Nhóm: N-TL
I.
Bài tập nhóm môn: Dân sự
Đặt vấn đề
Luật dân sự là bộ luật quy định về các chuẩn mực pháp lí trong cách ứng xử
của các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm bảo đảm sự ổn định và lành mạnh
hóa các quan hệ dân sự trong điều kiện pháp triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tìm hiểu và áp dụng luật dân sự trong thực tế là
vô cùng quan trọng. Theo đó dựa vào những cơ sở lí luận trong bộ luật dân sự,
chúng em xin áp dụng giải quyết vụ án trong thực tế như sau: tranh chấp dân
sự được đặt ra trong tình huống 1, bài tập nhóm Dân sự Modul 1.
II.
1.
Giải quyết vấn đề
Tóm tắt vụ án:
Vụ án được đặt ra trong tình huống 1 là vụ án dân sự về việc đòi tài sản
giữa nguyên đơn là bà Võ Thị Thành với bị đơn là bà Phan Thị Tòng; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị Mỹ Hương, ông Lưu Công Tấn.
Trong đó, bà Thành khởi kiện yêu cầu bà Tòng trả giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vì bà Tòng chưa đưa số tiền theo thỏa thuận là 1 triệu đồng trong giao
dịch cầm cố trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Thành với bà
Tòng. Nhưng bà Tòng đã không đưa 1 triệu cho bà Thành và đem trả giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Thành đi cầm cố cho bà Hương, bà
Hương tiếp tục cầm cố cho ông Tấn.
Về vụ việc trên Tòa sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án.Tuy nhiên bà
Thành kháng cáo nên Tòa án phúc thẩm đã hủy bỏ quyết định đình chỉ và giao
toàn bộ hồ sơ về cho Tòa sơ thẩm giải quyết lại theo thẩm quyền. Sau đó
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị yêu cầu hủy quyết định phúc
thẩm và giữ nguyên quyết định của Tòa sơ thẩm, đồng thời yêu cầu Tòa án
nhân dân tối cao giám đốc thẩm lại vụ việc .
2. Giải quyết tình huống
2.1.
Đối tượng tranh chấp của vụ kiện trên?
Đối tượng tranh chấp của vụ kiện trên là “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
1
Nhóm: N-TL
2.2.
Bài tập nhóm môn: Dân sự
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là tài sản không? Vì
sao?
- Theo quan điểm của nhóm em, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
tài sản. Cụ thể là tài sản dưới dạng vật. Vì:
Điều 163 bộ luật dân sự 2005 quy định: “ Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản”. Tuy bộ luật dân sự không nêu rõ điều kiện để xác
định thế nào là tài sản dưới dạng vật. Nhưng qua một số nhận xét, ý kiến của
bài viết, sách báo, ta có thể rút ra một số điều kiện của “vật” như sau: Thứ
nhất, nó phải là một bộ phận của thế giới vật chất. Thứ hai, con người phải có
thể chiếm hữu được nó. Thứ ba, nó có giá trị sử dụng hữu ích nhằm thỏa mãn
nhu cầu của con người,có thể đem tham gia giao dịch dân sự.
Ta thấy rằng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiển nhiên là đối tượng
của thế giới vật chất, con người hoàn toàn có thể chiếm hữu ( cất giữ, cầm,
nắm,…) được nó. Bên cạnh đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có giá trị
là nơi ghi nhận thông tin chứng thực quyền sử dụng đất, hay phục vụ cho các
nhu cầu cá nhân khác. Ngoài việc chứa đựng quyền tài sản, trong các giao dịch
dân sự, chúng ta hoàn toàn có thể đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi
giao dịch với vai trò là một tờ giấy bình thường.
Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản dưới dạng vật.
- Bên cạnh đó, theo công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/09/2011,
Tòa án nhân dân tối cao đã dựa vào các quy định hiện hành: điểm 8, Điều 6
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Điều 1 Luật các công cụ chuyển
nhượng năm 2005, khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005, điểm 16 Điều 3
Luật quản lý nợ công 2009, khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 ( Sửa đổi
bổ sung một số điều năm 2010 ), Điều 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP; qua đó
đưa ra kết luận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “không phải là “giấy tờ có
giá” quy định tại Điều 163, bộ luật dân sự năm 2005;”. Nhóm em đồng tình
2
Nhóm: N-TL
Bài tập nhóm môn: Dân sự
với kết luận này. Nhưng hoàn toàn phản đối ý kiến suy luận bắc cầu rằng: giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là “giấy tờ có giá” nên không phải
là tài sản.
2.3.
Quan điểm giải quyết vụ việc trên của nhóm theo quy định của pháp
luật hiện hành?
Các tình tiết pháp lý phát sinh.
Vụ việc được đưa ra là một vụ tranh chấp dân sự giữa bà Võ Thị Thành
(nguyên đơn – bên A ) và bà Phan Thị Tòng ( bị đơn- bên B ), người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị Mỹ Hương ( bên C ), ông Lưu
Công Tấn (bên D ). Cụ thể: Tháng 7-2005, bà Võ Thị Thành cầm cố giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Thành cho bà Phan Thị Tòng để vay
l.000.000 đồng, nhưng bà Tòng chưa đưa tiền cho bà Thành và cũng không
trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Thành, đồng thời đem cầm
cố giấy chứng nhận sử dụng đất cho bà Hồ Thị Mỹ Hương, bà Hương lại
cầm cố cho ông Lưu Công Tấn.
Ta thấy rằng, khi A cầm cố giấy chứng nhận sử dụng đất của mình cầm
cố cho B để vay 1.000.000 đồng, giữa A và B đã phát sinh một giao dịch
dân sự, cụ thể là hợp đồng vay ( A vay B 1.000.000 đồng ), trong đó, A
dùng giấy chứng nhận đất của mình “cầm cố” để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ trả nợ của mình. Lúc này, giữa A và B đã phát sinh quyền và nghĩa vụ
dân sự như sau:
-
-
Bên A:
• Quyền: Trở thành chủ sở hữu 1.000.000 đồng kể từ thời
điểm nhận từ B – Điều 472: Quyền sở hữu của bên vay;
quyền được quy định trong Điều 331, luật dân sự năm
2005: Quyền của bên cầm cố.
• Nghĩa vụ: nghĩa vụ quy định trong Điều 474, luật dân sự:
nghĩa vụ trả nợ của bên vay; Điều 330, luật dân sự năm
2005: Nghĩa vụ của bên cầm cố
Bên B:
• Quyền: quyền được quy định trong Điều 333, luật dân sự
năm 2005: quyền của bên nhận cầm cố.
• Nghĩa vụ: nghĩa vụ được quy định trong Điều 473, luật dân
sự năm 2005: Nghĩa vụ của bên cho vay; Điều 332, luật
dân sự năm 2005: Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố.
3
Nhóm: N-TL
Bài tập nhóm môn: Dân sự
Trên thực tế, A đã giao Giấy chứng nhận đất của mình theo đúng thỏa
thuận. Nhưng B không đưa tiền cho A mà đem giấy chứng nhận đất của A đi
cầm cố cho C. Như vậy, B đã làm trái với thỏa thuận giữa hai bên, vi phạm
nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ dân sự ( Điều 283, luật dân sự năm 2005:
Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ dân sự; khoản 2 Điều 332, luật dân sự năm
2005 ; khoản 1 Điều 473, luật dân sự năm 2005)
Như đã biết, trên giấy chứng nhận sử dụng đất có ghi tên, thông tin,… của
chủ sở hữu. Như vậy, khi C thực hiện giao dịch với B, D thực hiện giao dịch
với B đều bắt buộc phải biết giấy chứng nhận sử dụng đất đó không phải là của
B. Mà chỉ có chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền hoặc theo
quy định của pháp luật mới có quyền định đoạt tài sản ( Điều 197, 198 luật dân
sự năm 2005). Như vậy, việc định đoạt giấy chứng nhận sử dụng đất mang tên
A của B, C; việc chiếm hữu giấy chứng nhận sử dụng đất mang tên A của C, D
là bất hợp pháp.
Về quyết định của Tòa án nhân dân thị xã T tỉnh L, Tòa án nhân dân tỉnh
L, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:
Ta có thể thấy rằng, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã T tỉnh L và
quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đều dựa trên công văn số
141/TANDTC-KHXX ngày 21/09/2011 ( Sau đây gọi là công văn 141 ) và
không thụ lý vụ án “đòi tài sản” của A. Tuy nhiên, ta cần phải xem xét lại một
số điểm của công văn này:
- Thứ nhất, công văn này chứa quy phạm pháp luật, có quy tắc xử sự chung đó
là từ chối thụ lý, hoặc đình chỉ vụ án nếu đã thụ lý đối với yêu cầu trả lại giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản ( giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
đăng kí xe,…), có hiệu lực bắt buộc chung, được gởi đến tòa án các cấp để thi
hành với quyền lực Nhà nước đối với mọi người dân trong cả nước. Tuy nhiên,
công văn số 141 lại không được ban hành theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục
quy định đối với văn bản quy phạm pháp luật: Theo khoản 6 Điều 2 luật
VBQPPL 2008 quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Văn bản
quy phạm pháp luật bằng hình thức thông tư!? Điều 70 luật Văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008 quy định dự thảo thông tư do Chánh án tòa án tối cao phải
được đăng tải 60 ngày trên báo điện tử để nhân dân góp ý, phải tổ chức lấy ý
kiến cơ quan, tổ chức có liên quan và phải được Hội đồng thẩm phán tối cao
thảo luận và cho ý kiến. Như vậy, công văn số 141, có chứa quy phạm pháp
luật, đã được ban hành không đúng hình thức Thông tư và không có đăng tãi
trên báo cũng như lấy ý kiến các tổ chức có liên quan, có thẩm quyền theo
đúng trình tự, thủ tục
4
Nhóm: N-TL
Bài tập nhóm môn: Dân sự
- Thứ hai, Điều 4 luật Tố tụng dân sự quy định “Quyền yêu cầu toà án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp” của người dân là một nguyên tắc cơ bản của luật.
Các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy;
Giấy đăng ký xe ô tô…) dù có là giấy tờ có giá hay không vẫn là quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân. Vì vậy, có thể khẳng định rằng yêu cầu tòa án giải
quyết đòi lại các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản là yêu cầu chính đáng,
đúng pháp luật của người dân. Việc tòa án từ chối nghĩa vụ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân, vi phạm nguyên tắc cơ bản luật dân sự.
- Thứ ba, khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân”. Ban hành văn bản từ chối thụ lý yêu cầu bảo vệ quyền
sở hữu hợp pháp đối các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản (cũng là
quyền, lợi ích chính đáng) của người dân, tòa án đã không làm tròn nghĩa vụ.
- Thứ tư: Công văn số 141 đưa ra các tiền đề sau: Tài sản gồm “vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 163 Bộ luật Dân sự); giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản không phải là giấy tờ có giá (theo quy định của nhiều luật
khác nhau). Rồi đi đến kết quả: Yêu cầu đòi lại giấy chứng nhận quyền sở hữu
tài sản không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án do giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản không phải là giấy tờ có giá. Cách giải thích này không
hợp logic. Dường như Tòa án nhân dân tối cao đã “đồng nhất” giấy tờ có giá
và tài sản; vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không là giấy tờ có giá nên
tòa các cấp không được giải quyết. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, khái niệm tài
sản rộng hơn giấy tờ có giá, nó bao gồm cả vật, tiền, quyền tài sản. Và dù giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không là giấy tờ có giá ( thậm chí không là
quyền tài sản ) thì nó vẫn là một tờ giấy, như nhóm đã trình bày, nó hoàn toàn
đủ tư cách là tài sản dưới dạng vật. Cho dù “vật” này có giá trị không cao,
nhưng trên thực tế, nó vẫn là tài sản của người dân. Và khi người dân có nhu
cầu bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, Tòa án không được phép từ chối.
- Thứ năm, trong điểm c khoản 3 công văn 141 quy định: “Tòa án phải hướng
dẫn cho người khởi kiện có thể yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo
thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại
cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó.”. Tuy
nhiên, trên thực tế, các tranh chấp giao dịch như trong vụ án này, các cơ quan
hành chính không giải quyết ( do thuộc vấn đề dân sự ). Hơn nữa, công văn
141 cũng quy định: trong trường hợp người chiếm hữu bất hợp pháp làm mất
giấy chứng nhận tài sản thì người chủ sở hữu có thể xin cấp lại giấy mới
và“bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi phí, lệ phí trong
việc cấp lại giấy tờ mới”. Để chứng minh cho yêu cầu đòi bồi thường nói trên,
chủ sở hữu phải khởi kiện đòi lại giấy chứng nhận để xác định được bên bị
kiện là người chiếm hữu bất hợp pháp và có lỗi làm mất giấy tờ. Thế nhưng
5
Nhóm: N-TL
Bài tập nhóm môn: Dân sự
tòa án lại không thụ lý các vụ việc đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất,vậy làm sao người dân có thể đòi bồi thường được.
Như vậy, trong trừơng hợp cụ thể của vụ án này, bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân thị xã T tỉnh L và quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
tuy là đúng theo pháp luật, nhưng vẫn còn nhiều điểm phải xem xét lại, đặc
biệt là cơ sở pháp lý. Với những lập luận trên có quan điểm nên hủy bỏ công
văn số 141/TANDTC – KHXX; Tòa án nhân dân tối cao nên xem xét, nghiên
cứu để đưa ra thông tư hướng dẫn cụ thể, sát với thực tiễn đối với vấn đề giấy
chứng nhận tài sản có là tài sản không? Và thẩm quyền xử lý của tòa án các
cấp đối với các yêu cầu tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói
riêng, giấy chứng nhận tài sản nói chung.
Ý kiến giải quyết của nhóm:
Yêu cầu của A trong vụ kiện này chỉ là đòi lại giấy chứng nhận sử dụng đất
của mình mà không có tranh chấp về diện tích đất, cũng không tranh chấp số
tiền vay. Tuy nhiên, với quy định hiện hành, cụ thể là công văn số
141/TANDTC – KHXX thì “nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người
chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết”. Như vậy,
nếu A kiện B, D để đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đều bị từ
chối. Theo nhóm em, A có thể kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với B.
Trước hết, bà A kiện để yêu cầu bà B giao 1 triệu đồng theo đúng thỏa thuận
của 2 bên. Đây là vụ án kiện đòi tài sản ( cụ thể là đòi tiền ) nên bắt buộc Tòa
án phải giải quyết theo khoản 2 Điều 25 luật Tố tụng dân sự năm 2004. B phải
giao 1 triệu đồng cho A theo khoản 1 Điều 473 luật dân sự năm 2005. Sau khi
bà B đã giao tiền, A có thể sử dụng 1 triệu này hoặc trả luôn cho B ( thời gian
trả tiền do 2 bên thỏa thuận với nhau ). Thời điểm A trả tiền cho B là lúc A đã
hoàn thành nghĩa vụ trả tiền cho B. Vì vậy, A có quyền yêu cầu B trả lại vật
cầm cố đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự là giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của mình ( khoản 4 Điều 331 luật dân sự năm 2005 ). Nếu B không trả lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho A. Tức là B đã không thực hiện phần
nghĩa vụ của mình theo khoản 4 Điều 332 luật dân sự năm 2005. Khi đó, A có
thể tiếp tục kiện B tranh chấp hợp đồng, yêu cầu Tòa án buộc B thực hiện
nghĩa vụ của mình. Sau khi Tòa án ra bản án kết luận B không thực hiện nghĩa
vụ của mình, yêu cầu B giao trả lại vật cầm cố đảm bảo nghĩa vụ của A, thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án theo
điểm b khoản 1 Điều 36 luật Thi hành án năm 2008, làm một số thủ tục khác
theo quy định của pháp luật. Nếu trong thời hạn tự nguyện thi hành án, quy
định tại Điều 45 luật Thi hành án năm 2008, B không tự nguyện trả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của A lại cho A, cơ quan thi hành án có thể tiến hành
6
Nhóm: N-TL
Bài tập nhóm môn: Dân sự
cưỡng chế thi hành án đối với B theo quy định của pháp luật, căn cứ theo Điều
70, khoản 5 Điều 71, Điều 91 luật Thi hành án năm 2008.
III.
Kết thúc vấn đề.
Trên đây là toàn bộ ý kiến, nhận xét của nhóm em về vụ việc được nêu
trong tình huống 1, bài tập nhóm Dân sự Modul 1. Qua đó, nhóm em nhận
thấy rằng, cơ sở pháp lý để Tòa án thực hiện xét xử đôi khi vẫn còn tồn tại một
số hạn chế, bất cập so với thực tiễn. Mong rằng, các cơ quan có thẩm quyền sẽ
xem xét kĩ lưỡng vấn đề này, đặc biệt là công văn số 141/TANDTC-KHXX.
Do vốn kiến thức còn hạn hẹp, cũng như kĩ năng chưa nhiều, bài làm của
nhóm em không thể tránh khỏi một số thiếu xót, rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô, bạn bè.
7