Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.84 KB, 6 trang )

Đề bài: Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
BÀI LÀM
Hình ảnh người lính Việt Nam noí chung và những người lính thời kì chống Mĩ nó
riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính
với tất cả niềm kiêu hãnh và sự tự hào. Giữa muôn vàn tác phẩm như vậy, “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” là bài thơ có vị trí đặc biệt. Dù ra đời vào những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Mĩ, vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, chất lãng mạn, chất hào hung của tác
phẩm vẫn còn sức hấp dẫn lay động, làm say mê bao tâm hồn. Trong bài thơ ta thấy hiện
lên sừng sững bức tượng đài người lính. Những con người rất thực, rất đẹp, rất có hồn,
trường tồn và bất tử mãi mai với không gian và thời gian. Thực ra “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” không phải một tác phẩm có đề tài mới lạ, tất cả những gì nó thể hiện cũng chỉ
xoay quanh hình ảnh người lính. Nhưng ở đó người ta không thấy những đau thương mất
mát đến bi lụy, càng không nghe thấy những lời cổ vũ hô hào đến sáo mòn. Người lính của
Phạm Tiến Duật đã bước ra từ khuôn mẫu gò bó để đến với đời thực, với cuộc kháng chiến
gian khổ bộn bề. Đồng thời cũng thể hiện được lòng kiên cường, dũng cảm, lòng lạc quan,
yêu đời, đùa vui tếu táo của ngững người lính lái xe Trường Sơn. Chính tính chân thực ấy
đã tạo khả năng hướng ngoại cho tác phẩm, tạo mối dây liên kết, gắn bó giữa hình tượng
thơ và độc giả. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã tái tạo và bất tử được hình ảnh
những người chiến sĩ vận tải Trường Sơn đẹp rạng ngời. Đối với mỗi con người Việt Nam,
họ đã trở thành anh hùng trong trang sử vàng dân tộc.
Từ xưa đến nay, trong văn thơ, hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu được đưa vào thơ thì
thường mang tính chất “lãng mạn hóa”, “mĩ lệ hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng
hơn là tả thực. Nhưng Phạm Tiến Duật đã đưa vào thơ hình ảnh những chiếc xe không
kính, đó là những hình ảnh rất thực. Ở đây không chỉ có vài ba chiếc mà có đến hàng ngàn,
hàng vạn chiếc xe như thế. Những chiếc xe ấy đã vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua
mọi địa hình như đèo cao, dốc thẳm, khe suối, gầm sông, chạy trong mọi thời tiết mưa gió,
đêm tối mịt mùng để chở hàng, chở vũ khí, quân trang quân phục, thuốc men, lương thực
để chi viện cho chiến trường miền Nam. Những chiếc xe ấy mang trong mình sức mạnh
thần kì của cả dân tộc tới mục đích chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
đồng thời nó còn thể hiện quyết tâm:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước


Mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Ngay từ những dòng thơ đầu, Phạm Tiến Duật đã tái hiện hình ảnh những chiếc xe
không kính và lí giải vì sao những chiếc xe ấy lại không có kính:
“Không có kính không phải xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”
Hai câu thơ có cấu trúc hỏi đáp như đang lí sự cùng ai đó làm nổi bật hình ảnh những
chiến sĩ lái xe nagng tàn, dũng cảm, tếu táo và vui nhộn. Đồng thời cũng giải thích nguyên
nhân những chiếc xe ấy không có kính rất thực. Kính vỡ là do sức rung, sức ép của bom
đạn. “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.” Điệp ngữ “không có”, “không phải”, “không có”


được lặp lại ba lần, “bom” được lặp lại hai lần kết hợp với hai động từ mạnh “giật”, “rung”
làm cho âm điệu thơ thêm hùng tráng, đồng thời cũng nhấn mạnh sự khốc liệt của chiến
trường.
Những chiếc xe thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiếu “không kính”, “không
đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”. Nhưng qua đó đã làm nổi bật những phẩm
chất cao đẹp của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Trước tiên là tư thế ung dung, hiên
ngang:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Phép đảo ngữ trong câu thơ “Ung dung buồng lái ta ngồi” được vận dụng rất sáng
tạo. Bổ ngữ “ung dung” được đưa lên đầu câu để nhấn mạnh tư thế hiên ngang đứng trên
đầu thù của những người chiến sĩ. Điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần đã thể hiện sự ngang
tàn của người lính chỉ lính mới có. “Nhìn đất” để phát hiện con đường lái xe cho chính xác,
“nhìn trời” để phát hiện máy bay và những luồn bom do địch thả xuống, “nhìn thẳng” là
cái nhìn nghề nghiệp, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run sợ, không né tránh.
Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn với những con đường chiến lược
phía trước mà những người lính phải vượt qua, đồng thời cũng nêu được cảm giác của
những chiến sĩ lái xe khi ngồi trên những chiếc xe không kính:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Đây là những câu thơ tả thực chính xác đến từng chi tiết. Ai đã từng đặt chân tới
Trường Sơn thời kì chống Mĩ mới thấy được hết cái gian khổ, hiểm nguy mà người lính lái
xe phải trải qua. Vì không có kính chắn gió, không có kính bảo hiểm nên gió thổi thẳng
vào mặt người chiến sĩ làm cho họ rát mặt, cay mắt. “Mắt đắng” là con mắt thiếu ngủ vì
phải thức đêm nhiều, lái xe thâu đêm. Phép nhân hóa trong hai câu thơ “Nhìn thấy gió vào
xoa mắt đắng” đã làm sự khó chịu ấy không còn nữa, chỉ còn sự thân mật, gần gũi giữa con
người với thiên nhiên. Câu thơ thứ hai đã diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe
không kính đang lao nhanh ra chiến trường. “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”.
Như chúng ta đã biết, khi xe chạy nhanh thì con đường như chạy ngược lại. Con đường ở
đây đã được tình cảm hóa, vật chất đã bị lu mờ để nhường chỗ cho con đường đi từ trái
tim, đến bằng trái tim, đó là con đường nối liền hai miền Nam-Bắc, con đường của cả dân
tộc vì miền Nam yêu dấu.
Vì ngồi trong những chiếc xe không kính nên người lính phải đối mặt với biết bao
khó khăn, hiểm nguy. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào
tim” rồi cả sao trên trời, chim dưới đất như ùa vào buồng lái:
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”


Vì không có kính chắn gió nên người lính lái xe nhìn rõ hơn mọi vật: sao trời và cánh
chim. Động từ “thấy”, “đột ngột” kết hợp với hai hình ảnh so sánh “như sa”, “như ùa” vào
buồng lái đã diễn tả tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính trong mọi thời gian đêm
hay ngày, trên mọi địa hình núi cao hay dốc thẳm. Điệp ngữ “thấy”, “nhìn thấy” cứ lặp đi
lặp lại biểu hiện sự tập trung cao độ của những chiến sĩ lái xe , đồng thời những câu thơ tả
thực cũng đầy ắp lãng mạn. Dường như những người lính đang ngạo nghễ, thách thức cái
ác liệt của rừng núi thời chiến tranh và ta cảm thấy như con người, thiên nhiên hòa hợp với
nhau hơn và trở thành những người bạn thân thiết, gắn bó với nhau.

Nếu như hai khổ thơ trên là những cảm giác về khó khăn, thử thách thì dù sao vẫn là
mơ hồ. Đến khổ thơ thứ ba thử thách, khó khăn ập tới cụ thể hơn, trực tiếp hơn:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Khó khăn liên tiếp khó khăn, những con đường khúc khuỷu, gập ghềnh bụi mù trời.
Trước những khó khăn như vậy nhưng những người lính lái xe không hề nao núng. Bốn
chữ “ừ thì có bụi” vang lên như một sự chấp nhận chủ động. Đó là thái độ vượt qua mọi
khó khăn gian khổ một cách chủ động. Động từ “phun” kết hơn với hình ảnh so sánh “tóc
trắng như người già” đã giúp người đọc hình dung được những tuyến đường Trường Sơn
với những con đường đất đỏ bụi mù trời. Chiếc xe đi sau không thể nhìn thấy chiếc xe đi
trước thế nhưng người lính vẫn bất cần “chưa cần rửa” mà “phì phèo châm điếu thuốc”.
Bụi làm cho những mái tóc xanh của những chàng trai trẻ trở thành tóc trắng như người già
thế nhưng các anh vẫn cười. Tiếng cười ha ha đã thể hiện sự vui nhộn, tếu táo của những
người lính trẻ bởi cái lấm cái bụi chẳng hề làm họ khó chịu mà chỉ là cái cớ để các anh
cười đùa. Cái “cười ha ha” là cái cười sảng khoái hết cỡ, làm cho những người lính trẻ
càng trở nên đáng yêu hơn. Những câu thơ giàu chất hiện thực không hề tô vẽ đã giúp
chúng ta phần nào cảm nhận được những khó khăn, vất vả mà người lính phải trải qua.
Đằng sau những gương mặt lấm lem, đằng sau những nụ cười sảng khoái là một bản lĩnh
kiên cường, vững vàng bởi nếu không kiên cường, vững vàng thì làm sao các anh có thể
đùa vui trước những gian khổ như vậy.
Hết gió là đến bụi, hết bụi là đến mưa. Gió, bụi, mưa tương trưng cho những khó
khăn gian khổ mà những người lính lái xe phải vượt qua. Song đối với người lính, những
khó khăn ấy chỉ là chuyện vặt, không hề làm các anh nản chí:
“Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.”
Cấu trúc câu thơ “không có ... ừ thì ...” được lặp lại ở khổ thơ trên đã cho ta thấy

dường như những khó khăn, gian khổ không hề làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Trước
thử thách mới, người lính lái xe càng vững vàng hơn, bình tĩnh hơn, dũng cảm hơn. Mưa


tuôn, mưa xối xả, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ chỉ là chuyện nhỏ, không
đáng bận tâm. Trái lại chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính. Những tiếng “ừ thì”
vang lên như một lời thách thức. Dường như những gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh
không mảy may làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Trái lại họ xem đó như một dịp để
thử sức mình như người xưa thường quan niệm “Làm trai cho đáng lên trai/ Xuống đông
đông tĩnh, lên đoài đoài yên.”
Lúc này nhiệt tình cách mạng của những người lính không còn trìu tượng nữa mà đã
được thể hiện một cách cụ thể bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Những cung
đường trong mưa bom bão đạn không phải chỉ trả giá bằng mồ hôi mà còn trả giá bằng cả
xương máu nữa. Những câu thơ cân đối, nhịp nhàng theo nhịp bánh xe lăn, giản dị, nôm na
như lời nói thường ngày mà hết sức cứng cỏi đã toát lên thái độ thách thức, chấp nhận khó
khăn của những người chiến sĩ lái xe. Đối diện giữa sự sống và cái chết mà các anh vẫn vô
tư, lạc quan, yêu đời, đùa vui tếu táo. Có lẽ những năm tháng sống trên tuyến đường
Trường Sơn là một người lính thực thụ đã giúp Phạm Tiến Duật đưa hiện thực đời sống
vào thơ ca, một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô ráp, không hề chau chuốt, gọt giũa.
Chính những điều đó đã làm nên nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật.
Sau những ngày chiến dịch chở vũ khí, lương thực, thuốc men, quân trang quân phục
chi viện cho chiến trường miền Nam, những chiếc xe phải trải qua hàng ngàn, hàng vạn
cây số đường rừng, phải gặp biết bao khó khăn “bụi phun”, “mưa tuôn mưa xối”, “gió vào
xoa mắt đắng”, họ đã tụ họp về đây và hợp thành tiểu đội xe không kính:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”
Những chiếc xe bất chấp sự oanh tạc của giặc Mĩ, gan góc vượt qua mọi thử thách
của đường trường, của thời tiết, từ trong bom đạn những chiếc xe không kính đã hồi sinh

nối đuôi nhau lăn bánh trở về trong không khí đoàn kết của tình đồng chí, đồng đội. Những
người lính gặp nhau trong cùng cảnh ngộ, họ chào hỏi nhau, động viên nhau, chia sẻ cảm
thong với nhau và họ bắt tay nhau. Xe không kính lại trở nên tiện lợi, những người lính bắt
tay nhau qua cửa kính vỡ. Cái bắt tay thay cho lời chào hỏi, lời hứa quyết tâm, lời thề
quyết chiến thắng. Qua cái bắt tay ấy họ còn truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua gian
khổ.
Cùng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính nhưng mỗi thời mỗi khác. Anh vệ
quốc quân trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp “Thương nhau tay lắm lấy
bàn tay”. Cái nắm tay của anh vệ quốc quân thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng
đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp, giành lại độc lập, tự do cho
dân tộc. Còn anh giải phóng quân trên đường ra trận gặp bạn bè, đồng đội “bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi”. Như vậy tình đồng chí, đồng là bản chất, là sức mạnh của người lính không
hề thay đổi. Từ cái nắm tay đến cái bắt tay là cả một quá trình trưởng thành và hiện đại của
quân đội ta trong công cuộc giải phóng đất nước.


Tình đồng đội, đồng chí của những người lính không chỉ được thể hiện qua cái bắt
tay mà còn được thể hiện qua những bữa ăn ngắn ngủi hội ngộ giữa chiến trường ác liệt:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Đoạn thơ có ba chi tiết điển hình “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa” và “võng mắc
chông chênh” đã cho ta thấy cuộc đời người lính giản dị mà lại sang trọng. Giữa chiến
trường mưa bom bão đạn mà họ vẫn đàng hoàng dựng bếp Hoàng Cầm. “Bếp Hoàng Cầm”
là kiểu bếp dã chiến của bộ đội ta đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra để địch không phát
hiện được. Bữa cơm giữa chiến trường chỉ có bát canh rau rừng, có lương khô mà đậm đà
tình nghĩa an hem “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Câu thơ có giá trị gợi tả cao. Từ
“chung” được dùng rất hay. “Chung” có nghĩa là chung gia tài, chung tấm lòng. Chữ
“chung” đã giúp người lính làm nên một gia đình, một gia đình chan chứa tình yêu thương

và tình đồng chí cũng chính là tình anh em ruột thịt. Hình ảnh thơ của Phạm Tiến Duật
khiến chúng ta liên tưởng đến lời bài hát “Năm anh em trên một chiếc xe tăng, như năm
bông hoa nở cùng một khội, như năm ngón tay trên một bàn tay, lúc xung trận cả năm
người như một.”
Ăn uống, nghỉ ngơi, trò chuyện cũng chỉ trong chốc lát rồi các anh lại lên đường vì
tiền phương đang vẫy gọi hậu phương:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
“Võng mắc chông chênh” là nét vẽ hiện thực của cuộc kháng chiến. Các anh phải
thay phiên nhau lái xe, một người lái thì một người nghỉ. “Chông chênh” là một từ láy
tượng hình gợi tả những chiếc võng lắc lư theo nhịp bánh xe lăn đồng thời cũng gợi tả con
đường khúc khuỷu, gập ghềnh. Điệp ngữ “lại đi” được lặp lại hai lần kết hợp với nhịp thờ
2-2-3 đã gợi tả nhịp sống, chiến đấu của tiểu đội xe không kính mà không có sức mạnh nào
ngăn cản được. Hình ảnh “trời xanh thêm” là một hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Nó tượng trưng
cho lòng lạc quan, yêu đời chứa chan hi vọng về những chiến công đang đợi họ ở phía
trước. Có thể nói đây là một đoạn thơ hay nhất thể hiện một cách cụ thể và sinh động cuộc
sống sinh hoạt về vật chất lẫn tinh thần của những chiến sĩ lái xe thời kì chống Mĩ.
Khổ thơ cuối thể hiện ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của những người chiến sĩ
lái xe Trường Sơn thời đánh Mĩ:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ có giọng thơ mộc mạc, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày nhưng hình ảnh,
nhạc điệu và ngôn ngữ thơ rất đẹp. Cảm hứng vừa suy tưởng vừa bay bổng. Đoạn thơ đã
làm hoàn chỉnh bức chân dung tuyệt vời về người chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn câu


thwo dựng lên hai hình ảnh đối lập về vẻ bên ngoài và bên trong chiếc xe. Hai câu đầu
người đọc có thể hình dung được những chiếc xe bị biến dạng, hư hỏng “không kính”,

“không đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”. Những chiếc xe bị biến dạng là do
bom đạn khốc liệt, do đường trường khúc khuỷu, gập ghềnh gây lên. Điệp ngữ “không có”
được lặp lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách khốc liệt. Hai câu thơ ngắt làm bốn
khúc”không có kính” – “không có đèn” – “không có mui xe” – “thùng xe có xước” như bốn
chặng đường đầy khúc khuỷu, gập ghềnh, đầy chông gai bom đạn. Nó cũng như bốn khúc
cua vòng, rẽ ngoặt như trêu ngươi, chọc tức đoàn xe.
Những chiếc xe đã bị biến dạng như vậy, nó không còn sử dụng được nữa nhưng điều
kì lạ là những chiếc xe ấy vẫn chạy băng băng ra chiến trường. Nhà thơ đã lí giải một cách
rất bất ngờ và chí lí:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích nhưng “xe vẫn chạy” nghĩa là đoàn
xe đã chiến thắng, vượt qua bom đạn để tiến ra phái trước vì miền Nam thân yêu, vì cuộc
chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Hình ảnh “trái tim” trong câu thơ cuối của
bài thơ có sự kết hợp sang tạo giữa phép hoán dụ và ẩn dụ. Nói “trái tim” là hình ảnh hoán
dụ là nói đến những người chiến sĩ lái xe dũng cảm, kiên cường. Còn nói “trái tim” là hình
ảnh ẩn dụ là nói tới sức mạnh chiến đấu, tình yêu thương và ý chí quyết tâm giải phóng
miền Nam thân yêu. Như vậy, bộ não của chiếc xe, linh hồn của chiếc xe không phải là
máy móc mà là tấm lòng, là trái tim người cầm lái. Có trái tim chiếc xe trở thành một cơ
thể sống, thành một khối thống nhất với người chiến sĩ. Vì vậy, không một tổn thất, mất
mát nào có thể ngăn cản đoàn xe ra trận. Có thể nói cội nguồn sức mạnh của những chiếc
xe được tích tụ, kết đọng ở trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chứa chan tình
yêu thương. Chính tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào miền Nam đã khích lệ, động
viên họ vượt qua mọi gian khổ, nắm chắc vô lăng, nhìn đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn
trương tới đích. Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái câu thơ còn hướng người đọc đến một chân
lí của thời đại : “Sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con
người.” Con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh
vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy câu thơ cuối bài có thể
nói là nhãn tự của bài thơ. Nó vừa làm nổi bật chủ đề, vừa tỏa sang vẻ đẹp của người chiến
sĩ – thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mĩ xâm lược.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách

thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ như Lửa đèn, Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Nhớ, … Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm
hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mĩ mà chính nhà thơ đã sống, đã
trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn ngữ, sự sáng tạo của hình ảnh, sự linh hoạt của nhịp
điệu, bài thơ đã khắc họa, tôn vinh vẻ đẹp của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn hòa nhập
với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam
trong suốt ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975.



×