Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
PHẦN MỞ ĐẦU
Qua sáu tháng học tập lớp Quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính
Khóa 4 - 2012 trong thời gian từ ngày 07 tháng 06 năm 2012 đến ngày 17 tháng
12 năm 2012 với những kiến thức bổ ích và thiết thực cùng với sự giảng dạy nhiệt
tình của các thầy cô và sự giúp đỡ tận tình của các học viên cùng khóa, tôi đã tích
lũy được cho mình một vốn kiến thức nhất định về quản lý Nhà nước để có thể
vận dụng vào thực tiễn công tác, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao
năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực công tác của mình.
Chương trình học gồm 03 nội dung chính:
1. Nhà nước và pháp luật.
2. Hành chính Nhà nước và công nghệ hành chính.
3. Quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
Căn cứ vào chương trình hành động số 12-CtrHĐ/TU ngày 16/3/2011 của
Thành ủy nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về
Chương trình giảm ùn tắc giao thông giai đoạn 2011-2015 với mục tiêu “tập trung
đầu tư xây dựng, từng bước hoàn chỉnh hệ thống giao thông, hình thành mạng
lưới giao thông đồng bộ, kết nối Vùng thành phố Hồ Chí Minh; phát triển nhanh
vận tải hành khách công cộng, ưu tiên giao thông công cộng sức chở lớn; nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông; nâng cao hiệu lực;
hiệu quả quản lý Nhà nước; từng bước cải thiện tình trạng ùn tắc giao thông, giảm
tai nạn giao thông”.
Ga Nhà Hát
Thành Phố
Hiện trạng ùn tắc giao thông đô thị tại
thành phố Hồ Chí Minh
Tương lai giảm ùn tắc giao thông và sử
dụng không gian ngầm khi vận hành các
tuyến tàu điện ngầm của thành phố
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
1
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
Cùng với những thực tiễn trong công việc hiện tại, trong khuôn khổ chương
trình bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên chính đã
được tiếp thu tại Trường Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh, tôi xin chọn đề tài:
“QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỊNH HƯỚNG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
NHẰM PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH” với mong muốn tích lũy và nâng cao thêm kiến thức
phục vụ cho công tác chuyên môn ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do thời gian có hạn cũng như việc
vận dụng kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn còn có những hạn chế nhất
định, chưa đạt hiệu quả như mong muốn vì vậy tiểu luận này không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót nhất định. Kính mong quý Thầy, Cô và bạn đọc đóng
góp ý kiến để tiểu luận này được hoàn thiện hơn.
Tuyến số 1: Bến Thành - Suối Tiên
Thông qua tiểu luận này, tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, phòng
Đào tạo Trường Cán bộ cùng Quý thầy cô giảng dạy, Cô chủ nhiệm lớp và các
bạn học viên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt khóa học cũng
như tiểu luận này.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
2
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
HỆ THỐNG ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1- Khái niệm
Về cơ bản, đô thị là một khu vực định cư của các lao động chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Quản lý đô thị là một ngành khoa học
tổng hợp với sự ứng dụng của nhiều ngành khoa học khác như kinh tế đô thị,
quản lý nhà nước, quy hoạch đô thị, kiến trúc đô thị, xây dựng, giao thông, xã
hội đô thị, khoa học môi trường, v.v…
- Quản lý nhà nước về đô thị là “hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước sử dụng quyền lực công can thiệp và điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội và các quá trình phát triển như tổ chức khai thác và điều hòa việc sử dụng
các nguồn lực (bao gồm tài nguyên thiên nhiên, tài chính và con người), đảm
bảo pháp luật về lĩnh vực quản lý đô thị được thực hiện, nhằm tạo dựng và duy
trì điều kiện thuận lợi cho hình thức định cư ở đô thị và phát triển bền vững.
- Đường sắt đô thị được hiểu là các tuyến đường sắt, mà việc tổ chức chạy
tàu được thực hiện như trên mạng đường sắt (Quốc gia) hoặc trên tuyến đường
sắt có kết cấu chuyên dụng (ngoài 2 ray chính, có thêm ray thứ 3 để cấp điện sức
kéo); sử dụng đầu máy toa xe bình thường hoặc đầu máy toa xe chuyên dùng
(đoàn toa tự hành ghép nối nhiều môđun, chạy bằng diesen [diesen multi unit,
viết tắt là DMU] hoặc chạy điện [electric multi unit, viết tắt là EMU]); vận hành
độc lập (tàu điện ngầm) hoặc chạy chung trên tuyến đường sắt chạy tàu đường
dài, thực hiện chức năng luân chuyển khách bên trong đô thị và vùng ngoại ô.
- Tàu điện ngầm là hệ thống giao thông chở khách với tốc độ cao trên
đường ray, nhiều lượt, nhiều chuyến trong ngày, lượng khách lớn, thuận tiện và
thoải mái. Đa số các thành phố lớn trên thế giới đều có tàu điện ngầm. Thông
thường các chuyến đi và về đều mang tính nhất định. Giống như xe bus nhưng
tàu điện ngầm lại hữu ích trong việc đi lại hơn và đảm bảo được chất lượng an
toàn trong cuộc sống nhiều hơn.
2- Vai trò, đặc điểm và ý nghĩa:
2.1- Vai trò:
- Trong giai đoạn công nghiệp hóa ở Việt Nam hiện nay, quản lý nhà nước
về đô thị đang tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản là:
+ Quản lý có hiệu quả quá trình phát triển đô thị và đô thị hóa;
+ Quản lý đảm bảo trật tự không gian đô thị và cung cấp nhà ở cho các đối
tượng thu nhập thấp;
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
3
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
+ Quản lý đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ
tiện nghi đô thị, bảo vệ và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở ở đô thị;
+ Quản lý trật tự và an toàn xã hội đô thị;
+ Bảo vệ môi trường và các tài nguyên đô thị đảm bảo mục tiêu phát triển
bền vững.
- Khái quát vai trò của hệ thống đường sắt đô thị trong phát triển kinh tế - xã
hội và giải quyết giao thông đô thị của thành phố Hồ Chí Minh và Vùng đô thị.
+ Hệ thống đường sắt đô thị có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế
- xã hội của thành phố Hồ Chí Minh, đóng vai trò then chốt trong trong việc giải
quyết ách tắc giao thông đô thị và liên kết Vùng thành phố Hồ Chí Minh.
+ Với quy mô dân số thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025 là 10 triệu
người, khách vãng lai là 2,5 triệu người; dân số Vùng thành phố Hồ Chí Minh là
20 – 22 triệu người, để phát triển bền vững cần phải lập quy hoạch điều chỉnh,
bổ sung xây dựng hệ thống giao thông công cộng hoạt động hiệu quả, trong đó
đường sắt đô thị với sức chở lớn đóng vai trò “xương sống”, là “động mạch
chính” của mạch máu giao thông, các phương tiện giao thông khác có sức chở
nhỏ hơn đóng vai trò “mao mạch” lan tỏa khắp thành phố giúp cho người dân dễ
dàng tiếp cận, sử dụng giao thông công cộng một cách thuận tiện, nhờ vậy hạn
chế được phương tiện giao thông cá nhân, khắc phục vấn nạn kẹt xe, ô nhiễm
môi trường và biến đổi khí hậu.
2.2- Đặc điểm:
Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện
di dời ra bên ngoài các ngành công nghiệp thâm dụng lao động hoặc gây ô nhiễm
môi trường; dãn dân ra các đô thị vệ tinh; xây dựng các khu liên hợp dân cư –
công nghiệp v.v… Điều này phản ánh tính hiện thực của dự báo nêu trên. Do đó
việc sử dụng dự báo nêu trên khi quy hoạch giao thông đường sắt là cần thiết.
Về quy hoạch đô thị, hiện nay có quan điểm muốn tách bạch giữa giao
thông đối nội và giao thông đối ngoại, yêu cầu đưa giao thông đối ngoại ra
ngoài; nhưng thực tế cho thấy ranh giới giữa vận chuyển khách nội đô và ngoại
ô ở các đô thị lớn trên thế giới ngày càng bị xóa nhòa và trở nên khó phân chia
do dân cư và diện tích lãnh thổ của thành phố liên tục phát triển. Ở thành phố Hồ
Chí Minh tình hình cũng cũng tương tự như vậy: một khu vực hôm nay là ngoại
ô, ngày mai đã thành nội đô (ví dụ như huyện Thủ Đức chẳng hạn); nếu vẫn
quan niệm như trên thì ga khách Sài Gòn sẽ phải di dời sang tỉnh Đồng Nai.
Việc đề cập đến vấn đề trên nhằm đạt được sự thống nhất quan điểm trong quy
hoạch đường sắt đô thị cho thành phố Hồ Chí Minh trong đề án quy hoạch giao
thông này.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
4
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
1.3- Ý nghĩa:
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước diễn ra dưới nhiều hình thức như
xây dựng pháp luật, định hướng, tổ chức, giám sát, kiểm tra, điều chỉnh nhằm
đảm bảo pháp luật được thực thi, quyền lợi và nghĩa vụ của các cá nhân tổ chức
được bảo đảm và thực hiện, các giá trị xã hội, giá trị văn hoá, nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên và xã hội (kể cả giá trị phi vật thể) được gìn giữ và bảo vệ.
Trong phạm vi hẹp, quản lý đô thị chủ yếu tập trung vào việc thực thi pháp luật,
thuộc nhiệm vụ của UBND các cấp.
- Quản lý nhà nước về đô thị thực chất là quản lý vấn đề định cư ở đô thị ,
một vấn đề đặc thù và đặc trưng cho đô thị. Đây là điểm phân biệt quan trọng
giữa quản lý nhà nước đô thị với quản lý nhà nước trên một đơn vị hành chính
lãnh thổ. Quản lý mọi mặt trên một đơn vị hành chính sẽ bao gồm cả các hoạt
động kinh tế ngành. Quản lý đô thị về cơ bản không bao gồm các hoạt động
quản lý kinh tế ngành và quản lý lĩnh vực đặc thù như tôn giáo, an ninh quốc
gia, nông nghiệp, công thương nghiệp, vv….
- Thuận lợi và tiện ích: metro được thiết kế với độ an toàn rất cao. Khi di
chuyển bằng metro, bạn không phải căng thẳng như đi xe máy, không sợ va quệt
hay té ngã…Sử dụng metro bạn có thể vừa đọc báo, vừa ăn sáng hoặc có thể
chợp mắt, nghỉ ngơi một lúc mà đi xe máy bạn không bao giờ có được. Di
chuyển bằng metro bạn không sợ mưa nắng, khói bụi,…Bạn có thể đi từ nhà
bằng xe đạp, xe máy, xe buýt đến ga metro. Xung quanh nhà ga là hệ thống bến
bãi xe buýt, bãi gửi xe đạp xe máy, ô tô và còn có cả hệ thống siêu thị, trung tâm
thương mại…Sau khi di chuyển bằng metro bạn xuống ga nơi bạn muốn đến,
sau đó bạn có thể sử dụng hệ thống xe buýt nối kết để đến nơi bạn muốn. Trong
tương lai bạn có thể đi đến bất cứ nơi đâu trên thành phố chỉ bằng metro mà
không bao giờ bị kẹt xe. Ngoài ra, một ưu điểm vượt trội khi sử dụng metro so
với các phương tiện khác là tính chính xác về thời gian, bạn hoàn toàn kiểm soát
được thời gian khi sử dụng metro.
- Thời gian vận hành hợp lý: căn cứ theo thói quen đi lại và xu hướng phát
triển nhu cầu đi lại của người dân thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần
đây và nâng cao chất lượng phục vụ của giao thông đường sắt đô thị đối với
hành khách.
3. Cơ sở pháp lý:
Cơ sở pháp lý của công tác quản lý đô thị gồm nhiều nguồn, trong đó có
nguồn văn bản quy phạm pháp luật: Luật và dưới luật của Trung ương và địa
phương; các đồ án quy hoạch đô thị và các quy chuẩn tiêu chuẩn; các Nghị
quyết Quốc hội; Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Các văn
bản dưới luật bao gồm Nghị định, Thông tư, và kể cả các Chỉ thị và văn bản chỉ
đạo điều hành khác.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
5
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đô thị ở Việt Nam chưa được
tổng hợp thành những bộ luật bao trùm nội dung của công tác này. Vì vậy, các
cơ quan phải sử dụng các cơ sở pháp lý chưa được hệ thống hóa, nằm ở nhiều
văn bản khác nhau. Tính đến năm 2009, có 5 nhóm văn bản chính đóng vai trò
quan trọng để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến quản lý đô thị, đó là:
- Luật Quy hoạch đô thị, 2009;
- Luật Xây dựng 2003 và các văn bản hướng dẫn;
- Luật Đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn;
- Luật Nhà ở 2005 và các văn bản hướng dẫn;
- Luật Kinh doanh bất động sản 2006 và các văn bản hướng dẫn;
Ngoài 5 văn bản chính nêu trên, các cơ quan quản lý còn sử dụng nhiều
văn bản khác như Bộ luật Dân sự 2005, Luật tổ chức UBND và HĐND 2001,
Luật Đầu tư 2005, Luật Đấu thầu 2005, Luật bảo vệ môi trường 2005, Luật Giao
thông đường bộ 2008; Luật Tài nguyên nước 1998, Luật Trưng mua trưng dụng
tài sản 2008, Luật Phòng cháy chữa cháy 2001, Luật Doanh nghiệp 2001, Luật
Thanh tra 2004, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2008,v.v… và các văn
bản dưới luật hướng dẫn thi hành làm cơ sở điều chỉnh các hoạt động quản lý
trên toàn quốc. Duy nhất có Luật Thủ đô dành riêng cho Hà Nội có những quy
định liên quan đến các đô thị khác quy định về vấn đề quản lý đô thị.
Bên cạnh các quy phạm pháp luật dưới dạng văn bản, các cơ quản quản lý
còn căn cứ vào các đồ án quy hoạch xây dựng đô thị, nhất là các đồ án quy
hoạch chi tiết là căn cứ pháp lý quan trọng để phê duyệt và triển khai thực hiện
các dự án đầu tư. Ngoài ra, các tiêu chuẩn quy chuẩn quy hoạch, xây dựng và
tiêu chuẩn ngành khác cũng là các căn cứ sử dụng trong cấp phép các công trình,
phê duyệt các dự án và phương án phát triển, cải tạo và xây dựng đô thị.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
6
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
HỆ THỐNG ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1- Đặc điểm:
1.1- Thực trạng quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị:
- Tình trạng xây dựng còn lộn xộn, đa số không phép, trong sử dụng đất đô
thị còn phổ biến hiện tượng không theo quy hoạch và pháp luật.
- Chất lượng của các đồ án quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị nhìn
chung còn yếu, tính khả thi chưa cao, mỹ quan đô thị nghèo nàn, đơn điệu, chắp vá.
- Các cơ sở pháp luật và văn bản pháp quy về quy hoạch xây dựng kiến
trúc đô thị còn thiếu cụ thể và thiếu đồng bộ.
- Cơ chế và thủ tục hành chính trong việc giao đất, cấp giấy phép xây dựng
vẫn chưa được thực hiện triệt để theo Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản
pháp luật khác cũng như Nghị quyết 38/CP của Chính phủ, nhìn chung còn phức
tạp, phiền hà và tiến bộ rất chậm.
- Năng lực cán bộ thiết kế quy hoạch kiến trúc đô thị, quản lý quy hoạch
xây dựng kiến trúc đô thị nhìn chung còn yếu kém, chưa tương xứng với phát
triển đô thị của nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hệ thống cơ quan quản lý quy hoạch xây dựng kiến trúc đô thị chưa hoàn
thiện, nhất là cấp cơ sở.
- Phương thức quản lý quy hoạch xây dựng kiến trúc đô thị còn mang
những đặc điểm của cách làm chắp vá, tùy tiện, riêng rẽ, thiếu thống nhất, chưa
chuyển đổi kịp theo cơ chế kinh tế thị trường, vv....
1.2- Thực hiện công tác lập Quy hoạch: Làm cơ sở để xây dựng và từng
bước hoàn chỉnh, hiện đại hoá mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường hàng không đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020 nhằm
đảm bảo cho thành phố phát triển ổn định, cân bằng, bền vững và lâu dài, góp
phần đưa thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đô thị trung tâm cấp quốc gia, là
hạt nhân của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và là trung tâm thương mại dịch vụ lớn ở khu vực Đông Nam Á.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
7
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
1.3- Kế hoạch 5 năm Phát triển Kinh tế Xã hội (2006-2010) đề cập nhu cầu
phát triển cấp thiết giao thông ở những thành phố lớn của Việt Nam. Kế hoạch đề
nghị việc phát triển đô thị trong tương lai phải đi đôi với việc đánh giá môi trường
phù hợp, một vấn đề được xem là thiếu ý thức về môi trường trong dự án phát
triển cơ sở hạ tầng ở những khu công nghiệp khu vực Đông Nam.
Dân số ở khu đô thị thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế của khu vực
Đông Nam, năm 1997 là 6.88 triệu, năm 2002 là 7.65 triệu và dự kiến sẽ lên đến
13.5 triệu vào năm 2020. Kết quả là lượng giao thông đô thị tăng đột biến và
những vấn đề ách tắc giao thông sẽ tiếp tục leo thang. Đơn cử là tốc độ lưu thông
trung bình của xe ô tô là 23.8km/giờ năm 2002 được dự báo sẽ giảm xuống còn
13.3km/giờ năm 2020. Không còn nghi ngờ khả năng dẫn đến ô nhiễm không khí
nghiêm trọng và gây cản trở những hoạt động kinh tế và xã hội. Một trong số
những vấn đề tồn tại là lưu lượng xe, đặc biệt là xe gắn máy, hiện nay chiếm đến
94% tổng nhu cầu giao thông đô thị. Thành phố Hồ Chí Minh đề ra mục tiêu
chính sách công cộng để giảm tỷ lệ này xuống 50% cho đến năm 2020.
1.4- Với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, nền kinh tế đất nước
đã có những bước phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực. Việc chuyển đổi sang
cơ chế thị trường cùng với việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)
đã thúc đẩy tiến trình đô thị hoá phát triển mạnh mẽ trên cả nước. TPHCM với
dân số hiện nay khoảng 8,5 triệu người (năm 2009), cùng với khoảng hơn 10
triệu dân sinh sống tại các tỉnh thành lân cận (như Đồng Nai, Long An, Bình
Dương…) tạo thành vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, là một trong những
trung tâm ngoại giao, kinh tế, thương mại, dịch vụ, văn hoá và du lịch lớn của cả
nước, là nơi tập trung các đầu mối giao thông quan trọng gồm: hệ thống giao
thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và hàng không. Trong những năm gần
đây, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, TPHCM đã có sự phát triển
mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có hạ tầng giao thông vận tải, góp
phần giải quyết phần lớn các vấn đề bức xúc trong giao thông đô thị đem lại
hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Ngày 22/01/2007, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 101/QĐ-TTg
phê duyệt quy hoạch phát triển GTVT TPHCM đến năm 2020 và tầm nhìn sau
năm 2020. Trong đó việc quy hoạch hệ thống đường sắt đô thị trong thành phố
có các nội dung chủ yếu sau:
Quy hoạch kết hợp sử dụng các tuyến đường sắt quốc gia hướng tâm cho
chạy tàu ngoại ô và xây dựng 2 tuyến đường sắt nhẹ: Trảng Bàng - Tân Thới
Hiệp, Thủ Thiêm - Nhơn Trạch - Cảng hàng không quốc tế Long Thành;
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
8
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
Quy hoạch hệ thống tàu điện ngầm (metro): Xây dựng 6 tuyến xuyên tâm
và vành khuyên nối các trung tâm chính của thành phố, bao gồm:
- Tuyến số 1: Bến Thành - Suối Tiên, dài 19,7km. Hướng tuyến đi theo
trục các đường: Lê Lợi – Ba Son – Rạch Văn Thánh – Công viên Văn Thánh –
cầu Sài Gòn – xa lộ Hà Nội.
- Tuyến số 2: Bến xe Tây Ninh – Thủ Thiêm, dài 21km. Hướng tuyến đi
theo trục các đường: Bến xe Tây Ninh - Trường Chinh - Tham Lương - CMT8 Bến Thành - Thủ Thiêm.
- Tuyến số 3a: Bến Thành – Tân Kiên, dài 16,2km. Hướng tuyến đi theo
trục các đường: Bến Thành – Phạm Ngũ Lão – Ngã sáu Cộng Hòa – Hùng
Vương – Hồng Bàng – Kinh Dương Vương – Bến xe Miền Tây – Tân Kiên.
- Tuyến số 3b: Ngã sáu Cộng Hòa – Hiệp Bình Phước, dài 12,1km. Hướng
tuyến đi theo trục các đường: Ngã sáu Cộng Hòa – Nguyễn Thị Minh Khai – Xô
Viết Nghệ Tĩnh – Quốc lộ 13 – Hiệp Bình Phước.
- Tuyến số 4: Thạnh Xuân – Khu đô thị cảng Hiệp Phước, dài 34km và có
nhánh rẽ dài 3km vào sân bay Tân Sân Nhất. Hướng tuyến đi theo trục các
đường: Thạnh Xuân – Nguyễn Oanh – Nguyễn Kiệm – Phan Đình Phùng – Hai
Bà Trưng – Công viên Lê Văn Tám – Nhà văn hóa Thanh Niên – Công viên
30/4 – Pasteur – Lê Lợi – Bến Thành – Nguyễn Thái Học – Khánh Hội –
Nguyễn Hữu Thọ - Nguyễn Văn Linh – Khu đô thị cảng Hiệp Phước.
- Tuyến số 5: Cầu Sài Gòn – Bến xe Cần Giuộc, dài 26km. Hướng tuyến
đi theo trục các đường: cầu Sài Gòn – Điện Biên Phủ - Bạch Đằng – Phan Đăng
Lưu – Hoàng Văn Thụ - Lý Thường Kiệt – Tùng Thiện Vương – Quốc lộ 50 –
Bến xe Cần Giuộc.
- Tuyến số 6: Bà Quẹo - Vòng xoay Phú Lâm, dài 6km. Hướng tuyến đi
theo trục các đường: Bà Quẹo - Âu Cơ - Lũy Bán Bích - Tân Hoá - Vòng xoay
Phú Lâm.
Quy hoạch 7 depot cho 6 tuyến metro nêu trên.
Quy hoạch xe điện mặt đất và monorail, bao gồm:
- Tuyến 1: dài 12,5km, hướng tuyến: Sài Gòn - Chợ Lớn - Bến xe Miền Tây;
- Tuyến 2: dài 14km, hướng tuyến: Nguyễn Văn Linh (ngã tư quốc lộ 50)
- Quận 2;
- Tuyến 3: dài 8,5km, hướng tuyến: Ngã sáu Gò Vấp - Công viên phần
mềm Quang Trung - Tân Thới Hiệp;
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
9
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
- Bổ sung bản đồ mới (nếu có)
HÌNH ẢNH VỀ METRO KHI ĐƯA VÀO KHAI THÁC VẬN HÀNH
HÌNH ẢNH VỀ TRAMWAY VÀ MONORAIL
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
10
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
1.5- Như chúng ta đã biết, với vị trí cửa ngõ giao thương quốc tế, kết nối
các tỉnh, thành trong vùng, thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong hệ thống các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Thành phố đã
được định hướng phát triển bền vững, hài hòa theo hướng liên kết vùng để trở
thành một thành phố văn minh, hiện đại, từng bước trở thành một trung tâm
công nghiệp, dịch vụ, khoa học công nghệ của khu vực Đông Nam Á. Do vậy,
việc hiện đại hóa giao thông công cộng đối với thành phố Hồ Chí Minh là một
yêu cầu rất bức xúc và cấp bách nhằm giảm bớt áp lực và giải quyết tốt tình
trạng ùn tắc giao thông thường xuyên, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội và văn minh của thành phố. Để thực hiện nhiệm vụ hết sức khó khăn và
phức tạp nói trên, ngày 13 tháng 9 năm 2007, Ủy ban nhân dân thành phố đã có
Quyết định số 119/QĐ-UBND thành lập Quản lý Đường sắt đô thị đơn vị trực
thuộc Ủy ban nhân dân thành phố, có nhiệm vụ là chủ đầu tư và quản lý vận
hành, khai thác, phát triển phát triển mạng lưới đường sắt đô thị theo quy hoạch
giao thông vận tải đến năm 2020.
Có thể nói đây là một cột mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự ra đời của
một cơ quan chuyên ngành về một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và chưa có tiền lệ
của Việt Nam nói chung và thành phố nói riêng: lĩnh vực đường sắt đô thị.
2- Những kết quả đạt được trong công tác quản lý Nhà nước về quy
hoạch đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh:
Trong 5 năm thực hiện nhiệm vụ được giao, Đảng ủy và lãnh đạo Ban đã
chỉ đạo tập trung và trọng điểm đến toàn thể cán bộ, đảng viên, viên chức và
người lao động nỗ lực thực hiện nhiệm vụ và đạt được những kết quả bước đầu
rất đáng khích lệ.
- Tuyến đường sắt đô thị số 1, (Bến Thành - Suối Tiên) do JICA tài trợ: đã
khởi công xây dựng gói thầu chính số 2 (gói xây dựng trên cao và Depot) trong
04 gói thầu chính vào ngày 28/8/2012 ; đã khởi công và hoàn thành gói thầu xây
dựng tường rào bảo vệ và san lấp mặt bằng depot tại phường Long Bình quận 9.
Công tác giải phóng mặt bằng cơ bản đã hoàn thành. Công tác lựa chọn nhà thầu
cho cho các gói thầu chính cơ bản đã hoàn tất, chuẩn bị đám phán thương thảo
hợp đồng với nhà thầu. Dự kiến khởi công các gói thầu chính còn lại vào năm
2013, hoàn thành vào năm 2017.
- Tuyến tàu điện ngàm số 2, (Bến Thành – Tham Lương): đã khởi công
hạng mục Xây dựng tường bảo vệ, nhà bảo vệ và san lấp mặt bằng depot Tham
Lương quận 12 vào ngày 24 tháng 8 năm 2010; dự án đầu tư tuyến tàu điện
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
11
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
ngầm số 2 đã được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt vào tháng 10 năm
2010; đã ký kết thành công các Hiệp định vay vốn với các nhà tài trợ ADB,
KfW, EIB. Hiện đã triển khai công tác tuyển chọn nhà thầu của các gói thầu tư
vấn thực hiện dự án; và gói thầu tư vấn quản lý dự án.
- Tuyến đường sắt đô thị số 5 do Chính phủ Tây Ban Nha tài trợ: Cơ bản
hoàn thành dự án đầu tư, giai đoạn 1 (Ngã tư Bảy Hiền – Cầu Sài Gòn) để chuẩn
bị đàm phán ký kết hiệp định vay với nhà tài trợ. Bên cạnh đó, tiếp tục phối hợp
với Chính phủ Tây Ban Nha tìm kiếm nguồn tài trợ bổ sung cho giai đoạn 2 của
dự án.
- Công tác chuẩn bị đầu tư các tuyến đường sắt đô thị còn lại đang được
khẩn trương thực hiện theo kế hoạch đề ra. Qua tiếp xúc mời gọi các nhà đầu tư
trong và ngoài nước, Tập đoàn Italian – Thai Development Public (Thái Lan)
đang nghiên cứu đầu tư xây dựng tuyến metro số 4; JICA đang nghiên cứu đầu
tư xây dựng Nhà ga trung tâm Bến Thành.
3- Những khó khăn, thuận lợi:
3.1- Khó khăn:
“Quy hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2020 và tầm nhìn sau năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cách đây
hơn 3 năm (quyết định số 101/QĐ-TTg, ngày 22/01/2007) và đã trở thành cơ sở
pháp lý cho việc lập các dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô thị nhằm
khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm
trọng, cản trở sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay trong số 6 tuyến đường sắt đô thị được quy hoạch đã có hai tuyến
được khởi công xây dựng theo đúng quy hoạch được duyệt là tuyến số 1 và
tuyến số 2; các tuyến còn lại đang được lập dự án đầu tư. Trong quá trình lập dự
án đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô thị đã nẩy sinh một số vấn đề có
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến việc phải tiến hành nghiên cứu
lập điều chỉnh quy hoạch chung phát triển đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí
Minh cho phù hợp với tình hình mới, cụ thể như sau:
• Công tác công bố và quản lý “Quy hoạch phát triển giao thông vận tải
thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020” chưa chặt
chẽ nên khi triển khai thực hiện quy hoạch, quỹ đất dành cho giao thông không
còn để bố trí depot cho đường sắt đô thị do vậy cần điều chỉnh vị trí depot và
hướng tuyến có liên quan của đường sắt đô thị cho phù hợp với tình hình mới
(depot tuyến số 3, tuyến số 4 …);
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
12
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
• Với việc Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 24/QĐ-TTg, ngày
06/01/2010 phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng tp. Hồ Chí Minh
đến năm 2025 cần phải tiến hành nghiên cứu quy hoạch bổ sung các tuyến
đường sắt đô thị cho phù hợp với mô hình phát triển đô thị và định hướng phát
triển không gian thành phố theo Quy hoạch xây dựng chung đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt;
• Ngày 20/05/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 589/QĐ-TTg
phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng tp. Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm
nhìn đến năm 2050 do vậy cần phải nghiên cứu khả năng kết nối hệ thống đường
sắt đô thị tp. Hồ Chí Minh với các đô thị vệ tinh trong Vùng để tp. Hồ Chí Minh
trở thành đầu mối giao thông, đóng vai trò là trung tâm, đầu tàu phát triển kinh
tế - xã hội toàn Vùng.
3.2- Thuận lợi:
3.2.1- Xác định khái quát tiềm năng, động lực phát triển hệ thống đường
sắt đô thị:
Việc xây dựng hệ thống đường sắt đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh và kết
nối ra các đô thị vệ tinh trong Vùng thành phố Hồ Chí Minh là một việc làm tất
yếu. Hiện nay đường sắt đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh mới được bắt đầu xây
dựng do vậy tiềm năng để đường sắt đô thị phát triển tại thành phố và mở rộng
ra toàn Vùng là rất lớn.
Động lực cho việc phát triển đường sắt đô thị bao gồm:
• Nhu cầu nội tại xây dựng hệ thống đường sắt đô thị để giải quyết tình ách
tắc giao thông ngày càng nghiêm trọng tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như
chính sách của Chính phủ hiện nay đang tập trung nguồn lực xây dựng hệ thống
đường sắt đô thị cho Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là động lực cho phát
triển đường sắt đô thị;
• Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch xây dựng Vùng thành phố
Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” với chính sách xây
dựng các đô thị vệ tinh, các khu liên hợp đô thị công nghiệp để kéo dãn dân từ
thành phố Hồ Chí Minh ra bên ngoài cũng như chuyển các ngành sản xuất thâm
dụng lao động ra các tỉnh trong Vùng nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất của
thành phố Hồ Chí Minh từ thâm dụng lao động, giá trị gia tăng thấp sang kỹ
thuật cao cũng tạo thành động lực cho sự phát triển đường sắt đô thị;
• Quy hoạch phát triển đô thị gắn với hệ thống vận tải khối lượng lớn mang
lại nhiều lợi ích cho cả nhà khai thác đường sắt lẫn các nhà đầu tư địa ốc do vậy
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
13
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
có thể huy động vốn cho phát triển đường sắt đô thị theo hình thức nhà nước –
tư nhân (PPP), tạo ra động lực phát triển đường sắt đô thị;
• Cùng với nhận thức về hạn chế khí thải, chống biến đổi khí hậu, chính
sách cho vay ODA của các nước công nghiệp phát triển và các định chế tài
chính quốc tế đang dành ưu tiên cho các dự án phát triển vận tải khách công
cộng sẽ là động lực cho phát triển đường sắt đô thị.
3.2.2- Xác định mục tiêu của việc lập điều chỉnh quy hoạch chung phát
triển hệ thống đường sắt đô thị:
Có ba mục tiêu chính trong việc lập điều chỉnh quy hoạch chung phát triển
hệ thống đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, tầm nhìn sau
năm 2025:
- Điều chỉnh quy hoạch phát triển mạng lưới đường sắt đô thị theo quyết
định 101/QĐ-TTg ngày 22/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp với
tình hình phát triển hiện nay;
- Lập bổ sung quy hoạch xây dựng các tuyến đường sắt đô thị mới phù hợp
với định hướng phát triển không gian tp. Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn
sau năm 2020 và nghiên cứu kết nội mạng vận chuyển hành khách công cộng;
- Nghiên cứu khả năng kết nối hệ thống đường sắt đô thị từ thành phố Hồ
Chí Minh đến các đô thị vệ tinh của các tỉnh lận cận trong Vùng thành phố Hồ
Chí Minh.
4. Những bài học kinh nghiệm:
Khi lập điều chỉnh quy hoạch chung phát triển hệ thống đường sắt đô thị
đến năm 2025, tầm nhìn sau năm 2025 cấn tuân thủ các đặc điểm sau:
- Việc điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống đường sắt đô thị phải đảm
bảo cho thành phố Hồ Chí Minh phát triển bền vững trong thế kỷ 21;
- Quy hoạch điều chỉnh hệ thống đường sắt đô thị phải tạo điều kiện chỉnh
trang đô thị, thực hiện chính sách phát triển đô thị gắn kết với hệ thống đường
sắt đô thị;
- Quy hoạch điều chỉnh hệ thống đường sắt đô thị vừa phải phù hợp với
điều kiện cụ thể của thành phố Hồ Chí Minh vừa phải đáp ứng sự phát triển lâu
dài của thành phố nói riêng và Vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh nói chung,
tạo điều kiện cho thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò trung tâm, là đầu tàu cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn Vùng.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
14
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐỊNH HƯỚNG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ NHẰM PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1. Mục tiêu:
1.1- Mục tiêu tổng quát phát triển đô thị cả nước đến năm 2020 là: “Từng
bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước có cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội hiện đại, có môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý
trên địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị phát triển ổn định, cân bằng, bền
vững và trường tồn, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”.
Nhiệm vụ chủ yếu chỉ của công tác quản lý và phát triển đô thị nước ta là:
- Tập trung thu hút đầu tư phát triển các đô thị lớn trung tâm hạt nhân gắn
với xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, tạo ra sự phát triển cân bằng giữa ba
miền để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước.
- Phải dành nguồn lực phát triển thích đáng các đô thị vừa và nhỏ trên cơ sở
khai thác lợi thế và tiềm năng của tất cả các vùng, liên kết hỗ trợ nhau để tất cả
các vùng đều phát triển.
- Tại các đô thị, cần tập trung mọi nỗ lực để hoàn chỉnh việc lập, điều
chỉnh, xét duyệt quy hoạch, phát triển cơ sở hạ tầng để nâng cao điều kiện sống
và làm việc của nhân dân, bảo vệ môi trường, tạo ra bộ mặt mới cho các đô thị.
1.2- Tập trung đầu tư xây dựng, từng bước hoàn chỉnh hệ thống giao thông,
hình thành mạng lưới giao thông đồng bộ, kết nối Vùng thành phố Hồ Chí
Minh; phát triển nhanh vận tải hành khách công cộng, ưu tiên giao thông công
cộng sức chở lớn; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao
thông; nâng cao hiệu lực; hiệu quả quản lý Nhà nước; từng bước cải thiện tình
trạng ùn tắc giao thông, giảm tai nạn giao thông.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô
thị; nhanh chóng hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng đáp
ứng yêu cầu thi công các dự án trên; xây dựng, ban hành các quy hoạch chi tiết,
triển khai các thủ tục chuẩn bị để kêu gọi đầu tư các dự án chỉnh trang, phát triển
đô thị dọc theo các tuyến đường sắt; có cơ chế, chính sách ưu đãi nhà đầu tư để
huy động mọi nguồn lực tập trung phát triển nhanh đường sắt đô thị; xây dựng
mô hình, cơ chế hoạt động và nguồn nhân lực của doanh nghiệp vận hành và bảo
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
15
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
trì đường sắt đô thị, bảo đảm sẳn sàng vận hành khi tuyến đường sắt Bến Thành
– Suối Tiên đi vào hoạt động năm 2012, tuyến đường sắt Bến Thành – Tham
Lương đi vào hoạt động năm 2017.
1.3- Tầm nhìn và mục tiêu xây dựng các tuyến đường sắt đô thị: Đảm bảo
tính cơ động và dễ tiếp cận các dịch vụ đô thị là điều tối thiểu cần thiết đối với
người dân và xã hội bằng cách cung cấp một hệ thống giao thông công cộng
hoạt động hiệu quả có tính an toàn, tiện nghi, hợp lý và bền vững:
- Thúc đẩy nhận thức của xã hội về các vấn đề giao thông đô thị trong hiện
tại và tương lai.
- Quản lý sự tăng trưởng và phát triển đô thị bền vững.
- Thúc đẩy và phát triển hệ thống giao thông công cộng hấp dẫn.
- Quản lý hiệu quả nhu cầu giao thông đường bộ.
- Phát triển tổng thể không gian giao thông và môi trường.
- Nâng cao an toàn giao thông.
- Củng cố hệ thống hành chính ngành giao thông vận tải và năng lực quản lý.
2. Quan điểm:
2.1- Quan điểm quy hoạch đô thị: Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng
xây dựng đất nước của Đảng ta, quan điểm phát triển đô thị nước ta đến năm
2020 là:
- Phát triển đô thị phải phù hợp với phân bố và trình độ phát triển lực lượng
sản xuất cả nước, tập trung xây dựng cơ sở kinh tế - kỹ thuật vững chắc làm
động lực phát triển cho từng đô thị.
- Phát triển và phân bố hợp lý các đô thị lớn, trung bình và nhỏ trên địa bàn
cả nước, tạo ra sự phát triển cân đối giữa các vùng lãnh thổ, kết hợp quá trình
đẩy mạnh đô thị hóa nông thông và xây dựng nông thôn mới.
- Phát triển đô thị phải đi đôi với việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ
thuật, với trình độ phù hợp hoặc hiện đại tương ứng với quá trình phát triển của
mỗi đô thị.
- Sự hình thành và phát triển đô thị phải đảm bảo ổn định, bền vững và
trường tồn trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và cân bằng
sinh thái đô thị, quy hoạch đô thị hợp lý, đáp ứng thỏa đáng các nhu cầu cơ bản
của con người và của xã hội.
- Kết hợp cải tạo và xây dựng mới đô thị, coi trọng việc giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc đồng thời với phát triển kiến trúc hiện đại, góp phần làm giàu
thêm nền văn hóa và kiến trúc truyền thống.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
16
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và
các thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật vào cải tạo, xây dựng và hiện
đại hóa đô thị phù hợp với các điều kiện cụ thể của nước ta.
- Phát triển đô thị phải kết hợp chặt chẽ với việc đảm bảo an ninh , quốc
phòng và an toàn đô thị. Các đô thị, nhất là các đô thị tiền đồn, ven biển, ngoài
hải đảo, cửa khẩu phải vừa là trung tâm kinh tế - xã hội, đầu tư vừa là căn cứ
vững chắc bảo vệ Tổ quốc.
- Huy động mọi nguồn vốn để cải tạo, xây dựng và phát triển đô thị nhưng
phải coi trọng giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cường kiểm soát phát triển của đô
thị theo quy hoạch và pháp luật.
- Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước ở đô thị, giải quyết dứt điểm những tồn tại về nhà, đất,
từng bước thiết lập lại trật tự, kỷ cương đô thị, động viên sức mạnh của mọi
nguồn lực cào xây dựng và phát triển đô thị, đảm bảo cho các đô thị phát triển
theo đúng quy hoạch và pháp luật.
2.2- Quan điểm quy hoạch giao thông đô thị:
- Giao thông đô thị thành phố Hồ Chí Minh được lập trên cơ sở quy hoạch
sử dụng đất đai và kiến trúc cảnh quan đô thị của thành phố đến năm 2020 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Giao thông đô thị thành phố Hồ Chí Minh được quy hoạch theo quan
điểm “thành phố mở”, nối liền các khu đô thị mới, các đô thị vệ tinh, các khu
công nghiệp, các công trình đầu mối giao thông liên vùng (cảng biển, sân bay),
gắn kết chặt chẽ với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong
vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh để hỗ trợ nhau phát triển đồng bộ, khai thác
tốt nhất thế mạnh kinh tế - xã hội tổng hợp của toàn vùng.
- Quy hoạch phát triển phải đảm bảo tính kế thừa và ổn định, hạn chế tối đa
giải phóng mặt bằng tại các khu đô thị đã ổn định.
- Tăng quỹ đất để xây dựng hạ tầng giao thông tại các khu đô thị mới, bao
gồm giao thông động và giao thông tĩnh để đến năm 2020 quỹ đất đô thị (tính
cho khu vực nội thành) cần đạt bình quân 16 - 20%, đến năm 2025 đạt 22 - 24%.
3- Những giải pháp:
3.1- Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn thành phố.
3.1.1- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, quản lý và thực hiện quy
hoạch.
Tổ chức rà soát tất cả các loại quy hoạch đã ban hành, bảo đảm yêu cầu
bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng để bổ sung,
điều chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng phải đồng
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
17
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
bộ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2020
tầm nhìn 2025, quy hoạch chung xây dựng thành phố đến năm 2025, quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất của thành phố đã được phê duyệt, quy hoạch phát triển
các ngành; thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch phân bố lực lượng sản xuất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch kết cấu hạ
tầng,…Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Vùng thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng các quy hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội có liên quan đến việc sử dụng đất để triển khai thực hiện đồng
bộ, có hiệu quả. Xây dựng quy hoạch, lập danh mục gắn với ước tính phân bổ
nguồn vốn đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng. tập trung, khẩn trương xác định
cốt nền xây dựng; nhanh chóng hoàn thành đề án quy hoạch ngầm hóa hạ tầng
kỹ thuật đô thị, quy hoạch chi tiết; chủ động chuẩn bị các dự án đầu tư xây dựng
các công trình giao thông trọng điểm để triển khai thực hiện ngay khi có vốn đầu
tư; bố trí vốn thuê tư vấn có năng lực, kinh nghiệm lập dự án kêu gọi đầu tư; quy
hoạch chi tiết các khu đất gắn với các dự án xây dựng các trục đường mới và có
phương án thu hồi, tạo quỹ đất đấu giá, thu hút đầu tư, khai thác hiệu quả quỹ
đất hai bên đường và chỉnh trang đô thị; quản lý chặt chẽ quỹ đất quy hoạch
công trình hạ tầng.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về quy hoạch; kịp thời rà soát, điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch không phù hợp; đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, bảo đảm hiệu quả và khả
thi. Phương pháp lập quy hoạch cần đảm bảo dân chủ, chú trọng nhiều hơn đến
yếu tố thị trường.
Tăng cường vai trò của các sở - ngành, quận – huyện trong công tác nối kết
giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố với công tác tổ
chức triển khai thực hiện các nội dung quy hoạch đề ra, đặc biệt là triển khai xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng trên địa bàn.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quy hoạch phát triển kết cấu
hạ tầng đô thị để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội; thực hiện tốt công khai quy
hoạch để dân biết, dân bàn, dân làm, dân tham gia giám sát việc thực hiện quy
hoạch và triển khai thực hiện các dự án đầu tư.
3.1.2- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút mạnh và sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Sử dụng hợp lý và hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, khắc phục
tình trạng đầu tư dàn trải; thực hiện nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm,
ưu tiên bố trí vốn đầu tư các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm theo
quy hoạch, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng thủy lợi, chống ngập nước, hạ
tầng kỹ thuật đô thị.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
18
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách và kiến nghị
cơ quan có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, quy định
pháp luật để đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, tạo vốn, thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước từ nhiều thành phần kinh tế, theo nhiều hình thức: xây dựng – khai
thác – chuyển giao (BOT), xây dựng – chuyển giao (BT), xây dựng – chuyển
giao – khai thác (BTO), xây dựng – sở hữu – khai thác (BOO), hợp tác công tư
(PPP), chuyển nhượng quyền kinh doanh, khai thác quỹ đất và các dịch vụ liên
quan, phát hành trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình, vay vốn các tổ chức tài
chính nước ngoài. Tranh thủ tối đa các nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA) để
đầu tư các công trình hạ tầng trọng điểm. Tập trung xây dựng một số đề án
mang tính đột phá để kiến nghị Trunng ương cho phép thực hiện thí điểm đối
với những vấn đề mới phát sinh mà chưa có quy định hoặc có quy định nhưng
không còn phù hợp với thực tiễn thành phố để huy động các nguồn vốn (ngoài
ngân sách), xã hội hóa đầu tư lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Tiếp tục nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả giá trị
tăng thêm của đất sau khi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - văn hóa – xã hội, bảo
đảm thu hồi hợp lý phần giá trị tăng thêm bổ sung nguồn đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng đô thị; kiên quyết thu hồi các diện tích mặt đất, mặt nước đã giao
cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp không sử dụng hoặc sử dụng không
hiệu quả để đấu giá và chủ động bồi thường đất, tạo thêm quỹ đất cho Nhà
nước trực tiếp quản lý để đấu giá giá trị quyền sử dụng đất tạo nguồn vốn đầu
tư các công trình hạ tầng hoặc cho các nhà đầu tư có năng lực khai thác, sử
dụng có hiệu quả hơn.
3.1.3- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước trong đầu tư, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng
Tập trung triển khai đề án quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực; có cơ
chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực đủ phẩm chất, năng lực trong lĩnh vực
quy hoạch, quản lý, điều hành các dự án đầu tư nhằm tránh thất thoát, lãng phí.
Thường xuyên cập nhật thông tin và nâng cao kiến thức về quy hoạch, quản lý
dự án, bao gồm khả năng lựa chọn các dự án trong chương trình; điều chỉnh, bổ
sung các dự án mới; nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực
quản lý đấu thầu, theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện các
công trình, dự án đầu tư.
3.2- Đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch chung xây dựng thành phố đến năm
2025 và Quy hoạch Vùng thành phố Hồ Chí Minh gắn với Quy hoạch xây dựng
hệ thống hạ tầng giao thông, quy hoạch phát triển hệ thống vận tải hành khách
công cộng có sức tải lớn.
Quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết phải bảo đảm kết hợp đồng bộ 3
vấn đề:
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
19
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
+ Quy hoạch sử dụng đất, phát triển không gian đô thị;
+ Quy hoạch xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng
kỹ thuật giao thông;
+ Quy hoạch xây dựng hệ thống vận tải hành khách công cộng, để vừa phát
triển kinh tế nhanh, bền vững, vừa giải quyết tốt tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường.
3.3- Tập trung huy động các nguồn lực đáp ứng chương trình phát triển hệ
thống giao thông đô thị.
- Nghiên cứu, đề xuất Chính phủ cho phép thực hiện một số chính sách thu
hút nguồn vốn đầu tư phát triển giao thông đô thị thông qua việc phát hành trái
phiếu ra thị trường quốc tế, vay vốn các tổ chức tài chính nước ngoài; có cơ chế
đặc thù cho thành phố thực hiện các công trình giao thông trọng điểm, công
trình giao thông cấp bách như: chỉ định thầu tư vấn và thi công; chỉ định chủ đầu
tư; nhà đầu tư được thực hiện ngay bước lập dự án đầu tư (bỏ qua bước lập đề
xuất dự án); triển khai trước các hạng mục quan trọng khi dự án đầu tư còn đang
trong quy trình phê duyệt,…để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình trên.
- Xây dựng cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả giá trị tăng thêm của đất
đai sau khi đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật đô thị, bảo đảm thu
hồi hợp lý phần giá trị tăng thêm bổ sung nguồn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
đô thị.
- Đẩy mạnh chương trình kêu gọi đầu tư hạ tầng giao thông vận tải,
khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia thông qua
phương thức hợp tác giữa Nhà nước với tư nhân (PPP) và các phương thức
khác (BOT, BTO, BT).
3.4- Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về giao thông vận tải
- Tiếp tục cải tiến thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản trong phạm vi thẩm
quyền của thành phố, đồng thời nghiên cứu, kiến nghị Trung ương chính sách tỷ
giá ổn định của các dự án ODA, để làm việc với các đối tác, từng bước tháo gỡ
khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án.
- Củng cố, kiện toàn tổ chức hệ thống quản lý Nhà nước về giao thông đô
thị (Hội đồng phát triển hạ tầng kỹ thuật thành phố; Hội đồng tư vấn giảm ùn tắc
giao thông đô thị; Cơ quan quản lý Nhà nước về vận tải hành khách công cộng
(PTA); trung tâm điều hành giao thông đô thị; Viện nghiên cứu giao thông vận
tải đô thị; Ban quản lý giao thông đô thị; Ban chuẩn bị đầu tư các dự án giao
thông đô thị trọng điểm,…). Nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ cho phép thực
hiện mô hình quản lý kết cấu hạ tầng giao thông và quản lý giao thông phù hợp
với đặc thù của đô thị đặc biệt.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
20
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
- Tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành giao
thông vận tải; đề xuất bổ sung biên chế lực lượng cảnh sát giao thông; đầu tư
trang thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu quản lý giao thông đô thị; xây dựng cơ
chế đãi ngộ tương xứng để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ các
chương trình nâng cao năng lực quản lý ngành giao thông vận tải, nhất là tham
gia vào ban quản lý các dự án giao thông trọng điểm của thành phố; xây dựng và
triển khai thực hiện Đề án đào tạo nguồn nhân lực về quy hoạch và quản lý giao
thông vận tải đô thị giai đoạn 2011-2015 theo hướng đào tạo dài hạn tại các cơ
sở đào tạo chuyên nghiệp trong và ngoài nước; đào tạo bổ sung về chuyên môn
ngắn hạn theo chuyên đề; đào tạo kỹ năng làm việc theo các chức danh công
việc; đào tạo bảo dưỡng, vận hành, khai thác phương tiện, trang thiết bị được
đầu tư trong các dự án giao thông vận tải đô thị; ưu tiên, bố trí điều chuyển, bổ
nhiệm cán bộ có năng lực về công tác tại các ban quản lý dự án; đồng thời tăng
cường đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan quản lý ngành.
3.5- Chỉ đạo các Sở Ban ngành thành phố nghiên cứu, tham mưu Ủy ban
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh triển khai Điều 1 tại Quyết định số 101/QĐTTg ngày 22 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy
hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và
tầm nhìn sau năm 2020 làm cơ sở trình Chính phủ về Cơ chế, chính sách và giải
pháp thực hiện các nội dung sau:
- Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan nghiên cứu cơ chế, chính sách và các hình thức huy động các
nguồn vốn để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong và ngoài nước tham gia xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vận
tải thành phố theo quy hoạch được duyệt bằng các hình thức BOT, BTO, BT,
liên doanh theo quy định của pháp luật. Trong đó có phương án huy động vốn
thông qua phát hành trái phiếu đầu tư trong nước, trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định;
- Đối với các dự án giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn thành
phố, có ý nghĩa quyết định cho phát triển giao thông thành phố và toàn vùng
nhưng chưa đủ điều kiện thực hiện đầu tư, cho phép Bộ Giao thông vận tải chủ
trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân các
tỉnh có liên quan nghiên cứu cơ chế tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, quyết định để thực hiện việc giải phóng mặt bằng, thu hồi đất và giao cho
chính quyền địa phương tạm thời quản lý để đảm bảo quỹ đất phát triển giao
thông theo quy hoạch;
- Cho phép Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được huy động mọi
nguồn lực để phát triển đường sắt đô thị thành một trong những loại hình giao
thông công cộng chủ lực ở thành phố Hồ Chí Minh;
- Các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng, vận hành đường sắt đô thị được hưởng
các chính sách ưu đãi phát triển đường sắt đô thị theo quy định của pháp luật.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
21
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
4- Những kiến nghị:
- Để đạt mục tiêu phát triển bền vững, kiến trúc đô thị cần được phát triển
theo định hướng:
+ Phát triển và hình thành tổng thể kiến trúc thành phố trên cơ sở phân bố
và phát triển các khu vực theo mô hình phù hợp, nhằm đến mục tiêu phát triển
bền vững của thành phố, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu.
+ Tổng thể kiến trúc của mỗi khu vực phải có bản sắc riêng, phù hợp với
điều kiện kinh tế, tự nhiên, đặc điểm xã hội, truyền thống văn hóa lịch sử. Việc
hình thành tổng thể kiến trúc phải căn cứ vào các đồ án quy hoạch đô thị được
phê duyệt. Trong đó phải coi trọng nội dung thiết kế đô thị nhằm mục tiêu gắn
kết các công trình kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên tạo thành một hình ảnh đô
thị đặc trưng, mang tính đa dạng một cách thống nhất.
+ Phát triển tổng thể kiến trúc theo hướng hòa nhập giữa quá khứ, hiện tại
với tương lai bao gồm việc cải tạo, nâng cấp giá trị các khu vực đô thị hiện có.
đồng thời phát triển các công trình và khu đô thị mới, hiện đại, có cơ sở hạ tầng
đồng bộ, kết hợp hài hòa giữa cải tạo và xây dựng mới, nhằm đảm bảo bộ mặt
kiến trúc truyền thống được từng bước đổi mới, song không mất đi tính kế thừa
và bản sắc của riêng mình.
+ Trong tổng thể kiến trúc của từng khu vực, mỗi một công trình là một bộ
phận cấu thành không gian kiến trúc đô thị. Do đó, việc tạo lập và hình thành
các công trình kiến trúc trong mỗi khu vực phải tuân thủ nguyên tắc kết hợp
chung với riêng, cá nhân với cộng đồng.
+ Việc cải tạo, xây dựng trong đô thị phải tuân thủ các quy tắc quản lý quy
hoạch và thiết kế đô thị một cách chặt chẽ tạo nên một trật tự kiến trúc phù hợp
với không gian và thời gian.
- Tăng cường quản lý quy hoạch theo Quyết định số 101/QĐ-TTg ngày 22
tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch phát triển
giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020:
Quản lý chặt chẽ quỹ đất giành cho giao thông nhằm đảm bảo tính khả thi
của Quy hoạch là yêu cầu cấp bách trong điều kiện đô thị hoá nhanh chóng tại
thành phố Hồ Chí Minh.
+ Sau khi Quy hoạch được duyệt, Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Ủy
ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân các tỉnh có liên quan
công bố rộng rãi quy hoạch, xác định chỉ giới đất giành cho giao thông và bàn
giao cho chính quyền sở tại quản lý nhằm tránh tình trạng chồng lấn trong cấp
phép xây dựng.
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
22
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
+ Đối với mạng lưới tàu điện ngầm (metro), ngoài việc quản lý chỉ giới
trên mặt đất, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cần chỉ đạo các Sở, Ban,
ngành và chính quyền sở tại có liên quan quản lý chặt chẽ việc quy hoạch và cấp
phép xây dựng các nhà cao tầng, các công trình có móng sâu chiếm dụng lòng
đất ngầm dọc hành lang tuyến metro, xác định và quản lý chặt chẽ quỹ đất dành
cho đề pô metro.
+ Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân các địa phương có liên quan cần
thường xuyên chỉ đạo kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng quỹ đất giành
cho giao thông, đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích, đúng quy hoạch.
Trường hợp phát hiện vi phạm phải kiên quyết thu hồi nhằm đảm bảo quỹ đất
cho phát triển giao thông.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt
đô thị;
- Nhanh chóng hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng
đáp ứng yêu cầu thi công các dự án;
- Xây dựng, ban hành các quy hoạch chi tiết, triển khai các thủ tục chuẩn bị
để kêu gọi đầu tư các dự án chỉnh trang, phát triển đô thị dọc theo các tuyến
đường sắt; có cơ chế, chính sách ưu đãi nhà đầu tư để huy động mọi nguồn lực
tập trung phát triển nhanh đường sắt đô thị;
- Sau khi hoàn tất đề án xây dựng mô hình, cơ chế hoạt động và nguồn
nhân lực của doanh nghiệp vận hành và bảo trì đường sắt đô thị, bảo đảm sẳn
sàng vận hành khi tuyến đường sắt Bến Thành – Suối Tiên, tuyến đường sắt Bến
Thành – Tham Lương đi vào hoạt động. Ủy ban nhân dân thành phố sớm thông
qua đề án thành lập công ty Vận hành và bảo dưỡng các tuyến Đường sắt đô thị
nhằm tham gia vào mục tiêu “Đẩy mạnh hệ thống giao công cộng hấp dẫn” bằng
việc cung cấp chế độ “vận hành an toàn và tin cậy”
Tòa Nhà Điều Hành Và Hệ Thống Kiểm Soát Vé Hành Khách
Tòa nhà Trung tâm vận hành
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
23
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
Phòng Vận Hành Tàu Chạy Và Dừng Qua Các Ga
Tuyến tàu Điện Ngầm Chạy Từ Ga Nhà Hát Thành Phố đến Ga Ba Son
Ga Nhà Hát Thành Phố
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
Ga Ba Son
24
Quản lý Nhà nước về
Định hướng Quy hoạch đô thị nhằm phát triển giao thông đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, cần ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền
vững nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc
phòng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Phát huy tối
đa lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của đất nước để phát triển hệ
thống giao thông vận tải hợp lý, giảm thiểu chi phí vận tải, tiết kiệm chi phí xã
hội.
Sự phát triển giao thông đô thị của thành phố Hồ Chí Minh hiện tại không
giống như bất kỳ các thành phố đang phát triển khác, đa số các hành trình được
thực hiện bằng phương tiện cá nhân mà chủ yếu là xe gắn máy. Vì thế để giảm
thiểu tình trạng ùn tắc giao thông tại thành phố Hồ Chí Minh ta phải phát triển
hệ thống giao thông vận tải hành khách công cộng vì vậy cần phải có sự đầu tư
tương xứng từ phía Nhà nước thông qua chính sách trợ giá, chính sách đầu tư
phương tiện, cơ sở hạ tầng, bến bãi,… thì hệ thống vận tải hành khách công cộng
mới có thể phát triển kịp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thành phố.
Cho đến nay thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa có đường sắt đô thị tuy rằng
đường sắt này đã xuất hiện ở các nước công nghiệp hóa từ cuối thế kỷ 19. Phân
tích các số liệu về hiện trạng giao thông thành phố Hồ Chí Minh cho thấy hệ
thống giao thông công cộng của thành phố hiện nay phát triển không tương xứng
với quy mô dân số 7,5 triệu dân (theo Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh
năm 2011) mà chỉ có xe buýt, điều này đang là lực cản cho sự phát triển kinh tếxã hội của thành phố trong tương lai.
Hệ thống giao thông, trong đó có mạng lưới đường sắt đô thị là xương sống
của mọi quy hoạch, nó đóng vai trò bảo đảm cho sự hoạt động của thành phố và
các khu vực phụ cận. Một siêu đô thị như thành phố Hồ Chí Minh mà đến nay
vẫn chưa có đường sắt đô thị là điều không bình thường, nhất là khi thành phố
và các tỉnh liền kề đang trong quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ.
Hiện nay xe buýt với vai trò không đáng kể trong vận chuyển hành khách
đô thị đang tạo ra tình hình căng thẳng bởi phương tiện cơ giới cá nhân phát
triển vô giới hạn. Số lượng xe máy, xe con ngày một gia tăng buộc Chính quyền
thành phố phải thực hiện nhiệm vụ hết sức khó khăn – liên tục nới rộng các trục
đường lớn, mạng đường thứ cấp, bãi đỗ xe cho kịp với sự tăng trưởng của xe cá
nhân. Ngoài ra, Quy hoạch phát triển thành phố đến năm 2020 cho thấy với sự
Lớp bồi dưỡng về quản lý Nhà nước – ngạch Chuyên viên chính Khóa 4 năm 2012
25