Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tổng quan về nhiên liệu sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.03 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu………………………………………………………………………………
I.

II.

III.

Vài nét tổng quát về một số nguồn năng lượng……………………………….
I.1 . Nguồn năng lượng hóa thạch…………………………………………
1.1.1. Than đá…………………………………………………………..
1.1.2. Dầu mỏ và khí thiên nhiên………………………………………
1.2 Nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo…………………………
1.3 Thực trạng về nhu cầu năng lượng……………………………………..
1.4 Tính cấp thiết việc phát triển nguồn năng lượng sinh học ở Việt Nam.
Nhiên liệu sinh học (biofuel)………………………………………………….
II.1 .Định nghĩa và phân loại………………………………………………..
II.2 .Ưu nhược điểm của nhiên liệu sinh học……………………………….
II.3 .Ứng dụng của nhiên liệu sinh học……………………………………..
Một số phương pháp sản xuất nhiên liệu sinh học…………………………….
III.1 .Sản xuất etanol ……………………………………..............................
III.2 .Sản xuất metanol………………………………………………………
III.3 .Sản xuất diezel sinh học……………………………………………….
III.4 .Sản xuất dimetyl ete…………………………………………………...

Kết luận………………………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………...

1



Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết, trên thế giới hiện nay nhu cầu sử dụng tới nguồn năng
lượng ngày càng lớn. Năng lượng cần thiết cho tất cả các ngành, các lĩnh vực trong
đời sống của xã hội. Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của các ngành
công nghiệp đòi hỏi phải một nguồn năng lượng khổng lồ để đáp ứng cho nhu cầu
đó. Vậy nguồn năng lượng đó lấy từ đâu ra trong khi ngày nay con người vẫn phụ
thuộc chủ yếu vào nguồn năng lượng hóa thạch, một nguồn năng lượng đã ngày
càng cạn kiệt trước nhu cầu khai thác quá lớn của con người.
Theo thống kê hiện nay nguồn năng lượng hóa thạch cung cấp tới 85% tổng
năng lượng tiêu thụ toàn cầu. Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn năng lượng hóa
thạch đã tạo ra một lượng lớn các loại khí phác thải gây ra hiện tượng biến đổi khí
hậu toàn cầu, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tối môi trường sống của con người
trên toàn thế giới. Hơn 150 năm qua, ước chừng 245 tỷ tấn carbon dưới dạng
carbon dioxide đã được thải ra không khí bằng việc đốt cháy các nhiên liệu hóa
thạch. Lượng khí này là nguyên nhân chủ yếu gây lên sự nóng lên của trái đất
chúng ta. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với con người là phải tìm ra những nguồn năng
lượng thay thế những nguồn năng lượng hóa thạch ngày càng cạn kiệt, một mặt
chúng phải thể hiện là một những loại nhiên liệu thân thiện với môi trường sống
con người. Hiện nay, việc nghiên cứu, thăm dò tập trung chủ yếu vào ba lĩnh vực:
năng lượng có nguồn gốc từ bức xạ mặt trời, năng lượng địa nhiệt và năng lượng
hạt nhân. Trong đó thủy điện, năng lượng mặt trời (sử dụng dưới dạng nhiệt và
điện), năng lượng gió (sử dụng trực tiếp sức gió và dưới dạng phong điện), năng
lượng từ sinh vật (bao gồm các loại củi, gỗ và khí khi phân hủy các chất hữu cơ,

2


gọi chung là nhiên liệu sinh học - biofuel) được coi là các dạng năng lượng có thể
tái tạo.
Hiện nay việc khai thác sử dụng các nguồn năng lượng như năng lượng mặt

trời, năng lượng hạt nhân, đang là một thách thức lớn với một nước đang phát triển
như Việt Nam do yêu cầu cao về khoa học công nghệ ,và một nguồn vốn rất lớn…
Do vậy việc nghiên cứu khai thác ứng dụng nguồn nhiên liệu sinh học đang là một
ưu tiên lớn của các nhà khoa học nước ta.
Thấy rõ tầm quan trọng của nguồn nhiên liệu sinh học đối với cuộc sống như
vậy, trong bài khóa luận này em xin trình bày những hiểu biết của mình về nhiên
liệu sinh học. Đưa ra những cái nhìn tổng quát về nguồn nhiên liệu này, đánh giá
những xu thế phát triển của thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay. Đi sâu tập
trung tìm hiểu về một số phương pháp chính ở Việt Nam hiện nay để nghiên cứu
sản xuất ứng dụng nguồn nhiên liệu sinh học vào trong cuộc sống.
Để hoàn thành bài khóa luận này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong bộ môn Hóa.

3


I. VÀI NÉT TỔNG QUÁT VỀ MỘT SỐ NGUỒN NĂNG LƯỢNG
1.1 Nguồn năng lượng hóa thạch
Nguồn năng lượng hóa thạch là các nguồn năng lượng được tạo ra từ các
nguồn nhiên liệu hóa thạch khai thác trực tiếp từ vỏ trái đất, nguồn nhiêu liệu này
được hình thành cùng với sự hình thành của vỏ trái đất (than đá, dầu mỏ, khí
đốt…). Do vậy chúng được xếp vào nguồn nhiêu liệu không tái tạo. Đây là nguồn
nhiêu liệu cung cấp năng lượng chủ yếu cho nhu cầu của thế giới chiếm tới 85%
tổng nhu cầu nhiên liệu của toàn cầu.
1.1.1 Than đá
Theo khảo sát trữ lượng than đá thế giới được đánh giá là 23.000 tỷ tấn,
trong đó khoảng 30% tập trung ở Liên Xô (cũ), Mỹ và Trung Quốc. Các nước có
trữ lượng than đá lớn hơn 20 tỉ tấn là: Liên Xô (4.122 tỉ tấn), Mỹ (1.100 tỉ tấn),
Trung Quốc (1.011 tỉ tấn), Đức (70 tỉ tấn), Canađa (61 tỉ tấn), Ba Lan (46 tỉ tấn),
Nam Phi (26 tỉ tấn), Nhật Bản (20 tỉ tấn). Với nhịp độ khai thác hiện nay thì việc

khai thác than đá có thể tiếp tục chừng 250 năm nữa.
Ở Việt Nam trữ lượng than đá vào khoảng 3,8 tỉ tấn tập trung chủ yếu ở
Quảng Ninh và các tỉnh đồng bằng sông Hồng…với sản lượng khai thác hiện nay
từ 15 đến 20 triệu tấn mỗi năm. Là một nước xuất khẩu than, nhưng Việt Nam
đang đứng trước nguy cơ phải nhập than trong một vài thập kỉ tới.
Từ đầu thế kỷ XX, cơ cấu thành phần nhiên liệu sử dụng có sự thay đổi lớn.
Tỷ lệ dùng than đá, dầu mỏ và khí đốt tăng cao.
Song đối với từng khu vực và từng quốc gia, cơ cấu năng lượng sử dụng phụ
thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội của mỗi nước.,

4


Tuy nhiên trong thời gian qua, xu hướng sử dụng năng lượng từ than đá có
sự giảm sút rõ rệt vì dầu mỏ và khí đốt được khai thác ngày càng nhiều nên giá
thành hạ. Gần đây, một xu hướng mới lại xuất hiện ở nhiều nước, trước tình hình
nguồn dầu mỏ và khí đốt thiếu hụt, giá tăng nhanh. Người ta đang quay trở lại sử
dụng than đá, đồng thời cải tiến kỹ thuật đốt than để dễ diều khiển quá trình cháy
và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

1.1.2. Dầu mỏ và khí thiên nhiên
Trữ lượng dầu mỏ toàn cầu khoảng 74,9 tỉ tấn và với mức độ khai thác như
hiện nay thì trong khoảng 30 đến 40 năm nữa lượng dầu mỏ sẽ cạn dần.
Trữ lượng khí đốt thiên nhiên là vào khoảng 72,9 ngàn m 3, khí thiên nhiên
cũng là nguồn nhiêu liệu quan trọng chỉ đứng sau dầu mỏ nên nguồn nhiên liệu này
cũng đang được khai thác với sản lượng lớn cũng đang đứng trước nguy cơ cạn
kiệt.
Sản lượng khai thác dầu mỏ và khí thiên nhiên ước chừng đạt khoảng 16
triệu tấn một năm. Nói chung sản xuất dầu mỏ và khí thiên nhiên của Việt Nam
vẫn còn tiềm năng lớn. Song nó vẫn chưa phát triển kịp so với tốc tộc gia tăng nhu

cầu tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế.
1.2. Năng lượng mới và năng lượng tái tạo
Các nguồn năng lượng mới là các nguồn năng lượng mới được nghiên cứu
và ứng dụng trong những thập kỉ gần đây. Chủ yếu là các nguồn năng lượng như
năng lượng mặt trời, năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, thủy điện…Hiện nay tỉ
trọng đóng góp của các nguồn năng lượng này cho nhu cầu năng lượng toàn cầu
5


khoảng 15%. Tuy nhiên một khó khăn mà chúng ta đang gặp phải trong quá trình
khai thác các nguồn năng lượng này là cần một nền tảng khoa học công nghệ cao,
yêu cầu đầu tư lớn, do đó nó mới chỉ phát triển ở những nước có nền khoa học
công nghệ phát triển, vì vậy việc khai thác các nguồn năng lượng này ở những
nước đang phát triển như Việt Nam là rất khó khăn. Mặt khác những thảm họa xảy
ra đối với các nhà máy điện sử dụng năng lượng hạt nhân đang đặt ra những tranh
cãi xung quanh việc có nên tiếp tục sử dụng nguồn năng lượng này hay không?
Bên cạnh đó một trong những nguồn năng lượng mới đang thu hút được rất
nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới đó là nguồn nhiêu liệu sinh
học – biofuel ( bao gồm các nguồn năng lượng bắt nguồn từ sinh vật) và có thể tái
tạo được. Đây là một nguồn năng lượng có nhiều lợi ngoài những lợi ích kinh tế thì
chúng được coi là những nguồn năng lượng xanh, thân thiện với môi trường.
1.3. Thực trạng và nhu cầu về năng lượng
Dân số thế giới sẽ tăng từ con số hiện tại, khoảng 7 tỉ người lên tới 9 tỉ người
vào năm 2050. Mức độ phồn thịnh trung bình toàn cầu sẽ ngày càng cao hơn. Càng
nhiều người và mức sống càng cao hơn có nghĩa là sẽ không tránh khỏi sử dụng
năng lượng nhiều hơn. Các nước đang phát triển hiện đang cần nhiều năng lượng
hơn bao giờ hết để đáp ứng yêu cầu tăng cao mức sống. Theo một số kịch bản, thì
vào năm 2050 mức tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ tăng gấp đôi, nhưng điều này
có thể còn cao hơn thế.
Hiện tại, tính trên toàn cầu, mức năng lượng đang sử dụng hàng ngày tương

đương với khoảng 200 triệu thùng dầu mỏ (khoảng 10 tỷ tấn /năm). Trong số này,
có khoảng 80-85% năng lượng có nguồn gốc là năng lượng hóa thạch (dầu mỏ, khí
đốt, than đá…). Năng lượng hạt nhân, thủy điện, năng lượng sinh học chiếm gần
6


15-20% còn lại. Trong đó, thực tế năng lượng tái tạo (thủy điện, gió và sinh học
truyền thống như gỗ, chất thải nông nghiệp) chỉ chiếm 10%.
Tỷ lệ tăng sử dụng năng lượng trung bình hàng năm trên thế giới hiện nay là
khoảng 1,5 - 2,0%. Điều này có nghĩa là khối lượng dầu mỏ khai thác phải tăng lên
thêm hàng ngày là 1,5 triệu thùng. Ngành dầu mỏ toàn cầu sẽ phải hoạt động hết
công suất, đồng thời phải luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư thêm và việc mở mỏ mới để
bù đắp lại các thất thoát tự nhiên ở các khai trường (tổng mức thất thoát như vậy
đôi khi lên tới 4 - 5%/ năm, tương ứng khối lượng dầu khai thác 3,5 triệu thùng/
ngày). Trong 5 năm tới ngành dầu mỏ toàn cầu sẽ phải tăng thêm công suất tương
ứng với mức khai thác 28,5 triệu thùng/ ngày.

Vào thời điểm hiện nay, ngành năng lượng thế giới đang đứng trước ba
nhiệm vụ:
* Tăng sản lượng năng lượng hóa thạch và các loại năng lượng khác. Vào
năm 2050, nhu cầu năng lượng sẽ tương đương 400 thùng dầu/ ngày (một nửa số
đó là năng lượng hóa thạch).
* Phải quan tâm phát triển đồng thời các nguồn năng lượng.
* Giảm thải tác hại gây ô nhiễm môi trường do khai thác và sử dụng năng
lượng hóa thạch, đồng thời giảm tác nhân gây tăng hiệu ứng nhà kính để bảo vệ
môi trường.
Trữ lượng dầu mỏ thế giới còn khoảng 1.200 tỷ thùng, khai thác với tốc độ
hiện tại còn độ khoảng 30-35 năm nữa. Trữ lượng than đá còn khá lớn (tuy ngày
càng khó khai thác) nhưng cũng còn khai thác được 250 năm nữa. Nguy cơ thế giới
7



sẽ thiếu năng lượng đang trở thành sự thật hiển nhiên. Năng lượng hạt nhân, năng
lượng tái tạo (thủy điện, sinh học) sẽ đóng vai trò ngày càng lớn. Năng lượng tái
tạo nguồn gốc sinh học có một ý nghĩa nhất định nhưng chúng ta không thể đốt
cháy giai đoạn. Cần phải có thời gian phát triển, thời gian đó có thể là 10 - 20 năm
nữa.
1.4. Tính cấp thiết việc phát triển nguồn năng lượng sinh học ở Việt Nam
Để đạt mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
thì việc thiết yếu đầu tiên chúng ta phải nghĩ đến là việc cung cấp đủ nguồn năng
lượng cho quá trình phát triển kinh tế cũng như nhu cầu sử dụng của người dân.
Bên cạnh các nguồn năng lượng truyền thống là các nguồn năng lượng hóa thạch
thì chính phủ đang đưa ra những chính sách nhằm khuyến khích phát triển tìm ra
nhiều nguồn nhiên liệu mới phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế.
Theo đánh giá của ngành năng lượng Việt Nam thì Việt Nam đang đứng
trước nhiều thách thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là:
Thứ nhất, để đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, từ nay tới năm 2020,
cung cấp năng lượng của Việt Nam sẽ cần phải tăng nhanh hơn GDP là 30%, trong
đó điện phải tăng nhanh hơn 70%. Để đạt được tốc độ tăng trưởng đó, cung cấp
năng lượng phải có hiệu quả - từ năm 2010 phải tiết kiệm được 2788 MW, tức là
một nửa công suất lắp đặt hiện nay và điều này có thể thực hiện thông qua các
chương trình giảm tổn thất và quản lý cầu. Năng lượng phải được phân bố đều hơn,
hiện 80% dân số ở vùng nông thôn và mức tiêu thụ của họ chỉ chiếm 14% lượng
điện được cung ứng.

8


Thứ hai, mặc dù Việt Nam còn giàu tài nguyên thiên nhiên, nhưng các
nguồn tài chính vẫn là là hạn chế về trữ lượng, đòi hỏi phải lập kế hoạch sử dụng

một cách thận trọng trong lĩnh vực năng lượng.
Thứ ba, Việt Nam phải đầu tư khoảng từ 5,3 - 5,5% GDP (gấp đôi mức các
nước láng giềng Đông Nam Á khác) vào cơ sở hạ tầng thiết yếu cho năng lượng.
Hơn nữa, mức và cơ cấu giá năng lượng phải được thay đổi để giải tỏa bớt những
sức ép tài chính ngắn hạn và đảm bảo hiệu quả lâu dài trong các quyết định đầu tư
và sử dụng tài nguyên.
Thứ tư, thu hút đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải tạo ra được môi trường kinh
doanh thuận lợi, bao gồm cả khuôn khổ pháp lý có tính hỗ trợ.
Hiện nay việc đầu tư để phát triển nguồn năng lượng mới cần sự đầu tư lớn
về khoa học công nghệ và nguồn vốn lớn vẫn là một khó khăn mà một nước đang
phát triển như nước ta gặp phải, vì vậy việc hướng sự quan tâm của mình sang
những nguồn năng lượng tiềm năng như nhiên liệu sinh học để có thể đáp ứng một
phần nhiên liệu cho quá trình phát triển của đất nước.
Để giúp ngành năng lượng Việt Nam giải quyết tốt những mục tiêu của mình
đặt ra nhà nước đã có những chính sách cụ thể để khuyến khích hỗ trợ sự phát triển
đó. Trong đó phải kể đến quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án
phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025 nhằm mục
tiêu:“phát triển nhiên liệu sinh học , một dạng năng lượng mới, tái tạo được để
thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch truyền thống góp phần bảo đảm an ninh
năng lượng và bảo vệ môi trường”.
- Mục tiêu tổng quát của đề án là nhằm phát triển NLSH thay thế một phần
nhiên liệu hóa thạch truyền thống, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và bảo vệ
9


môi trường. Đề án cũng đã đưa ra các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, các
nhiệm vụ chủ yếu và các giải pháp chính thực hiện đề án.
- Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2010, xây dựng và phát triển được các mô hình
sản xuất thử nghiệm và sử dụng nhiên liệu sinh học quy mô 100 nghìn tấn E5 và 50
nghìn tấn B5/năm bảo đảm đáp ứng 0,4% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Đến năm

2015, sản lượng ethanol và dầu thực vật đạt 250 nghìn tấn (pha được 5 triệu tấn
E5, B5), đáp ứng 1% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Đến năm 2025, Sản lượng
ethanol và dầu thực vật đạt 1,8 triệu tấn, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu xăng dầu của
cả nước.
- Các nhiệm vụ chủ yếu: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (RD), triển khai sản xuất thử sản phẩm (P) phục vụ phát triển nhiên liệu sinh học;
Hình thành và phát triển ngành công nghiệp sản xuất NLSH; Xây dựng tiềm lực
phục vụ phát triển nhiên liệu sinh học và Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực NLSH.
- Các giải pháp thực hiện: Đẩy mạnh việc triển khai ứng dụng các kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, khuyến khích thực hiện chuyển giao công nghệ
và tạo lập môi trường đầu tư phát triển sản xuất nhiên liệu sinh học; Tăng cường
đầu tư và đa dạng hoá các nguồn vốn để thực hiện có hiệu quả các nội dung của Đề
án; Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực phục
vụ nhu cầu phát triển nhiên liệu sinh học; Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách,
văn bản quy phạm pháp luật để phát triển nhiên liệu sinh học; Mở rộng và tăng
cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm về phát triển nhiên liệu sinh học; và
Nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển nhiên liệu sinh học.

10


II.NHIÊN LIỆU SINH HỌC (BIOFUEL)
2.1. Định nghĩa và phân loại
Nhiên liệu sinh học (biofuel) là loại nhiên liệu có nguồn gốc từ sinh khối có thể là từ các sinh vật sống hoặc sản phẩm phụ từ quá trình chuyển hóa của
chúng (ví dụ như phân gia súc). Chúng thuộc loại năng lượng tái tạo (hoàn nguyên)
hoàn toàn khác với các loại năng lượng khác như hóa thạch, hạt nhân.
Biofuel có đặc điểm là khi bị đốt cháy sẽ giải phóng ra năng lượng hóa học
tiềm ẩn trong nó. Nghiên cứu tìm ra các phương pháp hiệu quả hơn để biến đổi các
vật liệu nguồn gốc sinh học thành điện năng thông qua pin nhiên liệu đang là lĩnh
vực hết sức khả quan hiện nay.
Theo bảng phân loại của Wikipedia, biofuel được chia thành ba loại:

- Dạng rắn (sinh khối rắn dễ cháy): củi, gỗ và than bùn.
- Dạng lỏng : Các chế phẩm dạng lỏng nhận được trong quá trình chế biến vật liệu
nguồn gốc sinh học như:
+

Bioalcohol - các loại rượu nguồn gốc sinh học, ví dụ: bioetanol từ đường

mía, ngô đang được sử dụng làm nhiên liệu hoặc phụ gia pha xăng tại Braxin, Mỹ
và một vài nước khác; biometanol (hiện đang được sản xuất chủ yếu từ khí tự
nhiên, song có thể đi từ sinh khối).
+

Dầu mỡ các loại nguồn gốc sinh học, đã được sử dụng làm nhiên liệu chạy

động cơ diezel. Ví dụ: Dầu thực vật sử dụng trực tiếp (SVO) làm nhiên liệu;
Biodiezel (diezel sinh học) - sản phẩm chuyển hóa este từ mỡ động vật hoặc dầu

11


thực vật; Phenol và các loại dung môi, dầu nhựa thu được trong quá trình nhiệt
phân gỗ,…
- Dạng khí: Các loại khí nguồn gốc sinh học cũng đã được sử dụng và ngày càng
phổ biến như: Metan thu được từ quá trình phân hủy tự nhiên các loại phân, chất
thải nông nghiệp hoặc rác thải - biogas; Hyđrô thu được nhờ cracking
hyđrocacbon, khí hóa các hợp chất chứa cacbon (kể cả sinh khối) hoặc phân ly
nước bằng dòng điện hay thông qua quá trình quang hóa dưới tác dụng của một số
vi sinh vật; Các sản phẩm khí khác từ quá trình nhiệt phân và khí hóa sinh khối
(các loại khí cháy thu được trong quá trình nhiệt phân gỗ).
2.2.Ưu điểm nhược điểm của nhiên liệu sinh học

- Ưu điểm:
+

Giảm thiểu ô nhiễm môi trường vì nguyên liệu sử dụng để sản xuất nhiên

liệu sinh học là cồn và dầu mỡ động thực vật, không chứa các hợp chất thơm, hàm
lượng lưu huỳnh cực thấp, không chứa chất độc hại. Nhiên liệu sinh học khi thải
vào đất bị phân hủy sinh học cao gấp 4 lần so với nhiên liệu dầu mỏ và do đó giảm
được rất nhiều tình trạng ô nhiễm.
+
Nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất nhiên liệu sinh học có thể
sản xuất từ các phế phẩm hoặc sản phẩm của nông nghiệp, do vậy nó khuyến khích
nông nghiệp phát triển.
+
Chi phí đầu tư nghiên cứu và khả năng ứng dụng tốt. Do chi phí đầu tư thấp
vì vậy rất nhiều quốc gia đang triển khai nghiên cứu và ứng dụng vào thực tế.
Đồng thời nó có tính ứng dụng cao do việc triển khai ứng dụng thực tế đơn giản,
và hiệu quả kinh tế có thể đánh giá dễ dàng.
- Nhược điểm:

12


+

Nhiên liệu sinh học còn chưa phù hợp với các loại động cơ hiện nay, nên

việc triển khai ứng dụng còn nhiều khó khăn. Để có thể thích ứng nguồn nhiên liệu
này cho các loại động cơ hiện nay đòi hỏi những nghiên cứu cải tiến các dạng động
cơ truyền thống.

+

Việc triển khai thương mại hóa nguồn nhiên liệu này chưa được đầu tư quan

tâm đúng mức nên việc đưa vào sử dụng rộng rãi nguồn nhiên liệu này còn nhiều
hạn chế.
+

Nguồn nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ các sản phẩm nông nghiệp nên

phải chịu sức ép từ vấn đề an ninh lương thực.
2.3.Ứng dụng của nhiên liệu sinh học
Ngày nay nguồn nhiên liệu sinh học có thể sử dụng thay thế một phần cho
các nguồn năng lượng hóa thạch, có thể dùng để chạy các loại động cơ truyền
thống. Có thể sử dụng nguồn nhiên liệu này để pha trộn với các nguồn nhiên liệu
hóa thạch nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch.
Bên cạnh đó với các ứng dụng trong các ngành công nghiệp như là một sản
phẩm phụ gia càng thúc đẩy việc nghiên cứu ứng dụng nhiên liệu sinh học.
Sử dụng năng lượng sinh học đang là xu hướng toàn cầu. Hiện nay có
khoảng 50 nước ở khắp các châu lục khai thác và sử dụng NLSH ở các mức độ
khác nhau:
-

Mỹ hiện là quốc gia sản xuất ethanol lớn nhất thế giới (năm 2006 đạt gần 19 tỷ lít,
trong đó 15 tỷ lít dùng làm nhiên liệu - chiếm khoảng 3% thị trường xăng). Năm
2012 sẽ cung cấp trên 28 tỷ lít ethanol và diesel sinh học, chiếm 3,5% lượng xăng
dầu sử dụng.
13



-

Trung Quốc mỗi ngày sử dụng 2,4-2,5 triệu thùng dầu mỏ, trong số đó có tới 50%
phải nhập khẩu. Để đối phó với sự thiếu hụt năng lượng, một mặt Trung Quốc đầu
tư lớn ra ngoài lãnh thổ để khai thác dầu mỏ, mặt khác tập trung khai thác, sử dụng
năng lượng tái tạo, đầu tư để nhiều cơ sở khoa học nghiên cứu về NLSH. Đầu năm
2003, xăng E10 (10% ethanol và 90% xăng) đã chính thức được sử dụng ở 5 thành
phố lớn và sắp tới sẽ mở rộng thêm tại 9 tỉnh đông dân cư khác. Dự kiến, ethanol
nhiêu liệu sẽ tăng trên 2 tỷ lít vào năm 2010, khoảng 10 tỷ lít vào năm 2020 (năm
2005 là 1,2 tỷ lít). Cuối năm 2005, nhà máy sản xuất ethanol nhiên liệu công suất
600.000 tấn /năm (lớn nhất thế giới) đã đi vào hoạt động tại Cát Lâm.

-

Các quốc gia thuộc châu âu đều có chương trình NLSH như: Đức, Anh, Pháp, Tây
Ban Nha, Italia, Hà Lan, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, áo, Bungari, Ba Lan,
Hungari, Ucraina, Belarus, Nga, Slôvakia... Ngay tại Lào cũng đang xây dựng nhà
máy sản xuất diesel sinh học ở ngoại ô thủ đô Viên Chăn. Một số nước châu Phi
như Gana, Tanjania... cũng đang tiếp cận đến NLSH.

III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT NHIÊN LIỆU SINH HỌC
3.1.Sản xuất etanol (cồn, rượu, etylic)
Etanol là rượu no, đơn chức, chứa 2 nguyên tử các bon, có công thức
C2H5OH, có thể sản xuất theo phương pháp hóa học từ nguyên liệu etan hoặc
etylen. Trên thực tế etanol thường được sản xuất bằng con đường sinh học. Khi đó
sản phẩm etanol được gọi là cồn sinh học hay bioetanol. Bioetanol (sau đây gọi tắt
là etanol) đã được sử dụng rộng rãi làm nhiên liệu cho ngành giao thông và có thể
thay thế hoàn toàn xăng trong động cơ ô tô. Ở Brazil 60% etanol sản xuất ra ở đây
được bán dưới cồn thô (93% etanol và 7% nước), 40% còn lại được tinh cất thành
14



cồn khô (trên 99% etanol) để pha vào xăng (với tỷ lệ lên tới 24%). Hiện nay ở
Việt Nam cũng đã sử dụng etanol để hòa trộn vào trong xăng với tỉ lệ 5% (xăng
sinh học) nhằm thay thế một phần cho loại xăng truyền thống hiện nay. Công nghệ
chiếm ưu thế hiện nay là chuyển hóa sinh khối thành etanol thông qua lên men
rượu rồi chưng cất. Quá trình lên men rượu này là quá trình chuyển hóa sinh hóa
học. Sinh khối sẽ bị men của vi khuẩn hoặc nấm men phân hủy. Phương pháp lên
men có thể áp dụng đối với nhiều nguồn nguyên liệu sinh khối khác nhau.
Nguyên liệu sinh khối
Nguyên liệu sản xuất etanol thích hợp nhất là đường (từ củ cải đường, mía),
rỉ đường và cây lúa miến ngọt, tinh bột (khoai tây, các loại hạt lúa, lúa mỳ, ngô, đại
mạch…). Năng suất etanol trung bình dao động từ 2.100 đến 5.600 lít/ ha đất
trồng trọt tùy thuộc vào từng loại cây trồng. Đối với các loại hạt, năng suất etanol
thu được vào khoảng 2.800 lít/ha, tức là vào khoảng 3 tấn nguyên liệu hạt sẽ thu
được 1 tấn etanol.
Hiện nay các hoạt động nghiên cứu và phát triển ở châu Âu về lĩnh vực
etanol sinh học ( bioetanol) chủ yếu tập trung vào sử dụng các nguồn nguyên liệu
xenlulo (từ gỗ). Các loại cây trồng quay vòng ngắn (liễu, bạch dương, bạch đàn),
các chất thải nông nghiệp (rơm, bã mía), các phế thải của công nghiệp gỗ, gỗ thải...
đều thích hợp để làm nguyên liệu sản xuất etanol. Cứ khoảng 2 - 4 tấn vật liệu gỗ
khô hoặc cỏ khô đã có thể cho 1 tấn etanol. Nguyên nhân khiến người ta chuyển
sang sản xuất etanol từ sinh khối xenlulo (gỗ, thân thảo) là vì các loại này sẵn có
và rẻ tiền hơn so với các loại tinh bột ngũ cốc hoặc cây trồng khác, đặc biệt là với
những nguồn chất thải hầu như không có giá trị kinh tế thì vấn đề càng có ý nghĩa,
tuy nhiên quá trình chuyển hóa các vật liệu này sẽ khó khăn hơn.

15



Ở Việt Nam hiện nay thì etanol chủ yếu được sản xuất nhờ nguồn nhiên liệu
sắn được đầu tư tập trung trồng chủ yếu ở các tỉnh như Phú Thọ, Lâm Đồng, Gia
Lai...
Công nghệ chuyển hóa etanol
Như trên đã nói etanol có thể sản xuất từ các loại nguyên liệu sinh khối khác
nhau, nhưng chỉ có một vài loại cây trồng chứa loại đường đơn giản, dễ tách nên
thuận lợi cho quá trình xử lý và lên men. Thông thường để tách đường hoàn toàn,
quá trình tách (chiết hoặc nghiền nhỏ) cần được thực hiện lặp đi lặp lại vài lần.
Các loại tinh bột ngũ cốc là các vật liệu gồm các phân tử cacbonhydrat phức
tạp hơn nên phải phân hủy chúng thành đường đơn nhờ quá trình thủy phân.
Hạt được xay, nghiền ướt thành dạng bột nhão. Trong quá trình này đã có
một lượng đường được giải phóng. Nhưng để chuyển hóa tối đa lượng tinh bột
thành đường, tạo điều kiện lên men rượu, bột nhão được nấu và cho thủy phân
bằng enzym (ví dụ amylaza). Trong trường hợp thủy phân bằng axit thì cần rót axit
loãng vào khối bột nhão trước khi đem nấu. Quá trình lên men được xúc tiến mạnh
khi có mặt một số chủng men rượu.
C6H12O6 → 2 CH3CH2OH + 2 CO2

(3.1)

Để thuận lợi cho quá trình lên men, pH của dịch thủy phân cần điều chỉnh ở
mức 4,8 - 5,0. Etanol sinh ra trong quá trình lên men sẽ hòa tan trong nước. Quá
trình lên men rượu này sinh ra CO2. Nhờ hàng loạt bước chưng cất và tinh cất để
loại nước, nồng độ etanol sẽ được tăng cao tối đa (có thể đạt mức cồn tuyệt đối etanol khan).
Quá trình chuyển hóa sinh khối là hỗn hợp xenlulo thành etanol chỉ khác với
quá trình lên men tinh bột ở chỗ xử lý nguyên liệu thành đường đơn sẵn sàng cho
16


quá trình lên men. Thủy phân hỗn hợp xenlulo khó hơn thủy phân tinh bột vì hỗn

hợp xenlulo là tập hợp các phân tử đường liên kết với nhau thành mạch dài
(polyme cacbonhyđrat) gồm khoảng 40 - 60% xenlulo và 20 - 40% hemixenlulo,
có cấu trúc tinh thể, bền. Hemixenlulo chứa hỗn hợp các polyme có nguồn gốc từ
xylo, mano, galaeto hoặc arabino kém bền hơn xenlulo. Nói chung hỗn hợp
xenlulo khó hòa tan trong nước. Phức polyme thơm có trong gỗ là lignin (10 25%) không thể lên men vì khó phân hủy sinh học, nhưng có thể tận dụng vào việc
khác.
Quá trình xử lý nguyên liệu thành đường tự do sẵn sàng lên men phải trải
qua 2 bước: bước 1 thủy phân bằng axit loãng nồng độ 0,5% để phá vỡ liên kết
hyđro giữa các mạch xenlulo và phá vỡ cấu trúc tinh thể của chúng thực hiện ở
nhiệt độ 200oC. Kết quả thủy phân bước 1 sẽ chuyển hóa hemixenlulo thành đường
C5 và C6 (chủ yếu xylo và mano) dễ lên men tạo thành etanol đồng thời bẻ gãy cấu
trúc xenlulo. Để chuyển hóa hoàn toàn cấu trúc xenlulo đã gãy thành đường gluco
C6, bước thủy phân thứ 2 sử dụng axit nồng độ 2% được thực hiện ở nhiệt độ
240oC. Quá trình thủy phân xenlulo thành gluco bằng axit có thể thay thế bằng men
phân hủy xenlulo.
Sản phẩm etanol khan có thể sử dụng làm nhiên liệu ô tô cả dưới dạng tinh
khiết lẫn dạng pha trộn với xăng.
Etanol có thể làm phụ gia cấp oxy cho xăng (nồng độ 3%) giảm phát thải khí
CO đồng thời làm phụ gia thay thế chì tetraetyl, hoặc cũng có thể thành nguyên
liệu sản xuất etylterbutyleter (ETBE)- một phụ gia cho xăng. Etanol còn được dùng
làm yếu tố tăng chỉ số octan cho xăng và qua đó giảm nổ và cải thiện tiếng ồn động
cơ.
Sử dụng etanol
17


Chỉ số octan ở etanol cao nên rất thích hợp với hệ đánh lửa động cơ đốt
trong của ô tô, song chỉ số xetan thấp nên không thích hợp lắm với động cơ diezel.
Giải pháp kỹ thuật đối với điều này là người ta sẽ đưa vào nhiên liệu này một
lượng nhỏ dầu diezel hoặc là sử dụng phụ gia.

Bảng 3.1: So sánh một số chỉ tiêu giữa etanol, xăng và ETBE

Đặc tính nhiên liệu

Etanol

Công thức hóa học

C2H5OH C4H9-OC2H5

(Quy ước) C8H15

Trọng lượng phân tử (kg/kmol)

46

102

111

Chỉ số octan (RON)

109

118

97

Chỉ số octan (MON)


92

105

86

Chỉ số xetan

11

-

8

28

75

0,80

0,74

0,75

26,4

36

41,3


21,2

26,7

31

-

14,7

72

30 - 190

Áp lực bay hơi Reid là số đo độ bay 16,5
hơi của nhiên liệu (kPa) ở 15oC
Khối lượng riêng (kg/l) ở 15oC
Giá trị calo thấp hơn (MJ/kg) ở 15oC

ETBE

Xăng

Giá trị calo thấp hơn (MJ/l) ở 15oC
Tỉ lệ không khí/ nhiên liệu (kg không9,0
khí/ kg nhiên liệu)

78
18



Nhiệt độ sôi (oC)
Chỉ số octan của etanol cao hơn xăng nên có tác dụng giảm tiếng ồn động cơ
tốt hơn, hơn nữa etanol chứa oxy nên hiệu quả nhiên liệu ở động cơ được cải thiện
hơn. Pha trộn với tỉ lệ hợp lý giữa etanol và xăng sẽ làm tăng hiệu quả động cơ xe.
Các loại xe chạy nhiên liệu xăng pha etanol được gọi là xe chạy nhiên liệu gasohol.
Thông thường gasohol có tỉ lệ pha trộn 10% etanol 90% xăng không pha chì (E10).
Nếu xe được cải thiện bộ phận đánh lửa ở động cơ, có thể chạy với nhiên liệu
gasohol E85 (85% etanol và 15% xăng). Đa số các loại xe thiết kế ở Mỹ hiện nay
có thể chạy nhiên liệu tùy ý cả E85 lẫn chạy hoàn toàn xăng ( E0). Dùng gasohol
có tỷ lệ pha trộn từ 10 - 30% etanol vào xăng thì không cần cải tiến động cơ xe.
3.2. Sản xuất methanol (CH3OH)
Metanol là một chất lỏng có độ độc cao, cũng như etanol, metanol được sử dụng
làm nhiên liệu cho xe ô tô từ lâu, đặc biệt là ở Mỹ. Metanol có thể sản xuất từ khí
tổng hợp - sản phẩm khí hóa sinh khối và các nguồn khác đồng thời cũng có thể đi
từ khí tự nhiên. Metanol được sản xuất từ nguồn nguyên liệu đi từ sinh vật đang
được khuyến cáo phát triển sử dụng làm nguyên liệu tái tạo thay thế nhiên liệu dầu
mỏ
Nguyên liệu sinh khối
Metanol có thể được sản xuất từ sinh khối, thường là củi gỗ. Để sản xuất 1
tấn metanol cần gần 2 tấn gỗ khô, có nghĩa năng suất sẽ là 550 lít metanol/ 1 tấn
gỗ. Năng suất metanol từ nguyên liệu thân thảo khô (cỏ khô) còn thấp hơn, đạt
khoảng 450 l/tấn..
Methanol còn có thể được sản xuất từ khí metan có trong thành phần của khí
thiên nhiên.

19


Công nghệ chuyển hóa sản xuất metanol

Metanol thu được thông qua quá trình chuyển hóa khí tổng hợp. Để thu được
khí tổng hợp từ nguyên liệu sinh khối, người ta tiến hành khí hóa sinh khối dưới
điều kiện áp suất và nhiệt độ cao. Khí tổng hợp sau khi khử bỏ tạp chất sẽ được
đưa vào lò phản ứng có xúc tác để tạo thành metanol. Công nghệ trước đây sử
dụng xúc tác kẽm cromat trong điều kiện áp suất cao (300 - 1000 atm) và nhiệt độ
cao (khoảng 400oC), thực hiện trong pha khí.
CH4

+

H2O



CO +3H2

(3.2)

CO

+

2H2



CH3OH

(3.3)


CO2

+

H2



CH3OH

(3.4)

Công nghệ hiện nay chủ yếu tiến hành trong pha lỏng với xúc tác hợp lý hơn
ở nhiệt độ và áp suất thấp hơn nhưng cho hiệu quả cao hơn. Công nghệ chuyển hóa
metanol hiện nay cho phép đạt được hiệu suất tới 95%.

Sử dụng metanol
Metanol có thể ứng dụng trong hầu hết loại xe cộ và có thể được sử dụng
như là nhiên liệu riêng hoặc pha trộn với xăng. Metanol có chỉ số xetan thấp (5 so
với 50 ở diezel dầu mỏ) nên tinh chất đánh lửa kém, rất khó thích hợp với động cơ
diezel, tuy nhiên nhờ chỉ số octan cao nên sử dụng thay thế xăng ở động cơ xe ô tô
lại cho kết quả tốt.

20


Hầu như 1,2 tỉ galon metanol được sản xuất tại Mỹ hiện nay được sử dụng
làm nguyên liệu sản xuất MTBE (metylterbutyleter) một phụ gia xăng. Để làm
nhiên liệu trực tiếp, metanol chỉ phù hợp cho một số loại xe có động cơ hoạt động
với tỷ số nén cao.

Metanol còn được sử dụng làm chất chống đông đường ống dẫn dầu, làm
dung môi, làm nguyên liệu sản xuất các hóa chất và vật liệu khác (chất dẻo, gỗ
dán, sơn, chất nổ, …) Metanol có tính độc cao và dễ cháy, khi cháy không thành
ngọn lửa nên cần hết sức cẩn thận khi tiếp xúc và sử dụng.
Bảng dưới đây đưa ra con số so sánh giữa metanol MTBE và xăng.
Bảng 3.2: So sánh một số chỉ tiêu gữa metanol, xăng và MTBE

Đặc tính nhiên liệu

MetanolMTBE Xăng

Công thức hóa học

CH3OH C4H9- (Quy ước)

Trọng lượng phân tử

32

(kg/kmol)
Chỉ số octan (RON)
Chỉ số octan (MON)
Chỉ số xetan
Áp lực bay hơi Reid
(kPa) ở 15oC

110
92
5
31,7

0,73

OCH3 C8H15
88

111

116

97

100

86

-

8

57

75

0,74

0,75
21


Khối lượng riêng (kg/l) 19,8

ở 15oC

35,2

41,3

15,6

26,0

31

6,5

-

14,7

65

53

30 – 190

Giá trị calo thấp hơn
(MJ/kg) ở 15oC
Giá trị calo thấp hơn
(MJ/l) ở 15oC
Tỉ lệ không khí/ nhiên
liệu (kg không khí/ kg

nhiên liệu)
Nhiệt độ sôi (oC)

3.3.Sản xuất diezel sinh học (biodiezel)
Dầu diezel có nguồn gốc hữu cơ được gọi là biodiezel phân biệt với diezel
nguồn gốc dầu mỏ được gọi là petrodiezel.
Biodiezel được sản xuất từ dầu thực vật và mỡ động vật. Dầu thực vật ép từ
các loại quả hạch và hạt chứa dầu từ lâu đã được sử dụng làm nhiên liệu. Việc sản
xuất dầu thực vật làm nhiên liệu chạy xe cộ cũng giống như sản xuất dầu ăn. Hiện
nay ở châu Âu, dầu thực vật làm nguyên liệu sản xuất biodiezel chủ yếu có nguồn
gốc từ hạt cây cải dầu và biodiezel ở đây được mang tên este metylic (hay
metyleste) hạt cải dầu (còn được gọi là RME - rapeseed metylester).
Nguyên liệu sinh khối

22


Dầu thực vật được sử dụng sản xuất biodiezel thường được chiết tách từ các
loại hạt một số cây có dầu hoặc mỡ động vật như hạt cải dầu, đậu tương, cọ, hướng
dương cải hoa vàng, tảo, dầu thực vật thải của công nghệ sản xuất dầu ăn, mỡ lò
mổ…
Người ta cho rằng dầu thực vật là nguồn sản xuất biodiezel chất lượng cao
nhất nhưng nguồn nguyên liệu này khá khan hiếm, chính vì vậy mà các nguồn dầu
thực vật thải, mỡ động vật (biolipid) thậm chí cả rêu, tảo cũng đang là nguồn
nguyên liệu bổ sung đầy hứa hẹn, mặc dù quá trình tiền xử lý sẽ phức tạp hơn.
Công nghệ chuyển hóa biodiezel
Hạt hoặc sinh khối chứa dầu thực vật được sử dụng trong sản xuất biodiezel
sẽ được ép hoặc chiết bằng dung môi (như hexan) để tách dầu. Phương pháp sau
cho năng suất dầu hiệu quả cao hơn.
Dầu thực vật có thể sử dụng thẳng làm nhiên liệu diezel cho động cơ diezel

với điều kiện phải cải tiến động cơ thích hợp vì loại dầu này có một số đặc tính bất
lợi đối với động cơ bình thường (độ nhớt cao, không ổn định về nhiệt, có chứa
nước và chỉ số xetan thấp). Người ta đã khắc phục các nhược điểm trên của dầu
thực vật bằng phương pháp este hóa nó để biến các phân tử cấu trúc mạch nhánh
của dầu (triglyxerit) thành phân tử cấu trúc mạch thẳng nhỏ hơn (metyleste), phù
hợp với thành phần diezel dầu mỏ. Metyleste của dầu thực vật chính là biodiezel.
Phần lớn các metyleste được sản xuất thông qua quá trình este hóa dầu thực
vật với xúc tác và metanol. Triglixerit dầu thực vật sẽ tác dụng với metanol với sự
có mặt của xúc tác. Quá trình este hóa xảy ra ở nhiệt độ từ 50 - 66 oC, áp suất 1,4
bar, trong hệ thống lò kín.

23


Bước đầu tiên trong quá trình sản xuất biodiezel là trộn metanol với chất xúc
tác - thường là NaOH (hoặc KOH) để tạo ra natri (hoặc kali) metoxit. Lượng
metanol cần dư để đảm bảo chuyển hóa hoàn toàn triglyxerit dầu thực vật thành
este, bởi vì các phản ứng đầu tiên xảy ra với axit béo tự do trong dầu sẽ xà phòng
hóa. Hỗn hợp xúc tác/ metanol được rót vào bình phản ứng kín để tránh bay hơi
metanol. Sau đó dầu thực vật được bổ sung. Khuấy đều hỗn hợp, để yên từ 1 - 8
giờ. Nồng độ của axit béo tự do và nước phải được xử lý hợp lý, bởi vì nếu nồng
độ này quá cao sẽ gây khó khăn trong quá trình xà phòng hóa và khó tách glyxerin
phụ phẩm.
Sau khi dầu thực vật được este hóa, hỗn hợp được trung hòa bằng axit.
Metanol được thu hồi và tái sử dụng.Trong hỗn hợp còn lại hai sản phẩm chính là
biodiezel và glixerin, nên hình thành 2 lớp trong bình phản ứng. Glyxerin nặng hơn
ở bên dưới được tách khỏi bình cùng với xà phòng và sẽ được trung hòa. Muối kali
thu được từ quá trình trung hòa này có thể thu hồi để làm phân bón. Glyxerin tinh
khiết còn lại có thể sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp mỹ phẩm hoặc dược
phẩm. Sau khi tách glyxerin, dung dịch màu vàng hổ phách là metyleste. Metyleste

được rửa bằng nước để khử tạp chất còn lại. Độ tinh khiết của metyleste thu được
đạt khoảng 98%. Có thể thu được metyleste tinh khiết hơn nữa nếu xử lý bằng
phương pháp chưng cất. Biodiezel có thể bảo quản lâu dài hơn dầu thực vật và có
thể sử dụng cho các động cơ diezel.
Về nguyên tắc sản xuất biodiezel từ dầu ăn thải và mỡ động vật cũng tương
tự như với dầu thực vật ép thẳng. Tuy nhiên do dầu ăn thải thường không ổn định
về cả hàm lượng nước lẫn axit béo tự do trong dầu, vì vậy trước khi este hóa cần
xác định rõ hàm lượng từng thành phần để xử lý và bổ sung xúc tác và metanol cho
hợp lý.
24


Mỡ động vật cũng là các triglyxerin với hàm lượng khác dầu thực vật nên
cần điều chỉnh trước khi este hóa. Quá trình este hóa để sản xuất biodiezel có thể
sử dụng xúc tác là axit nhưng hầu hết biodiezel ngày nay được sản xuất với xúc tác
kiềm vì nhiệt độ phản ứng thấp, hiệu suất thu hồi sản phẩm cao, thời gian phản ứng
và phản ứng phụ ở mức thấp.

Sử dụng biodiezel
Biodiezel phù hợp với động cơ diezel, cả về độ nhớt, khối lượng riêng lẫn
chỉ số xetan vì nó giống với diezel dầu mỏ. Bảng 3 cho các thông số so sánh giữa
biodiezel và diezel dầu mỏ.
Bảng 3.3: So sánh một số chỉ tiêu giữa biodiezel (RME) và diezel
Đặc tính nhiên liệu

BiodiezeDiezel
l RME

Công thức hóa học
Trọng lượng phân tử

(kg/kmol)
Chỉ số xetan
Khối lượng riêng (kg/l)

Metylest (Quy
e
296
54

ước)
C12H26
170 - 200
50

25


×