Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO
ĐạI HọC THáI NGUYÊN
BáO CáO KếT QUả
Đề TàI NGHIÊN CứU KHOA HọC CấP Bộ
Mã Số: B2010- TN02-01
Tên đề tài:
NGHIÊN CứU sử DụNG BộT Lá SắN TRONG CHĂN NUÔI Gà THịT Và Gà
Đẻ TRứNG
Chủ trì đề tài
Ngời tham gia
:
:
Thời gian thực hiện :
Địa điểm nghiên cứu :
TS. MAI ANH KHOA
THS. TRầN THị HOAN
TS. Từ Trung Kiên
ThS. Nguyễn Hữu Thọ
2010-2011
Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên - 2012
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Ở nhiều nước trên thế giới, bột lá cây thức ăn xanh được xem như một thành
phần không thể thiếu được trong thức ăn của gia súc, gia cầm. Ở nước ta, khoảng
mười năm gần đây, người ta chủ yếu sử dụng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh để nuôi gia
súc và gia cầm, nhưng trong thức ăn đó, bột lá cây thức ăn xanh hầu như không có.
Nhiều nhà khoa học ở trên thế giới và trong nước, đã nghiên cứu và kết luận rằng vật
nuôi được ăn khẩu phần có bột lá cây thức ăn xanh thì khả năng sinh trưởng và sản
xuất cao hơn so với khẩu phần ăn không có bột lá thức ăn xanh. Ngoài ra, chất lượng
sản phẩm còn tốt hơn (thịt, trứng thơm ngon và có màu sắc hấp dẫn hơn…).
Ở một số nước trên thế giới việc sản xuất bột lá cây thức ăn xanh đã trở thành một
ngành công nghiệp chế biến như Colombia, Thái Lan, Ấn Độ, Philippin... Các loại thực
vật thường được trồng để sản xuất bột lá ở các châu lục như sau: Ở Châu Á (Philippin,
Ấn Độ) là keo giậu và Châu Mỹ (Braxin, Colombia) là sắn.
Việt Nam chưa có ngành công nghiệp sản xuất bột lá thức ăn xanh, nhưng trong
tương lai rồi sẽ phải có. Về loại thực vật có thể sử dụng để sản xuất bột lá, chúng tôi
suy nghĩ tới cây sắn. Theo Kim và cs (2008) [101] thì ở nước ta vào năm 2007 có
khoảng 560.000 ha trồng sắn, với khoảng 5 tấn bột ngọn lá thu được lúc thu hoạch củ.
Mặt khác, cây sắn sau khi cắt có khả năng tái sinh cao, năng suất chất xanh lớn. Lá sắn
giàu dinh dưỡng, đặc biệt là protein, trong lá sắn tươi, tỷ lệ protein có trung bình từ
6,50 - 7,00 % (Manuel Valdivié và cs, 2008 [104]). Để có cơ sở khoa học cho việc đề
xuất một loại cây trồng sản xuất bột lá cây thức ăn xanh làm thức ăn chăn nuôi trong
tương lai giống như các nước đã và đang làm, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu sử dụng bột lá sắn trong chăn nuôi gà thịt và gà đẻ trứng”.
2. Mục đích của đề tài
Xác định được tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của gà.
Xác định tỷ lệ bột lá sắn thích hợp trong khẩu phần ăn của gà thịt và gà đẻ
trứng. Từ đó khuyến cáo sử dụng bột lá sắn vào khẩu phần ăn của gia cầm nói
chung và gà nói riêng.
3. Điểm mới của đề tài
Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của các tỷ lệ bột lá sắn khác nhau đến tỷ lệ
tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của gà thịt.
2
Đề tài đã nghiên cứu và đưa ra được tỷ lệ phối trộn bột lá sắn thích hợp trong
thức ăn hỗn hợp của gà thịt và gà đẻ trứng.
Khẩu phần có chứa bột lá cây thức ăn xanh nói chung, bột lá sắn nói riêng
chưa được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam, trong khi đó trên thế giới được áp dụng rất
phổ biến. Kết quả của đề tài là cơ sở ban đầu cho hướng đi này.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học của cây sắn
1.1.1. Phân loại, nguồn gốc và đặc điểm thực vật học của cây sắn
* Phân loại thực vật và nguồn gốc:
Cây sắn thuộc giới Plantae, bộ Malpighiales, họ Euphorbiaceae, phân họ
Crtonoideae, tông Manihoteae, chi Manihot, loài M. Esculenta. Cây sắn có tên khoa
học là Manihot Esculenta Crantz, sắn còn có một số tên gọi khác là cassava,
manioc, tapioca, maniva cassava,... ở Việt Nam cây sắn còn được gọi là cây khoai
mì, cây củ mì, sắn tầu...
Sắn là cây nông nghiệp đứng thứ 3 ở Việt nam, sau cây lúa và ngô. Năm 2009
diện tích trồng sắn của cả nước là 496.000 ha (Niên giám Thống kê 2010), đồng thời
nước ta trở thành nước xuất khẩu sắn đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan.
Cây sắn được bắt nguồn từ 4 trung tâm lớn, đó là: (1) Guatemala, (2) Mexico,
(3) Đông Brazil và Bolivia, (4) Tây Bắc Argentina và dọc theo bờ biển vùng Sarana
của miền Tây Bắc Nam Mỹ (Jaladudin, 1997) [90].
Ngày nay sắn được trồng hầu hết ở các nước có vĩ độ từ 300N đến 300S và tập
trung chủ yếu ở 106 nước thuộc Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á Thái Bình Dương
(Silvestre và Arraudeau, 1990 [30]; Trần Ngọc Ngoạn, 2007 [29]).
Ở Việt Nam, cây sắn là một cây hoa màu truyền thống và quan trọng của nhân
dân ta, nhất là khu vực Trung du và miền núi phía Bắc.
Quá trình trồng thích nghi và chọn lọc tự nhiên đã hình thành lên nhiều giống sắn
địa phương có đặc điểm hình thái, năng suất và chất lượng khác nhau, phù hợp với từng
vùng khí hậu, sinh thái khác nhau trong cả nước. Do đó, các giống sắn của ta rất đa dạng
và phong phú. Ở nước ta có khoảng trên 30 giống sắn phổ biến đang được trồng ở các
vùng khác nhau (Trần Thế Hanh, 1984 [9]; Howeler, 1992 [89]).
* Đặc điểm thực vật học
Củ sắn: Là tổ chức dự trữ dinh dưỡng chính của cây sắn. Khi trồng bằng hạt
thì cây sắn có 1 rễ cọc phát triển và cắm thẳng đứng xuống đất như cây 2 lá mầm và
các rễ phụ lúc đầu phát triển ngang, sau đó phát triển theo phương thẳng đứng thành
rễ cái. Đối với sắn trồng bằng hom thì chỉ có rễ phụ mọc ra từ vết cắt của hom và
phát triển tương tự như rễ phụ của sắn trồng bằng hạt. Tất cả các loại rễ này đều
4
phát triển thành củ sắn (Trần Ngọc Ngoạn, 2007) [29]. Một số rễ sẽ bị mỏng đi và
chỉ có chức năng hút nước và chất dinh dưỡng, còn rễ phát triển thành củ thì chức
năng này không đáng kể.
Thân sắn: Là loại cây thân gỗ, hình trụ, có chia đốt và có lóng, sinh trưởng
lâu năm, cây cao từ 1-5 m. Thân và cành già đã hóa gỗ có màu trắng bạc, xám, nâu
hoặc hơi vàng. Thân được cấu tạo gồm 4 lớp (trong cùng là lớp lõi xốp, tế bào rất
to; tiếp đến là tầng gỗ; mô mềm của vỏ và cuối cùng là tầng bần).
Lá sắn: Là loại lá đơn mọc xen kẽ, thẳng hàng trên thân cây. Lá gồm 2
phần: cuống và phiến lá. Lá có thùy sâu, dạng chân vịt, thùy thường có cấu tạo
số lẻ từ 5-7 thùy (Trần Ngọc Ngoạn, 2007 [29]). Lá gần cụm hoa có số thùy
giảm dần và thậm chí không chia thùy, lá phía trên thường có biểu bì bóng như
sáp. Cuống lá dài từ 5-30 cm (một số giống cuống dài 40 cm) và có các màu sắc
khác nhau phụ thuộc vào giống sắn và chủ yếu là màu hồng, vàng, xanh vàng, đỏ
tươi. Theo Claiz (1979); Herchey (1988) (trích Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [35]) thì một
trong những đặc điểm của cây sắn khác với cây ngũ cốc khác là sản phẩm quang
hợp được chia cho sự phát triển của cả lá và củ. Điều này cho thấy nếu cây có điều
kiện để phát triển diện tích lá tối ưu thì sự phát triển củ cũng đạt đến mức tối ưu.
Nếu bằng một trong những lý do nào đó như bón phân đạm quá nhiều hay cây bị
che tán...thì sản phẩm quang hợp được sẽ chỉ tập trung vào nuôi dưỡng giúp cho
sinh trưởng của lá, dẫn đến sẽ có ít sản phẩm được dành cho củ và ngược lại.
Hoa sắn: Hoa thuộc loại hoa chùm, đơn tính có cuống dài mọc ra từ chỗ phân
cành, ngọn thân. Những cụm hoa gồm một trục dài 2-10 cm và nhiều trục bên hợp
thành nên gọi là chùy. Hoa cái thường nở trước hoa đực từ 5-7 ngày.
Quả sắn: Có kích thước từ 1-1,5 cm, 1 quả thường có 3 hạt. Màu quả đa dạng
phụ thuộc vào giống. Hạt sắn hình trứng tiết diện hơi giống hình tam giác. Quả sắn
thành thục sau khi thụ phấn 75-90 ngày. Hạt sắn nặng từ 95-136 mg, màu nâu đen,
trơn nhẵn, có đường gân màu nâu. Hạt sắn nảy mầm ngay sau khi được thu hoạch,
quá trình này mầm mất khoảng 16 ngày (Ghosh và cs, 1988) [78].
1.1.2. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
1.1.2.1. Giai đoạn mọc mầm và ra rễ
Giai đoạn mọc mầm và ra rễ được tính từ khi trồng đến sau trồng khoảng 2
tháng. Giai đoạn này cây chủ yếu chuyển hóa các chất dinh dưỡng từ hom để hình
thành mầm và rễ. Vì vậy, tốc độ mọc mầm và ra rễ phụ thuộc vào khí hậu và chất
lượng hom giống.
5
Nhiệt độ tối thích cho sắn mọc mầm là từ 25-300C, còn nhiệt độ cao hơn hoặc
thấp hơn so với nhiệt độ tối thích không nhiều thì sắn mọc mầm với tốc độ chậm,
nhưng ở nhiệt độ cao trên 370C và dưới 160C thì sắn không mọc mầm.
Sau khi trồng 10-12 ngày, những lá đầu tiên đã bắt đầu hình thành (Conceicão,
1979 [66]). Sau 30 ngày thì lá thật mới hình thành và mới có thể tự quang hợp giúp
cây sinh trưởng, bắt đầu hình thành các rễ đâm sâu xuống đất 40-50 cm để hút dinh
dưỡng và nước. Một số rễ bắt đầu phát triển thành củ ở giai đoạn 60-90 ngày sau
trồng (Cock và cs, 1979) [64].
1.1.2.2. Giai đoạn sinh trưởng của thân và lá
Sự tăng trưởng của chiều cao và bề ngang cây được quyết định bằng sự sinh
trưởng của mô phân sinh thượng tầng và mô phân sinh đỉnh.
Sau khi trồng từ 4-6 tháng thì chỉ số diện tích lá đạt được cao nhất. Tuy nhiên,
chỉ số này phụ thuộc vào nhịp độ xuất hiện lá mới, tuổi thọ trung bình của lá, điều
kiện môi trường và giống sắn. Theo Hozyo (1984), Wargiono (1986) (trích
Wargiono và cs, 2002 [138]) thì lá và thân sắn sinh trưởng mạnh nhất vào giai đoạn
này, tất cả các chất dinh dưỡng cây nhận được từ môi trường đều được tổng hợp cho
phát triển thân và lá nên dinh dưỡng của các phần trên mặt đất lúc này là cao nhất.
Theo Sudaryanto (1992) [132] thì từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7, cứ 2 ngày sẽ xuất
hiện một lá mới để thay thế các lá già. Vì vậy, có thể thu cắt hàng tuần 4 lá mà
không ảnh hưởng gì tới năng suất cây trồng.
Khoảng nhiệt độ thích hợp cho sắn sinh trưởng từ 20-300C. Trong khoảng
nhiệt độ này thì thời gian để hình thành một lá đầy đủ chỉ kéo dài 2 tuần. Ở nhiệt độ
cao hơn hoặc thấp hơn thì thời gian hình thành kéo dài hơn.
Sau khi lá xuất hiện và dài khoảng 1 cm, dưới điều kiện bình thường chúng sẽ
đạt được kích thước tối đa sau 10-12 ngày. Kích thước của lá tăng dần theo tuổi của
cây đến khoảng 4 tháng tuổi và sau đó giảm dần. Tuổi thọ của lá phụ thuộc vào đất
trồng, mức độ bị che bóng, nước và nhiệt độ... (Cock và cs, 1979 [64]). Tuổi thọ của
lá kéo dài từ 40 đến 120 ngày nhưng thông thường từ 60-120 ngày.
Sắn cũng có khả năng phân cành như các cây thân gỗ khác. Thông thường sau
trồng 3 tháng thì cây bắt đầu phân cành. Tùy vào giống khác nhau mà khả năng
phân cành là khác nhau, thường cây sắn có thể phân từ 1-4 cấp cành khác nhau. Ở
giai đoạn 120 đến 150 ngày sau trồng, lá bị chắn sáng bởi các tán cây nên kích
thước tán và lượng vật chất khô (VCK) ở lá và thân là đạt tối đa (Howeler và
Cadavid, 1983 [88]; Távora và cs, 1995 [133]).
6
1.1.2.3. Giai đoạn hình thành và phát triển củ
Sau 28 ngày trồng thì các hạt tinh bột đã bắt đầu hình thành ở nhu mô rễ củ,
nhưng không xác định được rõ là rễ sẽ hình thành củ hay rễ thông thường. Sau 42
ngày thì bắt đầu phân biệt được rễ củ, sau 60-90 ngày thì xác định được số lượng củ
sẽ hình thành sau này. Sau 90-120 ngày thì xác định được số lượng và kích thước
chiều dài của củ sau này.
Kích thước củ được hình thành, lượng vật chất khô tích lũy lớn nhất và phát
triển nhanh nhất ở giai đoạn từ 6-9 tháng, sau đó tăng chậm và ổn định (Távora và
cs, 1995 [133]; Poressin và cs, 1998 [121]) cho biết từ tháng thứ 7 sau trồng trở đi
thì dinh dưỡng chỉ tập trung vào phát triển củ. Nếu nhiệt độ nhỏ hơn 170C thì cây,
củ, lá sắn sẽ ngừng sinh trưởng, riêng lá thì rụng dần nhưng chúng sẽ phát triển trở
lại khi đầu xuân trời bắt đầu ấm lên. Thân cây ở giai đoạn này bắt đầu bị lignin hóa
(Conceicão, 1979 [66]).
Sau giai đoạn từ 300-360 ngày thì lá bắt đầu giảm dần, tất cả lá sẽ rụng hết,
cành non không phát triển nữa chỉ có quá trình tập trung tinh bột về củ và lượng vật
chất khô sẽ đạt được cao nhất ở củ vào giai đoạn này. Khi cây tròn 12 tháng là kết
thúc một chu kỳ sống nhưng nó có thể phát triển ở chu kỳ tiếp theo và tiếp tục sinh
trưởng thân, cành, lá và củ.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây sắn
Ảnh hưởng của nhiệt độ:
Nhiệt độ thích hợp cho sắn mọc mầm và ra rễ từ 20-370C, còn tối thích hợp là từ
25-300C. Nếu nhiệt độ nhỏ hơn 160C sắn sẽ không mọc mầm. Cây vẫn mọc mầm và ra
rễ tốt khi nhiệt độ lên tới 300C và sau đó giảm dần khi nhiệt độ tăng đến 370C. Nếu nhiệt
độ tiếp tục tăng cao hay giảm thấp quá cây bắt đầu ngừng sinh trưởng và có thể chết.
Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng thân lá từ 20-300C, tối thích hợp là từ
24-290C (Conceicão, 1979 [66]), sắn cũng có thể chịu đựng được ở nhiệt độ từ 160C
đến 380C (Cock, 1984 [65]). Ở nhiệt độ dưới 160C thì khả năng ra lá, tỷ lệ lá, lượng
VCK tích tụ vào củ giảm (Cock và Rosas, 1975 [63]).
Nhiệt độ thích hợp để tích lũy dinh dưỡng vào củ tùy thuộc vào nhiệt độ ngày
và đêm. Thông thường nhiệt độ 290C là thích hợp cho sắn tích lũy dinh dưỡng vào
củ, nhưng ở nhiệt độ này vào ban ngày thường làm tăng cường độ hô hấp nên chỉ
còn lại một tỷ lệ nhỏ dinh dưỡng được tích lũy vào củ.
7
Ẩm độ:
Cây sắn có thể sống được cả ở những nơi có lượng mưa dao động từ 500-5000
mm và ở những nơi có mùa khô từ 4-6 tháng.
Ở giai đoạn cây mọc mầm và ra rễ đòi hỏi phải có độ ẩm từ 65 % đến 75 %. Còn
ở giai đoạn sinh trưởng của thân và lá thì cũng yêu cầu về độ ẩm cao nhưng khi bị hạn
kéo dài thì diện tích lá giảm, năng suất thân lá giảm 38 %, năng suất củ giảm 14 %.
Trong điều kiện khô hạn kéo dài, thiếu nước sẽ làm tăng lượng HCN trong cây. Ngược
lại, lượng mưa cao có tác dụng làm giảm HCN (Trần Ngọc Ngoạn, 2007 [29]).
Ánh sáng:
Trong điều kiện ngày dài, thân sắn sẽ tăng khả năng sinh trưởng. Các giống
sắn đều nhạy cảm với ánh sáng và có tác dụng làm tăng năng suất củ, tăng số
nhánh/cây. Tuy nhiên, độ dài ngày ngắn thì tăng cường độ tích lũy tinh bột về củ,
độ dài ngày thích hợp nhất để tích lũy tinh bột về củ là 12 giờ/ngày. Nếu ngày dài
thì thích hợp với phát triển thân, lá nhưng hạn chế tích lũy tinh bột về củ. Nếu cây
bị che bóng 60 % ánh sáng so với không che bóng, năng suất củ giảm tới 36 %
(Bolhuis, 1966 [55]).
Dinh dưỡng đất:
Cây sắn có khả năng chịu đựng tốt với đất nghèo dinh dưỡng, đất chua, đất có
hàm lượng nhôm và mangan cao. Do bộ rễ phát triển sâu tới 2,5 m và có khả năng
cố định cacbon trong điều kiện thiếu nước kéo dài.
Các tác giả Asher và cs (1980) [52], CIAT (1980) [62]; Putthacharoen và cs
(1998) [122] đều cho biết: cây sắn hấp thu nhiều nhất N, sau đó là K, Ca, Mg, P và
S. Cứ 1000 kg củ sắn có 5,87 kg N; 0,98 kg P; 7,71 kg K; 1,18 kg Ca; 0,69 kg Mg.
Còn 1000 kg thân và lá sắn có 15,70 kg N; 1,99 kg P; 13,66 kg K; 7,16 kg Ca; 2,26
kg Mg. Vì vậy, nếu trong thành phần dinh dưỡng đất thiếu nguyên tố nào thì sẽ làm
giảm khả năng sinh trưởng của cây và làm giảm năng suất của cây sắn.
* Giới thiệu vài nét về giống sắn KM 94
Nguồn gốc: Tên gốc KU 50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái
Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu. Giống đã được Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn
quốc (Hoàng Kim, 2010 [20]). Hiện nay, giống sắn KM 94 là giống chủ lực của
8
nước ta với diện tích trồng hàng năm là trên 350.000 ha. Giống KM 94 có hình
dạng: Thân xanh, hơi cong, ngọn tím, không phân nhánh. Năng suất củ tươi đạt 33,0
tấn/ha, tỷ lệ vật chất khô đạt 35,1 - 39,0 %, năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn. Thời
gian thu hoạch củ từ 9-11 tháng. Giống sắn này bản lá to và dầy nên diện tích mặt lá
nhiều, mỗi lá có khoảng từ 5-7 thùy, đường kính mỗi thùy từ 3-3,5 cm, chiều dài từ
15-20 cm.
* Nhận xét chung:
Sắn có tên khoa học là Manihot Esculenta Crantz và nhiều tên địa phương
khác, có thể trồng ở hầu hết các nước có vĩ độ từ 300N đến 300S và ở vùng có lượng
mưa từ 500 đến 5000 mm/năm. Cây sắn có rễ, củ, thân, cành, lá, có thể thu và sử
dụng củ, lá sắn làm thức ăn cho người, gia súc và gia cầm. Nhiệt độ thích hợp cho
sắn nảy mầm từ 250C đến 300C, cho sắn sinh trưởng là 200C đến 300C
1.2. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của củ và lá sắn
1.2.1. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của củ sắn
Củ sắn tươi chứa 23,36 - 33,12 % vật chất khô, 1 kg vật chất khô của củ sắn có
3087 Kcal, tỷ lệ tinh bột từ 65-80 % (Silvestre và Arraudeau, 1990 [30]; Best và
Henry, 1992 [54]; Froehlich và cs, 2001 [75]). Theo các tác giả nước ngoài như
Maner (1987) [103], Silvestre và Arraudeau (1990) [30] thì trong 1 kg củ sắn tươi
có từ 903- 1193 Kcal năng lượng trao đổi. Còn các tác giả trong nước như Nguyễn
Văn Thưởng và Sumilin (1992) [33], Bùi Văn Chính (1995) [3], Viện chăn nuôi
(2001) [48] thì ở Việt Nam 1 kg củ sắn tươi có năng lượng trao đổi dao động từ
1034-1187 Kcal/kg. Năng lượng trao đổi của củ sắn khô cả vỏ dao động từ 30873138 Kcal/ kg, còn ở sắn khô bóc vỏ trung bình từ 3115-3196 kcal/ kg.
Các giống, dòng sắn khác nhau thì có tỷ lệ tinh bột cũng khác nhau. Theo
Hoàng Kim (1999) thì các giống KM 98-1, KM 98-5, KM 98-6 đạt năng suất tinh
bột là 12,41; 13,02 và 13,69 tấn/ha, tỷ lệ tinh bột trong củ sắn tươi ở các tháng 4, 6,
8, 10, 12 sau khi đặt hom tương ứng là: 3,0; 16,5; 20,0; 21,0 và 28,0 % (trích Hoài
Vũ, 1980) [49]). Theo các tác giả như Hoài Vũ (1980) [49], Bùi Thị Buôn và
Nguyễn Văn Nghị (1985) [2], Cục khuyến nông (2008) [6] thì thu hoạch sắn sau khi
đặt hom 10-12 tháng là lúc củ sắn có tỷ lệ tinh bột cao nhất. Nếu để qua thời gian 12
tháng, tỷ lệ tinh bột giảm nhưng tỷ lệ protein thô và xơ thô tăng lên.
Một số giống sắn của Việt Nam có tỷ lệ tinh bột cao hơn các giống có tỷ lệ cao
nhất trên thế giới. Ví dụ: Giống sắn vỏ vàng của nước ta có tỷ lệ tinh bột là 34,20 %
9
và cao hơn 2,09 % so với giống sắn Soliđa Balanca của Colombia (một trong những
giống sắn cho tinh bột cao nhất thế giới) (Hoài Vũ, 1980 [49]).
Theo Hutaga-Lung (1973), Sheswell (1978) (trích theo Silvestre và
Arraudeau, 1990 [30]) thì trong VCK của củ sắn có tới 80 - 90 % dẫn xuất không
đạm. Trong dẫn xuất không đạm, tinh bột chiếm 80 %. Theo Johnson (1965) và
Raymon (1965) (trích Maner, 1987 [103]), Hoàng Kim Anh (2005) [1], tinh bột của
sắn có khoảng 20 % amylose và 70 % amylopectin.
Một số tác giả trong và ngoài nước như: Best và Guy Henry (1992) [54], Pham
Van Bien và cs (2002) [119]; Trần Ngọc Ngoạn (2007) [29] cho rằng tỷ lệ protein
trong củ sắn thấp và thường dao động từ 1,47 đến 5,18 % tuỳ theo giống, địa điểm
trồng, thời gian thu hoạch và cách thức chế biến bảo quản củ. Theo Từ Quang Hiển
và Phạm Sỹ Tiệp (1998) [12] thì củ của các giống sắn bản địa tại Việt Nam có tỷ lệ
protein từ 2,44 đến 4,13 %. Các giống sắn có tỷ lệ protein cao thì hàm lượng protein
thường từ 3,78-4,61 %, còn các giống có tỷ lệ protein thấp thì hàm lượng protein
chỉ từ 2,4 %-2,75 % (Nguyễn Nghi và cs, 1984 [27]).
Hàm lượng amino acid trong củ sắn cũng được nhiều người nghiên cứu xác
định. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [35], hàm lượng amino acid không thay thế của củ
sắn thấp và không cân đối. Hầu hết các amino acid không thay thế trong củ sắn đều
có thang giá trị hóa học thấp từ -33,50 đến - 71,8 %. Hàm lượng glycine và agrinine
quá cao: + 63,3 % và 80,8 %. Tác giả Creswell (1978) (trích theo Maner, 1987
[140]) cho biết hàm lượng amino acid trong củ sắn thấp và không cân đối: Hàm
lượng lysine và triptophan trong củ sắn chiếm 1,55 và 8,50 % trong protein, còn
methionine và cystine rất thấp, tương ứng là 0,33 % và 0,25 % trong protein, hàm
lượng này thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn của FAO là 2,2 %.
Hàm lượng lipit trong củ sắn thấp, chỉ đạt 1,6-1,8 % so với vật chất khô (Viện
chăn nuôi, 2001 [48]). Theo Nguyễn Văn Thưởng và Sumilin (1992) [33], hàm
lượng lipit trong củ sắn Việt Nam đạt cao hơn so với thông báo nêu trên, hàm lượng
này thường dao động từ 2-2,5 % trong vật chất khô.
Chất khoáng trong củ sắn cũng tương đối thấp. Phạm Sỹ Tiệp (1999) [35] cho
biết hàm lượng Ca đạt từ 0,11-0,25 %, photpho đạt 0,08-0,12 % trong vật chất khô.
Trong các thành phần khoáng thì kali chiếm tỷ lệ cao nhất trong củ sắn, thường từ
0,57-0,58 % trong vật chất khô. Theo tác giả trên thì hàm lượng Co, P, K, Zn, Mn,
10
Cu tính theo VCK trong củ sắn rất thấp so với nhu cầu của gia súc. Do đó, khi sử
dụng nhiều sắn trong khẩu phần ăn phải chú ý bổ sung các nguyên tố trên.
1.2.2. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của lá sắn
Các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thưởng và Sumilin (1992) [33], Từ
Quang Hiển (1982) [10], Pham Van Bien và cs (2002) [119] cho biết: thành phần
hóa học của lá sắn tươi giống như một số loại rau xanh khác, đặc biệt ở trong lá sắn
hàm lượng protein và caroten chiếm tỷ lệ rất cao, cho nên lá sắn đã được coi là một
nguồn rau xanh cho người và gia súc. Theo Bùi Văn Chính và Lê Viết Ly (2001) [5]
thì trong ngọn lá sắn tỷ lệ VCK chiếm 25,5 %, năng lượng trao đổi là 2549 Kcal/kg
VCK, còn theo tài liệu của Viện chăn nuôi (2001) [48] thì bột lá sắn có 89,60 %
VCK, 1966 kcal/kg, tương ứng với 2194 kcal/kg VCK.
Theo các tác giả trên và một số tác giả khác như Dương Thanh Liêm (1999)
[23], Nguyễn Thị Hoa Lý (2008) [25] hàm lượng protein thô trong VCK của lá sắn
tương đối cao, dao động từ 20-34,7 %. Còn theo Alhasan và cs (1982) (trích
Nguyễn Nghi và cs, 1984 [27]) thì lá sắn giàu protein hơn so với củ sắn, hàm lượng
protein trong lá sắn từ 23-32 % trong vật chất khô. Từ Quang Hiển và Phạm Sỹ
Tiệp (1998) [12] cho biết protein trong lá của các giống sắn bản địa của Việt Nam
dao động từ 24,06 đến 29,80 % trong vật chất khô. Lá của các giống sắn trong nước
có hàm lượng protein cao là Xanh Vĩnh Phú, sắn Dù, Chuối trắng, KM 60, Chuối
đỏ, 205. Liu Jian Ping và cs (2000) [132] cho biết bột lá sắn có hàm lượng protein là
27,50 %, còn chế biến sắn cả cuống thì hàm lượng protein giảm xuống còn 20,30 %.
Tuy nhiên, giống sắn và thời điểm thu lá khác nhau thì hàm lượng protein là khác
nhau. Tác giả cũng cho biết protein trong lá sắn cao hơn hẳn các loại cây thức ăn
khác (hàm lượng protein trong VCK của cỏ hòa thảo là 12,60 %; ngô 11,90 %)
nhưng thấp hơn so với đỗ tương (45,70 %).
Adrian và Peyrot (1970) (trích theo Job, 1975 [91]) khi so sánh thành phần
amino acid trong lá sắn với thành phần amino acid trong trứng gà, thấy: Hàm lượng
amino acid thiết yếu trong lá sắn tương đối đầy đủ và cân đối. Tuy nhiên,
methionine vẫn là yếu tố hạn chế trong protein của lá sắn, hàm lượng methionine
chỉ đạt 1,2 g % trong protein, chỉ bằng 67 % hàm lượng methionine trong protein
của trứng gà (3,65 g %). Vì vậy, không nên sử dụng bột lá sắn khi khẩu phần nghèo
methionine. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [35], Chavez và cs (2000) [61] thì hàm
lượng amino acid trong lá cao hơn trong củ sắn và cân đối so với trứng gà. Tuy
11
nhiên, hàm lượng methionine và histidine trong lá cũng thấp, tương ứng là 1,99 và
1,14%. Hàm lượng lysine trong protein của lá sắn tương đối cao (5,68 %) đáp ứng
đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng của gia súc gia cầm. Hoài Vũ (1980) [49] kết luận rằng
protein của lá sắn có đầy đủ và cân đối các amino acid thiết yếu hơn hẳn các các
loại rau tươi khác. Ví dụ: Hàm lượng lysine, methionine của lá sắn tươi là 0,34;
0,14 (g/100g), trong khi đó, rau muống là 0,14; 0,07; rau ngót là 0,16; 0,13; bột cỏ
là 0,102; 0,186; ngô là 0,48; 0,12. Theo Duong Thanh Liem và cs (1998) [70] thì
thành phần amino acid của bột lá sắn cũng tương tự như của bột cỏ alfalfa.
Adrian và cs (1970) (trích theo Nguyễn Nghi, 1984 [27]), Eruvbetine và cs
(2003) [73] cho biết methionine thường là yếu tố hạn chế của bột lá sắn, trong khi
đó hàm lượng lysine và arginine trong protein của lá sắn lại tương đối cao, tương
ứng 4,45 và 4,35 g/100g, nếu được bổ sung methionine sẽ làm cân đối hàm lượng
amino acid trong hỗn hợp và làm tăng tỷ lệ tiêu hóa của thức ăn. Trong lá sắn hàm
lượng amino acid cao hơn và cân đối hơn so với củ sắn. Tuy nhiên, yếu tố hạn chế
vẫn là methionine và histidine, tương ứng là 1,99 và 1,14 %, so với thang giá trị hóa
học chỉ đạt - 47,6 và - 50,4 % (Từ Quang Hiển và Phạm Sỹ Tiệp, 1998 [12]).
Hàm lượng vitamin trong lá sắn cũng cao. Theo Hoài Vũ (1980) [49] thì hàm
lượng caroten trong lá sắn tươi là 3,00 mg/100g, vitamin B1 là 0,25 mg/100g, B2 là
0,66 mg/100g, PP là 0,66 mg/100g. Đặc biệt, vitamin C trong lá sắn khá cao (295
mg/100g). Theo Từ Quang Hiển (1983) [11], trong bột lá sắn khô có chứa tới 66,7
mg caroten/100g VCK. Duong Thanh Liem (1998) [70] cho biết tỷ lệ caroten trong
bột lá sắn phụ thuộc quá trình chế biến, sấy ở nhiệt độ 1000C giữ được caroten cao
nhất là 351 mg/kg.
Thành phần khoáng đa lượng và vi lượng của lá sắn nói chung cao hơn so với
củ. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [35] thì hàm lượng khoáng tổng số của các loại sắn
Xanh Vĩnh Phú, Xanh Hà Bắc, Chuối vỏ đỏ, Chuối vỏ trắng, KM 60, Sắn dù, 205
thường từ 6,60 đến 7,80 % trong VCK. Còn các giống sắn H34, 202 hàm lượng
khoáng tổng số lần lượt là 5,62 % và 5,80 %. Trong đó, hàm lượng Ca dao động từ
0,74-1,13 %; P từ 0,25 đến 0,38 %; K từ 1,52 đến 1,71 %. Trong lá sắn hàm lượng
Fe và Mn rất cao, tương ứng là 344,0 mg và 655,2 mg trong 1 kg vật chất khô
(Nguyễn Khắc Khôi (1982) [19], Adewusi và Bradbury (1993) [51]).
12
1.2.3. Sắc chất trong thực vật và vai trò của sắc chất trong bột lá cây thức ăn
xanh đối với chăn nuôi gia cầm
Thực vật tươi là nguồn rất tốt để cung cấp chất chống oxy hóa như vitamin,
carotenoid, flavonoid và các phenolic phức tạp khác (Minussi và cs, 2005 [110];
Zhang và cs, 2004 [141]; Murcia và cs, 2010 [113]). Rất khó đánh giá vai trò sinh
học của sắc chất ở trong thực vật, nhưng người ta đã biết chlorophyll là sắc chất
quan trọng nhất đối với thực vật. Chlorophyll và carotenoid là những chất quan
trọng cho chức năng quang hợp. Một vài sắc chất quan trọng khác là flavonoid có
vai trò chủ yếu trong tương tác giữa thực vật và động vật như tín hiệu để thụ phấn
và phát tán hạt.
Sắc chất trong thực vật được chia thành các nhóm sau: Chlorophyll,
carotenoid (carotene và xanthophyll), flavonoid (chalcone, anthocyanin, flavone,
flavonol) và betalain (betaxanthin, betacyanin). Người ta đã phát hiện được khoảng
750 loại caroteinoid, 7.000 flavonoid và hơn 500 anthocyanin (Davies, 2004 [67]).
Sắc chất tồn tại ở các bộ phận khác nhau của thực vật, flavonoid và carotenoid tồn
tại ở hầu hết các mô thực vật như lá, củ, hoa, quả và hạt nhưng anthocyanin hay
chlorophyll chỉ tồn tại ở một số bộ phận nhất định.
Chlorophyll ở thực vật có hai loại đó là chlorophyl a màu xanh nhạt và
chlorophyl b màu vàng xanh. Số lượng loại này phụ thuộc vào loài thực vật, điều
kiện ánh sáng và điều kiện dinh dưỡng khoáng magie. Hàm lượng chlorophyl a
thường gấp từ 2-4 lần so với chlorophyll b (Dzugan, 2006 [71])
Carotenoid tồn tại ở sắc lạp và lục lạp ở màng tế bào thực vật. Chỉ có một vài
loại carotenoid là tiền vitamin A, còn những chất khác không có hoạt tính như
vitamin A. Tuy nhiên, người ta đã chứng minh rằng chúng có khả năng chống oxy
hóa rất mạnh (Granado và cs, 2003 [83], Mares- Perlman và cs, 2002 [105], Britton,
2004 [57]). Ngoài ra trong thực vật còn có các tiền chất của axit abscisic (ABA),
phytohormone; các chất này có khả năng điều chỉnh sinh trưởng và quá trình stress
của con vật (Koornneef, 1986 [102]).
Sắc chất trong carotenoid được chia thành 2 nhóm: carotene màu đỏ da cam
và xanthophyll vàng da cam.
Caroten (C40H56) là một loại cacbua hydro chưa bão hòa, chỉ tan trong dung
môi hữu cơ. Trong thực vật thường có 4 loại tiền vitamin A là: β, α, δ caroten và
kriptoxantin. Nếu cắt đôi phân tử β caroten ta có 2 phân tử vitamin A, nên β caroten
được xem là tiền vitamin A (Trịnh Xuân Vũ và cs, 1976 [50]). Trong đó β caroten
chiếm trên 90 % trong tổng số các carotenoid ở thực vật. Các carotenoid không chỉ
13
cung cấp tiền vitamin A mà còn có tiềm năng chống oxy hóa, chống ung thư. Hàm
lượng β caroten trong cỏ tươi tự nhiên: 150 - 250 mg/kg VCK, cây ngô già: 15-60 mg/kg
VCK, của cà rốt: 150 - 200 mg/kg VCK, rơm rạ: 4 mg/kg VCK (Từ Quang Hiển, 2001
[13]. Tác giả Scott và cs (1969) [128] cho biết β caroten trong bột lá keo giậu từ 227-248
mg/kg VCK.
Xanthophyll là nhóm sắc tố vàng sẫm. Công thức hóa học của chúng là
C40H56On (n từ 1-6). Vì số lượng nguyên tử oxy có thể từ 1 đến 6 nên có nhiều loại
xanthophyll: Kriptoxantin (C40H56O1), lutein (C40H56O2), violacxantin (C40H56O4)...
(Trịnh Xuân Vũ và cs, 1976 [50]). Trong đó violaxanthin và lutein chủ yếu tạo ra
màu sắc vàng của lá cây, cỏ trong mùa thu (Davies, 2004 [67]).
Flavonoid bao gồm anthocyanin, chalcone, aurone, flavone và flavonol.
Chúng đều tan trong nước, tồn tại ở trong không bào. Flavonoid là chất hóa học
hoạt động với nhiều chức năng: như tạo màu cho cánh hoa, quả, chống tia UV,
chống oxy hóa, kháng khuẩn và sự hoạt động của virus. Trong các sắc chất thuộc
nhóm flavonoid thì anthocyanin là phổ biến nhất và tạo ra các màu đỏ tươi, đỏ, xanh
và màu tím cho hoa, quả và thân cây. Màu của anthocyanin bị ảnh hưởng bởi rất
nhiều các nhân tố. Một trong các nhân tố đó là số lượng nhóm hydroxyl và
methoxyl. Nếu có nhiều gốc OH thì màu sắc có màu xanh. Nếu xuất hiện nhiều gốc
OCH3 thì màu sắc chủ yếu là đỏ (Grotewold, 2006 [84]). Các loại sắc chất này có
màu đỏ khi ở pH axit và có màu xanh khi ở môi trường kiềm. Ngoài ra, màu sắc còn
phụ thuộc vào các nguyên tố khoáng như Al, Fe, Mg ở một số loài thực vật.
Betalain là các chất thay thế anthocyanin ở các loài caryophyllale. Chúng cũng
có thể tìm thấy ở một số loại nấm. Betalain có nguồn gốc từ tyrosine. Chúng được chia
thanh 2 nhóm là betaxanthin có màu vàng và betacyanin có màu đỏ, màu tím.
Người tiêu dùng thường có thói quen lựa chọn màu sắc của thức ăn, do đó màu
sắc quyết định sự lựa chọn hay loại bỏ một loại thức ăn nào đó. Ở một số nước và
một số dân tộc, người tiêu dùng quan tâm đặc biệt tới màu sắc của da, thịt và lòng đỏ
trứng (Hencken, 1992 [87]; Williams, 1992 [139]). Chính sở thích này đã khiến cho
các nhà nghiên cứu và người chăn nuôi bổ sung sắc chất vào khẩu phần của gà thịt
cũng như gà trứng để làm tăng độ đậm của da, lòng đỏ trứng gia cầm và làm tăng tính
hấp dẫn của sản phẩm (Hencken, 1992 [87], Liufa và cs, 1997 [97]). Sắc chất dùng để
làm thức ăn bổ sung hầu hết thuộc nhóm carotenoid.
Động vật hoàn toàn không có khả năng tự tổng hợp carotenoid nên bắt buộc phải
được cung cấp từ thức ăn (Marusich, 1981 [106], Liufa và cs, 1997 [97]). Đối với khẩu
14
phần ăn thông thường thì nguồn carotenoid sử dụng để tạo màu da và lòng đỏ trứng gia
cầm là xanthophyll hay oxycarotenoid của ngô, gluten ngô và bột lá thực vật (Latscha,
1990 [95]). Khi cho gia cầm ăn thức ăn giàu xanthophyll thì có thể tìm thấy
xanthophyll ở trong máu, cơ, gan, chất béo, da, lông của chúng (Goodwin, 1986 [81]).
Ở gà đẻ, xanthophyll tích trữ ở cơ, da sẽ được huy động mạnh mẽ vào buồng trứng khi
thành thục và một phần được chuyển vào lòng đỏ (Gouveia và cs, 1996 [82], Goodwin,
1986 [81]). Sau khi thu nhận được sắc tố có từ thức ăn thì gà đẻ có thể huy động từ 2060 % tổng lượng sắc tố thu nhận vào lòng đỏ (Bornstein, 1966 [56]). Do đó màu sắc tự
nhiên của lòng đỏ chính là màu sắc của xanthophylls (Sirri và cs, 2007 [130]). Ngày
nay, các oxycarotenoid được phân lập từ thực vật, tảo và nấm được sử dụng nhiều
trong khẩu phần ăn của gia cầm và được đánh giá là rất tốt (Gierhart, 2002 [76],
Lorenz, 2002 [98]), còn các loại màu tổng hợp thì ít được sử dụng và thậm chí còn bị
cấm ở một số nước. Khi sử dụng ngô đến 50 % khẩu phần thì sắc tố có trong ngô có thể
cho màu sắc lòng đỏ đạt từ 5,6-7 điểm và tương đương với lòng đỏ ở mức bình thường
theo thang điểm màu của Roche. Nhưng yêu cầu của các nước châu Mỹ thì màu sắc
lòng đỏ phải đạt thang điểm từ 7-10, còn châu Âu và châu Á là 10-14 theo thang điểm
của Roche (1988) [124]. Như vậy, nếu chỉ sử dụng khẩu phần tự nhiên để cung cấp sắc
chất cho lòng đỏ thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu nêu trên, ngoài ra oxycarotenoid
còn dễ bị biến tính do tác động của các nhân tố gây oxy hóa như ánh sáng, nhiệt độ hay
quá trình đề hydrate và điều kiện bảo quản nên việc thiếu hụt sắc chất trong thức ăn và
trong sản phẩm chăn nuôi là khó tránh khỏi.
Đối với gà thịt, sắc chất apocarotenoic acid ethyl ester là một carophyll có màu
vàng khi bổ sung có tác dụng tăng màu sắc của da gà (Latscha, 1990 [95]). Khi các
carotenoid tích lũy đầy đủ thì hương vị của thịt tăng, do đó làm tăng chất lượng của thịt gà
(Josephson, 1987 [92]), cải thiện độ vàng da ngực và thành phần axit béo của thịt (Mourão
và cs, 2008 [112]). Nhưng trong chăn nuôi gà công nghiệp, gà bị nuôi nhốt và được ăn
thức ăn hỗn hợp không đủ lượng sắc chất nên đã làm giảm màu sắc da và thịt gà, làm mất
đi hương vị thơm ngon của thịt gà (Latscha, 1990 [95]; Williams, 1992 [139]).
Để giải quyết vấn đề thiếu hụt sắc chất trong thức ăn và cải thiện độ vàng của
lòng đỏ trứng, da, thịt, đồng thời làm tăng hương vị thịt của gia cầm, người ta đã bổ
sung sắc chất tổng hợp hoặc bột lá cây thức ăn xanh giàu sắc chất vào thức ăn. Sắc
chất tổng hợp tuy cải thiện được màu của lòng đỏ trứng và da gà nhưng không cải
thiện được hương vị thịt, bên cạnh đó một số sắc chất tổng hợp còn ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe con người. Vì vậy, người ta hướng tới việc sản xuất bột lá thực vật
15
giàu sắc chất hoặc chiết xuất sắc chất từ thực vật, nấm bổ sung vào thức ăn của gia
cầm. Các loại bột lá cây thức ăn xanh thường được sản xuất là bột hoa cúc, bột lá
keo giậu, bột cỏ alfalfa, bột cỏ stylo, bột cỏ medicago, bột cỏ mục túc, bột lá sắn…
Ở Việt Nam, sắn là một cây trồng có tiềm năng cho việc sản xuất bột lá thực vật.
Diện tích trồng sắn hàng năm ở nước ta vào khoảng gần 600.000 ha, chỉ riêng tận
thu ngọn, lá khi thu củ sắn cũng có thể sản xuất được gần 5 tấn bột lá. Việc trồng
sắn thu lá cũng có nhiều hứa hẹn, có thể thu được khoảng 30 tấn lá tươi và sản xuất
được trên dưới 8 tấn bột lá/ha/năm. Lá sắn dễ phơi khô, bột lá sắn giàu carotenoid,
xanthophyll và protein. Vì vậy, nó không chỉ là nguồn bổ sung sắc chất mà còn là
nguồn cung cấp protein cho gia súc và gia cầm.
1.2.4. Độc tố HCN trong sản phẩm sắn
Một trong những yếu tố quan trọng gây hạn chế sử dụng các sản phẩm từ củ
và lá sắn làm lương thực cho con người và thức ăn cho gia súc là trong sắn có chứa
cyanogenic glucosides. Đó là linamarin (linamarosid) và lotaustralin (lotostraloside)
(Nartey, 1978 [115]). Linamarin tồn tại trong không bào của tế bào sắn (Mcmahon
và cs, 1995 [107]). Quá trình tổng hợp linamarin từ valin còn lotaustralin được tổng
hợp từ izoleuxin. Hai chất này khi thuỷ phân đều tạo ra acetone và axit cyanhydric
nhờ men nội sinh linamarase xuất hiện khi tế bào sắn bị phá hủy (Bruijn 1973 [58],
Nartey, 1978 [115]). Chính vì vậy, axit cyanhydric tự do hầu như không có trong
mô thực vật, mà chỉ tồn tại ở dạng hợp chất liên kết giữa acetone và axit cyanhydric.
Cũng vì thế mà các heteroside nói trên còn gọi là glucoside hydroxinitrile.
* Công thức cấu tạo:
Linamaroside
Lotostraloside
Theo Nambisan (1985) [114], thì linamaroside có tên hoá học là 2 hydroxyl-2
methylpropan-nitrilaglucoside, có công thức C10H17O6N. Còn chất lotostraloside có
công thức hóa học là C11H18O6N (Trần Ngọc Ngoạn, 2007 [29]). Trong đó,
linamaroside chiếm từ 93-96 % còn lotostraloside chiếm 4-7 % (Lê Đức Ngoan và
cs, 2005 [28]). Nhưng Gomez (1991) [80] cho biết: Ở sắn, chất linamaroside chiếm
từ 89-96 %, còn lotostraloside chiếm từ 4-11 %.
16
Axit cyanhydric có cấu tạo tinh thể, hình kim, không màu, không hòa tan
trong cồn, ete, tan ít trong acetone nhưng dễ bay hơi và dễ hòa tan trong nước.
Lượng độc tố trong sắn rất khác nhau tùy thuộc vào giống sắn. Trong cùng
một giống sắn thì ở phần củ sắn, lượng HCN cao nhất ở phần vỏ thịt, sau đó là 2
đầu củ và lõi sắn; ở lá thì HCN ở lá non nhiều hơn lá già; ở thân thì thân già nhiều
hơn thân non. Ở mỗi phần của cây sắn hàm lượng HCN có tỷ lệ rất khác nhau, HCN
được tập trung chủ yếu ở phần củ sắn. Căn cứ vào hàm lượng độc tố HCN trong củ
sắn mà phân chia làm 2 loại: Sắn ngọt (ngọt và không đắng) và sắn đắng (đắng và
rất đắng). Theo Trần Ngọc Ngoạn (2007) [29] thì giống sắn ngọt có từ 30-80 ppm
HCN trong chất tươi, giống sắn đắng có từ 80-400 ppm HCN trong chất tươi. Theo
Sinha và Nair (1968) (Trích Silvestre và Arraudeau, 1990 [30]) thì sắn ngọt là
những giống sắn có tỷ lệ HCN nhỏ hơn 80 ppm trong chất tươi, nhóm sắn đắng là
những giống sắn có tỷ lệ HCN lớn hơn 80 ppm.
Trong cây sắn, sự phân bố HCN trong các bộ phận khác nhau là rất khác nhau.
Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [35] thì phân bố HCN được chia ra như sau: Các bộ
phận trên mặt đất có 29,3 %; trong đó chủ yếu độc tố nằm ở thân là 27,2 % còn lại ở
lá chỉ có 2,1 %. Lượng độc tố ở các bộ phận dưới mặt đất chiếm 70,7 % tổng lượng
độc tố trong cây. Trong đó gốc già dưới đất có 8,9 % và rễ củ chiếm 61,8 %, tập
trung chủ yếu ở vỏ và hai đầu củ sắn.
Theo Lê Đức Ngoan (2005) [28] thì ở động vật thường gặp 2 triệu chứng ngộ
độc HCN đó là ngộ độc cấp tính làm cho con vật chết rất nhanh và ngộ độc mãn tính
thì thường không có biểu hiện rõ ràng. Gia súc thường xuất hiện dấu hiệu ngộ độc khi
được cho ăn liên tiếp những lượng nhỏ axit cyanhydric và thường xuyên, nhưng gan
vẫn có khả năng giải độc HCN nhờ vào lưu huỳnh trong amino acid để tạo ra chất
thiociannat ít độc hơn HCN. Maner (1987) [103] cho biết quá trình sử dụng lưu
huỳnh để giải độc làm giảm hấp thu và sử dụng các amino acid chứa lưu huỳnh
(methionine, cystine) và các chất dinh dưỡng khác lấy từ thức ăn như sulfure, vitamin
B12, sắt, đồng và iode, v.v... sự thiếu hụt này xảy ra ngay cả khi khẩu phần thức ăn có
đầy đủ các thành phần dinh dưỡng trên. Silvestre (1990) [30] đã cho biết: Lượng độc
tố HCN có thể gây chết động vật khoảng 2,5 mg/kg khối lượng cơ thể. Theo
Humphreys (1988) (dẫn theo Lê Đức Ngoan, 2005 [28]) thì liều ngộ độc tối thiểu là
2-2,3 mg/kg khối lượng cơ thể, còn theo Butler (1973) là 4,4 và Tewe (1995) là 3,5
mg/kg khối lượng cơ thể, nhưng theo Du Thanh Hang và Preston (2005) [69] thì ở mức
6-15 mg/kg khối lượng cơ thể vẫn không thấy ngộ độc. Tuy nhiên, theo các tác giả trên
thì mức độ gây ngộ độc còn tùy thuộc vào dạng glucoside có trong thức ăn.
17
* Cơ chế gây độc:
Khi gia súc, gia cầm ăn nhiều thức ăn có chứa HCN, gốc CN- khi vào cơ
thể sẽ liên kết chặt chẽ với hemoglobin, ức chế quá trình vận chuyển oxy làm cho
cơ thể thiếu oxy dẫn đến gia súc ngạt thở, niêm mạc, da tím bầm và chết nhanh.
Việc bắt giữ CN- của Hb là phản ứng tự vệ của cơ thể nhằm ngăn chặn ion CN- lọt
vào bên trong các tế bào và liên kết chặt chẽ với nhân Fe++ và Cu++ trong hệ thống
enzym hô hấp cytochrom, giữ cho hệ thống này vẫn thực hiện được chức năng vận
chuyển điện tử trong chuỗi phản ứng hô hấp tế bào. Nhưng chính phản ứng tự vệ
này đã làm cho Hb mất khả năng vận chuyển oxy và làm cho con vật bị ngộ độc
(Lê Đức Ngoan, 2005 [28]).
Sơ đồ chuyển hóa cyanogenesis và cyannide trong cơ thể người và động vật
Mặt khác, axit cyanhydric cũng có dạng kết hợp với ion Cu2+, ion này được
giải phóng do sự oxy hóa các tế bào crome, dạng kết hợp này đóng vai trò như một
chất oxy hóa các enzyme và ức chế vận chuyển các electron trong tế bào, gây ra sự
thiếu hụt oxy trong toàn bộ các mô bào của cơ thể động vật. Những tác nhân trên đã
gây suy nhược thần kinh ở các trung tâm tủy sống, từ đó dẫn đến tê liệt toàn bộ hệ
thống thần kinh và làm cho động vật bị chết. Khi động vật ăn liên tục trong một thời
18
gian dài thức ăn có chứa axit cyanhydric với hàm lượng quá giới hạn cho phép của
động vật thì nó sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn, lâu
dài sẽ dẫn đến tử vong (Maner, 1987 [103]).
* Nguyên lý cơ bản về việc loại bỏ độc tố trong các sản phẩm sắn
Các phương pháp chế biến loại bỏ độc tố trong các sản phẩm sắn dựa trên 3
nguyên lý cơ bản sau:
Loại bỏ trực tiếp cyanogen glucocid bằng cách hòa tan trong nước. Vì
cyanogen glucocide sản sinh ra HCN, chất này bị loại bỏ thì HCN cũng bị loại bỏ.
Làm phân giải cyanogen glucocide thành aceton và HCN, sau đó dùng nhiệt
làm bốc hơi HCN hoặc dùng nước làm rửa trôi HCN.
Làm phá hủy hoặc ức chế enzyme linamariaza và glucocidaza. Các enzyme này
không hoạt động thì cyanogen glucocid không thể phân giải thành aceton và HCN.
* Nhận xét chung:
Bột củ sắn có năng lượng trao đổi cao từ 3087 đến 3196 kcal/kg VCK, nhưng tỷ
lệ protein thấp từ 1,47 đến 5,18 %. Bột lá sắn có năng lượng trao đổi thấp chỉ từ 2194
đến 2549 kcal/kg VCK; nhưng tỷ lệ protein cao từ 23-32 % trong VCK, các amino acid
tương đối đầy đủ và cân đối. Cả củ và lá sắn đều chứa độc tố HCN, đó là một yếu tố
hạn chế cho việc sử dụng củ và lá sắn làm thức ăn chăn nuôi. Hàm lượng HCN trong
củ sắn tươi từ 30 đến 400 ppm, còn trong lá sắn tươi từ 323 đến 1270 ppm. Lượng độc
tố có thể gây độc cho vật nuôi là từ 2-15 mg/kg khối lượng cơ thể.
1.3. Ảnh hưởng của một số cách thức chế biến đến thành phần hóa học của củ và lá sắn
1.3.1. Một số cách thức chế biến củ sắn
1.3.1.1. Các cách thức chế biến sắn dựa vào làm khô trực tiếp:
- Chế biến và bảo quản sắn lát phơi khô hoặc sấy khô:
Sắn sau khi thu hoạch được rửa sạch, bóc vỏ hoặc không. Thái lát thủ công
bằng tay hoặc bằng máy. Sau đó sắn được phơi trên sàn, nong, nia, cót,... hoặc trên
sân xi măng. Sau khi phơi khô, sắn phải được để nguội rồi mới đem cất trữ.
- Chế biến sắn khô-nghiền bột
Người ta để cả củ hay thái lát rồi phơi khô hoặc sấy khô trong các lò sấy thủ
công hay lò sấy điện. Sau khi sắn khô thì nghiền thành bột và cất trữ.
19
- Chế biến sắn viên
Sắn được rửa sạch rồi nghiền nhỏ sau đó được ép đùn qua hệ thống trục ngang.
Trong quá trình ép sắn bị mất nước và được ép thành các viên dài từ 1-2 cm, sau đó sấy
khô và bảo quản khi độ ẩm nguyên liệu là 13 %.
1.3.1.2. Các cách thức chế biến sử dụng nước:
- Phương pháp ngâm củ sắn tươi để chế biến bột sắn:
Ở những nơi sẵn nguồn nước, có thể chế biến bột sắn bằng cách ngâm củ sắn
tươi dưới nước 10-15 ngày đến khi củ sắn mềm. Sau đó, vớt củ đem phơi khô và
bảo quản nơi khô ráo. Khi sử dụng thì bóc vỏ, lấy bột bên trong.
- Chế biến tinh bột từ sắn khô:
Củ sắn khô được cắt thành miếng và được nghiền sơ bởi lực ép liên tục sao
cho các miếng sắn không bị nghiền quá kỹ. Sau đó khối sắn được ngâm trong nước
để xử lý tách tinh bột.
- Sản xuất tinh bột sắn ướt
Củ sắn phải được thu hoạch và chế biến ngay trong 24 giờ sau thu hoạch để
sản xuất được tinh bột sắn có chất lượng cao nhất. Sắn được bóc vỏ, mài xát sắn
thành bột nhão, lọc bột để tách bã sắn khỏi bột sắn, lắng đọng nước lọc để thu hồi
tinh bột, phơi hoặc sấy tinh bột (có độ ẩm dưới 13 %), bảo quản tinh bột trong
chum, vại có nắp đậy kín hoặc túi nilon.
- Chế biến sắn thành dạng hạt sắn
Từ sắn khô được loại đi cát bụi... và được nghiền thành bột sau đó phun nước
để sản phẩm có độ ẩm khoảng 18 %. Hạt sắn được chế biến bằng cách ép trong các
rá sắt có lỗ và làm tăng nhiệt độ lên 820C, nhờ đó sắn được hồ hóa và tạo ra các hạt
có khả năng kết dính tốt. Tiếp theo là được thổi gió qua hạt sắn để giảm độ ẩm đi 34 % rồi đưa vào bao gói.
1.3.1.3. Các cách thức chế biến dựa vào lên men sản phẩm
- Ủ chua củ sắn:
Sắn củ sau khi thu hoạch được rửa sạch sau đó nghiền nhỏ và trộn thêm các
loại thức ăn khác. Theo Nguyen Thi Hoa Ly (2000) [155] thì cứ 100 kg củ sắn ủ
chua với 10 kg cám gạo và 0,5 kg muối ăn. hoặc 70 kg củ sắn ủ với 30 kg dây lá
khoai lang và 0,5 kg muối đem trộn đều sau đó cho vào dụng cụ ủ (túi polietylen
hoặc chum vại,...). Khối ủ được nén chặt, đậy kín để tạo điều kiện yếm khí cho sự
lên men.
20
- Làm giàu protein cho nguyên liệu sắn:
Sắn khô được cắt nhỏ có đường kính từ 2-4 mm, làm ẩm đến 45 % và hấp. Sau
khi hấp để nguội nguyên liệu xuống 400C, sắn được trộn với dung dịch Rhizopus
oryzae MUCL 28627 và 3,4 g ure; 1,5 g KH2PO4; 0,8 g MgSO4.7H2O và 22,7 g acid
citric tính trên 100 g chất khô. Tạo cho môi trường có độ ẩm 60 %, pH là 3,5 và được
trải đều trên các khay có đục lỗ, đặt trong phòng kín và lên men trong 65 giờ.
1.3.2. Một số cách thức chế biến lá sắn
1.3.2.1. Ủ chua ngọn lá sắn:
Theo Bùi Văn Chính và cs (1995) [4]; Nguyễn Xuân Trạch (2005) [44] thì quy
trình ủ chua ngọn và thân lá sắn như sau: Ngọn lá sắn thu về cần phải đập dập phần
thân cây và băm nhỏ 3-4 cm. Cứ 100 kg ngọn lá sắn cần bổ sung 5-6 kg bột sắn hay
cám gạo, cám ngô và 0,5 kg muối ăn, sau đó đưa vào ủ yếm khí trong chum, vại
hoặc hầm hố ủ.
1.3.2.2. Chế biến bột lá sắn:
Theo Duong Thanh Liem (1998) [70] thì bột lá sắn được chế biến như sau: Lá
sắn được thu gom, loại bỏ hết cuống lá, phơi héo tại ruộng trong một ngày cho giảm
bớt nước. Sau đó lá sắn được tiếp tục phơi nắng trên sân hoặc đưa vào hệ thống sấy
ở nhiệt độ 60-1000C cho khô giòn. Lá sau khi khô giòn được nghiền thành bột, trải
mỏng bột lá cho bay hơi nước và HCN. Cho bột lá sắn vào bao nhưng để hở miệng
túi sau 2 tuần mới đóng gói để trong thời gian này HCN tiếp tục thoát ra ngoài.
1.3.2.3. Chế biến cao lá sắn:
Lá sắn được nghiền nhỏ sau đó lọc bỏ bã và đun nước dịch lá sắn ở nhiệt độ
0
80 C, khi thấy có váng nổi lên thì vớt lấy và loại bỏ nước, có thể cho 10-20 g acid
citric/100 lít dịch lá thì sẽ thu được sản phẩm triệt để hơn. Sản phẩm thu được có
thể sử dụng trực tiếp cho gia súc gia cầm hoặc sấy khô nghiền bột để trộn vào thức
ăn hỗn hợp.
1.3.2.4. Phơi khô thân, lá sắn non:
Sắn trồng dầy với mục đích để thu lá, sau trồng 3-3,5 tháng thu cắt lứa đầu,
sau đó cứ khoảng 1,5-2 tháng thu cắt một lần. Thân cây sắn còn non, phơi cả thân,
lá sắn (để nguyên cả cây hoặc băm nhỏ trước khi phơi) khi khô thì đánh đống hoặc
nghiền thành bột để dự trữ.
1.3.3. Ảnh hưởng của các cách thức chế biến đến thành phần hóa học của củ sắn
Theo Nguyen Thi Hoa Ly và Nguyen Thi Loc (2000) [116] thì khi chế biến củ
sắn và bã sắn bằng phương pháp ủ sẽ làm giảm tỷ lệ độc tố của củ và bã sắn. Ở củ
21
sắn lượng HCN ban đầu là 131,1 mg/kg, sau 28 ngày chỉ còn 25,6 mg/kg, sau 100
ngày chỉ còn 11,5 mg/kg. Đối với bã sắn, hàm lượng HCN ban đầu là 74,6 mg/kg,
sau 28 ngày chỉ còn 23,2 mg/kg và ở 100 ngày là 8,7 mg/kg. Hàm lượng protein sau
khi ủ có xu hướng giảm từ 0,85 % xuống 0,70 % đối với củ sắn và từ 0,48 % xuống
0,35 % (bã sắn) do sự phân giải của vi sinh vật, tuy nhiên không có sự sai khác
thống kê về protein trước và sau khi ủ. Riêng tỷ lệ xơ thì giảm có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05. Tỷ lệ xơ giảm từ 0,98 % xuống 0,86 % ở củ sắn và từ 1,89 % xuống
1,64 % ở bã sắn khi ủ yếm khí. Điều này cho thấy ủ yếm khí không làm giảm giá trị
dinh dưỡng của sắn.
Theo Hoài Vũ (1980) [49] củ sắn tươi có khoảng 9,72 mg/100g HCN, dùng
phương pháp thái sợi và phơi khô thì tỷ lệ HCN chỉ còn 2,16 mg/100g. Nếu chế
biến thành bột sắn thì tỷ lệ HCN giảm thấp nhất, chỉ còn 1,08 mg/100g. Dùng các
phương pháp ngâm nước, tỷ lệ HCN giảm không đáng kể, đặc biệt nếu sắn không
được bóc vỏ.
Theo Nguyen Thi Loc và cs (2001) [117], củ sắn ủ sau 30 ngày, tỷ lệ VCK
tăng từ 37,5 % lên 37,8 % nhưng sau đó giảm dần, đến 120 ngày là 37,3 %. Khi ủ
đến 60 ngày thì pH khối ủ giảm xuống và ổn định ở mức 3,8. Tỷ lệ HCN giảm dần
từ 112 mg/kg khi mới thu hoạch, đến 120 ngày ủ chỉ còn 44 mg/kg.
Theo Gomez và cs (1985) [79] thì củ sắn tươi có 35-40 % VCK; 1-2 % protein
thô; 1,5-2 % xơ thô; 0,2-0,5 mỡ và 30-36 % DXKN; Ca là 0,05 %; P là 0,07 % sau khi
được chế biến thành bột sắn thì tỷ lệ VCK là 90 %; protein là 3,1 %; xơ là 3,4 %; lipit
là 1,3 % và dẫn xuất không đạm tăng lên đáng kể, chiếm 80 % trong VCK; Ca là
0,12 % và P là 0,16 %.
1.3.4. Ảnh hưởng của các cách thức chế biến đến thành phần hóa học của lá sắn
* Ảnh hưởng của phương pháp ủ lá sắn:
Theo Nguyen Thi Hoa Ly và Nguyen Thi Loc (2000) [116] thì tỷ lệ HCN
trong lá sắn tươi từ 323-340 mg/kg, nhưng sau 28 ngày ủ chỉ còn 68,2-88,4 mg/kg
tương ứng 21,1-27,3 % so với tỷ lệ ban đầu. Khi ủ lá sắn với 0,5 % muối ăn, thì sau
28 ngày tỷ lệ VCK có xu hướng tăng dần từ 25,1 % lên 26,8 %, còn tỷ lệ protein và
xơ có xu hướng giảm dần từ 6,84 xuống 6,82 % và 4,69 % xuống 4,08 %. Nếu ủ lá
sắn kết hợp với 5 % cám hoặc 5 % bột củ sắn thì tỷ lệ VCK đều có xu hướng tăng,
tỷ lệ xơ giảm, nhưng tỷ lệ protein thì ít bị biến động. Cũng theo tác giả này, lá sắn
được ủ chua sau 28 ngày thì tỷ lệ VCK tăng lên còn protein thì có xu hướng giảm.
22
Vật chất khô tăng từ 28,73 % lên 28,80% còn protein giảm từ 29,65 % xuống
27,40 %. Nếu tiếp tục để lâu hơn nữa đến 56 ngày thì tỷ lệ protein chỉ còn 23,34 %.
Theo Bùi Văn Chính (1995) [4], ủ chua có thể làm giảm HCN từ 862,5 xuống
32,5 mg/kg VCK, còn sau phơi nắng 4 giờ thì tỷ lệ này còn là 260,6 mg/kg. Lá sắn
sau khi phơi khô và nghiền thành bột thì tỷ lệ HCN chỉ còn 90,2 mg/kg VCK.
* Ảnh hưởng của phương pháp phơi lá sắn:
Theo Duong Thanh Liem (1998) [103], lá sắn Thái Lan khi phơi nắng nhanh
thì tỷ lệ HCN trong lá là 1270 ppm còn caroten là 121 mg/kg, nếu phơi nắng trong
nhà thì tỷ lệ HCN trong lá là 526 ppm, còn tỷ lệ caroten mất đi ít hơn so với phơi
nắng ngoài tự nhiên. Nếu sấy ở các nhiệt độ 60, 80 và 1000C thì sấy ở 1000C tỷ lệ
HCN sẽ giảm thấp nhất và còn lại là 495 ppm, đồng thời lại giữ được tỷ lệ caroten
cao nhất trong các phương pháp (277 mg/kg). Đối với lá sắn Gòn thì tỷ lệ HCN thấp
hơn nhưng tỷ lệ caroten thì cao hơn so với lá sắn Thái Lan. Diễn biến về HCN và
caroten của các cách thức chế biến phơi nắng ngoài trời, phơi trong nhà, sấy ở 60,
80 và 1000C cũng tương tự như đối với lá sắn Thái Lan nhưng HCN ở phương pháp
phơi trong nhà chỉ còn 280 ppm và caroten là 251 mg/kg còn sấy ở 1000C thì HCN
là 217 mg/kg và caroten là 351 mg/kg.
Các phương pháp bảo quản khác nhau cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ caroten và
HCN của lá sắn. Phơi khô cả lá rồi để nguyên bảo quản tốt hơn nghiền thành bột vì
HCN giảm nhanh hơn, nhưng thành phần các chất dinh dưỡng không khác nhau rõ
rệt ở cả hai phương pháp (Badbury, 2004 [53]; Duong Thanh Liem, 1998 [70]).
Theo Wanapat (1999) [137], lá sắn được thu toàn bộ phần ngọn ở thời điểm 3-4
tháng sau trồng, được phơi đến tỷ lệ nước còn 13,7 % có protein tiêu hóa là 22 %, tổng
các chất hữu cơ tiêu hóa là 65 %. Khi chế biến thành bột có độ ẩm 10 % thì protein
tiêu hóa giảm chỉ còn 18,3 %; tổng các chất hữu cơ tiêu hóa giảm 5 %.
* Nhận xét chung:
Đối với củ sắn có thể chế biến bằng phơi khô trực tiếp hoặc có sử dụng nước
hay bằng phương pháp lên men. Đối với lá sắn có thể ủ chua, phơi khô, làm cao
lá,... để làm giảm độc tố và tăng chất lượng sản phẩm. Củ sắn sau khi qua chế biến
thì hàm lượng độc tố, protein, gluxit giảm xuống nhưng tỷ lệ xơ thường tăng lên
một cách tương đối. Đối với lá sắn sau khi chế biến thì hàm lượng độc tố HCN và
caroten giảm đi một cách rõ rệt.
23
1.4. Sử dụng củ và lá sắn trong chăn nuôi
1.4.1. Sử dụng củ sắn
Theo Buitrago (2002) [60] sử dụng củ hoặc lá sắn để chăn nuôi gia cầm chịu
ảnh hưởng bởi rất nhiều các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố bên ngoài là:
Tuổi gia cầm, quá trình chế biến thức ăn (nghiền, đóng viên,...) và khẩu phần để
nuôi gia cầm. Yếu tố bên trong đó là các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng, ích lợi và
giá thành của sản phẩm. Theo Singh và Panda (trích từ Viện Chăn nuôi, 2001 [48])
thì lượng sắn tối đa sử dụng trong khẩu phần gia cầm chỉ từ 15- 20 %. Nếu sử dụng
với lượng lớn hơn thường không mang lại hiệu quả vì phải dùng nhiều thức ăn giàu
protein như bột cá, khô đậu tương…
Bột củ sắn đã được các tác giả Millan và Dudley (1941) [109]; Tobayayong
(1935) [135], sử dụng thay thế cho ngũ cốc với tỷ lệ cao hơn 20 % trong khẩu phần
của gia cầm nhưng thường thấy làm giảm năng suất của gia cầm. Theo các tác giả
thì nguyên nhân chủ yếu do lượng HCN còn tồn dư trong bột sắn đã làm ảnh hưởng
đến gia cầm, đồng thời bột sắn thường thiếu protein, amino acid, khoáng và vitamin
vì vậy phải bổ sung các loại nguyên liệu khác, điều đố dẫn đến giá thành thức ăn
tăng lên.
Gil và cs (2001) [77] cho rằng trong khẩu phần ăn của gà broiler có bột củ và
bột lá sắn thì nên cho gà ăn dưới dạng thức ăn viên để hạn chế bụi gây ra. Nếu thức
ăn ở dạng viên, có thể phối hợp từ 25-30 % bột củ và 5-6 % bột lá sắn trong khẩu
phần ăn của gà.
Theo Van Popple (2001) [136] thì điểm hạn chế của bột củ sắn là thiếu hụt
protein và một số acid amin thiết yếu vì vậy phải phối hợp với các loại thức ăn khác
để cung cấp đầy đủ các loại chất dinh dưỡng mà sắn thiếu. Trong khẩu phần sử
dụng cho gia cầm thì đỗ tương là thức ăn có đầy đủ acid amin và lipit. Phối hợp 82
% bột củ sắn và 18 % đậu tương có giá trị tương đương với ngũ cốc.
Theo Liu Jian Ping (2000) [96], sử dụng tỷ lệ bột củ sắn cao trong khẩu phần thì gà
thịt vẫn tăng khối lượng bình thường và đạt khối lượng 2 kg ở ngày tuổi thứ 49.
Sriwattanaworachai và cs, 1989 (dẫn theo Buitrago và cs, 2002 [60]) so sánh
ảnh hưởng của ngô, sorghum và sắn đến khả năng tăng khối lượng của gà broiler từ
4-7 tuần tuổi. Kết quả cho thấy gà của lô sử dụng bột sắn cho tăng khối lượng thấp
24
hơn và tiêu tốn thức ăn cao hơn so với lô sử dụng ngô và bột sorghum nhưng sự sai
khác này không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Theo Tiémoko (1988) [134], khi thay thế ngô bằng bột củ sắn với các tỷ lệ 0,
10, 20, 30 % trong khẩu phần ăn của gà thịt broiler giai đoạn từ 29 đến 49 ngày tuổi,
thì không ảnh hưởng tới tăng khối lượng của gà thí nghiệm. Tuy nhiên, khi tỷ lệ bột
sắn lớn hơn 10 % thì lượng thức ăn tiêu tốn tăng lên do thiếu hụt dinh dưỡng của
khẩu phần gây ra.
Stevenson và Jackson (1983) [131] cho biết khả năng tăng khối lượng của gia
cầm không bị ảnh hưởng khi sử dụng 50 % bột củ sắn trong khẩu phần. Tuy nhiên,
phân thải ra rất nhớt và tác giả khuyến cáo chỉ nên sử dụng tối đa là 30 %.
Theo Buitrago và Luckett (1999) [59], khi thay thế ngô bằng 0, 10 và 20 %
bột sắn cho gà Lohmann Brown đẻ trứng ở tuần tuổi 78-88 thì tỷ lệ đẻ lần lượt
của các lô là 69,30; 65,70 và 65,10 %, còn tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng lần
lượt là 2,00; 2,12 và 2,11 kg.
Theo Gutiérrez và Martínez (1997) [85], khi thay thế 10 % ngô bằng bột sắn
cho gà đẻ trứng giai đoạn từ 48- 55 tuần tuổi thì tiêu thụ thức ăn (g/gà/ngày) ở lô
đối chứng là 102,6 còn lô 10 % bột sắn là 103,2 và tiêu tốn thức ăn trên 12 trứng
của cả 2 lô là 1,4 kg. Tỷ lệ đẻ của cả hai lô không sai khác có ý nghĩa thống kê.
Khajarern và cs (1986) [99] đã chứng minh rằng bột sắn có thể sử dụng thay
thế ngô, gạo vỡ hay bột sorghum. Tác giả đã thử nghiệm trên gà hậu bị và gà đẻ, kết
quả cho thấy năng suất gà cũng tương tự như khi sử dụng ngô, gạo vỡ và bột
sorghum. Tỷ lệ nuôi sống của lô dùng bột sắn cao hơn so với các lô còn lại nhưng
không có sự sai khác thống kê.
Saentaweesuk và cs (2000) [126] khi nghiên cứu thay thế ngô bằng bột sắn đối
với gà đẻ thì ở lô thay thế 100 % bột sắn vẫn cho tỷ lệ đẻ và năng suất trứng tương
đương lô sử dụng 100 % ngô nhưng chỉ số màu sắc lòng đỏ giảm hơn so với dùng ngô.
Hamid và Jalaludin (1972) [86] sử dụng 60 % bột củ sắn để thay thế cho ngô
trong khẩu phần gà đẻ. Tác giả cho biết ở mức thay thế cao rất khó cân bằng được
tỷ lệ protein trong khẩu phần. Màu sắc của lòng đỏ có xu hướng giảm dần khi tăng
tỷ lệ bột sắn vì vậy phải bổ sung những nguồn giàu caroten vào khẩu phần.
Từ các tài liệu trên cho thấy có thể sử dụng từ 20 - 30 % bột củ sắn cho gà thịt
và gà đẻ trứng.