Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.52 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THU HẰNG

Chuyên ngành : Kinh tế quốc tế
Mã số : 62 31 01 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS ĐỖ ĐỨC BÌNH
PGS.TS TRẦN THỊ LAN HƯƠNG

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Về cơ sở lý luận, tại Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về thị trường xuất
khẩu hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào
nghiên cứu về thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong bối cảnh mới hiện
nay khi Việt Nam đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực thông qua
việc ký kết nhiều FTA chiến lược. Chính vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện khung lý
thuyết về phát triển thị trường xuất khẩu làm cơ sở giải quyết các vấn đề thực tiễn là một
yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay.
Về thực tiễn, Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều lợi thế và tiềm năng về đất
đai, lao động và điều kiện sinh thái cho phép phát triển sản xuất nhiều loại nông sản xuất
khẩu có giá trị kinh tế lớn. Hàng nông sản xuất khẩu có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế, chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Xuất khẩu nông sản góp phần tạo nguồn vốn quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu
quả nguồn nhân lực và lợi thế quốc gia, tạo ra công ăn việc làm, giữ ổn định nền kinh tế
đất nước, mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại và tăng cường vị thế kinh tế của Việt
Nam trên thị trường thế giới.
Theo số liệu của Bộ Công thương, hiện nay hàng nông sản của Việt Nam đã có mặt
tại nhiều nước trên thế giới, thâm nhập được các thị trường nhập khẩu nông sản như Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc, trong đó thị trường Trung Quốc chiếm khoảng 60% kim
ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Tuy nhiên, thị phần hàng nông sản Việt Nam tại
các thị trường này còn nhỏ bé và đang có sự phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc. Điều
này mang đến rất nhiều rủi ro cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam khi thị trường có biến
động.
Bên cạnh các thị trường truyền thống, hàng nông sản Việt Nam đã có mặt tại các thị
trường ở khu vực Trung Đông, châu Phi nhưng mới ở mức độ thăm dò hoặc giới thiệu mặt
hàng chứ chưa có thị phần ổn định và chưa nắm vững được kết cấu, sức mua cũng như kênh
tiêu thụ của thị trường.
Trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập sâu sắc với nền kinh tế thế giới, nền

kinh tế khu vực thông qua việc tham gia các FTA, hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức mới. Một mặt,
mở ra rất nhiều cơ hội cho hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, đặc biệt là tại
các thị trường mới thông qua cắt giảm thuế nhập khẩu. Mặt khác, các hàng rào phi thuế
quan có xu hướng tăng tại các thị trường này lại gây cản trở cho hoạt động xuất khẩu nông
sản của Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là phải nhanh chóng phát triển thị trường xuất
khẩu của Việt Nam. Bên cạnh việc chủ động khai thác các thị trường mới để tránh rủi ro khi
phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường hiện nay, xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam cần thay
đổi cách tiếp cận, duy trì và phát triển những thị trường truyền thống thông qua việ nâng cao
chất lượng và giá trị các mặt hàng nông sản mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu. Góp phần giải
quyết vấn đề này về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả quyết định chọn đề tài “Phát triển
thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh hiện nay” làm đề tài luận án


2
tiến sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu luận án
Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển thị trường
xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, luận án trình bày và phân tích thực trạng phát triển
thị trường xuất khẩu hàng nông sản thời gian qua, chỉ ra được những thành công và hạn chế
của hoạt động này cùng với các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế. Từ đó, luận án sẽ
đưa ra ra những mục tiêu, định hướng và giải pháp nhằm tiếp tục phát triển thị trường hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 góp phần triển khai đáp
ứng mục tiêu Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2011-2020, định
hướng đến năm 2030 của Bộ Công thương
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục tiêu của luận án nêu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau:

- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển thị trường
xuất khẩu hàng nông sản của một quốc gia. Nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển thị trường
xuất khẩu hàng nông sản của một số nước trong khu vực và rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Phân tích thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam giai
đoạn 2008 - 2014. Đưa ra đánh giá về những thành công, những hạn chế của hoạt động phát
triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thời gian qua và nguyên nhân dẫn của
hạn chế làm cơ sở cho các đề xuất giải pháp ở chương 4.
- Đưa ra các quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp và kiến nghị tiếp tục
phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam thời gian qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Một là, luận án tập trung nghiên cứu các mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (gạo, cà phê, cao su và hạt điều), hai là các thị trường xuất
khẩu hàng nông sản chính của Việt Nam (Trung Quốc, Hoa Kỳ và EU).
Về nội dung: Chủ yếu nghiên cứu thị trường và phát triển thị trường xuất khẩu hàng
nông sản từ mục tiêu vĩ mô của nhà nước, dưới giác độ thương mại xuất khẩu, không đi sâu
nghiên cứu các nội dung sản xuất và chế biến nông sản.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2008 đến 2014 (thời kỳ sau khủng hoảng kinh tế thế
giới). Đề xuất các giải pháp chính và kiến nghị nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam định hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận án
Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của các công trình nghiên cứu trước
đây, có cập nhật thông tin để đánh giá và đề xuất sát thực hơn; đồng thời trên cơ sở các
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án còn sử dụng phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp thống kê có so sánh đối chiếu



3
kinh nghiệm của một số nước và thực tiễn của Việt Nam, đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ,
thống nhất, khả thi và minh bạch của hệ thống giải pháp đề xuất.
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Hệ thống hoá được một số lý luận cơ bản về vấn đề phát triển thị trường xuất
khẩu hàng hàng nông sản Việt Nam. Luận án đã hệ thống và tổng hợp các tài liệu trong,
ngoài nước và đưa ra khái niệm, xác lập mô hình, nội dung, yếu tố ảnh hưởng và chỉ tiêu
đánh giá hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản.
- Luận án nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của
Trung Quốc và Thái Lan nhằm rút ra bài học hữu ích cho Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam giai đoạn 2008-2014, gắn với mốc hậu khủng hoảng kinh tế thế giới. Đưa ra
những nguyên nhân hạn chế hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam.
- Đề xuất những quan điểm, định hướng và giải pháp đối với Nhà nước và doanh
nghiệp nhằm tiếp tục phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đến 2020,
tầm nhìn 2030.
6. Ý nghĩa của luận án
Luận án được thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu, rộng
với nền kinh tế thế giới, kinh tế khu vực thông qua ký kết các hiệp định song phương và đa
phương chiến lược. Do vậy, những vấn đề đặt ra và giải pháp của luận án xuất phát từ thực
tiễn sinh động. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy ở các trường đại học; là gợi ý hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính sách
của Nhà nước; là cẩm nang nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng
nông sản.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung
của luận án kết cấu thành 04 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển thị trường xuất khẩu hàng
nông sản của một quốc gia
Chương 3: Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam từ 2008 đến 2014
Chương 4: Phương hướng, quan điểm và giải pháp tiếp tục phát triển thị trường xuất
khẩu hàng nông sản của Việt Nam đến năm 2020
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Nghiên cứu về thị trường xuất khẩu
Trên thế giới, các nghiên cứu về thị trường xuất khẩu của các quốc gia đã được nghiên
cứu khá nhiều. Phần lớn các nghiên cứu này đều sử dụng mô hình trọng lượng (gravity
model) để phân tích.
Năm 1962 Jan Tinbergen (Nhà kinh tế học người Hà Lan, từng đạt giải Nobel kinh tế
năm 1969) lần đầu tiên sử dụng một nghiên cứu tương tự như Định luật hấp dẫn của Newton để
mô tả tổng hợp về dòng chảy thương mại giữa hai nước là "Tỷ lệ thuận với tổng sản phẩm quốc


4
gia (GDP) của các quốc gia và tỉ lệ nghịch với khoảng cách giữa chúng”. Ban đầu, khoảng
cách đồng nghĩa với khoảng cách địa lý giữa hai nước, nhưng sau đó nó bao gồm nhiều hình
thức như: Rào cản thương mại, chi phí vận chuyển, thuế nhập khẩu và các loại thuế, hợp đồng,
thông tin hoặc phân phối chi phí...
Kể từ sau nghiên cứu của Tinbergen đến nay, Mô hình trọng lượng đã trở thành một
trong những mô hình thực nghiệm thành công nhất trên thế giới. Nó là sự hợp nhất giữa lý
thuyết nền tảng về trọng lượng và thực tiễn để phân tích mối quan hệ về thương mại giữa
các nước, từ đó đưa ra những dự đoán phong phú, chính xác hơn trong tương lai.
 Nghiên cứu về xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
Nghiên cứu của Adam McCarthy, 2013, “Vietnam: Economic Update 2013 and

Prospects to 2020”, phân tích những thành tựu của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội
nhập và dự báo triển vọng phát triển xuất khẩu nói chung, hoạt động xuất khẩu nông sản nói
riêng tới năm 2020.
Nghiên cứu về thị trường Việt Nam thuộc chương trình “The Export Market Development
Grants (EMDG) scheme” của chính phủ Australia (2011) đã sử dụng mô hình trọng lượng để
luận giải, phân tích sự thay đổi hình thái và cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam sau
khi Việt Nam gia nhập WTO. Giai đoạn đầu gia nhập WTO cơ cấu thị trường xuất khẩu của
Việt Nam chưa có những đột phá lớn. Tuy nhiên, sau một thời gian Việt Nam đã có khả năng
sản xuất ra các sản phẩm mới, độc đáo mở ra cơ hội xâm nhập vào thị trường mới, thị trường
“khó tính” như Mỹ, Nhật Bản, EU...
Trong bài viết “Trade Facilitation and Economic Development: A New Approach to
Quantifying the Impact”, (2013) The World Bank Economic Review, 2013 đã phân tích
những nhân tố tạo thuận lợi cho thương mại và thương mại ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương. Hiệu quả cảng biển, môi trường hải quan, môi trường pháp lý, và thương mại điện tử
được sử dụng để xây dựng các chỉ số để đo lường dòng chảy thương mại. Mối quan hệ giữa
các chỉ số và dòng chảy thương mại được ước tính bằng cách sử dụng một mô hình hấp dẫn
bao gồm thuế nhập khẩu và các biến số tiêu chuẩn khác. Nghiên cứu chỉ ra rằng việc tăng
cường hiệu quả cảng biển, những cải cách trong thủ tục hải quan và mở rộng sử dụng thương
mại điện tử có ảnh hưởng lớn và tích cực đối với dòng thương mại. Ngược lại, rào cản pháp lý
ngăn chặn thương mại.
Theo UNCTAD/UNDP (2014), The training of trainers Course on “Selected Issues of
the International Economic Agenda and Accession to TPP”, Hanoi, Vietnam đã chỉ ra các
xu hướng mới trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay. Đồng thời, phân tích những
cơ hội và thách thức đối với các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng
khi tham gia TPP.
Tháng 5/2010, chương trình nghiên cứu “Assess the impact of economic integration in
ASEAN and APEC trade flows in the region” của trung tâm Thương mại quốc tế ( ITC,
WTO) đã áp dụng mô hình trọng lượng để tính toán tiềm năng thương mại cho các nền kinh
tế đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, Việt Nam
chỉ được đề cập đến với tư cách là nước nhập khẩu chứ không phải nước xuất khẩu.

Tóm lại, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về thị trường xuất khẩu hàng
hóa dựa trên phân tích Mô hình trọng lượng và vai trò của phát triển thị trường xuất khẩu
đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, chưa có công trình nào liên quan đến phát triển
thị trường xuất khẩu hàng nông sản của một nước, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng hiện nay.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
 Về phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá
- Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KC.06.12/06-11, “Nghiên cứu các giải pháp


5
đồng bộ để phát triển thị trường xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp chủ
lực”, (2012) của Bộ Công thương.
- Để xác định những định hướng lớn về chính sách phát triển thị trường hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2010-2020, PGS.TS Nguyễn Văn Nam (Viện Nghiên
cứu thương mại, Bộ Công thương) đã tiến hành nghiên cứu đề tài độc lập cấp nhà nước
“Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng hoá”
- Đề tài khoa học của Bộ Công thương, mã số 54.11.RD/HĐ-KHCN, “Nghiên cứu
luận cứ khoa học xây dựng chiến lược phát triển thương mại của Việt Nam thời kỳ 20112020”, (2012) đã cung cấp những luận cứ khoa học về chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá
của Việt Nam nhằm đáp ứng định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập
quốc tế của đất nước.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho xây dựng chính sách xuất nhập
khẩu bền vững của Việt Nam thời kỳ 2011-2020” (2013) của PGS.TS. Lê Danh Đĩnh, Viện
Nghiên cứu Thương mại chủ nhiệm đề tài. Đề tài đưa ra các căn cứ khoa học cho xây dựng
chính sách xuất, nhập khẩu bền vững của Việt Nam. Đánh giá thực trạng xuất, nhập khẩu và
các chính sách xuất, nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2012 theo các tiêu chí phát triển
bền vững, từ đó đưa ra những định hướng phát triển và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính
sách xuất nhập khẩu bền vững ở Việt Nam thời kỳ 2011-2020. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
khá rộng cả về lĩnh vực xuất khẩu lẫn nhập khẩu của Việt Nam, chưa có sự cụ thể hoá trong
một số ngành hàng xuất nhập khẩu trọng điểm có tỷ trong xuất khẩu cao, có tiềm năng giá trị

gia tăng cao.
 Nghiên cứu về hàng nông sản xuất khẩu
- Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Tăng cường năng lực tham gia của
hàng nông sản vào chuỗi giá trị toàn cầu trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam”, mã số
KX.01.16/06-10 nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
của một số hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Từ đó đưa ra những phương
hướng, chính sách và giải pháp nhằm tăng cường năng lực tham gia của hàng nông sản Việt
nam vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Theo quan điểm phát triển bền vững, đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ “Xuất
khẩu bền vững hàng nông sản của Việt Nam trong bối cảnh gia nhập tổ chức thương mại
thế giới” mã số B2009.06.132 (2011)
- Đề tài” Các giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2011) của Bộ Công thương đã nghiên cứu một cách
có hệ thống những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng nông sản, làm rõ sự cần thiết phải đẩy
mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Cuốn sách “Marketing xuất khẩu” của Đỗ Đức Vinh biên soạn đã đề cập đến việc
lựa chọn và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, trong đó nêu rõ sự lựa chọn
một chính sách về mở rộng thị trường xuất khẩu là yếu tố chiến lược, chủ chốt trong hoạt
động xuất khẩu. Việc thâm nhập và phát triển thị trường nước ngoài, bước đầu và đặt nền
tảng lâu dài, thực hiện theo những mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.
 Nghiên cứu về xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang các thị trường riêng biệt
- Đề tài khoa học cấp bộ “Nghiên cứu thị trường nông sản của Trung Quốc và khả
năng xuất khẩu một số sản phẩm nông sản của Việt Nam”, mã số 26.11.RD/HD-KHCN
(2011) do Hoàng Thị Vân Anh viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ
- Đề tài cấp bộ “Nghiên cứu đề xuất giải pháp tận dụng những ưu đãi trong Hiệp định
đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản” (2012) của Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công thương nghiên
cứu những nội dung chính sau:



6
 Nghiên cứu về xuất khẩu từng mặt hàng nông sản
Trong thời gian qua nước ta có những công trình nghiên cứu ðến nội dung nêu trên
nhý sau:
- Đề tài cấp bộ “Nghiên cứu đề xuất chính sách nhằm phát triển bền vững xuất khẩu mặt
hàng gạo của Việt Nam thời kỳ đến năm 2020” (2014) của Vương Đức Toàn, Viện Nghiên cứu
Thương mại, Bộ Công Thương.
- Đề tài cấp bộ “Nghiên cứu các sàn giao dịch hàng nông sản trên thế giới và kiến
nghị các điều kiện áp dụng vào Việt Nam” (2012) của Lê Huy Khôi, Viện Nghiên cứu
Thương mại, Bộ Công Thương
- Đề tài cấp bộ “Giải pháp chính sách xây dựng và bảo vệ thương hiệu nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam đến năm 2020” (2013) của TS. Hoàng Văn Hoàn, Viện Nghiên cứu
Thương mại, Bộ Công Thương.
Tóm lại, ở Việt Nam cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện, cập nhật và có hệ thống về phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam thời gian qua chủ yếu nghiên cứu về mặt “lượng” của hoạt động này. Tuy nhiên,
trong bối cảnh mới hiện nay, khi Việt Nam đang tham gia ký kết nhiều các hiệp định chiến
lược và xu hướng chung phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản theo hướng bền vững
thì việc nghiên cứu về mặt “chất” của hoạt động này là một yêu cầu cấp thiết. Việc luận án
nghiên cứu hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam theo cả
chiều rộng và chiều sâu, trong đó chú trọng nghiên cứu theo chiều sâu của hoạt động này đặt
trong bối cảnh mới hiện nay là hoàn toàn mới mẻ. Vì vậy, có thể nói đề tài được tác giả lựa
chọn để nghiên cứu luận án có tính thời sự, có ý nghĩa khoa học và đáp ứng được những đòi
hỏi trong thực tiễn xuất khẩu hàng nông sản của nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỀN
VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN CỦA MỘT QUỐC GIA
Chương này nghiên cứu 5 vấn đề chính sau:

2.1. Một số khái niệm cơ bản và sự cần thiết phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
2.1.1. Khái niệm về phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
2.1.1.1. Khái niệm về hàng nông sản xuất khẩu
Theo FAO, nông sản hoặc các sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp là các sản phẩm hay
mặt hàng ở dạng thô hoặc đã được chế biến đem ra bán để phục vụ tiêu dùng của con người
hoặc để làm thức ăn cho gia súc.
Theo WTO, nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản
phẩm liệt kê từ chương 1 đến chương 24 (trừ cá và sản phẩm từ cá) thuộc các chương khác
trong Hệ thống thuế mã HS (Hệ thống hài hòa mã số thuế). Với cách hiểu này, nông sản bao
gồm một phạm vi khá rộng các loại hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm nông sản hay nông phẩm là sản phẩm do ngành nông
nghiệp cung cấp. Còn nông sản xuất khẩu là nông sản được sản xuất ra từ nông nghiệp và
được đưa ra thị trường thế giới để tiêu thụ.
2.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng nông sản
của các chủ thể có quóc tịch khác nhau.
Tính khác biệt về tính năng sản phẩm cũng như quá trình sản xuất và tiêu thụ
nông sản xuất khẩu tạo nên những đặc trưng riêng của thị trường xuất khẩu mặt hàng
này so với các thị trường xuất khẩu hàng hóa khác ở những điểm sau:


7
- Thị trường xuất khẩu hàng nông sản nhìn chung có độ co giãn của cầu theo giá thấp.
- Cung trên thị trường xuất khẩu nông sản chủ yếu đến từ các quốc gia đang phát triển
nhưng họ không phải là người chiếm ưu thế trong hoạt thương mại nông sản thế giới.
- Trên thị trường xuất khẩu hàng nông sản tồn tại sự không tương thích trong
thông tin về chất lượng sản phẩm đối với người tiêu dùng
2.1.1.3. Khái niệm về phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của một quốc gia là tổng hợp tất cả
các hoạt động của các doanh nghiệp cùng với Nhà nước và các tổ chức liên quan nhằm

khai thác có hiệu quả thị trường xuất khẩu hiện tại và tìm kiếm, thâm nhập thị trường ngoài
nước để tăng được giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản có thể theo hướng là phát triển theo
chiều rộng; phát triển thị trường theo chiều sâu; hoặc kết hợp cả hai hướng trên.
Phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều rộng là sự gia tăng số lượng thị trường xuất
khẩu của một quốc gia. Phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều rộng giúp hoạt động phát
triển thị trường giảm sự phụ thuộc vào một vài thị trường xuất khẩu, giảm thiểu rủi ro biến
động thị trường.
Phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều sâu là việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu
trên thị trường hiện tại.
Xét về mặt địa lý, phát triển thị trường theo chiều sâu có số lượng thị trường tiêu thụ
sản phẩm xuất khẩu không thay đổi. Vì vậy, để gia tăng kim ngạch thì các nước xuất khẩu
phải sản xuất ra được những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn hơn, có tính cạnh tranh cao
hơn trên thị trường hiện có . Thông thường phát triển thị trường theo chiều rộng là bước đầu
tiên để sản phẩm của quốc gia xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới, giới thiệu sản
phẩm của quốc gia đó với bạn hàng quốc tế. Tuy nhiên, để tạo thế vững chắc cho sản phẩm
xuất khẩu, quốc gia và doanh nghiệp xuất khẩu cần phải phát triển thị trường theo chiều sâu,
tìm cách tăng số lượng và kim ngạch xuất khẩu trên các thị trường đã thâm nhập được.
2.1.2. Sự cần thiết phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Đối với nền kinh tế
Phát triển thị trường xuất khẩu góp phần nâng cao khối lượng và giá trị hàng hoá tiêu
thụ - là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế hợp lý, nâng cao đời sống cho người lao động, đóng góp vào sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy đa dạng hoá quan hệ hợp tác kinh tế của một nước.
Đối với doanh nghiệp
Thị trường xuất khẩu đóng vai trò quyết định đối với hoạt động thương mại quốc
tế của doanh nghiệp. Mỗi hoạt động tiêu thụ hàng hoá đều gắn với thị trường này.
Chính vì vậy, phát triển thị trường vừa là mục tiêu, vừa là phương thức quan trọng để
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh.
2.2. Nội dung phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản

Dù theo phương hướng chiều rộng hay chiều sâu, phát triển thị trường xuất khẩu
hàng nông sản là phương thức đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa ở thị trường nước ngoài. Nó
bao gồm tất cả các chính sách và biện pháp của cả nhà nước và doanh nghiệp nhằm tạo ra
các cơ hội tăng giá trị và sản lượng của hàng hóa tại thị trường nước ngoài. Mặc dù kết quả
của những chính sách và biện pháp được áp dụng tạo ra các cơ hội được biểu hiện ở nhiều
dạng khác nhau nhưng đó đều đưa đến kết quả cuối cùng là thực hiện được mục tiêu xuất
khẩu được nhiều hàng hóa hơn ra thị trường nước ngoài.
Chủ thể của phát triển thị trường xuất khẩu là doanh nghiệp và chính phủ, tức là
vừa có chủ thể ở tầm vi mô và chủ thể đại diện ở tầm vĩ mô, vừa có chủ thể tác động
trực tiếp và chủ thể tác động gián tiếp đến đối tượng cần phát triển thị trường xuất


8
khẩu. Để thực hiện mục tiêu thay đổi về “chất” của thị trường xuất khẩu hàng nông
sản, cả chính phủ và doanh nghiệp đều phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
3 khách thể chính của thị trường xuất khẩu là thị trường các nước nhập khẩu (bao gồm
cả thị trường hiện tại và tiềm năng); các sản phẩm nông sản xuất khẩu; và hệ thống
kênh phân phối, xúc tiến xuất khẩu.
Mặc dù cùng thực hiện các tác động lên khách thể của thị trường xuất khẩu nhưng
vai trò và nhiệm vụ của hai chủ thể hoàn toàn khác nhau. Nhà nước có vai trò dẫn dắt, định
hướng và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường; còn doanh nghiệp có nhiệm vụ biến
những hỗ trợ của nhà nước thành cơ hội, thành tiền đề cho hoạt động phát triển thị trường
của mình. Hay nói cách khác, nhiệm vụ của doanh nghiệp là kết hợp hiệu quả những nhân tố
nội lực của doanh nghiệp với sự hỗ trợ bên ngoài của nhà nước trong hoạt động kinh doanh
xuất khẩu nhằm tăng doanh thu từ hoạt động này.
2.3. Một số chỉ tiêu đánh giá phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều rộng
2.3.1.1. Sự gia tăng số lượng thị trường xuất khẩu
Đây là chỉ tiêu mang tính tuyệt đối, dễ dàng xác định và có ý nghĩa quan trọng trong
đánh giá phát triển thị trường theo chiều rộng. Số lượng thị trường xuất khẩu hàng hóa gia

tăng chứng tỏ phạm vi địa lý của thị trường đã được mở rộng. Ngược lại, số lượng thị
trường giảm cho thấy thị trường xuất khẩu đang bị thu hẹp, cần phải tìm hiểu nguyên nhân
và có biện pháp khắc phục.
Chỉ tiêu này mới cho thấy phạm vi địa lý của thị trường, khu vực thị trường mới được
khai phá chứ chưa thấy được tỷ trọng của các thị trường và nỗ lực của doanh nghiệp, Nhà
nước trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu tại từng thị trường. Khi nghiên cứu chỉ tiêu
này cần kết hợp với chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu để thấy đánh giá đúng hiệu quả của hoạt
động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản, vì có những mặt hàng nông sản xuất
khẩu vào nhiều thị trường khác nhau nhưng kim ngạch xuất khẩu đến từng thị trường này lại
không đáng kể.
2.3.1.2. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu theo thị trường
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đối với mỗi thị trường là tiêu
chí quan trọng và dễ dàng xác định để đánh giá hiệu quả hoạt động phát triển thị trường xuất
khẩu hàng nông sản của một nước. Nếu tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của hàng
nông sản đạt mức cao và duy trì đều đặn qua các năm tại một thị trường chứng tỏ hàng nông
sản đó đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng nước nhập khẩu và có tính cạnh tranh cao.
Ngược lại, nếu nhu cầu nông sản của thị trường các nước nhập khẩu đang tăng mà tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng nông sản đó suy giảm hoặc tăng trưởng không đều
đặn thì phản ánh hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản kém hiệu quả.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản là một chỉ tiêu được đo lường
bởi khối lượng và giá cả hàng xuất khẩu. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
bên cạnh việc phụ thuộc vào sản lượng hàng hoá xuất khẩu còn chịu ảnh hưởng bởi chiến
lược chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng những hàng
nông sản có hàm lượng chế biến cao, có giá trị kinh tế lớn.
2.3.1.3. Mức gia tăng thị phần tại các thị trường xuất khẩu mục tiêu
Đây là một chỉ tiêu đo lường khả năng cạnh tranh của hàng hóa và vị thế của quốc gia
đó tại mỗi thị trường nhập khẩu cụ thể. Nếu một mặt hàng nông sản có thị phần ngày càng
tăng trên thị trường chứng tỏ hoạt động phát triển thị trường đạt hiệu quả. Và ngược lại, nếu
một mặt hàng nông sản có thị phần nhỏ hoặc ngày càng suy yếu thể hiện sức cạnh tranh yếu
và không có sức mạnh thị trường.

2.3.2. Chỉ tiêu đánh giá phát triển thị trường xuất khâu theo chiều sâu


9
Các nghiên cứu trước đây về phát triển thị trường xuất khẩu thường chú ý đến mặt
lượng mà ít chú ý đến phát triển về mặt chất. Đối với mặt hàng nông sản, sự thay đổi về mặt
chất trong hoạt động phát triển thị trường thể hiện qua sự dịch chuyển cơ cấu thị trường từ
thị trường “dễ tính” sang thị trường “khó tính”; từ xuất khẩu sản phẩm “thô” sang xuất khẩu
sản phẩm “tinh” và sự đa dạng hóa trong phương thức xuất khẩu.
2.3.2.1. Mức độ chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu
Thị trường “khó tính” thông thường là thị trường của các quốc gia phát triển (Hoa Kỳ;
Nhật Bản và EU) nên tính thanh khoản của thị trường cao và ổn định. Mặc dù người tiêu
dùng tại những thị trường này có yêu cầu cao, khắt khe về chất lượng của hàng hóa nhưng
lại sẵn sàng chi trả mức giá cao cho những sản phẩm hợp thị hiếu. Vì vậy, các nước xuất
khẩu muốn tăng thị phần, tăng kim ngạch tại các thị trường này phải sản xuất được những
sản phẩm đáp ứng được những rào cản kỹ thuật, có sự khác biệt và có tính cạnh tranh hơn
so với đối thủ cạnh tranh.
Thị trường “dễ tính” là những thị trường có yêu cầu không cao về tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với hàng hóa nhập khẩu, nó thường là thị trường của các nước đang phát triển (Trung
Quốc, ASEAN, Nam Mỹ…) hoặc các nước kém phát triển, mức độ biến động của thị trường
lớn. Xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường này đòi hỏi sự canh tranh về nhiều giá hơn so
với cạnh tranh về chất lượng hàng hóa xuất khẩu.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng thị trường “khó tính”,
giảm tỷ trọng thị trường “dễ tính” cho thấy hoạt động phát triển thị trường đang có thay đổi
theo hướng tích cực, ổn định và bền vững hơn.
2.3.2.2. Mức độ dịch chuyển cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Phần lớn các mặt hàng nông sản xuất khẩu có hàm lượng chế biến sâu có giá trị gia
tăng cao sẽ đem lại nguồn thu lớn và ổn định cho đất nước. Ngược lại, nếu hàng nông sản
xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế ít thì mức độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chậm do
hàng nông sản có giá trị thấp, cung cầu không ổn định. Như vậy, thông qua mức độ dịch

chuyển cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu theo hướng từ sản phẩm thô sang sản phẩm tinh
cho ta biết được kết quả hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông sản và trình độ phát triển thị
trường xuất khẩu của một quốc gia.
2.3.2.3. Mức độ đa dạng trong phương thức thâm nhập thị trường xuất khẩu
Có 5 phương thức chủ yếu để thâm nhập và phát triển thị trường xuất khẩu là xuất khẩu
trực tiếp, xuất khẩu gián tiếp, cấp giấy phép sản xuất, doanh nghiệp liên doanh và đầu tư trực
tiếp. Các hình thức xuất khẩu này được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao theo tiêu chí số
tiền đầu tư, quyền kiểm soát và khả năng sinh lời.
Phương thức xuất khẩu càng đa dạng, phong phú chứng tỏ hoạt động thâm nhập thị
trường càng linh hoạt, hiệu quả. Mỗi thị trường nhập khẩu đều những có thuận lợi và khó
khăn riêng, nếu doanh nghiệp cần sử dụng các phương thức phù hợp để tiếp cận. Tuy nhiên,
hình thức xuất khẩu gián tiếp chỉ nên sử dụng trong giai đoạn đầu thăm dò thị trường mới,
còn trong dài hạn để mở rộng thị phần và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài(phát triển theo
chiều sâu) cần sử dụng các phương thức xuất khẩu khác.
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản trong bối
cảnh hiện nay
2.4.1. Các nhân tố khách quan
2.4.1.1. Cơ chế, chính sách của nước nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được tiến hành thông qua các chủ thể ở hai hay nhiều
môi trường chính trị - pháp luật khác nhau, thông lệ về thị trường cũng khác nhau. Tất cả các đơn
vị tham gia vào thương mại quốc tế đều phải tuân thủ luật thương mại trong nước và quốc tế.
Trong thương mại hàng nông sản thuế quan và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan thường được


10
sử dụng để điều tiết hoạt động nhập khẩu nông sản. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ sản xuất
nông sản trong nước của quôc gia nhập khẩu cũng có tác động hạn chế nhập khẩu hàng nông sản
từ bên ngoài. Mặc dù chủ trương tự do hoá thương mại theo tinh thần của WTO, nhưng cho đến
nay Hiệp định nông nghiệp vẫn chưa được các nước thực hiện nghiêm túc.
2.4.1.2. Nhu cầu của thị trường nhập khẩu

Hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác. Vì thế, xuất khẩu không chỉ phụ thuộc vào nhóm nhân tố bên trong quốc gia xuất
khẩu mà còn phụ thuộc vào những nhân tố thuộc về quốc gia nhập khẩu. Các nhân tố đó là:
Thu nhập của thị trường nước nhập khẩu nông sản; Thị hiếu tiêu dùng của thị trường nhập
khẩu nông sản; Mức độ cạnh tranh tại thị trường nhập khẩu
2.4.1.3. Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong những năm cuối thế
kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thị trường nông sản thế giới ngày càng tăng trưởng nhanh
chóng, cho phép thoả mãn nhu cầu đa dạng của giới tiêu dùng về nông sản. Đó cũng là
điều kiện quyết định để tăng năng suất lao động, tăng năng suất cây trồng và chất
lượng nông sản, từ đó hạ giá thành nông sản. Đồng thời nó cũng tác động cho phép
tăng cầu về nông sản ở mỗi quốc gia. Như vậy, khoa học và công nghệ đã tạo ra hiệu
quả có tính hai mặt: đa dạng hoá, nâng cao nhu cầu của khách hàng tiêu dùng nông sản
đồng thời hạ giá bán sản phẩm nông sản. Vì vậy, thị trường nông sản thế giới sẽ biến
động theo chiều hướng có lợi cho cả người sản xuất và xuất khẩu nông sản lẫn người
nhập khẩu và tiêu dùng nông sản.
2.4.1.4. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và nợ công Châu Âu
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vừa qua đã tác động rõ rệt
đến thị trường hàng nông sản. Một là, làm giảm nhu cầu nhập khẩu giữa các quốc gia có
đồng tiền bị sụt giá; hai là, làm tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu giữa các quốc gia này;
ba là, làm giảm nhu cầu về các nông sản chế biến do thu nhập giảm ở các nước chịu tác
động của khủng hoảng.
Nhìn chung, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến thị trường hàng nông
sản chế biến thế giới còn phụ thuộc vào các vấn đề: Một là, tỷ giá hối đoái sẽ thay đổi ra sao
và thời gian phục hồi dài hay ngắn; hai là, chính phủ sẽ áp dụng các chính sách gì để đối
phó với khủng hoảng, nhất là các chính sách về xuất, nhập khẩu nông sản; ba là, khả năng
giải quyết vấn đề thiếu hụt tín dụng cho nhu cầu nhập khẩu.
2.4.1.5. Diễn biến cung – cầu hàng nông sản trên thị trường thế giới
Giá cả hàng nông sản giao dịch trên thị trường thế giới chịu sự tác động chủ yếu của
hai lực lượng là cung hàng nông sản và cầu hàng nông sản. Cầu hàng nông sản ít co giãn

với giá và thu nhập, hệ số co giãn nhỏ còn cung về hàng nông sản co giãn nhiều theo giá.
Cầu về nông sản trên thị trường thế giới do những nước nhập khẩu nông sản chính
quyết định, như Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản. Trong khi đó cung về hàng
nông sản trên thế giới do những nước xuất khẩu nhiều nông sản, như Trung Quốc, Ấn Độ,
các nước Nam Mỹ, Việt Nam, Thái Lan và một số nước Đông Nam Á quyết định.
2.4.2. Các nhân tố chủ quan
2.4.2.1. Cơ chế chính sách của nước xuất khẩu
Các chính sách nhằm phát triển thị trường có vai trò quan trọng đối với hoạt
động xuất khẩu. Tuy nhiên, đây là công việc khó khăn, phức tạp và phụ thuộc nhiều
vào mối quan hệ giữa các quốc gia. Vì vậy, chính phủ các nước cần xây dựng được
chiến lược phát triển thị trường phù hợp với từng nước, từng khu vực trên thế giới.
Trên cơ sở định hướng và những hiệp định song phương, đa phương được ký kết của
chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước cung cấp, các doanh nghiệp


11
chủ động giới thiệu sản phẩm nông sản tới các thị trường tiêu thụ.
2.4.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng
để đem lại lợi nhuận ngày càng cao. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện trên
nhiều mặt: chất lượng, giá cả sản phẩm, sự khác biệt của sản phẩm, năng lực tài chính,
kinh nghiệm, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực hay vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường... Quyết định xuất khẩu hay không và liệu doanh nghiệp đã sẵn
sàng thực hiện chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường hay chưa phụ thuộc chủ yếu
vào việc xem xét các yếu tố trên.
2.4.2.3. Những đặc trưng riêng của hàng nông sản xuất khẩu
Các đặc trưng riêng có của hàng hoá xuất khẩu ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
xuất khẩu nói chung cũng như hoạt động phát triển thị trường nói riêng của mặt hàng đó.
Đối với hàng nông sản, quá trình sản xuất, thu hoạch và buôn bán mang tính thời vụ cao;

Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết.; Chất lượng hàng
nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng; Đối với hàng
nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì giá cả hàng nông sản xuất khẩu phụ
thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc vào khâu
sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến
2.5. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về phát triển thị trường xuất
khẩu hàng nông sản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
2.5.1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về phát triển thị trường xuất khẩu
hàng nông sản
Trung Quốc và Thái Lan là những nước có tiềm năng sản xuất nông sản, có điều
kiện sinh thái tương tự như Việt Nam. Cách đây hơn 20 năm, tình hình sản xuất và tiêu
thụ nông sản của Trung Quốc và Thái Lan ở trình độ như Việt Nam. Tuy nhiên, hiện
nay kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của họ đã vượt xa so với Việt Nam; hàng nông
sản Thái Lan và Trung Quốc đã có uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế
giới. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông
sản của Trung Quốc và Thái Lan sẽ rút ra nhiều bài học mang ý nghĩa thực tiễn cho
hoạt động này của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
2.5.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
- Tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới và tăng cường khai thác thị trường xuất khẩu hiện có
- Đa dạng hóa hàng nông sản xuất khẩu và nâng cao chất lượng sản phẩm theo hướng
toàn diện
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản
2.5.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Sự thành công trong xuất khẩu hàng nông sản của Thái Lan chính là nhờ vào chính
sách đổi mới của chính phủ trên quan điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn là xương sống
của đất nước. Các chính sách nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Thái
Lan được thể hiện trên các mặt sau:
- Lựa chọn thị trường xuất khẩu trên cơ sở kết hợp chính sách đa dạng hoá thị trường
và chính sách xây dựng thị trường trọng điểm
- Phát triển thị trường thông qua chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng

nông sản xuất khẩu
- Mở rộng thị trường thông qua việc hoàn thiện kênh phân phối hàng hóa
2.5.2. Bài học rút ra cho Việt Nam
2.5.2.1. Bài học thành công có thể vận dụng


12
- Lựa chọn chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp với lợi thế của đất nước
và tình hình thực tiễn thị trường xuất khẩu, nhờ đó mà cả hai nước đã mở rộng được thị trường
xuất khẩu và gia tăng kim ngạch.
- Thực hiện tái cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản theo hướng tương đối cân
bằng giữa các khu vực thị trường nhằm giảm bớt rủi ro so với những nước quá tập trung vào
một khu vực thị trường xuất khẩu nào đó.
- Thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nông sản xuất khẩu theo cả chiều rộng và chiều sâu,
chú trọng đa dạng hóa theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Hàng nông sản xuất
khẩu được cơ cấu theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế,
tăng tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng chế biến cao nhằm nâng cao giá trị hàng nông sản
xuất khẩu.
2.5.2.2. Bài học thất bại cần tránh
Mặc dù sau nhiều năm thực hiện chính sách phát triển thị trường xuất khẩu, cả hai
nước đều đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu nông sản ấn tượng nhưng chủ yếu là tăng
trưởng theo chiều rộng, chưa thực sự gắn với tăng trưởng và phát triển bền vững. Cụ thể là:
- Phát triển thị trường hàng nông sản chưa tính đến những ảnh hưởng từ rủi ro
chính trị.
- Phát triển thị trường xuất khẩu nông sản chưa chú trọng đến bảo vệ môi trường.
- Vấn đề sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản tại Trung Quốc và Thái Lan chưa
mang tính bền vững, đặc biệt vấn đề xã hội chưa được quan tâm thỏa đáng.
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2008-2014
3.1. Khái quát tình hình thị trường hàng nông sản trên thế giới giai đoạn 2008-2014
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới những năm gần đây có nhiều biến động lớn,
đặc biệt là tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, thị
trường trao đổi nông sản trên thế giới nói chung và ở từng khu vực nói riêng có nhiều
biến động. Trong đó, thị trường xuất nhập khẩu những mặt hàng lương thực, đồ uống
và nguyên liệu như gạo, cao su thiên nhiên, cà phê và hạt điều có những thay đổi đáng
quan tâm.
Về mặt hàng gạo: Trên thế giới có khoảng hơn 100 nước xuất khẩu lúa gạo. Trong đó,
các nước thuộc khu vực châu Á chiếm khoảng 90% tổng sản lượng toàn thế giới, chỉ riêng
Thái Lan và Việt Nam đã chiếm khoảng 50% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Bên
cạnh đó, sản lượng gạo xuất khẩu của Trung Quốc có xu hướng tăng nhờ vào yếu tố tăng
năng suất lao động. Hiện nay, Trung Quốc đang tham gia xuất khẩu gạo chất lượng cao và
trung bình sang thị trường các nước Bắc Á và gạo chất lượng thấp sang thị trường các nước
thu nhập thấp ở châu Á và thị trường khu vực Sa-ha-ra châu Phi.
Về mặt hàng cà phê: Hiện nay, trên thế giới có khoảng 75 quốc gia trồng cà phê, trong
đó có 51 quốc gia sản xuất để xuất khẩu. Trong giai đoạn 2008-2014, kim ngạch trao đổi
mặt hàng này có xu hướng tăng mạnh. Lượng cung cà phê xuất khẩu trên thế giới chủ yếu
đến từ các nước khu vực Mỹ Latinh. Hiện nay, Bra-xin vẫn là quốc gia xuất khẩu cà phê
đứng đầu thế giới (chiếm khoảng 1/3 tổng lượng xuất khẩu của toàn thế giới), sau đó đến
Việt Nam.Về thị trường tiêu thụ, lượng cà phê tiêu dùng trên thế giới tiếp tục tăng, kể cả ở
những quốc gia vốn trước đây không có truyền thống tiêu thụ cà phê như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc. Đặc điểm nổi bật của thị trường cà phê thế giới là nhu cầu của người
tiêu dùng ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn. Đây là yếu tố khuyến khích các nước điều


13
chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tăng chủng loại cà phê chất lượng cao.
Về mặt hàng cao su tự nhiên: Trong giai đoạn 2008-2014, kim ngạch trao đổi cao su
trên toàn thế giới có xu hướng giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trung

Quốc và các nước Châu Á vẫn là những thị trường lớn nhập khẩu cao su tự nhiên. Hiện
nay, Thái Lan vẫn là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu cao su tự nhiên, với sản
lượng đạt khoảng 2,98 triệu tấn năm 2014, ước tính giá trị khoảng 6 tỷ USD (chiếm
36,5% tổng giá trị kim ngạch trao đổi cao su tự nhiên thế giới), đứng thứ hai là In- đônê-xi-a đạt 4,7 tỷ USD năm 2014, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 thế giới về xuất khẩu cao
su tự nhiên, giá trị xuất khẩu đạt 1,4 tỷ USD năm 2014.
Về mặt hàng hạt điều: Trong giai đoạn 2008-2014, Việt Nam luôn là quốc gia đứng số
một về xuất khẩu điều, chiếm trên 50% thị phần trao đổi thế giới.Ước tính năm 2015 kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam là 2,5 tỷ USD, đứng thứ 2 là Ấn Độ. Tây Nam
Á và Châu Phi cũng được xem là “vựa điều” lớn nhất của thế giới với sản lượng trung bình
hàng năm từ 700.000 đến 800.000 tấn. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan là 3 thị trường nhập
khẩu điều lớn nhất thế giới chiếm lần lượt 35,67%, 12,92% và 12,86% tổng kim ngạch trao đổi.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam trong giai đoạn 2008-2014
Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu biến động phức tạp cùng với sự thay
đổi của giá lương thực, năng lượng và nhiều loại nguyên liệu khác. Sự khủng hoảng của hệ
thống tài chính toàn cầu ở cấp độ rộng, kinh tế thế giới đã trải qua những năm đầy khó khăn
và sóng gió. Đặc biệt, bối cảnh kinh tế thế giới những năm gần đây dẫn đến nền kinh tế tăng
trưởng không cao, chứa đựng nhiều yếu tố gây bất ổn, phức tạp và khó lường, hậu quả của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ còn tiếp tục diễn biến phức tạp.
Dưới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, các quốc gia đang đẩy mạnh quá trình
tái cấu trúc nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế kinh tế trên quy mô toàn cầu.. Mặt khác,
các nước này đang có nhiều động thái mới trong hợp tác và phát triển với khu vực châu Á
(xoay trục sang châu Á, thực hiện chiến lược hướng Đông)..
Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành
nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn, đáng chú ý là việc đàm phán ký kết Hiệp định
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với mức độ mở cửa và hợp tác cao hơn. Quá trình
quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng; việc tham
gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã hình thành yêu cầu đối với các nền
kinh tế. Trong giai đoạn 2008-2014, Việt Nam đã ký và tham gia một loạt FTA và các hiệp
định mới với mức mở cửa cao hơn, sâu hơn như hiệp định TPP, hiệp định thương mại tự do

Việt Nam - EU, hiệp định giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á-Âu, hiệp định Việt Nam Hàn Quốc, AEC... Đây là những cơ hội mới để các bên mở rộng hợp tác toàn diện, cao hơn,
thực hiện nhanh hơn.
Bối cảnh quốc tế mới đóng vai trò quan trọng chi phối việc đề xướng và thực thi
chính sách cải cách mở cửa kinh tế ở Việt Nam. Trước hết, những biến động lớn trên thế
giới tạo ra áp lực cải cách lớn đối với Việt Nam. Nếu không thực hiện cải cách mở cửa, hòa
mình vào trào lưu chung của thế giới thì Việt Nam sẽ mãi trong tình trạng lạc hậu và ngày
càng kém phát triển so với các quốc gia. Mặt khác, những biến động đó cũng tạo ra động
lực lớn đối với Việt Nam trong việc tiến hành cải cách mở cửa, Việt Nam có thể tập trung
nguồn lực cho xây dựng kinh tế, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác
những lợi thế của đất nước, tận dụng ưu thế của nước đi sau trong việc thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa, từ đó đẩy mạnh phát triển kinh tế, rút dần khoảng cách kinh tế kỹ thuật,
công nghệ với các nước phát triển trên thế giới.
3.3. Phân tích thực trạng thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam từ


14
năm 2008 đến năm 2014
3.3.1. Sự gia tăng số lượng thị trường xuất khẩu
Quá trình hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và việc gia nhập WTO là cơ hội
to lớn đối với Việt Nam trong việc mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, trong đó
có xuất khẩu hàng nông sản. Số lượng thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam trong giai
đoạn 2008-2014 đã tăng khá nhanh. Năm 2008 các mặt hàng nông sản của nước ta mới có
mặt tại 107 thị trường trên toàn cầu, năm 2010 là 117 thị trường, thì đến năm 2014, con số
này đã tăng tới 232 thị trường. Tốc độ tăng trưởng thị trường xuất khẩu khá cao, xấp xỉ
17,7%/năm trong giai đoạn 2008-2014.
3.3.2. Sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu
Mặc dù trong giai đoạn 2008-2014, bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động
và nền kinh tế trong nước đang trải qua thời kỳ khó khăn, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, tốc độ tăng trưởng bình quân
kim ngạch xuất khẩu nông sản mặc dù chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân kim

ngạch xuất khẩu hàng hoá nói chung của nền kinh tế (18,29%), nhưng vẫn duy trì được mức
độ cao, đạt 15,41%. Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu chiếm khoảng 13,33% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước (Bảng 3.1). Điều này cho thấy nhóm hàng nông
sản xuất khẩu vẫn có ý nghĩa quan trọng để tăng tích luỹ ngoại tệ cho đất nước.
Bảng 3.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
giai đoạn 2008-2014
Đơn vị:Tỷ USD, %
Tổng kim ngạch xuất
Kim ngạch
Tỷ lệ
khẩu
xuất khẩu nông sản
Năm
KNXKNS/KNXK
Giá trị Tăng trưởng Giá trị Tăng trưởng
(%)
(USD)
(%)
(USD)
(%)
2008
62,69
29,10
8,53
37,9
13,61
2009
57,11
-8,92
8,46

-0,82
14,82
2010
72,24
26,51
10,88
28,61
15,06
2011
96,91
34,15
14,41
32,44
14,87
2012 114,53
18,18
15,64
8,54
13,66
2013 132,03
15,28
14,24
-8,95
10,79
2014 150,18
13,75
15,72
10,39
10,47
Nguồn: Tổng hợp của tác giả dựa trên số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam

Trong giai đoạn 2008-2014, khối lượng nông sản xuất khẩu Việt Nam tuy có tăng lên
năm sau cao hơn năm trước, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu lại tăng không tương xứng,
vì giá bán hàng nông sản giảm. Giá hàng nông sản của Việt Nam luôn ở dưới một mức so
với giá nông sản cùng loại của các nước xuất khẩu trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh
nhân tố giá cả thị trường thế giới luôn biến động gây bất lợi cho giá hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam, cần có một số nguyên nhân xuất phát từ phía Việt Nam dẫn đến tình
trạng trên:
Thứ nhất, xuất khẩu nông sản của Việt Nam không tính đến hiệu quả kinh tế, hiệu
quả đầu tư. Tư duy đối với hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở
việc đánh giá kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng bao nhiêu so với thời kỳ trước, so với năm
trước, chiếm tỷ trọng (%) bao nhiêu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mà thiếu


15
sự đánh giá tính hiệu quả của hoạt động xuất khẩu nông sản. Thứ hai, hoạt động dự báo thị
trường nông sản xuất khẩu vẫn còn yếu, chưa bám sát tín hiệu thị trường dẫn đến thiệt hại
cho hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam.
3.3.3. Mức độ gia tăng thị phần và kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam
tại một số thị trường chủ lực
3.3.3.1. Thị trường Trung Quốc
Trung Quốc là một thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Hai nước đều là
thành viên của WTO và ACFTA nên quan hệ thương mại giữa hai nước ngày càng phát
triển. Đặc biệt, tính chất quan hệ thương mại giữa hai nước sẽ thay đổi theo hướng giảm tỷ
trọng thương mại tiểu ngạch và tăng cường thương mại chính ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc có mức tăng
trưởng cao trong giai đoạn 2008-2014, khoảng 21,11%. Mặc dù chịu ảnh hưởng của bất ổn
chính trị giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực, nhưng tỷ trọng xuất khẩu sang thị
trường này năm 2014 vẫn chiếm 24% trong kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu theo hai hình thức là
chính ngạch và tiểu ngạch (buôn bán biên mậu). Tuy nhiên, với vị trí địa lý gần kề và tập

quán buôn bán nhỏ lẻ lâu năm, giao dịch biên mậu vẫn chiếm tỷ trọng cao, đặc biệt là các
mặt hàng nông sản. Do mua bán không hợp đồng và không tuân thủ các quy trình xuất nhập
khẩu chặt chẽ, hoạt động xuất khẩu thường bị động, phụ thuộc vào phía đối tác Trung Quốc.
Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu lớn từ Việt Nam nhiều chủng loại nông sản như:
Rau quả, nhân điều, cà phê, chè các loại, gạo, cao su, sắn và các sản phẩm từ sắn... Tuy
nhiên, cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Trung Quốc thể hiện trình
độ phát triển thấp trong sản xuất và chế biến nông sản của Việt Nam. Mặc dù được coi là thị
trường khá dễ tính nhưng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc cũng chỉ đáp ứng
nhu cầu về nguyên liệu, do vậy không hình thành nên sự cạnh tranh giữa hai thị trường Việt
Nam và Trung Quốc.
Bên cạnh sức ép từ chính thị trường Trung Quốc, xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào
thị trường này còn chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nước khác trong khu vực như Thái Lan,
Ma-lay-xi-a, In-đô-nê-xi-a...
Nhìn chung,Trung Quốc vẫn là thị trường quan trọng đối với xuất khẩu nông sản của
Việt Nam, tuy nhiên sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc đang mang đến rất nhiều rủi
ro cho xuất khẩu Việt Nam khi thị trường này có biến động. Vì vậy, việc đa phương hóa, đa
dạng hóa các đối tác để tranh thủ nắm bắt các cơ hội trong xuất khẩu hàng nông sản là yêu
cầu tất yếu khách quan đặt ra trong bối cảnh hiện nay.
3.3.3.2. Thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một nước có ngành nông nghiệp phát triển nhưng nhập siêu nông sản của
Hoa Kỳ có xu hướng tăng trong thời gian qua. Thuế nhập khẩu nông sản vào Hoa Kỳ vẫn
thấp hơn so với nhiều nước khác trên thế giới, song Hoa Kỳ lại áp dụng các hàng rào kỹ
thuật khắt khe đối với thực phẩm nói chung và nông sản nói riêng. Nhiều mặt hàng nông sản
dù đã được nhập khẩu vào Hoa Kỳ nhưng muốn thực hiện hoạt động marketing cũng phải
qua nhiều khâu kiểm duyệt (về phẩm cấp, kích cỡ, chất lượng, tác động thực tế đến người
tiêu dùng…). Những hàng rào vô hình này là một thách thức lớn đối với xuất khẩu nông sản
của các nước vào thị trường này. Ngoài ra, xu hướng tiêu thụ nông sản “xanh” tại Hoa Kỳ


16

cũng là một thách thức lớn cho xuất khẩu nông sản từ các thị trường đang phát triển do
ngành nông nghiệp chưa được hiện đại hóa, quy chuẩn hóa.
Hiện nay, hàng nông sản Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiếm tốn, chưa
đến 0,03% thị trường nông sản nhập khẩu của Hoa Kỳ. Tỷ trọng này chưa tương xứng với
tiềm năng sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam. So với hai nước trong khu vực là
Thái Lan và Phi-lip-pin co cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu khá tương đồng với Việt Nam,
thị phần của nông sản Việt Nam tại Hoa Kỳ còn quá thấp do năng lực cạnh tranh kém hơn.
Thị phần nông sản xuất khẩu của Việt Nam tại Hoa Kỳ còn thấp do chưa đáp ứng
được những tiêu chuẩn kỹ thuật tại thị trường này và sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ
xuất khẩu khác. Một nguyên nhân quan trọng nữa là hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
chưa phù hợp với thị hiếu, tập quán tiêu dùng, nên khó mở rộng được thị phần. Chính vì
vậy, để đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam
cần nghiên cứu đầy đủ các xu hướng về tiêu dùng cũng như quy định trên thị trường này để
có chính sách xuất khẩu phù hợp.
3.3.3.3. Thị trường EU
Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ
môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. EU chỉ nhập khẩu những loại nông sản
không trồng được ở khu vực này như: cà phê, chè... Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ
sinh an toàn thực phẩm luôn được thực hiện nghiêm ngặt. Bên cạnh các cam kết mở cửa thị
trường trong khuôn khổ WTO về nông nghiệp, EU duy trì hạn ngạch thuế quan đối với một
số sản phẩm, giảm dần giá trị và số lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU những năm gần
đây thường xuyên chiếm 14%-16% kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước. Trong năm 2009
và năm 2013, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ
công châu Âu nên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cũng như kim ngạch xuất khẩu nông
sản của Việt Nam sang thị trường này giảm, nhưng đến nay đang có dấu hiệu phục hồi.
Liên minh châu Âu là thị trường rộng lớn, với nhu cầu nhập khẩu nông sản hàng năm
cao và liên tục tăng, đặc biệt việc ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản Việt Nam trong thời gian tới. Thị trường
EU với những yêu cầu khắt khe về chất lượng, quy cách sản phẩm, xuất khẩu nông sản của

Việt Nam sang thị trường này vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, sự đổi mới công
nghệ trong sản xuất và chế biến nông sản của các nước xuất khẩu nông sản khác đang tạo
sức ép lớn đến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.
3.3.3.4. Thị trường khu vực ASEAN
ASEAN là thị trường có trên 500 triệu dân với các nước Sing-ga-po, Thái Lan, Malai-xi-a, In-đô-nê-xi-a có nền kinh tế phát triển hơn so với các nước còn lại. Hầu hết các
nước ASEAN đều chú trọng đến phát triển nông nghiệp. Do vậy, ngoài nhu cầu nhập khẩu
nông sản của Việt Nam để đáp ứng tiêu dùng trong nước, các nước này còn nhập khẩu nông
sản của Việt Nam để phục vụ công nghiệp chế biến và tái xuất. Tăng trưởng thương mại
nông sản giữa Việt Nam và các nước ASEAN đạt khoảng 20% - 25%/năm. Hàng năm,
ASEAN nhập khẩu một lượng khá lớn nông sản của Việt Nam, kim ngạch trung bình mỗi
năm đạt hơn 2 tỷ USD/năm.
3.3.4. Mức độ chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu


17
Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Tổng hợp của tác giả dựa trên số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam
Hình 3.1: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
giai đoạn 2008-2014
Trong giai đoạn 2008-2014, cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam hầu như chưa có sự biến đổi theo hướng tích cực. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang
các thị trường “dễ tính” vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao, trong khi kim ngạch xuất khẩu sang
các thị trường “khó tính” có xu hướng giảm hoặc không ổn định. Trung Quốc vẫn luôn là thị
trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm 20,96% tổng kim ngạch xuất khẩu
nhóm hàng này của cả nước. Đứng thứ hai là thị trường EU chiếm khoảng 15,7% kim ngạch
xuất khẩu nông sản, tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ chiếm 10%. ASEAN vẫn là một trong
những thị trường xuất khẩu nông sản truyền thống của Việt Nam,tuy nhiên, tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường này trong những năm gần đây có xu hướng tăng
giảm không ổn định.

Có thể thấy, hàng nông sản Việt Nam khó có thể thâm nhập vào được các thị trường
cao cấp hoặc nếu có cũng chỉ thâm nhập được đến khâu có giá trị gia tăng không cao.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do hàng nông sản Việt Nam không đáp ứng được
các tiêu chuẩn kỹ thuật của nước nhập khẩu như EROGAP, GLOBALGAP hay các quy
định trong Hiệp định SPS… Mặt khác, tại thị trường các nước đang phát triển, Trung Quốc
vẫn là thị trường nhập khẩu nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất của Việt Nam, bởi đây là thị
trường "dễ tính", tiêu chuẩn thấp, không có hàng rào kỹ thuật… Tuy nhiên, chính sự "dễ
tính" này đang tiềm ẩn nhiều rủi ro và ngày càng làm giảm giá trị của sản phẩm, cản trở sự
thay đổi về mặt “chất” của hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam.
3.3.5. Mức độ chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu
Mặc dù hiện nay nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện có vị trí cao
trên thị trường thế giới như hồ tiêu đứng vị trí thứ nhất (chiếm khoảng 50% thị phần) và hạt


18
điều( chiếm 95% thị phần), cà phê đứng thứ hai (chiếm 40% thị phần), gạo xếp thứ ba (chiếm
12% thị phần)… Nhưng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là sản phẩm thô,
tỷ trọng chế biến thấp và vì thế phụ thuộc khá nhiều vào thời vụ và giá cả quốc tế. Bên cạnh
đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến của Việt Nam chưa
có sự thay đổi lớn. So với các nước trong khu vực, tỷ lệ nông sản đã qua chế biến để xuất
khẩu bình quân rất thấp, chỉ khoảng 20-25% (trừ hạt điều nhân và gạo) trong khi đó tỷ lệ
này của các nước trong khối ASEAN đạt trên 50%. Hơn nữa, trong khuôn khổ WTO, nhiều
mặt hàng nông sản thô chưa qua chế biến được xếp vào danh mục hàng nhạy cảm và nhạy
cảm cao để làm chậm quá trình giảm thuế nhập khẩu, còn mặt hàng qua chế biến lại đưa vào
danh mục hàng cắt giảm thuế nhanh. Điều đó có nghĩa là, hàng nông sản thô chưa qua chế
biến sẽ ít được hưởng lợi từ quá trình hội nhập, đã và đang gây cản trở cho hoạt động phát
triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của nước ta.
Xét về khối lượng, hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu đã có vị trí khá cao trên thị
trường thế giới. Tuy nhiên, do xuất khẩu sản phẩm thô và có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu

qua các trung gian thương mại nên giá trị gia tăng thu được rất thấp, hình ảnh thương hiệu
hàng nông sản của Việt Nam còn mờ nhạt đối với người tiêu dùng trên thế giới.
3.3.6. Mức độ đa dạng trong phương thức thâm nhập thị trường xuất khẩu
Hiện nay, hơn 90% lượng nông sản của Việt Nam được xuất khẩu qua trung gian
(xuất khẩu gián tiếp). Ví dụ, xuất khẩu gạo qua các công ty JF Trading, Thai Hua,
Continental, Cargil, Glenco... Sau khi giao hàng cho trung gian, các doanh nghiệp xuất
khẩu của Việt Nam hết quyền kiểm soát đối với hàng hoá. Do đó, doanh nghiệp luôn ở
thế “bị động”, không nắm bắt kịp thời được các thông tin thị trường xuất khẩu và khách
hàng. Mặt khác, xuất khẩu qua trung gian khiến giá hàng xuất khẩu thường thấp hơn các
đối thủ cạnh tranh xuất khẩu trực tiếp. Còn các đối tác nhập khẩu nông sản thì luôn ở thế
chủ động, có lợi thế trong thoả thuận các điều khoản hợp đồng. Kinh nghiệm của Thái
Lan và Trung Quốc cho thấy, để có được sự thành công trên thị trường nước ngoài,
doanh nghiệp phải biết sử dụng các đại diện bán hàng, đại lý, nhà phân phối, nhà bán lẻ
tại thị trường nhập khẩu.
Hình thức sử dụng đại lý phân phối trực tiếp mới được một số ít các doanh nghiệp
sử dụng, chủ yếu áp dụng với hàng hoá đã có thương hiệu như cà phê Trung Nguyên,
Vinatea. Doanh nghiệp kinh doanh nông sản của nước ta chủ yếu vẫn là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, chưa xây dựng được thương hiệu nên xuất khẩu nông sản lệ thuộc vào sự đặt
hàng của các đối tác nước ngoài.
Mức độ linh hoạt, năng động và cập nhật của hệ thống kênh phân phối hàng nông sản
tới thị trường xuất khẩu chưa cao. Với mạng lưới phân phối đơn giản và bị động như hiện
nay thì các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản chưa thể tạo được thế chủ động và phát huy
hết khả năng của mình. Xu thế chung trên thế giới hiện nay là mua bán diễn ra ngày càng
trực tiếp, kênh phân phối ngày càng ngắn lại, do vậy việc tổ chức bán và giới thiệu sản
phẩm trực tiếp từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng cuối cùng là yêu cầu cần thiết đặt ra.
Ứng dụng thương mại điện tử là một xu hướng tất yếu của thương mại quốc tế. Các
nước phát triển chiếm hơn 90% tổng giá trị giao dịch thương mại điện tử toàn cầu, trong đó
riêng phần Bắc Mỹ và châu Âu đã lên tới 80%. Song khoảng cách ứng dụng thương mại
điện tử giữa các nước phát triển và đang phát triển vẫn còn rất lớn, trong khi nhu cầu từ



19
các nước nhập khẩu sử dụng thương mại điện tử là rất lớn, thì các nước xuất khẩu (đa phần là
các nước đang phát triển) lại chưa theo kịp. Tại Việt Nam việc ứng dụng phương thức này chưa
sử dụng nhiều như là một công cụ để tiếp cận thị trường, phục vụ xuất khẩu.
Một trong những nguyên nhân hạn chế hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu
của hàng nông sản Việt Nam là chưa được giao dịch trực tiếp tại các sàn giao dịch quốc
tế như hạt tiêu của Ấn Độ, chè của Kê-ni-a, cà phê của Bra-xin. Nguyên nhân của tình
trạng này là do nông sản Việt Nam chưa được tiêu chuẩn hoá về số lượng, chất lượng,
hình thức của bao bì, nhãn mác theo quy định của các sàn giao dịch hàng hoá trên thế
giới đối với từng loại hàng hoá.
3.4. Phân tích thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam giai đoạn 2008-2014
3.4.1. Thực trạng những chính sách được nhà nước sử dụng nhằm phát triển
thị trường xuất khẩu hàng nông sản giai đoạn 2008-2014
3.4.1.1. Chính sách thị trường xuất khẩu
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế tất yếu của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, Việt Nam đã tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc lý kết các hiệp định song phương và đa phương.
Tính đến hết tháng 12/2015, Việt nam đã ký được 14 hiệp định tự do thương mại, trong
đó có 2 hiệp định thế hệ mới.
Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu từ chính sách tự do hoá thương
mại và mở cửa thị trường. Giai đoạn 2008-2014, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bình
quân 17,42%/năm, thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng, số lượng thị trường
xuất khẩu ngày càng tăng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất, chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có giai đoạn, có khâu còn
chưa được triển khai đồng bộ, đầy đủ. Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế
còn mang tính bị động, tác động bởi yếu tố chính trị, chưa có nghiên cứu cơ sở khoa học và

thực tiễn trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế ở Việt Nam chưa cao.
Thứ hai, trong quá trình đàm phán và ký kết các FTA, Việt Nam chưa coi trọng ý kiến tham
vấn của doanh nghiệp - đối tượng ảnh hưởng trực tiếp - dẫn đến những cơ hội có thể trở
thành nguy cơ cho chính doanh nghiệp khi tham gia vào các thị trường có FTA.
Trong giai đoạn 2008-2014, Việt Nam thực hiện chiến lược phát triển thị trường xuất
khẩu hàng nông sản theo hướng: Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang những thị trường có
nhu cầu lớn và có tính thanh khoản cao; đa dạng hoá thị trường xuất khẩu; và xây dựng một
số thị trường xuất khẩu trọng điểm để mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác là hoàn
toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế. Do đó, thị trường xuất khẩu nông sản của Việt
Nam không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá.
Mặc dù chính sách phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam đang dần được hoàn thiện để phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế, bối cảnh mới
của quốc tế, khu vực và tình hình phát triển của đất nước nhưng hiệu quả thực thi chính
sách chưa cao, tỷ trọng xuất khẩu sang các khu vực thị trường chưa thực sự chuyển
biến theo định hướng về cơ cấu thị trường đến năm 2020 như trong Đề án phát triển thị


20
trường khu vực thị trường ngoài nước thời kỳ 2015-2020, định hướng đến năm 2030
được Bộ Công thương đưa ra. Hơn nữa, xuất khẩu hàng hóa của nước ta hiện nay vẫn
tập trung chủ yếu vào một số thị trường lớn và truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Trung
Quốc,…mà chưa khai thác hiệu quả các thị trường mới, tiềm năng. Mặt khác, trong quá
trình xây dựng và hoạch định chính sách xuất khẩu Việt Nam chưa thật sự quan tâm đúng
mức đến chất lượng tăng trưởng, vẫn thiên về chỉ tiêu số lượng, coi nhẹ những ảnh hưởng
tiêu cực của xuất khẩu đối với xã hội và môi trường, duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng
theo chiều rộng, chưa chú trọng đúng mức để tạo tiền đề cho việc chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo chiều sâu.
3.4.1.1. Chính sách mặt hàng nông sản xuất khẩu
Chính sách mặt hàng nông sản xuất khẩu thời gian qua đã từng bước thúc đẩy phát
triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Hoạt động xuất khẩu nông sản khá tương

thích với mức độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế đất nước, với nền kinh tế thị trường,
phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, chính sách mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam vẫn thiên về chú trọng tiềm năng vốn có của đất nước, chưa quan tâm đúng mức đến
yêu cầu của thị trường; chưa có giải pháp cụ thể và thực thi quyết liệt cho việc chuyển từ
xuất khẩu thô sang tinh chế, tìm thị trường ổn định, có chính sách để nông dân đầu tư ổn
định, phát triển nông sản xuất khẩu có hiệu quả và bền vững. Hiện nay, xuất khẩu nông sản
của Việt Nam vẫn chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô và chủ yếu hướng đến những thị trường
dễ tính. Tỷ trọng nông sản chế biến sâu chỉ đạt khoảng 25-30%, trong đó có nhiều sản phẩm
đạt tỷ lệ thấp như rau quả 10%, cà phê 4%-6%... Vì vậy, về lâu dài, muốn tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu ổn định, ngoài những thị trường quen thuộc cần có thêm giải pháp để đột
phá vào những thị trường khó tính hơn, như: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... Việt Nam cần xây
dựng chuỗi sản phẩm đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu nông sản vào những thị trường kể trên.
Chính sách mặt hàng nông sản xuất khẩu chưa thực sự giải quyết vấn đề cốt lõi của
xuất khẩu là khâu sản xuất, một số chính sách ban hành thời gian qua như ưu đãi về thuế,
trợ cấp cho nông sản xuất khẩu chủ yếu được tập trung ở khâu thương mại mà chưa tác
động mạnh tới khâu sản xuât nông sản xuất khẩu. Các giải pháp vẫn chủ yếu tập trung ở
phần "ngọn", mà chưa có giải pháp cho những nguyên nhân căn bản nhằm giải quyết vấn đề
xuất khẩu ngay từ gốc rễ, tức là nền sản xuất nông sản nội địa.
3.4.1.2. Chính sách hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
Hoạt động xúc tiến xuất khẩu thời gian qua đã từng bước góp phần quan trọng trong
việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng nông sản; Cung cấp những thông tin và định hướng
về thị trường xuất khẩu cho cơ quan quản lý và người sản xuất, kinh doanh; Quảng bá được
thương hiệu nông sản Việt Nam với bạn hàng trong nước và quốc tế; Giúp doanh nghiệp sản
xuất và xuất khẩu nông sản duy trì mối quan hệ với đối tác, tiếp cận và mở rộng thị trường
xuất khẩu... Tuy nhiên, công tác xúc tiến xuất khẩu còn tồn tại một số hạn chế như:
Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có lợi thế và giá trị xuất khẩu cao
nhưng lại không có thương hiệu; Năng lực xây dựng các đề án xúc tiến xuất khẩu còn
sơ sài, thiếu thông tin, chưa sát nhu cầu thực tế của doanh nghiệp; Kinh phí cho các
chương trình xúc tiến xuất khẩu nông sản hàng năm vẫn còn thấp, nặng tính bao cấp,
nên hiệu quả không cao; …

3.4.2. Thực trạng các biện pháp được doanh nghiệp thực hiện nhằm phát triển thị


21
trường xuất khẩu hàng nông sản giai đoạn 2008-2014
3.4.2.1. Biện pháp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản đã bắt đầu nhận thức được tầm quan
trọng của phát triển thị trường xuất khẩu nên chú trọng hơn đến công tác phát triển cung
ứng hàng hoá xuất bán cho thị trường mục tiêu. Cơ cấu mặt hàng ngày càng được phát
triển và phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, mối liên kết trong xây
dựng chuỗi giá trị hàng nông sản chưa được thiết lập vững chắc để đảm bảo về số
lượng và chất lượng hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu phát triển thị trường xuất
khẩu. Nhiều doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn hàng xuất khẩu, đặc biệt đối với
các đơn đặt hàng lớn.
3.4.2.2. Các biện pháp nhằm phát triển sản phẩm xuất khẩu
Chiến lược phát triển sản phẩm xuất khẩu chủ yếu mới được thực hiện tại các doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản lớn như Vinacafe, Tổng công ty rau quả Việt nam... một cách có
hệ thống. Nhiều doanh nghiệp vẫn thực hiện xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nhà nhập khẩu
mà chưa chủ động phát triển sản phẩm riêng hoặc chỉ có chính sách sản phẩm sơ sài. Hiệu
quả chiến lược phát triển sản phẩm chưa cao, chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm thô, tỷ trọng
qua chế biến còn thấp, chất lượng chưa cao. Nguyên nhân xuất phát từ nhận thức của doanh
nghiệp chưa thực sự coi trọng việc phát triển sản phẩm xuất khẩu và hạn chế về nguồn lực
của doanh nghiệp đã ảnh hưởng đáng kể tới chiến lược phát triển sản phẩm xuất khẩu của
doanh nghiệp. Thêm nữa, các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp mới chỉ thực
hiện công tác phát triển thị trường xuất khẩu thông qua việc đáp ứng tốt nhất nhu cầu và
mong muốn của khách hàng, chứ chưa tạo ra những xu hướng tiêu dùng mới nhằm mang lại
giá trị gia tăng nhiều hơn cho khách hàng.
3.4.2.3. Biện pháp phát triển phương thức bán hàng và xúc tiến xuất khẩu
a. Về phát triển phương thức bán hàng
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam đều bán hàng

thông qua trung gian nên khả năng tiếp cận trực tiếp với thị trường nước ngoài phụ
thuộc nhiều vào nhà nhập khẩu.
b. Về xúc tiến xuất khẩu
Chiến lược xúc tiến xuất khẩu mặc dù đã được các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản chú trọng hơn nhưng chưa thực sự hiệu quả và chưa có mục tiêu rõ ràng, các công
cụ xúc tiến xuất khẩu chưa mang lại hiệu quả cao và còn bị động. Hoạt động xúc tiến
xuất khẩu chỉ giới hạn ở một số hình thức phổ biến như xúc tiến bán hàng, tham gia hội
chợ triển lãm mà chưa sử dụng linh hoạt các hình thức xúc tiến khác.
3.5. Đánh giá chung về phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam thời gian qua
3.5.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản tăng trong giai
đoạn 2008-2014. Thứ hai, thị trường hàng nông sản xuất khẩu ngày càng được mở rộng và
đa dạng phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới
hiện nay.
3.4.2. Những hạn chế
Thứ nhất, khả năng đa dạng hoá thị trường, thâm nhập thị trường mới và duy trì,


22
mở rộng thị phần trên các thị trường hiện có còn hạn chế. Thứ hai, cơ cấu thị trường xuất
khẩu hàng nông sản chưa hợp lý: Tỷ trọng thị trường Châu Á còn quá lớn, đặc biệt là
Trung Quốc. Thứ ba, hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu quan
tâm đến phát triển theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chưa
thực sự bền vững.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên là: Thứ nhất, Việt Nam vẫn chưa có chiến
lược phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản; chưa khai thác tốt các cơ hội và thiếu
chủ động trong việc hạn chế các thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các
FTA, EPA gây ra. Thứ hai, năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam còn thấp. Thứ
ba, công tác xúc tiến xuất khẩu và hệ thống phân phối hàng nông sản còn kém hiệu quả.

CHƯƠNG 4
PHƯƠNG HƯỚNG, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
4.1. Cơ hội và thách thức đối với phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Việt Nam từ bối cảnh mới trong nước và quốc tế
4.1.1. Cơ hội và thách thức từ bối cảnh quốc tế
4.1.1.1. Những cơ hội mới
Những nhân tố tạo thuận lợi mới cho phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam giai đoạn 2015-2025 bao gồm: Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang
diễn ra ngày càng sâu rộng; nền kinh tế thế giới đang dần được phục hồi; sự thay đổi
trong cấu trúc và xu thế FDI toàn cầu; khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục phát
triển năng động, hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn và các nước
lớn đang hướng về phương Đông.
4.1.1.2. Những thách thức mới
Bên cạnh những cơ hội to lớn kể trên, hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam cũng phải đối mặt với các thách thức không nhỏ như: Thể chế kinh
tế thế giới đang gây bất lợi cho các quốc gia đang phát triển; Sự gia tăng cạnh tranh thương
mại hàng nông sản và các rào cản mới có xu hướng ngày càng tăng; Xu hướng gia tăng của
các tiêu chuẩn toàn cầu đối với các mặt hàng nông nghiệp; Các TNCs có vai trò ngày càng
lớn và chi phối các chuỗi sản xuất toàn cầu và thị trường thế giới còn tiềm ẩn những yếu tố
bất thường, khó dự báo.
4.1.2. Cơ hội và thách thức từ bối cảnh trong nước
4.1.2.1.Những cơ hội mới
- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới
- Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang dần có sự chuyển đổi theo hướng tích cực
- Định hướng xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng thị trường xuất khẩu
4.1.2.2. Những thách thức mới
- Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp
- Thể chế kinh tế còn đang trong quá trình hoàn thiện

- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa đang bị quá tải và


23
xuống cấp.
4.2. Quan điếm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030
Quan điểm 1: Phát triển thị trường xuất khẩu phải gắn liền với nâng cao chất lượng, giá trị
của hàng nông sản xuất khẩu (hướng mạnh đến phát triển theo chiều sâu)
Quan điểm 2: Phát triển thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường để giảm
thiểu rủi ro; đồng thời phải xác định những thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Quan điểm 3:Phát triển thị trường xuất khẩu thông qua việc chủ động và tăng
cườngtham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
4.3. Định hướng tiếp tục phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Chiến lược phát triển xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2011-2020, định hướng đến
năm 2030 đề ra mục tiêu đối với nhóm hàng nông, thuỷ sản là : “Chuyển dịch cơ cấu
hàng xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm có chất lượng, giá
trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh và có thương hiệu mạnh để tăng cường xuất khẩu
sang các thị trường như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU… đồng thời, đáp ứng được nhu cầu đa
dạng của các thị trường khác. Phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu hàng nông, thuỷ sản
đạt 30 tỷ USD vào năm 2020”.
4.4. Các giải pháp chủ yếu tiếp tục phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam
4.4.1. Các giải pháp từ phía Nhà nước
Thứ nhất, lựa chọn và thực hiện chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp
với tình hình thực tiễn và các cam kết quốc tế.
Thứ hai, nâng cao chất lượng, giá trị hàng nông sản xuất khẩu.
Thứ ba, đẩy mạnh hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu và hoàn thiện kênh phân phối
4.4.2. Các giải pháp đối với doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản
Thứ nhất, tận dụng hiệu quả sự hỗ trợ của nhà nước để mở rộng và củng cố thị

trường xuất khẩu
Thứ hai, nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn
kỹ thuật của thị trường nhập khẩu.
Thứ ba, phát triển hệ thống kênh phân phối và xúc tiến xuất khẩu
4.5. Kiến nghị các điều kiện thực hiện giải pháp
4.5.1. Tiếp tục đổi mới “có tính đột phá” về tư duy và nhận thức đối với cả Nhà
nước, doanh nghiệp và người nông dân trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản, coi đó là
điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường xuất khẩu
4.5.2. Đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách của Nhà nước với các biện pháp
của doanh nghiệp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản
4.5.3 Xây dựng thể chế chính trị dân chủ đi đôi với thể chế kinh tế thị trường đầy đủ
KẾT LUẬN
Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng sâu, rộng
thúc đẩy phát triển thương mại thế giới, tự do hoá thương mại càng cao, cơ hội và thách
thức để lựa chọn thị trường cho xuất khẩu hàng nông sản càng lớn. Nghiên cứu phát triển thị


×