn công việc của DN
•
Chất lượng: đây thường là vấn đề của giai đoạn chuyển tiếp từ dịch vụ nội bộ sang
outsourcing. Trong thời gian đầu (có thể kéo dài cả năm) nhân viên outsourcing
chưa nắm rõ hệ thống của DN, gây chậm trễ trong giải quyết sự cố hoặc sai sót
•
Chi phí: thống kê chung cho thấy sử dụng outsourcing tiết kiệm hơn so với tự làm,
nhưng điều đó không có nghĩa là cứ outsourcing thì sẽ tiết kiệm chi phí. Hợp đồng
outsourcing không chặt chẽ có thể gây phát sinh chi phí lớn cho DN (chẳng hạn
khi phát hiện những nội dung dịch vụ chưa có trong hợp đồng).
Sử dụng nguồn lực bên ngoài hoặc đưa một phần hoạt động của doanh nghiệp ra ngoài
(outsourcing) đang trở thành xu thế ở nhiều nước trên thế giới. Thế nhưng, giải pháp này
vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp trong nước tận dụng do có những quan điểm khác
nhau.
Challenges of outsourcing
Where there are benefits of the training outsourcing, there are many outsourcing
challenges as well no matter how well the program is planned, staffed or budgeted.
Below are few challenges that are faced by organizations while training outsourcing:
Many stakeholders – Outsourcing by and large involve several inner and outer
stakeholders. Outsourcing programs in diverse geographic regions most of the times are
managed autonomously.
Dispersed Locations – Many organizations engage training consultancies in different
geographical regions that adds further complications to the delivery and scheduling of
training. Most of the times, training has to be localized for different languages and
cultures which also requires specific resources. Different regions also put in considerable
time, expenditure, and resources to manage logistics related to training.
Budget Inadequacy – According to an Expertus (Expertus provides a variety of training
outsourcing services in business consulting, technology, content, and strategic business
process outsourcing) 2006 survey, budget is one the major constraints to channel training.
Most of the times budget inefficiencies are caused by duplicate payments, payments with
incorrect vendors, and decentralized vendor agreement management.
Know how – According to Expertus survey, 70% of the respondents do not use LMS and
those who use, almost half use different LMS for employee training. Those companies
who do not use LMS have to make greater effort with registration and setting up, class
follow up, evaluations, and even basic reporting. Randomly applied know-how,
unplanned customization work, lack of standards, and scarcity of capable resources can
twirl the knowledge support of channel training programs into a failure.
Loss of control – According to Expertus survey in 2006, loss of control was also rated as
one of the major challenges to training outsourcing. Organizations going for outsourcing,
are left with very little or no control over training partner. In addition to that,
organizations often are not able to keep up with the consistency and quality of training
across the channel.
Coverage – Measuring the results and finding the business focused information about the
training consultancy is difficult or impossible to get. These challenges prevent the
organizations to obtain the true insight of training consultancies.
Employment Inefficiencies – Obtaining satisfactory organizational resources is a constant
problem for the organizations engaged with training consultancies. Employee Turnover
and inadequate employee training can make the problem even more difficult.
(Nơi có những lợi ích của gia công phần mềm đào tạo, có rất nhiều thách thức gia công
phần mềm cũng không có vấn đề như thế nào chương trình được lên kế hoạch, nhân viên
hoặc ngân sách. Dưới đây là một vài thách thức đang phải đối mặt với các tổ chức đào
tạo trong khi gia công phần mềm:
Các bên liên quan - Gia công phần mềm và lớn liên quan đến nhiều bên liên quan bên
trong và bên ngoài. Chương trình gia công phần mềm trong khu vực địa lý khác nhau hầu
hết các lần được quản lý tự động.
Vị trí phân tán - Nhiều tổ chức tham gia tư vấn đào tạo trong khu vực địa lý khác nhau có
thêm biến chứng hơn nữa cho việc cung cấp và lập kế hoạch đào tạo. Hầu hết các lần,
đào tạo đã được bản địa hoá cho các ngôn ngữ khác nhau và
nền văn hóa mà cũng đòi hỏi nguồn lực cụ thể. Các khu vực khác nhau cũng đưa vào
nhiều thời gian, chi phí và nguồn lực để quản lý hậu cần liên quan đến đào tạo.
Không thoả đáng ngân sách - Theo một cuộc khảo sát Expertus (Expertus cung cấp nhiều
dịch vụ gia công phần mềm đào tạo trong tư vấn kinh doanh, công nghệ, nội dung và quy
trình kinh doanh chiến lược gia công phần mềm) năm 2006, ngân sách là một trong
những trở ngại chính để đào tạo kênh. Hầu hết các thiếu hiệu quả ngân sách lần này là do
thanh toán trùng lặp, thanh toán với nhà cung cấp không chính xác, và quản lý nhà cung
cấp thỏa thuận phân cấp.
Biết làm thế nào - Theo Expertus khảo sát, 70% số người được hỏi không sử dụng LMS
và những người sử dụng, gần một nửa sử dụng LMS khác nhau để đào tạo nhân viên.
Những công ty không sử dụng LMS phải nỗ lực lớn hơn với đăng ký và thiết lập, lớp
theo dõi, đánh giá và báo cáo thậm chí cơ bản. Ngẫu nhiên áp dụng bí quyết, làm việc
không có kế hoạch chỉnh sửa, thiếu các tiêu chuẩn, và sự khan hiếm các nguồn tài nguyên
có khả năng có thể Twirl sự hỗ trợ kiến thức của chương trình đào tạo kênh thành một
thất bại.
Mất kiểm soát - Theo khảo sát Expertus năm 2006, mất kiểm soát cũng được đánh giá là
một trong những thách thức lớn đối với đào tạo gia công phần mềm. Tổ chức sẽ cho gia
công phần mềm, chỉ còn lại rất ít hoặc không có quyền kiểm soát đối tác đào tạo. Bên
cạnh đó, các tổ chức thường không thể theo kịp với sự thống nhất và chất lượng đào tạo
qua kênh.
Bảo hiểm - Đo lường kết quả và tìm kiếm các doanh nghiệp tập trung thông tin về tư vấn
đào tạo là khó khăn hoặc không thể có được. Những thách thức này ngăn chặn các tổ
chức để có được cái nhìn sâu sắc thực sự của tư vấn đào tạo.)
Không hiệu quả việc làm - Lấy nguồn lực tổ chức đạt yêu cầu là một vấn đề liên tục cho
các tổ chức tham gia với tư vấn đào tạo. Doanh thu của nhân viên và đào tạo nhân viên
không đầy đủ có thể làm cho vấn đề khó khăn hơn.
Benefits of Offshore Outsourcing
Nowadays more and more IT companies are interested in offshore outsourcing and they
have sufficient warranty for it. Offshoring enables companies to reduce their costs up to
40% and gives some more benefits we would like to tell you about.
IT companies choose offshore outsourcing for various reasons and with different
intentions among which are:
cost cutting;
funds reallocation;
time-to-market reduction;
focusing on the customer;
resource access.
Now let's take a closer look at all of them.
Benefits of software outsourcing
Cost cutting
When there are too high rates for resources on the domestic market or there are no
required resources at all then offshore outsourcing is the best solution to such kind of
problem. Of course you can pay no attention to this until your company doesn't need cost
saving and doesn't act under the fierce competition's conditions. But do such companies
exist today?
Actually there are three problems concerning cost saving that offshore outsourcing helps
to deal with:
recurring costs is not your problem anymore;
offshoring cuts labor costs;
it converts FC into VC.
Funds reallocation
Offshore outsourcing enables you to free up funds for functions and services that you
were not able to deliver before that. With outsourcing you don't need to possess and
maintain additional technologies, hardware or office infrastructure anymore. Offshore
provider will do it for you!
Time-to-market reduction
Production cycle reduction and delivering services faster and more efficient are the most
important competitive advantages for any modern company. Due to availability of ready-
to-use office infrastructure and work force at any time you like you will be able to reduce
your time-to-market significantly.
Focusing on the customer
When you outsource your functions you are able to focus primary on things which are of
the most importance for your business. One of those things is your dear customer. With
outsource you will be able to forget about all technical problems and to keep your mind
on marketing, branding, agility and efficiency.
Resource access
Finally, offshore outsourcing provides you with unlimited access to a resource pool with
no need to overpay. You will be able to engage high-qualified and experienced work
force that may be hard to find in your country.
Lợi ích của Gia công phần mềm ra nước ngoài
Ngày nay, ngày càng nhiều công ty IT quan tâm đến gia công phần mềm và họ có đủ bảo
hành cho nó. Gia công cho phép các công ty để giảm chi phí của họ lên đến 40% và đưa
ra một số lợi ích hơn chúng tôi muốn nói với bạn về.
Các công ty CNTT chọn ở nước ngoài gia công phần mềm cho các lý do khác nhau và
với ý định khác nhau, trong đó có:
cắt giảm chi phí;
quỹ tài trợ;
thời gian đưa ra thị trường giảm;
tập trung vào các khách hàng;
nguồn truy cập.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét kỹ hơn tất cả chúng.
Lợi ích của việc gia công phần mềm
Cắt giảm chi phí
Khi có giá quá cao đối với các nguồn tài nguyên trên thị trường trong nước hoặc không
có nguồn lực cần thiết ở tất cả sau đó gia công phần mềm ra nước ngoài là giải pháp tốt
nhất để loại đó của vấn đề. Tất nhiên bạn có thể không quan tâm đến điều này cho đến
khi công ty của bạn không cần tiết kiệm chi phí và không hành động trong điều kiện cạnh
tranh khốc liệt của. Nhưng công ty như vậy tồn tại ngày nay?
Trên thực tế có ba vấn đề liên quan đến tiết kiệm chi phí mà gia công phần mềm giúp để
đối phó với:
chi phí định kỳ không phải là vấn đề của bạn nữa;
gia công cắt giảm chi phí lao động;
nó chuyển đổi FC vào VC.
Quỹ phân bổ lại
Gia công phần mềm cho phép bạn phóng các khoản tiền cho các chức năng và dịch vụ
mà bạn không thể cung cấp trước đó. Với gia công phần mềm bạn không cần phải có và
duy trì công nghệ bổ sung phần cứng hoặc cơ sở hạ tầng văn phòng nữa. Cung cấp dịch
vụ ra nước ngoài sẽ làm điều đó cho bạn!
Giảm thời gian đưa ra thị trường
Dịch vụ cung cấp giảm chu kỳ sản xuất nhanh hơn và hiệu quả hơn là những lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất đối với bất kỳ công ty hiện đại. Do sẵn có của sẵn sàng để sử dụng
cơ sở hạ tầng văn phòng và lực lượng lao động bất cứ lúc nào bạn thích, bạn sẽ có thể
làm giảm thời gian đưa ra thị trường của bạn đáng kể.
Tập trung vào các khách hàng
Khi bạn thuê ngoài chức năng của bạn, bạn có thể tập trung chính vào những thứ đó là
điều quan trọng nhất đối với doanh nghiệp của bạn. Một trong những điều đó là khách
hàng thân yêu của bạn. Với thuê ngoài bạn sẽ có thể quên đi tất cả các vấn đề kỹ thuật và
giữ cho tâm trí của bạn về tiếp thị, xây dựng thương hiệu, sự nhanh nhẹn và hiệu quả.
Truy cập tài nguyên
Cuối cùng, gia công phần mềm cung cấp cho bạn truy cập không giới hạn vào một hồ bơi
tài nguyên mà không cần phải trả giá quá nhiều. Bạn sẽ có thể tham gia vào lực lượng lao
động có trình độ cao và giàu kinh nghiệm có thể được khó khăn để tìm thấy trong đất
nước của bạn.
Gia công phần mềm là hợp đồng ra khỏi một nội bộ quá trình kinh doanh để tổ chức của
bên thứ ba. Việc thực hành ký kết hợp đồng một quá trình kinh doanh ra để một bên thứ
ba chứ không phải là nhân viên nó trong nội bộ là phổ biến trong nền kinh tế hiện đại.
Thuật ngữ "gia công phần mềm" trở nên phổ biến trong các nước Mỹ vào khoảng đầu thế
kỷ 21. Gia công phần mềm đôi khi liên quan đến việc chuyển giao nhân viên và tài sản từ
một công ty khác nhưng không phải lúc nào. [1]
Định nghĩa về gia công phần mềm bao gồm cả trong và ngoài nước ký kết hợp đồng, [2]
và đôi khi bao gồm gia công , có nghĩa là di dời một chức năng kinh doanh đến nước
khác. [3] tiết kiệm tài chính từ giá lao động quốc tế thấp hơn là một động lực lớn đối với
gia công phần mềm / gia công.
Đối diện của gia công phần mềm được gọi là Insourcing , mà đòi hỏi phải đưa các quy
trình xử lý bởi các công ty bên thứ ba trong nhà, và đôi khi được thực hiện thông qua hội
nhập theo chiều dọc . Tuy nhiên, một doanh nghiệp có thể cung cấp một dịch vụ hợp
đồng kinh doanh khác mà không nhất thiết phải Insourcing rằng quá trình kinh doanh.
Nội dung
•
1 Tổng quan
o
•
1.1 Lý do gia công phần mềm
2 Hậu quả
o
2.1 quy trình quản lý
o
2.2 Chất lượng dịch vụ (QoS)
o
2.3 Ngôn ngữ kỹ năng
o
2,4 an ninh
o
2.5 Văn bằng của các gia công
o
2.6 Đa dạng hóa
o
2.7 Insourcing
o
2,8 quan điểm của lao động
o
2,9 quan điểm của chính phủ
o
2.9.1 Chiến lược hoạch định chính sách
Chiến lược cạnh tranh 2.9.1.1
2.9.1.2 Chiến lược Giáo dục
2.9.1.3 Chiến lược Nhà nước Phúc lợi
2.9.1.4 Chính sách công nghiệp
2.9.1.5 Chính sách môi trường
2.10 Toàn cầu hóa và tác động kinh tế xã hội
2.10.1 bất bình đẳng và phát triển toàn cầu
2.10.1.1 Công nghiệp hóa
2.10.1.2 tăng trưởng và thu nhập
2.10.1.3 Đô thị hóa
2.10.2 Thương mại
•
•
2.10.3 Migration
2.10.4 sự bất bình đẳng trong nước
3 Theo quốc gia
o
3,1 Hoa Kỳ
o
3,2 Liên minh châu Âu
4 Co-sourcing
o
4,1 Nhận dạng đồng quản lý tìm nguồn cung ứng
•
5 Counterwave Gia công phần mềm
•
6 Xem thêm
•
7 Tham khảo
•
8 Liên kết ngoài
Tổng quan
Hai tổ chức có thể tham gia vào một thỏa thuận hợp đồng liên quan đến một ngoại tệ của
các dịch vụ và thanh toán . Gia công phần mềm được cho là giúp các doanh nghiệp thực
hiện tốt trong năng lực cốt lõi của họ và giảm thiểu tình trạng thiếu kỹ năng và chuyên
môn trong các lĩnh vực mà họ muốn thuê ngoài. [4]
Trong những năm đầu thế kỷ 21, các doanh nghiệp ngày càng gia công phần mềm để các
nhà cung cấp bên ngoài đất nước của họ, đôi khi được gọi là gia công hoặc gia công phần
mềm . Một số điều khoản liên quan đã xuất hiện để chỉ các khía cạnh khác nhau của mối
quan hệ phức tạp giữa kinh tế , tổ chức hoặc mạng , chẳng hạn như nearshoring ,
crowdsourcing , multisourcing [5] [6] và chiến lược gia công phần mềm. [7]
Gia công phần mềm có thể cung cấp ngân sách linh hoạt hơn và kiểm soát. Gia công
phần mềm cho phép các tổ chức chỉ trả tiền cho các dịch vụ mà họ cần, khi họ cần chúng.
Nó cũng làm giảm nhu cầu thuê và đào tạo cán bộ chuyên môn, mang lại chuyên môn kỹ
thuật mới, và làm giảm chi phí vốn và hoạt động. [8]
Một trong những thay đổi lớn nhất trong những năm đầu thế kỷ 21 đến từ sự tăng trưởng
của các nhóm người sử dụng công nghệ trực tuyến để sử dụng gia công phần mềm như là
một cách để xây dựng một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khả thi có thể được chạy từ
hầu như bất cứ nơi nào trên thế giới. Tỷ lệ hợp đồng ưu đãi có thể đạt được bằng cách
tạm thời sử dụng các chuyên gia trong lĩnh vực cụ thể để cung cấp các yếu tố của một dự
án hoàn toàn trực tuyến có nghĩa là có một số lượng ngày càng tăng của các doanh
nghiệp nhỏ hoạt động hoàn toàn trực tuyến sử dụng các nhà thầu nước ngoài để hoàn
thành công việc trước khi đóng gói lại nó để cung cấp cho người dùng cuối. Một trong
những khu vực kinh doanh mô hình này phát triển mạnh trong trang web cung cấp việc
tạo ra, phân tích và dịch vụ tiếp thị. Tất cả các yếu tố có thể được thực hiện từ xa và
chuyển giao kỹ thuật số và các nhà cung cấp dịch vụ có thể tận dụng quy mô và nền kinh
tế của gia công phần mềm để cung cấp các dịch vụ giá trị cao giảm giá cuối cùng khách
hàng.
Lý do cho gia công phần mềm
Các công ty thuê ngoài để tránh một số loại chi phí. Trong số các lý do công ty chọn để
thuê ngoài bao gồm tránh các quy định nặng nề, thuế cao, chi phí năng lượng cao, và chi
phí không hợp lý có thể được liên kết với quyền lợi quy định trong hợp đồng liên đoàn
lao động và thuế đối với phúc lợi bắt buộc của chính phủ. Tỷ suất lợi nhuận gộp nhận
thức hoặc thực tế trong ngắn hạn incentivizes một công ty thuê ngoài. Với giảm chi phí
ngắn hạn, quản lý điều hành nhìn thấy cơ hội kiếm lợi nhuận ngắn hạn trong khi tốc độ
tăng trưởng thu nhập của các cơ sở người tiêu dùng là căng thẳng. [2] Điều này thúc đẩy
các công ty thuê ngoài với chi phí lao động thấp hơn. Tuy nhiên, các công ty có thể có
hoặc có thể không phải chịu chi phí bất ngờ để đào tạo những người lao động ở nước
ngoài. [9] chi phí pháp lý thấp hơn là một sự bổ sung cho các công ty tiết kiệm tiền khi gia
công phần mềm. Về chi phí so sánh, một người sử dụng lao động Hoa Kỳ thường phải
gánh chịu chi phí lợi ích cao hơn xác định liên hệ với thuế vào tài khoản cho an sinh xã
hội , Medicare , bảo vệ an toàn ( OSHA quy định) và thuế FICA hơn so với ở các nước
khác. [10] so sánh lương Giám đốc điều hành , giám đốc điều hành lương Hoa trong năm
2007 là hơn 400 lần so với trung bình công nhân-một khoảng cách 20 lần lớn hơn hơn nó
là vào năm 1965. [11] Trong 2011, hai mươi-sáu của các lớn nhất công ty Mỹ phải trả hơn
Giám đốc điều hành hơn họ trả trong liên bang các loại thuế. [12] Tuy nhiên, nó xuất hiện
công ty không thuê ngoài để giảm chi phí điều hành, quản lý.
Các công ty có thể tìm kiếm nội bộ tiết kiệm để tập trung tiền bạc và nguồn lực theo
hướng kinh doanh cốt lõi. Một công ty có thể thuê ngoài các chức năng cảnh quan của nó
không liên quan đến kinh doanh cốt lõi. [13] Các công ty và các tổ chức công cộng có thể
thuê ngoài một số chức năng chuyên biệt, chẳng hạn như biên chế, để ADP hoặc Ceridian
. Các công ty có thể tìm thấy cùng một mức độ hài lòng của người tiêu dùng. [14] [15]
Tiếp thị nhập khẩu có thể làm cho lợi nhuận ngắn hạn từ lao động ở nước ngoài rẻ hơn và
tiền tệ chủ yếu trong các lĩnh vực tiêu thụ tài sản tại các chi phí về lâu dài của sự giàu có
của nền kinh tế sản xuất phần căng thẳng cơ sở thuế quận chủ nhà, tăng trưởng thu nhập,
và tăng gánh nặng nợ nần. Khi các công ty sản phẩm ra nước ngoài và các dịch vụ, những
công việc có thể rời khỏi đất nước cho nước ngoài tại các chi phí của sự giàu có sản xuất
các lĩnh vực. [2] Gia công phần mềm có thể làm tăng nguy cơ rò rỉ và làm giảm tính bảo
mật, cũng như giới thiệu và mối quan tâm an ninh bảo mật bổ sung. [16] [17]
Ý nghĩa
các quy trình quản lý
Khoảng cách vật lý lớn hơn giữa các quản lý cao hơn và các nhân viên sàn nhà sản xuất
thường đòi hỏi một sự thay đổi trong phương pháp quản lý, như kiểm tra và phản hồi có
thể không trực tiếp và thường xuyên như trong quy trình nội bộ. Điều này thường đòi hỏi
sự đồng hóa của các phương pháp truyền thông mới như Voice over IP , tin nhắn tức thì ,
và hành Hệ thống theo dõi , mới quản lý thời gian các phương pháp như Thời gian theo
dõi phần mềm , và chi phí mới và các công cụ đánh giá tiến độ như Dự toán Chi phí phần
mềm .
Chất lượng dịch vụ (QoS)
Chất lượng dịch vụ tốt nhất là đo lường sự hài lòng của khách hàng thông qua bảng câu
hỏi được thiết kế để chụp bảo một. [18]
Kỹ năng ngôn ngữ
Trong lĩnh vực trung tâm cuộc gọi của người dùng cuối, kinh nghiệm được coi là có chất
lượng thấp hơn khi một dịch vụ là thuê ngoài. Điều này càng trầm trọng hơn khi gia công
phần mềm được kết hợp với gia công cho các khu vực nơi mà ngôn ngữ đầu tiên và văn
hóa khác nhau. [19]
Nước ngoài gọi cho trung tâm đại lý có thể nói chuyện với nhau về ngôn ngữ các tính
năng như điểm nhấn , sử dụng từ và các từ ngữ, có thể cản trở sự hiểu biết. Manh mối
hình ảnh là mất tích trong một cuộc gọi điện thoại có thể dẫn đến sự hiểu lầm và khó
khăn. [20]
Trước khi gia công phần mềm, một tổ chức chịu trách nhiệm cho những hành động của
toàn thể cán bộ nhân viên của họ, đôi khi một trách nhiệm đáng kể. Khi những người này
được chuyển giao cho một người đăng việc họ thậm chí có thể không thay đổi bàn.
Nhưng thay đổi địa vị pháp lý của họ. Họ không còn được trực tiếp sử dụng bởi các tổ
chức (và chịu trách nhiệm). Điều này tạo ra các vấn đề pháp lý, bảo mật và tuân thủ
thường được giải quyết thông qua hợp đồng giữa khách hàng và các nhà cung cấp. Đây là
một trong những khu vực phức tạp nhất của gia công phần mềm và đôi khi liên quan đến
một cố vấn chuyên gia của bên thứ ba.
Gian lận là một vấn đề an ninh cụ thể là hoạt động tội phạm cho dù đó là nhân viên hoặc
nhân viên nhà cung cấp. Tuy nhiên, có thể tranh cãi rằng gian lận có nhiều khả năng khi
gia công có liên quan đến hành vi trộm cắp thẻ tín dụng ví dụ khi có phạm vi gian lận thẻ
tín dụng bằng cách nhân bản. Trong tháng 4 năm 2005, xảy ra một trường hợp hồ sơ liên
quan đến các hành vi trộm cắp $ 350,000 từ bốn Citibank khách hàng khi gọi nhân viên
trung tâm mua lại mật khẩu cho các tài khoản của khách hàng và chuyển tiền vào tài
khoản của mình mở dưới cái tên hư cấu. Citibank đã không tìm hiểu về vấn đề này cho
đến khi khách hàng Mỹ nhận thấy sự khác biệt với các tài khoản của họ và thông báo cho
ngân hàng. [21]
Văn bằng của các gia công
Trong kỹ thuật kỷ luật đã có một cuộc tranh luận về số lượng kỹ sư được sản xuất bởi các
nền kinh tế lớn của Hoa Kỳ, Ấn Độ và Trung Quốc. Các trung tâm tranh luận xung quanh
định nghĩa của một đại học kỹ thuật và con số này cũng gây tranh cãi. Những con số so
sánh gần nhất của sinh viên tốt nghiệp hàng năm của độ bốn năm là Hoa Kỳ (137.437)
Ấn Độ (112.000) và Trung Quốc (351.537). [22] [23]
Các công ty tìm kiếm để thuê ngoài các hoạt động kỹ thuật của họ nên đánh giá khả năng
của các nhà cung cấp. Có rất nhiều băng ghế dự bị đánh dấu báo cáo của nghiên cứu độc
lập và công ty tư vấn đó phân tích các khả năng của các nhà cung cấp. [ cần dẫn nguồn ]
Đa dạng hóa
Xu hướng đầu trong gia công phần mềm là biểu hiện trong một cấu trúc tài chính hợp
vốn và nhân viên liên quan đến một chức năng đã được bán cho một nhà cung cấp và sau
đó thuê lại trên một loạt các năm. Lợi ích ban đầu là một tăng trong chuyên môn và hiệu
quả như thuê ngoài các nhà cung cấp đã tập trung hơn và năng lực chuyên môn của họ.
Như thời gian tiến triển, năm 0 lợi ích đã được tắt những cuốn sách, khách hàng cần phát
triển và hợp đồng nói chung tuổi kém. Hợp đồng chặt chẽ cản trở khả năng của khách
hàng để đáp ứng các trình điều khiển kinh doanh mới nổi, và đồng thời gắn liền với bàn
tay của đội ngũ của nhà cung cấp, những người đã được tập trung vào việc gia tăng hiệu
quả cho các vấn đề tĩnh. Kết quả có xu hướng để có thêm "dự án" hợp đồng thay đổi gia
tăng trong một môi trường độc quyền. Nhiều giao dịch đã trở thành tranh cãi, và nhiều
khách hàng đã trở nên rất khó chịu từ bỏ quyền lực rất nhiều để một nhà cung cấp duy
nhất. Hợp đồng tuổi, nó đã trở nên ngày càng khó khăn để đàm phán với các nhà cung
cấp với sự tự tin, bởi vì các khách hàng bắt đầu thiếu bất kỳ kiến thức thực tế của cơ cấu
chi phí của các chức năng, tình hình cạnh tranh của các nhà cung cấp.
Các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp hóa với nhau, tạp chí thương mại và tư vấn quản lý
để cố gắng lấy lại kiểm soát tình hình, và câu trả lời tiếp theo mà nắm lấy ngành công
nghiệp là trọng tài chi phí lao động, tận dụng giá rẻ, nguồn lực bên ngoài để thay thế hoặc
áp lực di sản ngày càng đắt đỏ thuê ngoài các nhà cung cấp . Áp lực khiến các nhà cung
cấp đương nhiệm để di chuyển các nguồn lực bên ngoài, hoặc phải được thay thế bán
buôn. Như đàm phán lại này đang được tiến hành, nhiều khách hàng nắm lấy cơ hội để cơ
cấu lại để giành quyền kiểm soát hơn, minh bạch và quyền lực đàm phán. Kết quả cuối
cùng đã được phân mảnh của hợp đồng thuê ngoài và sự sụt giảm trong nhập lớn. Nhiều
công ty đang dựa nhiều vào nhà cung cấp mỗi người chuyên môn cung cấp và / hoặc chi
phí thấp nhất.
Insourcing
Gia công phần mềm đã trải qua nhiều lần lặp lại và reinventions. Một số giao dịch gia
công phần mềm đã được một phần hoặc hoàn toàn ngược lại với lý do không có khả năng
thực hiện chiến lược, mất tính minh bạch, điều khiển, mô hình hợp đồng lựa chọn hợp lý,
thiếu sự cạnh tranh, chi phí định kỳ, chi phí ẩn, vv .. Nhiều công ty đang di chuyển với
các mô hình phù hợp cùng với nhà cung cấp thuê ngoài đa dạng hóa, bộ phận quan trọng
của những gì trước đây thật đã được insourced. Insourcing đã được xác định như một
phương tiện để đảm bảo kiểm soát, tuân thủ và để đạt được sự khác biệt cạnh tranh thông
qua hội nhập theo chiều dọc hoặc sự phát triển của dịch vụ chia sẻ [thường được gọi là
"trung tâm xuất sắc ']. Insourcing ở một mức độ nào cũng có xu hướng được thừa hưởng
để cho phép các tổ chức phải trải qua những biến đổi đáng kể. [ cần dẫn nguồn ]
Hơn nữa, gia công phần mềm nhãn hiệu đã được tìm thấy để được sử dụng cho quá nhiều
các loại ngoại tệ theo những cách khó hiểu. Ví dụ, phát triển phần mềm toàn cầu, thường
liên quan đến những người làm việc ở các nước khác nhau, nó có thể không chỉ đơn giản
được gọi là gia công phần mềm. Mô hình thị trường gia công phần mềm dựa trên không
giải thích được lý do tại sao các dự án phát triển được hợp tác phát triển, và không chỉ
đơn giản là mua và bán trên thị trường. Gần đây, một nghiên cứu đã xác định thêm một
hệ thống quản trị, algocracy gọi, xuất hiện để quản lý các dự án phần mềm toàn cầu cùng
với các cơ chế quan liêu và dựa vào thị trường. Nghiên cứu [24] phân biệt hệ thống quản lý
theo mã từ bộ máy quan liêu và thị trường và nhấn mạnh các tính năng nổi bật của từng
hình thức tổ chức về cơ chế phán quyết của nó: quan liêu (pháp lý), thị trường (giá cả), và
algocracy (lập trình hay thuật toán). Vì vậy, các dự án phát triển phần mềm toàn cầu, mặc
dù không insourced, không thuê ngoài hoặc. Họ đang ở giữa, trong một quá trình đôi khi
được gọi là xa In-Sourcing . Các dự án được phát triển cùng một nền tảng phần mềm phổ
biến cho phép các đội khác nhau trên thế giới để cùng nhau làm việc trên cùng một dự án.
quan điểm của lao động
Từ góc độ của lao động, gia công phần mềm có thể là một mối đe dọa mới, góp phần cho
nhân viên an ninh, và phản ánh quá trình chung của toàn cầu hóa và kinh tế phân cực
(kinh tế) . [25]
Ngày 26 Tháng Sáu 2009, Jeff Immelt , Giám đốc điều hành của General Electric , kêu
gọi Hoa Kỳ để tăng việc làm trong ngành sản xuất tới 20% lực lượng lao động bình luận
rằng Hoa Kỳ có bên ngoài quá nhiều và không còn có thể dựa vào chi tiêu của người tiêu
dùng để lái xe nhu cầu. [26]
quan điểm của chính phủ
Chính phủ phương Tây có thể cố gắng để bù đắp công nhân bị ảnh hưởng bởi gia công
phần mềm thông qua các hình thức khác nhau của pháp luật. Tại châu Âu, thị quyền Mua
lại cố gắng để giải quyết vấn đề. Chỉ thị được thực hiện khác nhau ở các quốc gia khác
nhau. Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Hỗ trợ điều chỉnh thương mại là có nghĩa là để cung cấp bồi
thường cho người lao động bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các hiệp định thương mại quốc tế.
Có hoặc không có các chính sách này cung cấp an ninh và bồi thường công bằng họ hứa
hẹn là gây tranh cãi.
hoạch định chính sách chiến lược
Một tính năng chính của gia công phần mềm ảnh hưởng đến hoạch định chính sách là
không thể dự đoán nó sẽ tạo ra liên quan đến tương lai của bất kỳ lĩnh vực cụ thể hoặc kỹ
năng làm việc theo nhóm. Sự không chắc chắn của các điều kiện tương lai ảnh hưởng đến
cách tiếp cận quản đến các khía cạnh khác nhau của các chính sách dài hạn.
Chiến lược cạnh tranh
Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải có sự thay đổi, do đó một quản trị xử lý để giúp cơ cấu
kinh tế xã hội và thích ứng với môi trường thay đổi sẽ tạo điều kiện tăng trưởng và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế để ổn định mới. [27] Ở các nước kém phát triển về kinh tế, chính
sách mà nắm lấy hiện tượng toàn cầu gia công phần mềm là một phản ứng tự nhiên của
phong trào đang diễn ra theo hướng mở cửa thị trường và tự do hóa thương mại. o Gia
công phần mềm bổ sung cho các chiến lược tự do hóa thương mại không chỉ bằng cách
thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa công nghệ và dòng vốn đầu tư mà còn bằng cách bù đắp mức
tăng thất nghiệp mà kết quả từ việc mở cửa thị trường trong nước. Khi giá điều chỉnh để
những người trong thị trường quốc tế thì không còn phản ánh năng suất trong nước, thúc
đẩy các công ty thấp hơn năng suất trong lĩnh vực bảo vệ trước đó ra khỏi kinh doanh.
Các nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ thất nghiệp kết quả chỉ là tạm thời là người lao động điều
chỉnh và cuối cùng kết hợp vào các lĩnh vực của đất nước năng suất cao nhất, cụ thể là
những người được hưởng một lợi thế cạnh tranh so với các người chơi khác trong thị
trường quốc tế. Tuy nhiên, tự do hóa nhanh chóng của thị trường trong nước đang phát
triển đã không tối đa hóa các tiềm năng năng suất của khu vực. Ở miền Nam toàn cầu,
nơi phát triển công nghệ là đáng kể thấp hơn so với miền Bắc, bố trí lại nguồn nhân lực
và vốn đầu tư vào thị trường xuất khẩu mới đã không đến với chi phí của các thành phần
nhất thiết phải có năng suất thấp mà là những người kém phát triển. Nói cách khác, rất
nhiều các lĩnh vực bảo vệ là không thể cạnh tranh được nêu ra trên quy mô toàn cầu, chứ
không phải bởi vì họ tự nhiên không có lợi thế so sánh, nhưng vì hiệu quả ngành công
nghiệp vẫn chưa đạt được. [28] Trong trường hợp này, nơi tự do hóa stunts sự phát triển
của tiềm năng của ngành công nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là một sự phản ánh của nhiều
nguồn lực thiếu việc làm. Gia công phần mềm lấp đầy khoảng trống của lùi ngành công
nghiệp quốc gia bảo vệ, cải thiện việc làm và mức sống. Trong số các yếu tố bên ngoài
khác kinh tế, gia công phần mềm khuyến khích các dòng vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng. Ở
Mexico, hội tụ lương là nhanh hơn ở các thành phố nơi gia công phần mềm đầu tiên đã tổ
chức thông qua những maquiladoras, dọc theo biên giới Mỹ-Mexico. Nghiên cứu cho
thấy rằng đối với mỗi tăng 10% tiền lương Mỹ, thành phố phía bắc Mexico trong đó chịu
ảnh hưởng nhiều nhất bởi gia công phần mềm sẽ kinh nghiệm lương tăng 2,5%, cao hơn
so với ở các thành phố bên trong khoảng 0,7%. [29] tham nhũng và các khoản thu thuế
giảm sau khi ký NAFTA Hiệp ước đã giới hạn các nguồn lực kinh tế sẵn có để chính phủ
Mexico, do đó giải thích sự khác biệt trong chính sách đầu tư giữa Mexico và Trung
Quốc. [28] Ngược lại, một trong những thành công của các nước châu Á trong thế kỷ XX
đã được quảng cáo của họ ở mức cao hơn tiết kiệm và đầu tư. Các nghiên cứu cho rằng
sự gia tăng trong đầu vào vốn được thúc đẩy 'phép lạ Á Châu hơn là cải thiện năng suất
và hiệu quả công nghiệp. Mặc dù kết luận trước đây cho thấy điều kiện sản xuất trong
khu vực vẫn tĩnh, tình hình ở Đông Á đã trải qua sự biến đổi nhanh chóng. Không chỉ là
tỷ lệ giáo dục quốc gia tăng đáng kể, nhưng cũng có sự gia tăng trong bằng sáng chế và
chi phí nghiên cứu và phát triển. Mức tăng của giáo dục, đô thị hóa và thậm chí cả các
bằng sáng chế cho thấy vai trò tích cực của chính phủ trong việc thúc đẩy giáo dục cũng
như khuyến khích nghiên cứu và phát triển. [30]
Chiến lược Giáo dục
Việc trở thành bên ngoài không dựa trên nhóm kỹ năng cấp nó đại diện, mà là dựa trên
nhiều yếu tố khác bao gồm cả chi phí vận chuyển các ý tưởng, tiền lương và cạnh năng
suất lao động. [27] Bởi vì sự không chắc chắn tổng thể liên quan đến các động thái tương
lai của gia công phần mềm nó là không thể dự đoán bản chất của nhu cầu lao động trong
các khu vực khác nhau. Để chuẩn bị tốt hơn lực lượng lao động trong nước để yêu cầu
ngành công nghiệp trong tương lai, do đó, chương trình giáo dục quốc gia nên tập trung
vào tính linh hoạt và đa dạng của các kỹ năng chứ không phải là bất kỳ kỹ năng nhiệm vụ
theo định hướng cụ thể. Nhấn mạnh cần tiếp tục chuẩn bị học sinh cả để thành công trong
công việc không thường xuyên và để thích ứng với những thay đổi trong nhu cầu lao
động trên thị trường. [31] Một mục tiêu cụ thể mà nên được áp dụng là dạy cho học sinh
cách học chứ không phải dạy chúng những kỹ năng cụ thể. Chiến lược này sẽ giúp học
sinh thích ứng với thay đổi yêu cầu kỹ năng trong tương lai, do đó làm giảm ma sát từ
thất nghiệp cơ cấu. [27]
Chiến lược Nhà nước Phúc lợi
Sự không chắc chắn liên quan đến việc cạnh năng suất trong nước làm cho cảnh báo một
yếu tố quan trọng của quản trị để đảm bảo một sự phát triển bền vững trong khu vực.
Cùng với việc giúp đỡ những người thất nghiệp lại nhập vào lực lượng lao động và suốt
quá trình chuyển đổi thành cơ hội lao động có nhu cầu cao - có khả năng thông qua các
chương trình đào tạo -, chính phủ cũng cần phải giải quyết cuộc đấu tranh kinh tế xã hội
và mối quan tâm phúc lợi khác của người lao động di dời. [32] phúc lợi tiêu cực ảnh hưởng
của gia công phần mềm đã tập hợp sự chú ý của công chúng. Khả năng gia công phần
mềm quốc tế thị trường lao động được sử dụng để được địa phương, mở ra công việc mà
theo truyền thống không giao dịch để cạnh tranh quốc tế. Sự kết hợp giữa kết quả của
mức lương thấp hơn và tỷ lệ thất nghiệp cho công việc nhất định đã thúc đẩy sự nhận
thức 'thua' để tham gia vào các cuộc tranh luận chính trị nóng bỏng. Các công đoàn lao
động trong Liên minh châu Âu đã thành công trong việc thúc đẩy thông qua các chính
sách bảo hộ trong nhóm ủng hộ hoặc thấp hơn có tay nghề trong suốt năm 1970 và 1980,
bao gồm các chính sách nông nghiệp chung về nông nghiệp. [27] Các nhóm lợi ích đối lập
gia công phần mềm đã hoạt động tích cực hơn để tiếng nói của họ, vì không chấp thuận
những kết quả tiêu cực của hiện tượng này là tập trung nhiều hơn vào các nhóm người cụ
thể, cụ thể là những người mất việc làm cho cạnh tranh bên ngoài, trong khi những lợi
ích từ nó bị tiêu tan trong dân số nói chung. Tổng giá thấp hơn và chất lượng tốt hơn và
nhiều loại hàng hóa trong thị trường nội địa là một số lợi ích của việc khai thác lợi thế so
sánh của một quốc gia thông qua gia công phần mềm. Không giống như "kẻ thua cuộc"
bị cáo buộc từ gia công phần mềm, những ảnh hưởng tích cực bởi nó thiếu động lực để tổ
chức lên tiếng ủng hộ của họ. Hiện đã có một làn sóng bảo hộ liên quan đến thay đổi sâu
sắc trong cơ cấu xã hội bị cáo buộc đối với hệ thống toàn cầu thông qua toàn cầu hóa và
gia công phần mềm. Các nhà hoạt động nhìn thấy một sự điều chỉnh của hệ thống lớp học
và làm nổi bật một gãy xương gia tăng trong xã hội giữa 'giàu' và 'có nghèo như các
nhóm khác nhau điều chỉnh để ngày càng giảm dần vị trí thuận lợi trong hệ thống gia
công phần mềm. Đối thủ của gia công phần mềm cũng đã lên án nó như là một mối đe
dọa đến tính toàn vẹn văn hóa địa phương. Lập luận trên điểm phân rã văn hóa để tiêu
chuẩn hóa các thông lệ và chuẩn mực như các tập đoàn đa quốc gia tham gia với các
ngành công nghiệp trong các khu vực khác nhau về văn hóa từ những người trong nước
xuất xứ. Sự phổ biến của văn hóa bị cáo buộc đã gây lo ngại về sức chịu đựng của chuẩn
mực văn hóa và các giá trị, các tổ chức và các khuôn khổ chính trị xã hội, hoặc thậm chí
sở thích văn hóa và truyền thống trong bối cảnh gia tăng sự hiện diện của nước ngoài. [33]
gia tăng sự không chắc chắn liên quan đến an ninh kinh tế xã hội trong tương lai phải
được đáp ứng với chính sách thúc đẩy bình đẳng và phân phối hợp lý lợi ích kinh tế cho
chính phủ để duy trì lợi cử tri của mình. Vì không thể tiên đoán tổng thể, các chính phủ
có thể sẽ cần phải trấn an người dân rằng gánh nặng của việc làm việc làm từ gia công
phần mềm sẽ được chia sẻ giữa các đối tượng nộp thuế. [27] Các biến động về người lao
động được xác định theo loại công việc có thể được lợi nhuận bên ngoài hoặc offshored.
Công ăn việc làm trong nước trở nên offshored hoặc thuê ngoài khi năng suất thấp hơn
trong các khu vực khác được bù đắp bởi mức lương thấp hơn, làm gia công phần mềm có
lãi ngay cả mặc dù chi phí vận tải tăng của. Hiệu quả chi phí tổng thể của gỡ rối không
gian của quá trình công nghiệp thì phụ thuộc vào chi phí vận chuyển dịch vụ hay ý tưởng
cụ thể cho các công nghệ sẵn có. Vì lý do này tiến bộ kỹ thuật như cuộc cách mạng viễn
thông, vận chuyển khí hoặc Internet đã tăng tốc sâu gia công phần mềm và có thể tiếp tục
thúc đẩy quá trình này. Các kết quả tương lai của sự khéo léo công nghệ và đổi mới chưa
được biết, như những tác động về người lao động tiềm năng của nó trên bất kỳ nhiệm vụ
được giao hoặc công việc giữa các khu vực. [27] Ở miền Nam toàn cầu, chính sách thu hút
các tập đoàn đa quốc gia có thể giúp giảm việc làm gia tăng và thúc đẩy tăng trưởng. Các
chính phủ mà theo đuổi chiến lược này tạo điều kiện bảo vệ phúc lợi trong bối cảnh tỷ lệ
thất nghiệp tăng trong ngành công nghiệp đó không thể cạnh tranh với các thị trường
quốc tế do chính sách tự do hóa thương mại. [28]
Chính sách công nghiệp
Kết quả gia công phần mềm từ một quốc tế của thị trường lao động là nhiệm vụ càng trở
nên có thể giao dịch. Theo nhà kinh tế hàng đầu Greg Mankiw, các chức năng của thị
trường lao động theo các lực lượng tương tự như các thị trường hàng hóa, với ý nghĩa cơ
bản là lớn hơn số lượng công việc có sẵn để được di chuyển, tốt hơn cho hiệu quả dưới
lợi ích từ thương mại. Với những tiến bộ công nghệ, nhiệm vụ có thể được offshored ở
các giai đoạn khác nhau của quá trình doanh nghiệp tổng thể. [34]
Chính sách môi trường
Có những tuyên bố rộng rãi rằng gia công phần mềm đã đẩy tiêu chuẩn môi trường
xuống trong việc phát triển các khu vực như các nước cạnh tranh để thu hút các dự án
đầu tư nước ngoài. Tương tự như mức lương thấp hơn, sức khỏe thấp hơn và các quy
định môi trường góp phần cho một quốc gia là một lợi thế so sánh hơn khác do chi phí
sản xuất thấp hơn. Cuộc tranh cãi này đặt ra, tuy nhiên, là không giống như tiền lương,
tiêu chuẩn môi trường y tế thấp hơn hoặc không có lợi cho nhân viên mới gia nhập lực
lượng lao động. Cạnh tranh nhập khẩu đã gây ra trên thực tế "chạy đua-to-the-dưới ', nơi
các nước thấp hơn quy định môi trường để đảm bảo lợi thế cạnh tranh cho ngành công
nghiệp của họ so với các nước khác. Như Mexico cạnh tranh với Trung Quốc trên thị
trường Canada và Mỹ, Ủy ban quốc gia về hợp tác môi trường đã không được hoạt động
trong ban hành hoặc thi hành các quy định để ngăn chặn thiệt hại về môi trường từ các
khu chế xuất khẩu ngày càng công nghiệp hóa. Tương tự như vậy, kể từ khi ký các ngành
công nghiệp nặng NAFTA đã ngày càng chuyển đến Mỹ trong đó có một lợi thế so sánh
do nguồn vốn hiện diện phong phú của nó và công nghệ phát triển tốt. Một ví dụ khác
của môi trường quy định định với mục tiêu bảo vệ các ưu đãi thương mại đã có nhiều
việc miễn các loại thuế carbon ở các nước châu Âu trong những năm 1990. Bằng chứng
cho thấy rằng ngay cả khi gia công phần mềm đã thúc đẩy bảo vệ môi trường thấp hơn,
không có ý nghĩa thực chất địa lý mà miền Nam toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực hơn so
với miền Bắc. o Mặc dù gia công phần mềm có thể ảnh hưởng đến xu hướng de-điều
chỉnh môi trường, chi phí gia tăng của việc ngăn ngừa ô nhiễm không majorly xác định
dòng chảy thương mại hoặc công nghiệp hóa. [35]
Toàn cầu hóa và tác động kinh tế xã hội
Sự bất bình đẳng và phát triển toàn cầu
Công nghiệp hóa
Gia công phần mềm đã góp phần san lấp mặt bằng thêm sự bất bình đẳng toàn cầu vì nó
đã dẫn đến xu hướng chung của công nghiệp ở miền Nam toàn cầu và deindustrialization
ở miền Bắc toàn cầu.
Mặc dù gia công phần mềm đã thúc đẩy một phong trào của các khu công nghiệp từ miền
Bắc toàn cầu khu vực Nam bán cầu, nó đã không được lý do duy nhất cho
deindustrialization đồng thời và công nghiệp của miền Bắc và Nam tương ứng.
Deindustrialization hơn về mặt kinh tế và công nghệ khu vực phát triển cũng đã bị ảnh
hưởng bởi năng suất công nghiệp tăng lên. [36]
Sự gia tăng hiệu quả công nghiệp đặc trưng phát triển trong các nước phát triển đã xảy ra
như một kết quả của cải tiến công nghệ tiết kiệm lao động. Mặc dù những cải tiến này
không trực tiếp làm giảm mức độ làm việc nhưng thay vì tăng sản lượng trên một đơn vị
làm việc, họ có thể gián tiếp làm giảm số lượng lao động cần thiết cho mức độ cố định
của đầu ra. [37] Tương tự như vậy, một sự thay đổi xu hướng trong nhu cầu cho các dịch
vụ không thể mua bán như những người trong lĩnh vực chăm sóc y tế hay chính phủ có
deindustrialization tiếp tục tăng tốc ở miền Bắc toàn cầu. Kể từ khi những công việc này
không thể được thuê ngoài, nhu cầu cho họ cần phải được đáp ứng trong nước tuân theo
giá thị trường địa phương. Do đó, một sự thay đổi trong lực lượng lao động theo hướng
thực hiện các dịch vụ có lợi nhuận đã chủ yếu diễn ra tại các chi phí của ngành công
nghiệp từ các khu vực nông nghiệp trong công nghiệp hóa đầu Toàn cầu Bắc đã được tối
đa hóa năng suất lao động của mình. [36]
Mặc dù có sự đa dạng của các yếu tố trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến
deindustrialization ở miền Bắc toàn cầu, liên quan đến những tác động bên ngoài của thị
trường toàn cầu đã có những ảnh hưởng nhất kể từ năm 1994. [38]
Quá trình công nghiệp gia công phần mềm gần đây đã khuyến khích ở miền Nam toàn
cầu đã diễn ra với tốc độ nhanh hơn nhiều so nó đã làm trong thời gian khởi đầu của nó ở
miền Bắc, cho rằng các công nghệ phát triển tốt đã được phát triển, và chỉ lây lan sang
các khu vực xa hơn. [36]
Tăng trưởng và thu nhập
Sự nghiệp công nghiệp gần như đồng thời của phát triển Nam bán cầu và
deindustrialization của phát triển hơn Toàn cầu Bắc dẫn đến sự hội tụ quốc tế của thu
nhập.
Gia công phần mềm đã được đặc trưng bởi tỷ lệ tăng trưởng nhanh và công nghiệp ở
miền Nam toàn cầu. Ngược lại, Bắc toàn cầu đã trải qua một sự suy giảm tăng trưởng vừa
phải trong. Cơ cấu công nghiệp toàn cầu và deindustrialization được giải thích bởi sự kết
hợp của các mô hình trong địa lý kinh tế và tăng trưởng kinh tế. Mô hình trong địa lý
kinh tế minh họa rằng giảm chi phí liên lạc giảm các phân nhóm không gian phát triển
công nghiệp. Chi phí thấp hơn sự lây lan của những ý tưởng cải thiện sự phối hợp và giao
tiếp trong công ty qua khoảng cách địa lý lớn hơn. Quá trình này có nguồn gốc khoảng
quốc tế sau khi sự hỗn loạn của cuộc chiến tranh thế giới, như một hệ quả của các tiến bộ
trong công nghệ thông tin trong những năm 1960. Thích ứng hơn nữa để tiến bộ công
nghệ, đặc biệt là sự lan truyền của Internet và tự do hóa các ngành công nghiệp viễn
thông, cho phép gia tốc chuyển động của ý tưởng và kết quả là gia công phần mềm từ
khoảng những năm 1980. [36]
Đô thị hóa
Tốc độ đô thị hóa ở miền Bắc toàn cầu giảm đáng kể so với mức cao sau cuộc Cách
mạng công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng đô thị có thể cao hơn ở miền Nam toàn cầu. [39]
Thương mại
Gia công phần mềm xuất hiện với một làn sóng mới của toàn cầu đánh dấu bằng khối
lượng cao của thương mại và dòng vốn. Sự gia tăng chuyển động của vốn và hàng hóa
trái ngược hẳn với những rào cản bảo hộ và phổ biến trong suốt chiến tranh thế giới và
cuộc Đại suy thoái trong những năm giữa các cuộc chiến. [36]
Di cư
Mức độ di cư vẫn còn tương đối thấp, đặc biệt là so với các xu hướng di cư hàng loạt mà
đặc trưng của cách mạng công nghiệp khoảng giữa năm 1850 và năm 1914. [36]
Sự bất bình đẳng trong nước
Gia công phần mềm ở miền Bắc toàn cầu dẫn đến một sự phân kỳ tăng trong mức việc
làm trong nước trong các nhiệm vụ khác nhau trong một ngành công nghiệp nhất định,
làm cho việc giải quyết tình trạng thất nghiệp khó khăn hơn cho các chính phủ như mất
việc làm không còn là chủ yếu ngành. [36]
Theo quốc gia
Hoa Kỳ
"Gia công phần mềm" đã trở thành một vấn đề chính trị nổi tiếng ở Hoa Kỳ, đã được
conflated với gia công, trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2004 . Các cuộc tranh luận
chính trị tập trung vào hậu quả gia công phần mềm cho lực lượng lao động trong nước
Mỹ. Dân chủ Hoa Kỳ ứng viên Tổng thống John Kerry chỉ trích các công ty Mỹ thuê
ngoài công việc ra nước ngoài hoặc kết hợp ở nước ngoài nơi ẩn trú thuế để tránh phải trả
"chia sẻ công bằng" của họ về thuế của Hoa Kỳ trong chiến dịch năm 2004 của mình, gọi
các công ty này " Benedict Arnold tập đoàn ". [40]
Lời chỉ trích của gia công phần mềm, từ quan điểm của công dân Hoa Kỳ , thường xoay
quanh các chi phí liên quan đến chuyển giao kiểm soát của quá trình lao động cho một
thực thể bên ngoài ở một nước khác. Một quốc tế Zogby cuộc thăm dò vào tháng Tám
năm 2004 cho thấy 71% cử tri Mỹ tin rằng "công việc gia công phần mềm ở nước ngoài"
tổn thương nền kinh tế khác, trong khi 62% cho rằng chính phủ Mỹ nên áp đặt một số
hành động pháp lý chống lại các công ty chuyển việc làm trong nước ở nước ngoài, có
thể trong dưới hình thức thuế tăng trên các công ty thuê ngoài. [41] Một dự đoán (từ năm
2010) cho rằng, vào năm 2014, hơn 1,3 triệu vị trí sẽ biến mất vì "phong trào tăng tốc
công việc đến Ấn Độ ..." và một số nước khác sẵn sàng chấp nhận công việc bên ngoài.
[42]
Tổng thống Obama thúc đẩy một hành động mang tên " Mang Công Việc nhà luật 'mà
có thể giúp công việc reshore bằng cách đưa ra các ưu đãi như giảm thuế hoặc một tín
dụng thuế suất 20 phần trăm cho việc di chuyển hoạt động trở lại Hoa Kỳ. [43]
Busting Union là một trong những nguyên nhân có thể gia công phần mềm. Như công
đoàn bị thiệt thòi của pháp luật busting công đoàn, người lao động mất khả năng thương
lượng và nó trở nên dễ dàng hơn cho các công ty sa thải họ và vận chuyển công việc của
họ ở nước ngoài. [44]
Một cho [ ai? ] lý do là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao trong tương đối của Mỹ
với các nước OECD khác, [45] [46] [47] và thực hành thu thuế thu được bên ngoài thẩm
quyền của Hoa Kỳ, một thực tế rất phổ biến. Tuy nhiên, gia công phần mềm không chỉ là
một hiện tượng của Mỹ như các công ty ở các quốc gia khác nhau với mức thuế suất thấp
thuê ngoài là tốt, mà có nghĩa là thuế cao có thể chỉ một phần, nếu có, giải thích Mỹ gia
công phần mềm. Ví dụ, số lượng của các công ty gia công phần mềm trong năm 1950 sẽ
thấp hơn đáng kể so với ngày nay, nhưng mức thuế suất là thực sự cao hơn vào năm
1950. [48]
Người ta lập luận [ của ai? ] rằng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và kết thúc đôi thuế
doanh thu có nguồn gốc từ nước ngoài (bị đánh thuế một lần trong các quốc gia nơi mà
doanh thu đã được nâng lên, và một lần từ Mỹ) sẽ làm giảm bớt gia công phần mềm của
công ty và thực hiện các Mỹ hấp dẫn hơn cho các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, trong
khi Mỹ có tỷ lệ thuế cao chính thức, các loại thuế thực tế chi trả của các tập đoàn Mỹ có
thể thấp hơn đáng kể do việc sử dụng các lỗ hổng thuế, nơi ẩn trú thuế, và "chơi game hệ
thống". [49] Thay vì tránh thuế, gia công phần mềm có thể được chủ yếu là thúc đẩy bởi
mong muốn với chi phí lao động thấp hơn (xem quan điểm của lao động ở trên).
Sarbanes-Oxley cũng đã được trích dẫn là một yếu tố cho chuyến bay của công ty từ Mỹ
thẩm quyền.
Liên minh châu Âu
Nơi gia công phần mềm liên quan đến việc chuyển giao một công việc, nó phụ thuộc vào
Hội đồng Chỉ thị 77/187 của ngày 14 tháng 2 năm 1977, trên xấp xỉ của pháp luật của các
nước thành viên liên quan đến việc bảo vệ quyền của người lao động trong trường hợp
chuyển giao các chủ trương, các doanh nghiệp hoặc các bộ phận của các doanh nghiệp
(sửa đổi Chỉ thị 98/50/EC của 29 tháng 6 năm 1998; hợp nhất trong Chỉ thị 2001/23 của
ngày 12 Tháng Ba năm 2001). [50] Theo chỉ thị rằng, quyền được mua lại bởi nhân viên
với nhà tuyển dụng trước đây là phải được bảo vệ khi họ, cùng với các cam kết mà họ
được tuyển dụng, được chuyển giao cho cơ quan khác, tức là các nhà thầu. Một ví dụ về
một trường hợp liên quan như hợp đồng ra là quyết định của Tòa án Tư pháp châu Âu
trong Christel Schmidt v Spar-und der Leihkasse früheren Ämter Bordesholm, Kiel und
Cronshagen, Case C-392/92 [1994]. Mặc dù quyết định tiếp theo đã gây tranh cãi cho dù
một hành ký kết hợp đồng tập thể dục đặc biệt được thành lập chuyển nhượng một cam
kết (xem, ví dụ, Ayse Süzen v Zehnacker Gebäudereinigung GmbH Krankenhausservice,
Case C-13/95 [1997]), về nguyên tắc, nhân viên của doanh nghiệp gia công phần mềm là
một phần của các hoạt động của mình, trong đó họ đang làm việc có thể được hưởng lợi
từ việc bảo vệ được cung cấp bởi các chỉ thị.
Tìm kiếm để thực hiện các giải pháp cắt giảm chi phí, nhiều công ty Tây Âu đã được
chuyển giao các dự án công nghệ cao về phía đông. Ví dụ, Ngân hàng Deutsche Bank có
một số phần mềm của nó phát triển ở Ukraine, Siemens có R & D tại Romania. Gia công
phần mềm châu Âu đã tạo ra kết quả xuất sắc và từ rày về sau họ đang gia tăng trong số
họ. [ cần dẫn nguồn ]
Mặc dù điều kiện kinh tế không thuận lợi 2007-2009, các dịch vụ thị trường gia công
phần mềm vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở Trung và Đông Âu. Trong năm 2008 khi dòng
vốn đầu tư vào Tây Âu đã giảm 48%, nó chỉ giảm 9% ở Trung và Đông Âu. Trong Ba
Lan một mình, trong năm 2009, một năm sau khi suy thoái kinh tế toàn cầu, khoảng
10.000 việc làm được tạo ra trong quá trình kinh doanh (BPO). [ cần dẫn nguồn ]
Cờ-tìm nguồn cung ứng
Đồng tìm nguồn cung ứng là một thực tế kinh doanh nơi mà một dịch vụ được thực hiện
bởi nhân viên từ bên trong một tổ chức và cũng bởi một nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài.
[51] [52]
Nó có thể là một dịch vụ thực hiện trong buổi hòa nhạc với một khách hàng nội bộ
hiện đang kiểm toán bộ phận. Phạm vi công việc có thể tập trung vào một hoặc nhiều
khía cạnh của kiểm toán nội bộ chức năng. Đồng tìm nguồn cung ứng có thể phục vụ để
giảm thiểu rủi ro tìm nguồn cung ứng, tăng tính minh bạch, rõ ràng và cho vay đối với
kiểm soát tốt hơn các quá trình gia công phần mềm. [ cần dẫn nguồn ]
Ví dụ về hợp tác tìm nguồn cung ứng dịch vụ được bổ sung các nhân viên kiểm toán nội
bộ trong nhà với kỹ năng chuyên ngành như thông tin quản lý rủi ro hoặc các dịch vụ tích
hợp, cung cấp hỗ trợ thường xuyên để kiểm toán tại nhà cho các hoạt động đánh giá và
kiểm soát hoạt động trong giai đoạn cao điểm và thực hiện các dự án đặc biệt như điều
tra gian lận hoặc thẩm định đầu tư nhà máy. Một ví dụ khác của đồng gia công phần mềm
tìm nguồn cung ứng được một phần của phát triển phần mềm hoặc phần mềm bảo trì các
hoạt động bên ngoài một tổ chức , trong khi vẫn giữ một phần của sự phát triển trong
nhà.
quản lý nhận dạng đồng tìm nguồn cung ứng
Đây là một cách tiếp cận để doanh nghiệp quản lý danh tính , trong đó dịch vụ bản sắc
tương tác trực tiếp hoặc thông qua một số dấu chân kỹ thuật với một tổ chức Công nghệ
thông tin (CNTT) phụ trợ bản sắc cơ sở hạ tầng (các thư mục, cơ sở dữ liệu , lưu trữ danh
tính khác). Các tổ chức và các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài thường có một chia sẻ
trách nhiệm xây dựng, lưu trữ và vận hành dịch vụ nhận dạng. Sự cân bằng của trách
nhiệm này có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ dịch vụ cần thiết, và khoảng từ tất cả
các triển khai trên tiền đề, nơi mà các dịch vụ bản sắc được xây dựng, tổ chức và hoạt
động trong cơ sở hạ tầng CNTT của tổ chức và quản lý trên tiền đề của các nhà cung cấp
dịch vụ bên ngoài. Điều này trái ngược với "tất cả trong các đám mây" kịch bản dịch vụ,
trong đó dịch vụ bản sắc được xây dựng, tổ chức và điều hành bởi các nhà cung cấp dịch
vụ trong một tổ chức, bên ngoài điện toán đám mây cơ sở hạ tầng.
Counterwave Gia công phần mềm
Hiện đã có gần đây lật đổ của xu hướng thuê ngoài. Các xu hướng mới nhất trong gia
công phần mềm và gia công đã được chính xác lực lượng đối diện như các công ty đang
trôi trở lại để thực hiện các nhiệm vụ bản thân và phát triển cơ sở tại các địa điểm
phương Tây.
Nhiều công ty đang hoàn tác các bước của họ trong gia công phần mềm vì những hậu quả
không hoàn toàn như mong đợi. Các trường hợp cho phép các công ty Không bắt buộc
các nhiệm vụ khác nhau hoặc các giai đoạn của quá trình sản xuất của mình vào các vị trí
khác nhau chưa được xác định đầy đủ. Mặc dù bản chất của nhiệm vụ đóng vai trò quyết
định sự liên kết của họ, các yếu tố khác như sự đổi mới trong quá trình sản xuất hoặc
những tiến bộ trong công nghệ giao thông vận tải cũng ảnh hưởng đến sự cần thiết phải
tiếp xúc trực tiếp giữa các nhân viên. Là quá trình mà quan hệ công việc với nhau trong
các công ty vẫn chưa rõ ràng, có một mức độ không chắc chắn về những nhiệm vụ cần
phải duy trì địa lý nhóm cùng nhau. Trong nhiều trường hợp các công ty mạo hiểm thử
nghiệm với gia công phần mềm trong khi thiếu một sự hiểu biết vững chắc của mối quan
hệ giữa công việc nội bộ và những tác động không gian của nó. [36]
Mặc dù tiết kiệm tiền, các công ty thường phải đối mặt với những hạn chế bất ngờ từ gia
công phần mềm, chẳng hạn như thông tin nhầm lẫn hoặc chất lượng thấp hơn các sản
phẩm trung gian, mà kết thúc việc trì hoãn quá trình sản xuất tổng thể. Theo một cuộc
khảo sát tư vấn Deloitte thực hiện trong năm 2005, một phần tư của các công ty có nhiệm
vụ thuê ngoài phải đảo ngược chiến lược của họ. Nhiều công ty lớn như Lenovo đang
ngày càng xem xét chuyển xung quanh chiến lược gia công phần mềm. [53]
Một lý do cho sự sụt giảm về gia công phần mềm là rất nhiều công việc đã được ký hợp
đồng phụ ở nước ngoài đã được thay thế bởi những tiến bộ công nghệ. [54]
Ý kiến công chúng ở Mỹ và các cường quốc phương Tây khác phản đối gia công phần
mềm được đặc biệt tăng cường bởi sự gia tăng mạnh mẽ trong thất nghiệp như là một kết
quả của cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008. Trong thập kỷ đầu tiên 2000-2010, Mỹ
đã trải qua một lỗ ròng 687.000 việc làm do gia công phần mềm, chủ yếu trong các máy
tính và ngành điện tử. Tỉnh ngộ công chúng với gia công phần mềm đã không chỉ khuấy
động phản ứng chính trị, như đã thấy trong năm 2012 các chiến dịch của Tổng thống Mỹ,
nhưng nó cũng đã làm cho các công ty miễn cưỡng khi phải thuê ngoài hoặc công việc ở
nước ngoài.
Outsourcing is the contracting out of an internal business process to a third party
organization. The practice of contracting a business process out to a third party rather
than staffing it internally is common in the modern economy. The term "outsourcing"
became popular in the United States near the turn of the 21st century. Outsourcing
sometimes involves transferring employees and assets from one firm to another but not
always.[1]
The definition of outsourcing includes both foreign and domestic contracting, [2] and
sometimes includes offshoring, which means relocating a business function to another
country.[3] Financial savings from lower international labor rates is a big motivation for
outsourcing/offshoring.
The opposite of outsourcing is called insourcing, which entails bringing processes
handled by third party firms in-house, and is sometimes accomplished via vertical
integration. However, a business can provide a contract service to another business
without necessarily insourcing that business process.
Contents
•
1 Overview
o
•
1.1 Reasons for outsourcing
2 Implications
o
2.1 Management processes
o
2.2 Quality of service (QoS)
o
2.3 Language skills
o
2.4 Security
o
2.5 Qualifications of outsourcers
o
2.6 Diversification
o
2.7 Insourcing
o
2.8 Standpoint of labor
o
2.9 Standpoint of government
o
2.9.1 Policy-Making Strategy
2.9.1.1 Competitiveness Strategy
2.9.1.2 Education Strategy
2.9.1.3 Welfare State Strategy
2.9.1.4 Industrial Policy
2.9.1.5 Environmental Policy
2.10 Globalization and Socio-Economic Implications
2.10.1 Global Inequality and Development
•
•
2.10.1.1 Industrialization
2.10.1.2 Growth and Income
2.10.1.3 Urbanization
2.10.2 Trade
2.10.3 Migration
2.10.4 Domestic Inequality
3 By country
o
3.1 United States
o
3.2 European Union
4 Co-sourcing
o
4.1 Identity management co-sourcing
•
5 Counterwave Outsourcing
•
6 See also
•
7 References
•
8 External links
Overview
Two organizations may enter into a contractual agreement involving an exchange of
services and payments. Outsourcing is said to help firms to perform well in their core
competencies and mitigate shortage of skill or expertise in the areas where they want to
outsource.[4]
In the early 21st century, businesses increasingly outsourced to suppliers outside their
own country, sometimes referred to as offshoring or offshore outsourcing. Several related
terms have emerged to refer to various aspects of the complex relationship between
economic organizations or networks, such as nearshoring, crowdsourcing,
multisourcing[5][6] and strategic outsourcing.[7]
Outsourcing can offer greater budget flexibility and control. Outsourcing lets
organizations pay for only the services they need, when they need them. It also reduces
the need to hire and train specialized staff, brings in fresh engineering expertise, and
reduces capital and operating expenses.[8]
One of the biggest changes in the early 21st century came from the growth of groups of
people using online technologies to use outsourcing as a way to build a viable service
delivery business that can be run from virtually anywhere in the world. The preferential
contract rates that can be obtained by temporarily employing experts in specific areas to
deliver elements of a project purely online means that there is a growing number of small
businesses that operate entirely online using offshore contractors to deliver the work
before repackaging it to deliver to the end user. One common area where this business
model thrives is in provided website creating, analysis and marketing services. All
elements can be done remotely and delivered digitally and service providers can leverage
the scale and economy of outsourcing to deliver high value services at reduced endcustomer prices.
Reasons for outsourcing
Companies outsource to avoid certain types of costs. Among the reasons companies elect
to outsource include avoidance of burdensome regulations, high taxes, high energy costs,
and unreasonable costs that may be associated with defined benefits in labor union
contracts and taxes for government mandated benefits. Perceived or actual gross margin
in the short run incentivizes a company to outsource. With reduced short run costs,
executive management sees the opportunity for short run profits while the income growth
of the consumers base is strained.[2] This motivates companies to outsource for lower
labor costs. However, the company may or may not incur unexpected costs to train these
overseas workers.[9] Lower regulatory costs are an addition to companies saving money
when outsourcing. On comparative costs, a U.S. employer typically incurs higher defined
benefit costs associated with taxes to account for social security, Medicare, safety
protection (OSHA regulations) and FICA taxes etc. than in other countries.[10] On
comparative CEO pay, executive pay in the United States in 2007 was more than 400
times more than average workers—a gap 20 times bigger than it was in 1965.[11] In 2011,
twenty-six of the largest US corporations paid more to CEO's than they paid in federal
taxes.[12] However, it appears companies do not outsource to reduce executive or
managerial costs.
Companies may seek internal savings to focus money and resources towards core
business. A company may outsource its landscaping functions irrelevant to the core
business.[13] Companies and public entities may outsource certain specialized functions,
such as payroll, to ADP or Ceridian. Companies may find the same level of consumer
satisfaction.[14][15]
Import marketers may make short run profits from cheaper overseas labor and currency
mainly in wealth consuming sectors at the long run expense of an economy's wealth
producing sectors straining the home county's tax base, income growth, and increasing
the debt burden. When companies offshore products and services, those jobs may leave
the home country for foreign countries at the expense of the wealth producing sectors. [2]
Outsourcing may increase the risk of leakage and reduce confidentiality, as well as
introduce additional privacy and security concerns.[16][17]
Implications