Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ĐẦU tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI với PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội tại đà NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.89 KB, 5 trang )

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ
HỘI TẠI ĐÀ NẴNG
(Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Văn Hữu Chiến )
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong phát triển kinh tế - xã hội
của thành phố Đà Nẵng
1. FDI góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng
Đầu tư FDI vào Đà Nẵng ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn
vốn đầu tư phát triển KT-XH. Từ năm 1989 đến nay, thành phố Đà Nẵng đã thu
hút 228 dự án với tổng vốn đăng ký 3,58 tỉ USD. Trong đó vốn thực hiện 1,5 tỉ
USD đạt 45,54% so với tổng vốn đăng ký, chiếm khoảng 18% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội giai đoạn 1997-2007 và duy trì ở mức 14% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội từ 2008 đến nay (trong giai đoạn này nhiều dự án về bất động sản của các
doanh nghiệp trong nước triển khai đầu tư nên cơ cấu vốn FDI giảm). Sau thời
kỳ suy giảm FDI vào Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng do
cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, nguồn vốn FDI vào Đà Nẵng
trong những năm gần đây đã phục hồi và ngày càng tăng cao. Đặc biệt từ 2006
đến nay, Đà Nẵng thu hút hơn 2 tỉ USD, tăng gấp 2 lần so với cả giai đoạn trước
(1997 - 2007) và chiếm khoảng 15% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội trong 25
năm qua.
Đến nay, đã có 30 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Đà Nẵng, trong
đó đứng đầu về số dự án là Nhật Bản với 54 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký lên
đến 261,3 triệu USD; kế đến là Hàn Quốc với 24 dự án, tổng vốn đầu tư 696,4
triệu USD; Hoa Kỳ với 26 dự án, tổng vốn đầu tư 375,4 triệu USD...
Nguồn vốn FDI không những tạo ra nguồn đầu tư trực tiếp mà còn góp
phần quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư trong nước, mở rộng sản xuất, kích
thích nguồn vốn đầu tư trong nước gia tăng đáng kể thông qua việc đầu tư vào
hạ tầng, dịch vụ hoặc các ngành sản xuất nguyên liệu, phụ kiện, bao bì, vận tải,
khai thác có hiệu quả đất đai, nhà xưởng, máy móc; đồng thời góp phần quan
trọng giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo… Ngoài ra, cùng với việc tăng tỷ
trọng vốn FDI trong đầu tư phát triển tòan xã hội, cũng đã mở ra cơ hội cho các
doanh nghiệp trong nước tiếp cận nguồn vốn FDI thông qua việc liên doanh, liên


kết, hợp tác sản xuất kinh doanh, chia sẻ kinh nghiệm và khoa học quản lý, tiếp

143


cận công nghệ hiện đại tiên tiến và mở ra cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế cho
cộng đồng doanh nghiệp trong nước nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
2. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong cơ cấu vốn đầu tư FDI, tỷ trọng nhóm công nghiệp và xây dựng
tăng nhanh nhất trong giai đoạn 1989 - 2007. Trong công nghiệp, nhóm công
nghiệp chế biến là nhóm có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, chiếm 60%. Ngành
nông lâm thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu đầu tư của FDI.
Từ năm 2008 đến nay, FDI chuyển dịch theo hướng thương mại, dịch vụ
du lịch và các khu nghỉ dưỡng cao cấp. Trong cơ cấu nguồn vốn FDI hiện nay,
khu vực bất động sản, khu nghỉ dưỡng cao cấp, dịch vụ thương mại tăng cao hơn
vốn đầu tư trong công nghiệp chế biến, chiếm gần 70%, phù hợp với định hướng
cơ cấu kinh tế của thành phố (dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp).
3. FDI góp phần đẩy mạnh xuất khẩu
Các doanh nghiệp FDI đã có nhiều đóng góp vào giá trị xuất khẩu của
toàn thành phố, kim ngạch xuất khẩu tăng cao và tương đối ổn định. Tỷ trọng
giá trị xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng giá trị xuất khẩu chung của thành
phố ngày càng tăng. Năm 2000, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (60
triệu USD) chiếm 26% trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn Thành phố. Đến
năm 2011, giá trị xuất khẩu của khối FDI (420 triệu USD) chiếm hơn 55% so
với giá trị xuất khẩu của toàn thành phố.
4. FDI đóng góp cho tăng thu ngân sách
Trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI được hưởng các chính sách ưu
đãi về thuế, tiền thuê đất theo Luật Đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này khu
vực FDI đóng góp cho ngân sách còn khiêm tốn, dưới 100 tỷ đồng/năm. Từ năm
2006 đến nay, các ưu đãi cho khu vực FDI đã thống nhất thực hiện theo Nghị

định 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ nên các doanh nghiệp FDI trên địa bàn
thành phố đóng góp cho ngân sách ngày càng tăng. Năm 2001: 136 tỷ đồng, năm
2006: 315 tỷ, năm 2009: 500 tỷ, năm 2010: 760 tỷ, năm 2011 là 900 tỷ đồng,
tăng gần 6,62 lần so với năm 2001.
5. FDI đã tạo việc làm cho người lao động
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một yêu cầu quan trọng
đối với chủ trương thu hút FDI. Lao động được tuyển dụng vào các doanh
144


nghiệp FDI đều được tuyển dụng từ các cơ sở đào tạo nghề của thành phố và
được các doanh nghiệp FDI đào tạo bổ sung khi tuyển dụng. Do đó, các doanh
nghiệp FDI góp phần tạo ra lực lượng lao động lành nghề cho thành phố Đà
Nẵng. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp FDI đưa lao động Việt Nam sang đào
tạo tại nước ngoài (Công ty Mabuchi của Nhật).
Lực lượng lao động quản lý đã tiếp thu được phương pháp quản lý tiên
tiến, hiện đại của các doanh nghiệp nước ngoài, phù hợp với cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp FDI hiện đã và đang góp phần tích cực giải quyết việc
làm và tạo thu nhập ổn định cho lực lượng lao động. Thông qua làm việc trong
các doanh nghiệp FDI, lực lượng cán bộ, công nhân Việt Nam được đào tạo và
đào tạo lại, đội ngũ lao động này có điều kiện học hỏi, tiếp thu kỹ thuật mới,
công nghệ mới, cách thức điều hành, quản lý tiên tiến, tác phong công nghiệp và
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Điều đó đã tác động đến các doanh
nghiệp trong nước không ngừng đầu tư trang thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện
đại. Đó là nguồn lực đáng quý phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của thành phố Đà Nẵng.
6. Những hạn chế, tồn tại của FDI
- FDI chưa tạo được động lực phát triển nhanh, bền vững cho kinh tế địa
phương. Nhiều dự án có quy mô nhỏ, công nghệ đơn giản, gây ô nhiễm môi
trường, trình độ công nghệ tuy cao hơn doanh nghiệp trong nước nhưng nhìn

chung còn lạc hậu so với thế giới.
- Hiệu quả của các doanh nghiệp FDI còn thấp, giá trị gia tăng chưa cao,
còn hiện tượng chuyển nhượng giá trong hoạt động đầu tư, đã tạo ra môi trường
cạnh tranh không lành mạnh.
- Đời sống người lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI chưa thật
đảm bảo. FDI đầu tư vào những ngành sử dụng nhiều lao động, mặc dù thu nhập
của người lao động được cải thiện, song yếu tố giá cả thị trường, tình hình tăng
ca, quyền lợi người lao động chưa được giải quyết thỏa đáng nên đã xảy ra tình
trạng tranh chấp lao động tập thể, đình công, lãng công ở một số doanh nghiệp.
Vấn đề này đã ảnh hưởng đến đời sống, thu nhập của người lao động và hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp.
- Những tổn hại gây ra cho môi trường như chất thải, ô nhiễm nguồn
nước, không khí... trong các doanh nghiệp FDI chưa được quan tâm đúng mức
145


và khắc phục có hiệu quả, một phần do doanh nghiệp nhận thức vấn đề mang
tính đối phó, một phần do các cơ quan quản lý nhà nước chưa có biện pháp hay
chế tài cụ thể để xử lý nghiêm các doanh nghiệp gây ô nhiễm.
- Nhà đầu tư nước ngoài vi phạm những quy định về lao động còn phổ
biến như không có quy chế lao động phù hợp luật pháp, kéo dài thời gian tập sự,
trả lương không đúng ngạch bậc theo quy định của pháp luật. Mặt khác, người
sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài còn thiếu hiểu
biết luật pháp Việt Nam. Trong thực tế, nhiều nhà đầu tư vẫn cố tình không thực
hiện đúng các quy định của luật pháp, có nhà đầu tư còn sử dụng lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo, vi phạm pháp luật về lao động Việt Nam.
Ngoài ra, việc tuyên truyền luật pháp của các cơ quan quản lý nhà nước,
các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh truyền hình không được tiến hành
thường xuyên, đúng đối tượng nên hiệu quả chưa cao.
II. Công tác quản lý nhà nước về FDI dưới góc độ địa phương

Việc phân cấp quản lý đầu tư cho các địa phương đã tạo ra tính chủ động
trong quá trình thu hút, cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quan trọng hơn là giảm
thiểu đầu mối trong xét duyệt dự án cấp phép đầu tư, làm giảm chi phí đi lại, tiết
kiệm thời gian, từ đó tạo được sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư. Đồng thời,
bản thân các địa phương cũng phải có những biện pháp để khắc phục, cải thiện
môi trường đầu tư thông thoáng hơn như đẩy mạnh cải cách hành chính, thực
hiện mô hình “một cửa liên thông”, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng
chính sách và cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Hơn nữa, việc phân cấp
quản lý cũng giúp địa phương tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
khuyến khích tính năng động, sáng tạo.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của việc phân cấp quản lý FDI mang
lại, vẫn tồn tại một số hạn chế như sau:
- Công tác qui hoạch cho từng vùng, qui hoạch các khu công nghiệp, qui
hoạch ngành nghề cho địa phương chưa được hợp lý dẫn đến tình trạng cấp Giấy
chứng nhận đầu tư tràn lan, không tính đến nhu cầu thị trường, gây lãng phí,
hiệu quả đầu tư thấp, tính liên kết vùng, phân bổ nguồn lực đầu tư trùng lắp,
kém hiệu quả.
- Hệ thống pháp luật và chính sách chưa đồng bộ và đầy đủ, mỗi địa
phương có cách hiểu khác nhau về luật dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong việc
146


thẩm định và cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Các nhà đầu tư vẫn còn lo ngại về sự
không thống nhất chính sách giữa chính quyền Trung ương và địa phương.
- Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài còn hạn chế và chưa được đào tạo cơ bản. Năng lực thẩm định dự án
của các cán bộ địa phương không đồng đều nên việc xem xét kỹ tiêu chí về công
nghệ, về năng lực thực sự của từng nhà đầu tư không đảm bảo, làm ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư chung.
- Giữa Bộ, ngành và từng địa phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ nên

công tác phối hợp giám sát hoạt động của các dự án lớn còn hạn chế, dẫn đến
tình trạng các dự án chậm triển khai, hoạt động kém hiệu quả nhưng vẫn tồn tại
và duy trì trong thời gian dài tại nhiều địa phương.

147



×