BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
------------
NGUYỄN THỊ HỒNG
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN LAN KHAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HỒNG
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN LAN KHAI
CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:
VĂN HỌC VIỆT NAM
60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH TRÍ DŨNG
NGHỆ AN - 2013
MỤC LỤC
Trang
U ..................................................................................................... 1
MỞ ĐẦ
ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài ............................................................................ 1
2.
Lịch sử vấn đề.....................................................................................2
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... 5
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5
5.
Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 5
6.
Đóng góp và cấu trúc của luận văn ....................................................6
ươ
ng 1. TRUY
ỆN NG
ẮN LAN KHAI TRONG BỨC TRANH
Ch
Chươ
ương
TRUYỆ
NGẮ
ỆN NG
ẮN VI
ỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
TRUY
TRUYỆ
NGẮ
VIỆ
1945........... 7
1.1.
Bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 945.......7
1.1.1.
Khái niệm truyện ngắn........................................................................7
1.1.2.
Thành tựu và khuynh hướng truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945....... 11
1.1.2.1. Thành tựu truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945................................... 11
1.1.2.2. Các khuynh hướng truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945..................... 14
1.2.
Vài nét về con người và sự nghiệp sáng tác của Lan Khai ...............22
1.2.1.
Con người Lan Khai ........................................................................22
1.2.2.
Quan điểm sáng tác...........................................................................26
1.2.3.
Sự nghiệp sáng tác của Lan Khai...................................................... 29
1.3.
Truyện ngắn Lan Khai – một gương mặt lạ trong truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945........................................................33
1.3.1.
Về nội dung...................................................................................... 34
1.3.2.
Về hình thức ................................................................................... 38
Ch
ươ
ng 2. ĐẶ
C ĐIỂM TRUY
ỆN NG
ẮN LAN KHAI TR
ÊN PH
ƯƠ
NG DI
ỆN
Chươ
ương
ĐẶC
TRUYỆ
NGẮ
TRÊ
PHƯƠ
ƯƠNG
DIỆ
ỌN ĐỀ TÀI VÀ CẢM HỨNG SÁNG TẠO................ 40
LỰA CH
CHỌ
2.1.
Lựa chọn đề tài................................................................................. 40
2.1.1.
Khái niệm đề tài................................................................................40
2.1.2.
Hệ đề tài trong truyện ngắn Lan Khai............................................... 41
2.1.2.1. Đề tài “đường rừng”..........................................................................43
2.1.2.2. Đề tài tâm lý xã hội...........................................................................45
2.2.
Cảm hứng ....................................................................................... 47
2.2.1.
Khái niệm cảm hứng ....................................................................... 47
2.2.2.
Cảm hứng ngợi ca ........................................................................... 49
2.2.2.1. Ca ngợi thiên nhiên...........................................................................50
2.2.2.2. Ca ngợi con người.............................................................................64
2.2.3.
Cảm hứng phê phán.......................................................................... 68
2.2.3.1. Phê phán hiện thực đen tối................................................................ 70
2.2.3.2. Phê phán hủ tục lạc hậu.....................................................................74
ươ
ng 3. ĐẶ
C ĐIỂM TRUY
ỆN NG
ẮN LAN KHAI TR
ÊN MỘT SỐ
ương
ĐẶC
TRUYỆ
NGẮ
TRÊ
Ch
Chươ
ƯƠ
NG DI
ỆN HÌNH TH
ỨC NGH
Ệ THU
ẬT ...............77
PH
PHƯƠ
ƯƠNG
DIỆ
THỨ
NGHỆ
THUẬ
3.1.
Nghệ thuật xây dựng tình huống ................................................... 77
3.1.1.
Khái niệm tình huống........................................................................77
3.1.2.
Tình huống éo le, gay cấn giàu kịch tính...........................................79
3.1.3.
Tình huống tâm lý, tâm trạng............................................................ 81
3.2.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật...........................................................82
3.2.1.
Khái niệm nhân vật........................................................................... 82
3.2.2.
Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật............................................ 84
3.2.2.1. Vẻ đẹp của những người phụ nữ....................................................... 84
3.2.2.2. Vẻ đẹp của những chàng trai.............................................................87
3.2.3.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật...................................................89
3.3.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ........................................................... 95
3.3.1.
Ngôn ngữ dân giã..............................................................................96
3.3.2.
Ngôn ngữ giàu tính tạo hình ...........................................................100
3.4.
Nghệ thuật sử dụng những yếu tố kỳ ảo........................................ 102
3.4.1.
Không gian kỳ ảo............................................................................ 105
3.4.2.
Nhân vật kỳ ảo................................................................................ 108
ẬN............................................................................................... 115
KẾT LU
LUẬ
ỆU THAM KH
ẢO..........................................................................118
KHẢ
TÀI LI
LIỆ
1
U
MỞ ĐẦ
ĐẦU
ọn đề tài
1. Lý do ch
chọ
1.1. Nói đến văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1930 - 1945 chúng ta
không thể không nói đến Lan Khai. Với cuộc đời chưa tròn bốn mươi tuổi,
ông đã để lại một di sản lớn về văn học. Lan Khai là một cây bút đa tài, ông
viết nhiều thể loại như: tiểu thuyết, truyện ngắn, tác phẩm nghiên cứu lý luận
và phê bình văn học, ký, thơ, câu đối, các công trình dịch thuật, sưu tầm văn
học dân gian và hội họa...Tất cả góp phần tạo nên bức chân dung sống động
về nghệ sĩ Lan Khai giàu tiềm năng sáng tạo. Dường như ở tất các lĩnh vực
trên, Lan Khai đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đẹp, đặc biệt
là đối với người dân miền núi phía Bắc.
1.2. Lan Khai sinh ra và lớn lên giữa xứ sở của núi thần sông Gấm, nơi
có những con người "áo chàm chân đất, mang tâm hồn phác thực" nhưng đẹp
lạ lùng. Nơi đây là một trong những cái nôi của làn điệu dân ca miền núi, có
nhiều sinh hoạt dân gian cổ truyền và nhiều phong tục tập quán. Do đó, hơn ai
hết Lan Khai rất am hiểu về thiên nhiên, lịch sử và con người của vùng đất
này. Như một sự kết tinh từ những âm thanh rì rào của bầy ong đi kiếm mật
hòa trộn với gió đại ngàn và những vị ngọt của hương rừng, những trang viết
của ông thấm đậm "chất đường rừng".
Hơn mười năm, Nguyễn Đình Khải (Lan Khai) sống và học hành ở đất
Hà Thành nhưng cái "chất đường rừng" vẫn như một thứ nam châm cứ bám
riết lấy cậu học trò này. Cái "men" của người nghệ sĩ cộng thêm "chất đường
rừng" đã đưa bàn chân của người thanh niên với bộ áo chàm thân thuộc hành
trình khắp đó đây, từ Tuyên Quang sang Bắc Cạn, Từ Hà Giang đến Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái...Từ đó Lan Khai đã gom góp, chắt lọc
những gì gọi là "cốt lõi" của cuộc đời, là "tinh túy" nhất trong cuộc sống,
những mong dành lại cho con cháu đời sau. Tuy nhiên, những điều người ta
2
nói về ông, dành cho ông chưa xứng đáng với công sức và sự đóng góp lặng
thầm ấy. Mặt khác, do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài nên nhiều di sản của Lan
Khai bị lãng quên và thất lạc, hoạt động nghiên cứu về tác phẩm Lan Khai
không liên tục. Mảng tiểu thuyết hay tác phẩm nghiên cứu, lý luận và phê
bình văn học đã được các nhà nghiên cứu văn học có tên tuổi đánh giá cao về
giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật. Riêng mảng truyện ngắn, chúng
tôi nhận thấy, hiện nay những bài nghiên cứu, phê bình về tác giả này chưa
nhiều, chỉ có một số bài giới thiệu sách trên báo, chưa có công trình nghiên
cứu nào đi sâu khảo sát một cách toàn diện và hệ thống những mặt đóng góp
của ông.
1.3. Là một người làm công tác giảng dạy nên việc thực hiện đề tài này
thực sự là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học.
Những kết quả đạt được của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những người
yêu văn học. Từ đó, có thể giúp họ hiểu thêm và yêu quý hơn văn học các dân
tộc miền núi phía Bắc nói chung, nhà văn Lan Khai nói riêng.
Những lý do trên đây là động lực khiến chúng tôi muốn đi sâu khám phá
những giá trị tiềm ẩn, cũng như muốn khẳng định sự đóng góp về truyện ngắn
của Lan Khai đối với truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945. Đồng thời, chúng tôi
hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí của Lan Khai trong nền văn học
Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Lan Khai có sức sáng tạo dồi dào, văn của ông có đặc trưng thẩm mỹ
riêng, nhưng hiện nay nghiên cứu truyện ngắn Lan Khai đang là một vấn đề
mới mẻ. Trước 1945 xuất hiện một số bài viết và công trình nghiên cứu của
các tác giả Trần Huy Liệu, Hải Triều, Thiều Quang, Trương Tửu, Phạm Mạnh
Phan, Kiều Thanh Quế, Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan...về tác phẩm của
Lan Khai. Các cây bút trên chủ yếu quan tâm tới các thể tài tiểu thuyết: về
tâm lý xã hội, về lịch sử và truyện đường rừng của ông. Khoảng 20 năm từ
3
1945 - 1964 việc nghiên cứu về di sản của Lan Khai bị gián đoạn. Năm 1965,
trong cuốn sách biên khảo Việt Nam văn học sử giản ước Tân biên, tập 3, Phạm
Thế Ngũ đã chỉ ra những đóng góp xứng đáng cho văn học nước nhà của cây
bút Lan Khai từ thể tài tiểu thuyết, nhất là những "Truyện đường rừng".
Từ 1968 – 1989, rải rác ở một số cuốn sách, các tác giả có đề cập tới di
sản của ông, nhưng còn sơ lược và chưa chính xác.
Từ 1990 đến nay, nhiều tác phẩm của Lan Khai đã được tái bản, đồng thời
không khí học thuật trong nước cũng ngày một đổi mới, di sản của ông được
chú ý nhiều hơn, lần lượt xuất hiện một số cuốn sách và các bài viết về Lan
Khai, tiêu biểu là những cây bút: Gia Dũng, Hoàng Dạ Vũ, Nguyễn Quang
Thắng, Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Vỹ, Ngọc Giao, Mỹ Huyền, Lan Phương...
Các tác giả này đã cung cấp thêm những tư liệu về nhà văn và tác phẩm cùng
mối quan hệ của Lan Khai với các nghệ sĩ khác trong giai đoạn 1930 - 1945.
Gần đây Nhà xuất bản Văn học đã tái bản trọn bộ Tạp chí Tao Đàn (1939)
và xuất bản cuốn Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX -
1945. Cả hai cuốn sách có giới thiệu một số tác phẩm lý luận phê bình và tiểu
thuyết của Lan Khai.
Trên góc độ công trình chuyên khảo hay một luận văn, đây là một đề tài
còn khá mới. Chúng tôi nhận thấy, hiện nay những bài nghiên cứu, phê bình về
truyện ngắn Lan Khai chưa nhiều.
Tìm hiểu mảng truyện ngắn của Lan Khai thì các nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan và Trần Mạnh Tiến đã có những nhận xét khá sâu sắc và xác đáng.
Chẳng hạn như công trình Lan Khai - Nhà văn hiện thực xuất sắc, tác giả Trần
Mạnh Tiến đã khảo sát khá đầy đủ về Lan Khai, cũng như đánh giá chuẩn xác
về các tác phẩm của ông.
Đặc biệt, trong công trình Lan Khai- Truyện đường rừng (tác phẩm và
chuyên khảo - 2004) Trần Mạnh Tiến đã khẳng định: "Các Truyện đường rừng
của Lan Khai có quy mô phản ánh và dung lượng hiện thực khác nhau
4
thành từng loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa. Có loại nghiêng
về phong tục, có loại thiên về lịch sử và có loại truyền kỳ" [60, 528] và "những
truyện ngắn truyền kỳ như Người lạ, Ma thuồng luồng, Đôi vịt con, người hóa
hổ, Gò thần...là những tác phẩm ít nhiều mang dấu vết của truyện cổ dân gian.
Đó là những pho truyện đầy màu sắc truyền kỳ và kinh dị, nửa hư nửa thực, có
khả năng khơi dậy tính hiếu kỳ của độc giả và kích thích tính tò mò của trẻ thơ,
là những tác phẩm nằm ngoài quan niệm tả thực của Lan Khai" [60, 528-529].
Trần Mạnh Tiến còn cho rằng các truyện ngắn lịch sử như Sóng nước Lô giang
và Mưu thằng Đợi là những câu chuyện giàu tính hiện thực ở miền núi, mô tả
một tình huống oái oăm, hoặc một hành động dũng cảm vì nghĩa lớn" [60,
529].
Trong công trình Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá: "Lan Khai
có cây bút rất tài tình để viết truyện ngắn" [44, 344].Vũ Ngọc Phan nêu ra
những truyện Ma thuồng luồng, Gò thần, Người hóa hổ đều là những truyện
ghê sợ và cảm động. Ông cho rằng: "Truyện Ma thuồng luồng không khác gì
truyện "Ngũ thông thần" trong Liêu Trai; truyện Người hóa hổ cho ta cái cảm
tưởng là người với vật có thể trộn cùng nhau". Bên cạnh đó, truyện "Tiền mất
lực có cái cốt cách của một truyện dài; truyện thật cảm động, nào lòng hào hiệp,
nào sự chung tình, rồi cái kết cục của đôi nhân tình mới oanh liệt làm sao! Rồi
trong truyện còn điểm nhiều đoạn đầy thơ mộng. Cả truyện là một bài thơ
trường thiên có cái hương vị của núi rừng" [44, 344].
Bên cạnh đó, một số công trình có đề cập đến nhưng cũng chỉ điểm qua
vài nét về truyện ngắn của ông như: Trần Mạnh Tiến (2002), Lan Khai - Tác
phẩm nghiên cứu lý luận và phê bình văn học, Nxb Văn hóa Thông tin, Trần
Mạnh Tiến (2004), Lan Khai - Lầm than (tác phẩm và chuyên khảo), Nxb Văn
hóa Thông tin.
Nhìn chung, các công trình trên đây đã nghiên cứu Lan Khai ở trên những
bình diện khác nhau. Ở đề tài này, chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu,
5
khám phá các tác phẩm truyện ngắn của Lan Khai để thấy được nét riêng, nét
độc đáo trong phương pháp, bút pháp sáng tác của ông. Trên cơ sở kế thừa ý
kiến những người đi trước, chọn đề tài Đặ
Đặcc điểm truy
truyệện ng
ngắắn Lan Khai,
chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ của mình đem lại cái nhìn toàn diện, sâu
sắc hơn về một nhà văn đã từng tạo được dấu ấn riêng trên văn đàn Việt Nam
nói chung và nền truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945 nói riêng.
ng và ph
ạm vi nghi
3. Đố
Đốii tượ
ượng
phạ
nghiêên cứu
3.1. Đố
ng nghi
Đốii tượ
ượng
nghiêên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm truyện ngắn Lan Khai
trên cả hai phương diện nội dung và hình thức.
3.2. Ph
Phạạm vi tư li
liệệu kh
khảảo sát
Trọng tâm khảo sát và nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn, với
nguồn tài liệu sau: Trần Mạnh Tiến (sưu tập và tuyển chọn), Lan Khai tuyển
truyện ngắn, Nxb Hà Nội, 2010.
4. Nhi
Nhiệệm vụ nghi
nghiêên cứu
- Tìm hiểu hiện thực và con người miền núi trong truyện ngắn Lan Khai.
- Tìm hiểu một số phương diện hình thức nghệ thuật trong truyện ngắn
Lan Khai.
- Bước đầu đánh giá vai trò, vị trí của truyện ngắn Lan Khai trong bức
tranh truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
ươ
ng ph
áp nghi
5. Ph
Phươ
ương
phá
nghiêên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp khảo sát - thống kê
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
6
6. Đó
ng góp và cấu tr
úc của lu
ận vă n
Đóng
trú
luậ
6.1. Đó
ng góp của lu
Đóng
luậận văn
Luận văn trình bày một cách có hệ thống đặc điểm truyện ngắn Lan Khai,
chỉ ra những đóng góp riêng của nhà văn cho truyện ngắn Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.
6.2. Cấu tr
úc của lu
trú
luậận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai gồm ba chương:
Chương 1. Truyện ngắn Lan Khai trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945
Chương 2. Đặc điểm truyện ngắn Lan Khai trên phương diện lựa chọn đề
tài và cảm hứng sáng tạo
Chương 3. Đặc điểm truyện ngắn Lan khai trên phương diện hình thức
nghệ thuật
7
ươ
ng 1
Ch
Chươ
ương
ỆN NG
ẮN LAN KHAI TRONG BỨC TRANH TRUY
ỆN NG
ẮN
TRUYỆ
NGẮ
TRUYỆ
NGẮ
TRUY
VI
ỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
VIỆ
1.1. Bức tranh chung của truy
ắn Vi
truyệện ng
ngắ
Việệt Nam giai đoạn
1930-1945
1.1.1. Kh
Kháái ni
niệệm truy
truyệện ng
ngắắn
Thuật ngữ Truyện ngắn (tiếng Pháp: Nouvelle; tiếng Anh: Short Story;
tiếng Trung Quốc: Đoản thiên tiểu thuyết) hiện nay vẫn tồn tại nhiều cách
nhìn, quan niệm khác nhau tuỳ theo chỗ đứng và quan niệm của người nghiên
cứu. Truyện ngắn thu hút được mối quan tâm của nhiều tác giả, với các công
trình đáng kể như: Vương Trí Nhàn (2011) với Sổ tay truyện ngắn; Nguyễn
Thái Hòa (2000) với Những vấn đề thi pháp của truyện...và nhiều bài nghiên
cứu, công trình tiểu luận khác. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa
và những quan niệm khác nhau về truyện ngắn như sau:
Trong cuốn Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, khi bàn về truyện ngắn.
giáo sư văn học người Pháp D. Grojnowski viết: “Truyện ngắn là một thể loại
muôn hình muôn vẻ biến đổi không cùng. Nó là một vật viến hoá như quả
chanh của Lọ Lem. Biến hoá về khuôn khổ: ba dòng hoặc ba mươi trang. Biến
hoá về kiểu loại: tình cảm, trào phúng, kỳ ảo, hướng về biến cố thật hay tưởng
tượng, hiện thực hoặc phóng túng. Biến hoá về nội dung: thay đổi vô cùng tận.
Muốn có chất liệu để kể, cần một cái gì đó xảy ra, dù đó là một thay đổi chút
xíu về sự cân bằng, về các mối quan hệ. Trong thế giới của truyện ngắn, cái gì
cũng thành biến cố. Thậm chí sự thiếu vắng tình tiết diễn biến cũng gây hiệu
quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị hẫng hụt” [7, 79].
K. Pautốpxki - nhà văn Nga, xác định: "Thực chất truyện ngắn là gì? Tôi
nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó, cái không bình
8
thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như
một cái gì không bình thường" [7, 129]. Ông nhấn mạnh đến "yếu tố bất bình
thường, đột biến". Sự đan xen giữa hai yếu tố này chính là sự đan xen giữa cái
hợp lý và phi lý, logic và phi logic trong đời sống, mà bản thân nghệ thuật
cũng chứa đựng điều đó.
Tác giả A.Tônxtôi viết: "Truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật khó
khăn bậc nhất. Trong các tác phẩm thể tài lớn, chúng ta có thể "dọn" cho độc
giả "no nê" với những món sang đại loại như miêu tả cho thật sinh động, đối
thoại cho thật sắc mà vị tất đã...Còn như trong truyện ngắn, tất cả như trong
bàn tay anh. Anh phải thông minh, như anh đã hiểu biết. Bởi lẽ, hình thức nhỏ
không có nghĩa là nội dung không lớn lao" [7, 124]. Có thể thấy A.Tônxtôi đã
trả lời câu hỏi truyện ngắn là gì.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan cho rằng: "Truyện ngắn không phải là
truyện, mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và
bằng thái độ với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc. Muốn truyện là truyện
ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong
truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy" [7, 15-16]. Trong quan niệm về truyện
ngắn, Nguyễn Công Hoan đặc biệt chú trọng tới vai trò của chi tiết và chú ý
hơn đến tính chủ đề - chỉ là "một vấn đề", một lớp truyện.
Khi quan tâm nhấn mạnh truyện ngắn ở yếu tố tình huống, Nguyễn
Kiên viết: "Tôi cho rằng mỗi truyện ngắn là một trường hợp…Trong quan
hệ giữa con người và đời sống, có những khoảnh khoảnh khắc nào đó, một
mối quan hệ nào đó được bộc lộ. Truyện màn kịch chớp nhoáng, có khi là
một trạng thái tâm lý, một biến chuyển tình cảm kéo dài chậm rãi trong
nhiều ngày. Nhưng nhìn chung, thì vẫn có thể gọi là một trường hợp" [7,
45-46]. Trường hợp theo ý kiến của Nguyễn Kiên chính là tình huống.
Từ góc độ đối sánh truyện ngắn với tiểu thuyết, nhà văn Nguyên Ngọc
xác nhận: "Truyện ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết nói chung”, vì thế
9
“không nên nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào những khuôn mẫu gò bó.
Truyện ngắn vốn nhiều vẻ. Có truyện viết về cả một đời người, lại có truyện
chỉ ghi lại một vài giây phút thoáng qua” [54, 27].
Từ điển thuật ngữ văn học xác định truyện ngắn: "Truyện ngắn là loại tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại này bao trùm hầu hết các phương
diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn.
Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền mạch, đọc một hơi không ngừng
nghỉ" [14, 370].
Theo Từ điển văn học (tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H, 1984), mục từ
truyện ngắn: “Truyện ngắn là hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với
truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống:
một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời
sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một
khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn
ra trong một không gian và thời gian hạn chế. Kết cấu của truyện ngắn cũng
không chia thành nhiều tuyến phức tạp. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu
liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ, nên đặc điểm của truyện ngắn là tính
ngắn gọn. Để thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đề, khắc hoạ nét tính cách nhân
vật đòi hỏi nhà văn viết truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện” [54, 30].
Trong 150 thuật ngữ văn học, tác giả định nghĩa truyện ngắn là: "thể tài
tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các
phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là
sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với người tiếp
nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ" [2, 345].
Tuy nhiên, "mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu để phân biệt
truyện ngắn với các tác phẩm tự sự truyện ngắn. Trong văn học hiện đại các
tác phẩm rất ngắn nhưng lại là truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn thời trung
đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện vừa. Các hình thức kể chuyện dân
10
gian rất ngắn gọn như cổ tích, thần thoại, truyện cười…lại càng không phải là
truyện ngắn " [14, 370 - 371].
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên truyện
ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với tiểu
thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn
của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát
hiện bản chất quan niệm nhân sinh, nó là một khoảnh khắc, một nhát cắt có ý
nghĩa. Vì thế, truyện ngắn thường "ít nhân vật và ít sự kiện phức tạp. Truyện
ngắn không nhằm tới việc khắc hoạ những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều
mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện
thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái phụ thuộc của con
người" [14, 371].
Từ những định nghĩa và phân tích trên chúng tôi rút ra những điểm chính
của thể loại truyện ngắn như sau:
Một là: đó là một thể tài tự sự cỡ nhỏ. Nhỏ có nghĩa là từ vài trang đến
vài chục trang, một câu chuyện được kể nghệ thuật nhưng không được phép
kể dài dòng, câu chuyện có sức ám ảnh, nghĩa là tạo ra một ấn tượng duy nhất
mạnh mẽ đồng thời tạo liên tưởng ở người đọc.
Hai là: Tính quy định về dung lượng và cốt truyện của truyện ngắn tập
trung vào một vài biến cố, mặt nào đó của đời sống, các sự kiện tập trung
trong một không gian, thời gian nhất định.
Ba là: Nhân vật truyện ngắn thường được làm sáng tỏ, thể hiện một trạng
thái tâm thế con người thời đại.
Bốn là: Chi tiết và lời văn là những yếu tố đóng vai trò quan trọng. Đặc
biệt là chi tiết bởi nó có tính biểu tượng.
Như vậy, truyện ngắn là một thể loại được nhiều nhà văn sử dụng trong
tạo dựng sự nghiệp văn chương của mình. Và chính thể loại truyện ngắn đã
11
góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng về thể loại của văn học Việt Nam.
1.1.2. Th
ng truy
Thàành tựu và các khuynh hướ
ướng
truyệện ng
ngắắn giai đoạn 1930-1945
1.1.2.1. Thành tựu truyện ngắn giai đoạn 1930 -1945
Ở Việt Nam, truyện ngắn có dấu hiệu từ thế kỷ XV - XVI dưới hình thức
những câu chuyện truyền kỳ. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của văn học,
truyện ngắn luôn là thể loại chiếm ưu thế và đạt nhiều thành tựu quan trọng.
Truyện ngắn ra đời thực sự là kết quả của quá trình hiện đại hóa văn học. Vào
những năm đầu thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng
của văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa
phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp. Luồng văn hóa mới thông qua tầng
lớp trí thức Tây học ngày càng thấm sâu vào ý thức và tâm hồn của người
cầm bút cũng như công chúng bạn đọc. Nhu cầu văn hóa của lớp công chúng
mới đã thôi thúc đội ngũ nhà văn, nhà thơ sáng tác. Nhiều thể loại mới đã ra
đời. Đến năm 1932 có ba thể loại đạt được những thành công đầu tiên là
truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch.
Truyện ngắn là hình thức thể loại khá năng động, nó không đòi hỏi một
nội dung quá đồ sộ như tiểu thuyết mà là nhát cắt thời gian mỏng trong cả
quãng đời của số phận con người, nhưng lại chứa đựng một dung lượng nghệ
thuật lớn. So với tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam hiện đại đã thành công
sớm hơn. Thời trung đại chúng ta chưa có khái niệm truyện ngắn với tư cách
thể loại. Truyện ngắn Việt Nam hiện đại là sự kết hợp hài hòa giữa cái truyền
thống và cái hiện đại.
Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản có thể được coi là
truyện ngắn đầu tiên của văn học hiện đại. Với nghệ thuật mới mẻ, người trần
thuật ở ngôi thứ nhất, sự miêu tả đan xen với đối thoại, xây dựng tình huống
nhân vật sám hối vì tội sát nhân và sự kết thúc tác phẩm bằng cái chết...là
những điều mới, đánh dấu bước phát triển của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn là những nhà văn có công đầu mở lối
12
cho truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX phát triển. Truyện ngắn của
Nguyễn Bá Học phản ánh xã hội thành thị đang tư sản hóa. Những tác phẩm của
ông như: Có chí làm giàu, Câu chuyện gia đình, Câu chuyện của tối tân
hôn...nhà văn vừa học tập cách mô tả khách quan, mô tả hiện thực cuộc sống,
vừa không dứt bỏ quan điểm văn học cũ, vừa làm quen với cách kể chuyện, mô
tả, đối thoại của văn học phương Tây, vừa sử dụng văn biền ngẫu và hình ảnh
ước lệ, tượng trưng của văn học truyền thống. Với Phạm Duy Tốn thì các sáng
tác của ông đã đạt được trình độ nhất định trong việc thể hiện đặc trưng thể loại.
Ông tập trung phơi bày thực trạng thối nát, bất công của xã hội thuộc địa nửa
phong kiến. Các tác phẩm tiêu biểu của Phạm Duy Tốn như: Sống chết mặc bay,
Câu chuyện thương tâm, Con người sở khanh, Của hồi môn...đã làm xúc động
người đọc bằng nghệ thuật mô tả chân thực hiện tượng đời sống mà ông quan
sát.
Có thể nói rẳng: "Phạm Duy Tốn và Nguyễn Bá Học đã có công lao to lớn
trong việc xây đắp nền truyện ngắn dân tộc đầu thế kỷ XX. Họ là những người
đầu tiên đặt nền móng, mở ra triển vọng của truyện ngắn hiện đại Việt Nam viết
bằng chữ quốc ngữ. Những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn và Nguyễn Bá Học
mặc dù vẫn còn bị chi phối bởi chủ nghĩa quy phạm, nhân vật chưa có đời sống
riêng, ngôn ngữ còn mang tính ước lệ...nhưng rõ ràng đã có một bước tiến khá
xa so với truyện ngắn dân tộc ở các giai đoạn trước" [6, 278 - 279].
Truyện ngắn hiện đại Việt Nam thực sự khởi sắc và được mùa trong
khoảng thời gian 1930 – 1945, gắn với tên tuổi và sự đóng góp to lớn của các
nhà văn Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Nam Cao, Nguyễn Tuân,
Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Nhất Linh, Vũ
Trọng Phụng, Lan Khai...Không chỉ tăng nhanh về số lượng tác giả, truyện ngắn
còn đổi mới từ nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện. Trong thời đại bùng
nổ thông tin như hiện nay, thể loại truyện ngắn luôn đóng vai trò xung kích. Với
hình thức gọn nhẹ, truyện ngắn trở thành thể loại gần gũi với bạn đọc, ngắn
13
gọn, súc tích, dễ đọc. Bên cạnh đó, truyện ngắn thường gắn liền với hoạt
động báo chí nên rất nhạy cảm với những biến đổi của đời sống xã hội, luôn
bắt kịp những vận động của xã hội và tái hiện được mọi biến thái của đời
sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Các cây bút truyện ngắn giai
đoạn này đã phản ánh một cách toàn vẹn, sâu sắc bộ mặt xã hội thực dân
phong kiến. Đó là một chế độ xã hội đen tối, thối nát, lỗi thời và đầy rẫy
những bất công, lừa lọc. Đời sống của nhân dân lao động hết sức khổ cực, lầm
than; trong khi giai cấp thống trị thì phè phỡn, hưởng thụ và ra sức bóc lột,
đàn áp quần chúng lao khổ.
Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 không chỉ có những giá trị
to lớn về mặt nội dung, xây dựng trên một bức tranh muôn mặt, đa dạng về
hiện thực xã hội đương thời, mà còn đạt được những thành tựu to lớn về mặt
nghệ thuật. Các cây bút có tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam,
Nam Cao...đã có nhiều cách tân mới mẻ về mặt thể loại như: kết cấu đa dạng,
phong phú; vận dụng linh hoạt các kiểu tình huống; xây dựng và phát triển
ngôn ngữ văn xuôi...
Tính chất năng động của thể loại truyện ngắn đã đáp ứng được những
đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống: "Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa cái thú
vị của những điều sâu sắc trong mọi hình thức nhỏ gọn và truyền dẫn cực
nhanh những thông tin mới mẻ. Đây là thể loại văn học có nội khí "một lời
mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy" [56, 293]. Truyện ngắn, tuy là thể loại có
dung lượng nhỏ nhưng lại có cách phát hiện nghệ thuật đời sống theo chiều
sâu cho nên sức chứa của truyện ngắn vẫn rất lớn. Nó có thể trở thành tòa lâu
đài chứa đựng tinh thần của thời đại. Nhiều truyện ngắn của các nhà văn bậc
thầy như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao...đều là những tác phẩm có sức chứa
nội tại lớn lao, có thể bao quát toàn bộ đời sống và có được tác dụng nghệ
thuật chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác.
Truyện ngắn mặc dù bị hạn chế về hiện thực được phản ánh, hạn chế về
14
những vấn đề nhân sinh, hạn chế về số trang, số chữ, thời gian tiếp nhận tác
phẩm nhưng truyện ngắn lại có những ưu thế trong việc xoáy sâu vào một điểm
quan trọng trong cuộc đời nhân vật để làm sáng rõ tính cách của nhân vật, từ đó
làm bật lên một vấn đề nào đó của hiện thực. Truyện ngắn thường là những
truyện được kể bằng văn xuôi, ngắn gọn súc tích và hàm nghĩa tiểu thuyết.
Truyện ngắn có thể được xác định trên hai bình diện là sự ngắn gọn về dung
lượng và sự cô đọng, súc tích trong miêu tả. Vì thế, ở truyện ngắn, tình huống
truyện được xem là vấn đề rất quan trọng của nghệ thuật truyện ngắn. Đúng như
Tô Hoài nhận xét truyện ngắn là cưa lấy một khúc của đời sống. Hay Bùi Hiển
cho rằng truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời một con người mà
dựng nên. Tuy nhiên, cũng có một số truyện ngắn không chỉ miêu tả một
khoảnh khắc mà miêu tả cả một đời người như Chí Phèo của Nam Cao, Nhà mẹ
Lê của Thạch Lam...Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một
chủ đề nhất định, trong khi tiểu thuyết lại chứa nhiều vấn đề, phủ một diện rộng
của đời sống.
Vai trò chủ thể sáng tạo in dấu rất rõ trong truyện ngắn giai đoạn 1930 1945, vì thế đã tạo nên sự đa dạng về phong cách cũng như bút pháp nghệ thuật
thể hiện. Nói đến truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 không thể không
nhắc đến tên tuổi các nhà văn Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Bùi
Hiển, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nhất Linh...chính họ đã góp sức thúc đẩy thể loại
truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả bề sâu lẫn bề rộng. Có thể nói, chưa bao giờ
trong đời sống văn học Việt Nam lại xuất hiện cùng một lúc nhiều phong cách
đa dạng, phong phú như giai đoạn này. Bởi vậy, truyện ngắn rất có sức hút và
trở thành món ăn tinh thần ưa thích của công chúng.
1.1.2.2. Các khuynh hướng truyện ngắn giai đoạn 1930-1945
Những năm 20 của thế kỷ XX, truyện ngắn Việt Nam đã có nhiều bước đi
táo bạo với sự phát triển của nhiều khuynh hướng văn học. Truyện ngắn viết
theo khuynh hướng đạo lí gắn liền với các tên tuổi như Nguyễn Bá Học,
15
Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Chánh Sắt...Khuynh hướng yêu nước và cách
mạng gắn liền với tên tuổi Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc. Khuynh hướng
hiện thực có Phạm Duy Tốn và Nguyễn Công Hoan. So với những năm đầu thế
kỷ thì truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945 phát triển rực rỡ, phong phú hơn. Tư
duy hệ tư sản dần dần thắng thế tư tưởng phong kiến. Cái tôi được giải phóng,
nhà văn phát huy sức sáng tạo của mình. Vì vậy, thời kì này xuất hiện nhiều cây
bút độc đáo. Các khuynh hướng văn học ngày càng phân hóa rõ rệt và đấu tranh
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Truyện ngắn giai đoạn này tập trung ở khuynh
hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực và một số dòng mạch khác.
Thứ nhất là khuynh hướng truyện ngắn lãng mạn: Văn học lãng mạn Việt
Nam xuất hiện như một trào lưu trong thời kỳ 1932-1945 bắt đầu với nhóm Tự
lực văn đoàn và phong trào thơ mới. Khuynh hướng lãng mạn, tiêu biểu là dòng
truyện ngắn trữ tình. Những sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn là tiếng nói
của tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức thành thị đã thoát ly phong
trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Con đường văn chương lúc bấy giờ đối
với một số tiểu tư sản trí thức là lối thoát ly trong sạch, nơi gửi gắm tâm sự yêu
nước thầm kín, phủ định xã hội đương thời bằng cách thoát ly về quá khứ, vào
tình yêu, vào thiên nhiên, khẳng định cái tôi cá nhân, lý tưởng hóa cuộc sống
hiện tại. Họ đã tạo nên một thứ văn xuôi giàu chất thơ, đậm chất trữ tình, lãng
mạn. Tiêu biểu cho phong cách trữ tình lãng mạn là các tác giả Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Nguyễn Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng
Đạo...
Các truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong nhóm Tự
lực văn đoàn đều có đặc điểm chung là trong sáng, hướng về những cái đẹp
nguyên sơ, thuần phác tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn thời kỳ đầu trong
văn học Việt Nam. Thạch Lam đã kế thừa và phát huy một cách xuất sắc những
thành tích của văn chương Tự lực văn đoàn. Bằng sự tìm tòi, sáng tạo nhà văn
đã "kiến tạo nên một loại tự sự trữ tình trong văn học hiện đại". Có thể nói rằng
16
Thạch Lam là người khơi nguồn, khởi xướng cho dàn đồng ca truyện ngắn trữ
tình "Chỉ đến Thạch Lam mới có thể làm cho truyện ngắn trữ tình trở thành một
khuynh hướng sáng giá trên văn đàn hiện đại. Sự thành công đó đã tạo ra những
âm hưởng có sức lan rộng, vươn xa, tác động mạnh mẽ đến nhiều nhà văn cùng
thời: nhiều nhà văn đã bắt nhịp, cộng hưởng làm nên một dòng phong cách truyện
ngắn trữ tình đa sắc, đa thanh, đa giọng điệu bao gồm những cây bút trẻ nhưng già
dặn về bút pháp nghệ thuật" [65, 229].
Trong các tập truyện Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc và một số
truyện khác, ta bắt gặp một Thạch Lam giàu tình cảm nhân đạo. Những truyện viết
về tình yêu, tình người, tình quê hương xứ sở đã được nhà văn thể hiện trên từng
thiên truyện ngắn một cách đằm thắm, nhẹ nhàng và tinh tế. Là một nghệ sĩ có tâm
hồn lãng mạn, Thạch Lam yêu cái đẹp và luôn hướng đến cái đẹp. Cái đẹp luôn
hiển hiện trên từng trang viết. Đó là cái đẹp của những giá trị tinh thần, những
thuần phong mỹ tục, những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, cái đẹp của tình
người, của những nỗi niềm trắc ẩn. Cái đẹp mà Thạch Lam miêu tả chính là cái
đẹp trong tâm hồn con người. Thạch Lam viết truyện với nghệ thuật tinh tế nhất là
việc sử dụng tương phản và hài hòa giữa các âm thanh và các vùng ánh sáng. Câu
chuyện để lại trong tâm hồn người đọc những dư vị đằm thắm của quê hương và
sự cảm thương những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù nhòe đi
trong bóng tối của một vùng quê tù đọng. Thạch Lam ít sử dụng cốt truyện giàu
kịch tính. Ông nghiêng về những cốt truyện tâm lý, hướng đến thế giới bên trong
con người, đặc biệt là thế giới ấn tượng và cảm giác như Hai đứa trẻ, Dưới bóng
hoàng lan, Sợi tóc.
Cũng giống như Thạch Lam, Thanh Tịnh thiên về miêu tả thế giới nội tâm,
cảm giác. Truyện ngắn của Thanh Tịnh có sức gợi cảm lớn, thấm sâu vào lòng
người đọc. Vì thế, Vũ Ngọc Phan đã xếp Thanh Tịnh vào dòng tiểu thuyết tình cảm
và ông nhận thấy "Thứ tình cảm của Thanh Tịnh là thứ tình cảm êm dịu nhẹ
nhàng, thứ tình cảm của những người dân quê hồn hậu" [44, 552]. Qua các
17
truyện ngắn, nhà văn đã khám phá, phát hiện những vẻ đẹp bình dị trong
cuộc sống như tình yêu, tình bạn, tình cảm gắn bó giữa con người với quê
hương... được ông trình bày nhẹ nhàng, tinh tế. Truyện ngắn của ông thường
chỉ có một tình huống. Cái kết bao giờ cũng là một kỉ niệm buồn man mác:
kỉ niệm ngày đầu tiên đi học (Tôi đi học), kỉ niệm những ngày ở làng Mĩ Lí
(Quê mẹ). Lời văn giàu chất thơ, nhẹ nhàng, tha thiết bày tỏ một niềm cảm
thông với con người nghèo khổ. Bên cạnh đó, những sáng tác của ông còn
giàu chất truyền kỳ, những truyện kinh dị, kỳ bí (Ngậm ngải tìm trầm). Văn
Thanh Tịnh mang vẻ đẹp thuần khiết, trong trẻo, gợi cảm, tạo được sức sống
lâu bền trong lòng độc giả.
Văn học lãng mạn còn xuất hiện một cái “tôi” độc đáo - Nguyễn Tuân. Do
bất hòa với xã hội "ối a ba phèng" ô trọc, ông đã phóng to cái "tôi" của mình
lên như một phương tiện để chống trả. Ta bắt gặp "Một Nguyễn Tuân giang hồ
và lãng mạn mang cái tôi kênh kiệu và khinh bạc đi lù lù, ngang bướng giữa
cuộc đời, xem đó như một vũ khí chống trả lại cái xã hội kim tiền ô trọc, một
Nguyễn Tuân tôn thờ cái Đẹp, chắt chiu, trân trọng cái Đẹp trong cuộc sống
hàng ngày, trong ngôn ngữ và truyền thống dân tộc" [7, 525]. Suốt đời đi tìm và
tôn thờ cái Đẹp, Nguyễn Tuân thành công khi xây dựng các nhân vật tài hoa,
tài tử, những thú chơi tao nhã trong văn hóa ứng xử, trong văn hóa ẩm thực.
Tập truyện Vang bóng một thời, tác giả đã làm sống dậy nét "đẹp xưa" của một
thời phong kiến suy tàn. Thời có những ông Nghè, ông Cử, ông Tú sống nhàn
tản với những thú chơi phong lưu, tao nhã. Ông đề cao những thú chơi cổ xưa
như uống trà, chơi hoa là thứ nghệ thuật trang trọng, cầu kì (Chén trà trong
sương sớm, Thạch Lan Hương). Lối chơi chữ thể hiện khí phách của người
quân tử, những con người có tài, có tâm (Chữ người tử tù). Nhân vật của
Nguyễn Tuân có cái ngông, lập dị, đều có cái tài hơn người, được lí tưởng hóa,
được phóng đại theo thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn. Truyện của Nguyễn
Tuân được kể theo trật tự thời gian tuyến tính, ở ngôi thứ ba. Cái tài của ông là
18
xây dựng nhân vật, miêu tả những hành động theo những cách riêng hết sức
độc đáo.
Tất cả những gương mặt tiêu biểu kể trên đã đóng góp vào dòng truyện
ngắn trữ tình, lãng mạn nhiều tiếng nói phong phú đa sắc, đa thanh, tạo nên
một dòng truyện ngắn theo khuynh hướng lãng mạn đậm bản sắc riêng, làm
phong phú diện mạo văn học Việt Nam hiện đại và góp phần hoàn thiện quá
trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Thứ hai là khuynh hướng truyện ngắn hiện thực: Hiện thực cuộc sống
đầy biến động của xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã tạo nên những
mảng đề tài phong phú khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nhà văn nói
chung và những người viết truyện ngắn nói riêng. Họ đã tạo nên một thứ văn
xuôi phản ánh hiện thực đầy biến động lúc bấy giờ, góp phần hình thành và
phát triển một dòng truyện ngắn hiện thực.
Có thể xem thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa hiện thực, gắn
liền với những tên tuổi như: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,
Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố...Các nhà văn này đã
đề cập một cách trực tiếp những vấn đề bức xúc, nóng bỏng của hiện thực xã
hội Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió.
Những vấn đề mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột, sự bất công thối
nát trong xã hội, sự bần cùng tha hóa của con người trước sức tấn công của
hoàn cảnh ... đã được ngòi bút "tả chân", "tả thực" của các nhà văn miêu tả,
trình bày một cách khách quan, đúng như sự tồn tại vốn có của nó với một
cảm hứng phê phán mãnh liệt. Chính điều đó đã làm nên sự đa dạng của
khuynh hướng văn học hiện thực.
Nguyễn Công Hoan là người đi đầu trong phương pháp hiện thực phê
phán và là gương mặt tiêu biểu của truyện ngắn hiện thực. Ông viết những
câu chuyện về con người và xã hội Việt Nam thời bấy giờ, với lối kể chuyện
hóm hỉnh, hài hước, có tính chất châm biếm. Thông qua tiếng cười trào phúng,
19
nhà văn tập trung khai thác và làm nổi bật xung đột giàu - nghèo, sự bất công
thối nát của xã hội. Nhà văn thẳng tay đả kích, phê phán những kẻ giàu mà
bất nghĩa, những kẻ đầy quyền lực mà bất nhân như Răng con chó nhà tư sản,
Kép Tư Bền...là những truyện tiêu biểu cho thấy sự thảm hại của người nghèo
trong xã hội coi đồng tiền là trên hết. Người nghèo trong xã hội không những
khổ vì đói mà còn khổ vì bị xúc phạm nhân phẩm, bị chà đạp một cách phũ
phàng (Bữa no đòn, Chị phu mỏ, Thằng ăn cắp). Nhà văn còn phơi bày bản
chất xấu xa, bỉ ổi và tàn ác của tầng lớp quan lại từ ông quan Phụ mẫu đến
ông Lý, những ông chủ, bà chủ ở thành trị (Sáu mạng người, Báo hiếu trả
nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Đồng hào có ma, Tinh thần thể dục...). Qua
đó người đọc hình dung một bức tranh xã hội nhố nhăng, đồi bại, đầy sự bất
công của xã hội đương thời.
Vũ Trọng Phụng cũng được xem là cây bút tiêu biểu của văn học hiện
thực phê phán. Ông viêt nhiều thể loại, trong đó có truyện ngắn (khoảng 30
truyện). Truyện ngắn của ông đề cập đến những trạng thái tâm lý khác nhau
trong đời sống hàng ngày như sự tha hóa về vấn đề đạo đức, thế thái nhân tình
trong xã hội đảo điên, đen tối, đồng thời toát lên sự căm ghét sâu sắc thế lực
và sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền biến mọi quan hệ giữa người với người
thành quan hệ mua bán hết sức trắng trợn, nó dẫn con người trượt dài trên sự
tha hóa (Bộ răng vàng, Bà lão lòa, Trúng số độc đắc, Một cái chết). Vũ Trọng
Phụng còn mỉa mai, giễu cợt lối sống rởm đời, buông thả, bê tha, ngông
nghênh, vô nghĩa và hết sức lố bịch của con người trong xã hội ấy (Hồ Sê Líu,
Từ lý thuyết đến thực hành). Như vậy, trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng bao
nhiêu mặt đen tối, những tệ nạn, thói hư tật xấu được phơi bày, phanh phui.
Từ đó, toát lên sự đồng cảm của tác giả đối với số phận đáng thương của
những người nghèo khổ.
Nguyên Hồng là cây bút truyện ngắn xuất sắc trong thời kỳ Mặt trận Dân
chủ. Tuy không miêu tả những mâu thuẫn giai cấp, những đối kháng trong xã
20
hội nhưng Nguyên Hồng đã làm sống dậy cuộc đời lam lũ, cơ cực, bần cùng
của những người lao động nghèo ở các vùng ngoại ô, ngõ hẻm ở thành phố
Hải Phòng. Là nhà văn hiện thực luôn nhạy cảm với những vấn đề xã hội nên
ông đã thể hiện lòng yêu thương vô hạn, sự đau xót, nhức nhối trước nỗi đau,
nỗi khổ của người lao động nghèo. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyên Hồng chủ yếu là những con người dưới đáy xã hội, từ kẻ lưu manh,
gái điếm đến những kẻ ăn mày, ăn xin... phải sống cuộc đời bất hạnh, chịu hết
nạn nọ đến nạn kia (Ngọn lửa, Giọt máu, Trong cảnh khốn cùng, Hai mẹ
con...). Nguyên Hồng thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản, đối
lập như trong các truyện Cô gái quê, Cái bào thai, Nhà bố Nấu, Hai dòng
sữa...Có những truyện mang tính chất luận đề rõ rệt và nhiều chi tiết mang ý
nghĩa tượng trưng, có những truyện kết cấu dàn trải theo chiều cuộc đời bi
thảm của nhân vật.
Nếu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng là
những nhà văn tiêu biểu cho thời kỳ đầu của văn xuôi hiện thực phê phán thì
Nam Cao lại là ngọn cờ đầu của văn xuôi hiện thực thời kỳ sau. Truyện ngắn
Nam Cao tập trung vào hai đề tài là: người nông dân nghèo và người trí thức
nghèo. Ở đề tài người nông dân nghèo, Nam Cao làm rõ bi kịch của người
nông dân bị hạn hán, lụt lội làm cho chiêm khô mùa thối, nạn thóc cao gạo
kém, công xá rẻ mạt đẩy nhiều gia đình đến cảnh ly tán đi kiếm ăn. Nạn
cường hào, địa chủ hà hiếp bóc lột khiến cho cuộc đời người nông dân bị đẩy
vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa (Chí Phèo, Một đám cưới, Lão
Hạc, Lang Rận, Dì Hảo, Một bữa no...). Tiêu biểu là Chí Phèo, một tác phẩm
cùng tên đã để lại nhiều nhức nhối trong lòng người đọc. Một anh Chí nông
dân, hiền lành, chân chất bị Bá Kiến, một tên lí trưởng của làng Vũ Đại vì
ghen tuông đã đẩy anh vào con đường tù tội. Nhà tù thực dân tha hóa, đã biến
Chí Phèo thành con quỷ của làng Vũ Đại. Bi kịch của Chí là bi kịch không
được thừa nhận là con người mặc dù Chí đã tha thiết trở về con đường lương