Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NGHỀ LUẬT SƯ Ở ANH VÀ MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.41 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT


ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT
Tên đề tài:

NGHỀ LUẬT SƯ Ở ANH VÀ MỸ

Giảng viên:

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016


MỤC LỤC


1.

TÌM HIỂU NGHỀ LUẬT SƯ Ở ANH VÀ MỸ

2. Giới thiệu nghề luật sư
Nghề luật sư được cho là tiêu biểu nhất và thể hiện đầy đủ nhất những
đặc trưng của nghề luật. Nghề luật sư không giống như những nghề bình
thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì
người luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Luật sư là
những người được trọng vọng trong xã hội bởi họ đóng vai trò quan trọng
trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát triển xã hội.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định
của pháp luật của mỗi quốc gia, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá


nhân, cơ quan, tổ chức. Thu nhập của luật sư là từ các khoản thù lao do khách
hàng trả. Các hình thức hành nghề luật sư ở mỗi nước là khác nhau. Sau đây ta
hãy cùng tìm hiểu các loại hình luật sư tại Anh và Mỹ.
3. Nghề luật sư ở Anh
3.1. Sự ra đời nghề luật sư ở Anh
Nghề luật sư ở Anh được xây dựng trên mô hình tổ chức tư pháp và tố
tụng của Anh được hình thành từ thế kỷ XII-XIII. Từ những năm 1000 Công
nguyên, nhu cầu cần có các chuyên gia am hiểu pháp luật đã xuất hiện ở nước
Anh thời Trung cổ. Vào thời điểm đó, tòa án hoàng gia Anh được tổ chức bằng
hình thức xét xử lưu động. Theo đó, mỗi vị thẩm phán/quan tòa (judges) được
đức vua phân công phụ trách một khu vực nhất định. Vì các khu vực được giao
có diện tích rất rộng, trong khi khu vực tập trung dân cư lại cách xa nhau, nên
các quan tòa thường cưỡi ngựa du hành từ thị trấn này sang thị trấn khác để xét
xử.
Trên những chặng đường như vậy, đôi khi các vị quan tòa tình cờ gặp
nhau rồi ghé vào quán rượu ven đường trao đổi. Họ phát hiện ra có những vụ
việc rất tương đồng nhưng mỗi người trong số họ lại chọn cách phân xử khác
nhau. Dần dần họ bắt đầu nhận ra mối nguy từ tình trạng này. Bởi đa số người
dân chỉ hiểu và trông đợi vào một quan niệm công lý đơn giản rằng tất cả mọi
người phải được đối xử giống nhau trong các hoàn cảnh giống nhau, vì vậy nếu
một anh nông dân bị thua kiện nào đó tâu lên vua rằng anh ta đã không được
phân xử giống như các trường hợp tương tự khác, các quan tòa không chỉ mất
việc mà còn có nguy cơ mất đầu.
Từ đó, họ quyết định gặp nhau thường xuyên để trao đổi và thảo luận
các vụ việc đã xét xử. Thế là trong một quán trọ bên đường nào đó, các quan
3


tòa ngồi lại xem xét những trường hợp có tình tiết (facts) hoặc vấn đề pháp lý
(legal issues) giống nhau để cùng thống nhất hướng giải thích, lập luận

(reasoning) và cách phân xử (decision). Từ đây học thuyết án lệ (doctrine of
stare decisis) hình thành. Theo đó, các quan tòa xét xử dựa trên quyết định
trước đó của đồng nghiệp trong một vụ việc tương tự, hay còn gọi là án lệ
(precedent). Qua thời gian, các án lệ được tham chiếu và áp dụng tương tự
nhiều lần trở thành luật chung (common law) có hiệu lực trên toàn lãnh thổ
nước Anh.
Khi người dân Anh dần nhận ra các vị quan tòa có xu hướng dựa theo án
lệ để xét xử, họ bắt đầu tìm đến những người có hiểu biết về luật pháp để hỏi
xin ý kiến. Những người này do thường xuyên theo dõi các phiên tòa nên có
thể chỉ ra kết cục mà quan tòa sẽ giải quyết cho vụ tranh chấp, từ đó cho lời
khuyên liệu có nên bỏ công sức và tiền của đem tranh chấp. Thông thường, các
hướng dẫn và khuyến nghị pháp lý (legal advice) được đưa ra trong buổi tư vấn
(an interview) giữa luật sư và thân chủ.
Ngoài ra, trong đa số trường hợp, khi tham gia vào một tranh chấp dân
sự hay có liên quan trong vụ án hình sự, việc có một luật sư đứng ra biện hộ (to
defend) cho mình sẽ giúp những lý lẽ từ phía bạn trở nên thuyết phục hơn.
Quan trọng hơn, khi một cá nhân bị truy tố ra tòa về tội hình sự, người đó
không thể có đủ chuyên môn và khả năng thu thập chứng cứ bảo vệ mình. Vì
vậy phải cần đến sự trợ giúp của luật sư.
3.2. Tiêu chuẩn hành nghề luật sư ở Anh
Ở Anh, để trở thành luật sư không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật
nhưng phải có một bằng đại học khác. Và những người không có bằng cử nhân
luật mà đã có một bằng đại học khác chỉ có thể tham gia học nghề luật sư sau
khi đã tham dự khóa học kéo dài một năm để vượt qua kỳ thi sát hạch nghề
nghiệp phổ thông (CPE) hoặc học để lấy bằng Diplom về luật.
Các luật sư Anh chịu sự quản lý của các tổ chức luật sư – Inns of Court 1
và Law Society2. Người muốn trở thành luật sư biện hộ phải là một khoá sinh
của Inn of Court để được đào tạo và phải thi đỗ trong kỳ thi công nhận luật sư
biện hộ. Sau khi tốt nghiệp trường luật (trung bình mất 7 năm do yêu cầu phải
có trước đó một bằng đại học), bạn phải dành ra một năm hoàn thành Bar

1 Inns of Court hình thành từ đầu thế kỷ 14 - thực ra là khu ăn ở của các luật gia trong Toà án. Hiện tại ở
Anh có 4 Inn of Court là Lincol’s Inn, Inter Temple, Middle Temple và Gray’s Inn. Mỗi Inn of Court có một
nhà thờ, một thư viện và một đại sảnh – nơi mọi người ăn uống khi đến bữa, đồng thời cũng là nơi hội họp và
giảng dạy về thực tiễn.
2Xem mục 2.4 về tổ chức xã hội – nghề nghiệp tiêu biểu của luật sư ở Anh

4


School (tên gọi chung cho Bar Professional Training Course và Qualifying
Sessions). Chỉ khi vượt qua kỳ thi cuối khóa của BPTC và tham dự đủ 12 buổi
bắt buộc tại một trong các Inns of Court bạn mới được công nhận năng lực
tranh tụng (being called to the bar). Tiếp đến bạn phải dành thêm 1 năm thực
tập (pupillage) tại các văn phòng luật sư tranh tụng (barristers’ chamber), các
hãng luật tư vấn (solicitors’ firm) hoặc giúp việc cho thẩm phán. Trong thời
gian một năm này, bạn được yêu cầu hoàn thành khóa đào tạo kỹ năng tranh
tụng Advocacy Training Course trong sáu tháng đầu (thường gọi là first six) và
khóa đào tạo kỹ năng quản lý trong việc thực hành luật Practice Management
Course 6 tháng còn lại (second six). Sau khi trải qua hai khóa học này và có
được đánh giá tốt từ nơi thực tập, lúc đó bạn mới được Hội đồng của Inn of
Court (Bencher of Inn) công nhận luật sư biện.
Để trở thành luật sư tư vấn chỉ cần học 9 tháng tại Trường luật của Hội
Luật sư (Law Society) với các môn học gắn với thực tế như lập hợp đồng bất
động sản, luật thuế, luật thừa kế, luật thương mại, luật công ty…, thi đỗ kỳ thi
chuyên môn do Hội Luật sư tổ chức và trải qua hai năm tập sự ở một trong
những văn phòng luật sư tư vấn với tư cách nhân viên (article clek).
Như vậy để một cử nhân luật trở thành luật sư tranh tụng hay luật sư tư
vấn đều bao gồm hai giai đoạn: (1) Các cử nhân luật phải tham gia vào khóa
đào tạo nghề một năm, (2) Giai đoạn thực tập: để trở thành luật sư tư vấn, tốt
nghiệp sinh phải cam kết thực tập tại một công ty luật sư tư vấn trong vòng hai

năm, còn để trở thành luật sư tranh tụng, tốt nghiệp sinh sẽ phải thực tập một
năm dưới sự giám sát của một luật sư tranh tụng.
3.3. Nhận thức về vai trò luật sư và hành nghề luật sư ở Anh
Nước Anh theo hệ thống luật án lệ (Common Law) và ở đây chỉ tồn tại
hai hình thức hành nghề luật sư: Luật sư tư vấn (solicitors) và luật sư biện hộ
(barristors).
Về số lượng luật sư tư vấn đông hơn rất nhiều so với luật sư biện hộ và
hành nghề trên toàn lãnh thổ nước Anh. Năm 1990, đạo luật về dịch vụ pháp lý
và tòa án được thông qua, theo đó các luật sư tư vấn cũng đóng một vai trò
nhất định trong các vụ kiện (nhưng chỉ có ở các tòa án cấp dưới). Trước tòa,
luật sư tư vấn mặc áo dài đen nhưng không bao giờ đội tóc giả. Hoạt động chủ
yếu của họ là thuộc lĩnh vực tư vấn pháp luật, ngoài ra họ còn độc quyền trong
một số lĩnh vực. Luật sư tư vấn có quan hệ trực tiếp với khách hàng, thực hiện
nhiệm vụ theo yêu cầu của khách hàng.

5


Hoạt động của các luật sư biện hộ là bào chữa, bảo vệ quyền lợi của
khách hàng trước các tòa án. Luật sư biện hộ không được liên hệ trực tiếp với
khách hàng mà chỉ biện hộ tại Toà án, mọi giao dịch với khách hàng đều do
luận sư tư vấn chịu trách nhiệm. Luật sư biện hộ nhận yêu cầu và thù lao thông
qua luật sư tư vấn. Luật sư biện hộ không phải chịu trách nhiệm về những sai
lầm trước tòa và không được kiện nếu khách hàng không trả thù lao bởi nghề
luật sư bào chữa được coi là nghề phục vụ công lý.
Theo kết quả thống kê của một hãng luật ở Anh, số luật sư làm việc
trong các công ty luật tăng đến 42,4% trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến
năm 2010 và số luật sư làm việc cho lĩnh vực công đã tăng gần 70% kể từ năm
1997, đưa tổng số luật sư có đủ các chứng chỉ hành nghề lên 4.631 người. Như
vậy, ở Anh hiện nay cứ 400 người dân thì có một luật sư. Ngoài ra, năm 2010,

Anh còn có 117.862 cố vấn pháp lý được cấp chứng chỉ hành nghề, có thể làm
việc cho các công ty luật và khoảng 15.000 luật sư khác làm việc tại các tòa án,
được các thẩm phán chỉ định bào chữa trong các vụ việc. Bên cạnh những luật
sư, cố vấn luật được đào tạo bài bản này, ở Anh cũng có khoảng 32.266 cố vấn
pháp lý không cần có chứng chỉ hành nghề nhưng vẫn được hành nghề. Nhiều
người trong số này làm việc riêng cho các công ty hoặc khu vực hành chính
công, thực hiện các công việc nội bộ, chứ không tư vấn cho khách hàng bên
ngoài.
3.4. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở Anh
Một số tổ chức xã hội – nghề nghiệp tiêu biểu của luật sư ở Anh:
Hội luật sư của Anh và xứ Wales (The Law Society) là cơ quan chuyên
môn, độc lập được thành lập cho luật sư vào năm 1825, đại diện và hỗ trợ cho
các thành viên, thúc đẩy các tiêu chuẩn chuyên nghiệp cao nhất và các quy
định của pháp luật.
Hội đồng luật sư của Anh và xứ Wales (Bar Council of England and
Wales): được xem như là Liên đoàn luật sư ở Anh được thành lập vào năm
1894 đại diện cho lợi ích của những luật sư ở Anh. Liên đoàn hoạt động để
thúc đẩy và phát triển dịch vụ, lợi ích của liên đoàn trong tất cả các vấn đền
liên quan đến lợi ích nghiệp đoàn, lợi ích công, chống phân biệt đối xử hoặc
trong bất kỳ lĩnh vực nào ảnh hưởng đến sự công bằng và hoạt động của tổ
chức.
Hội luật sư thuộc lĩnh vực thương mại (Commercial Bar Association,
COMBAR): Tổ chức được thành lập vào tháng 7 năm 1989, kết nối những luật
sư hoạt động dưới danh nghĩa cá nhân họ trong lĩnh vực luật thương mại và

6


luật quốc tế. Thành viên của COMBAR làm việc chủ yếu trong 36 văn phòng ở
London trong lĩnh vực luật thương mại và luật quốc tế.

Đoàn luật sư trẻ ở Châu Âu (European Young Bar Association): Đây là
một hiệp hội phi lợi nhuận, được thành lập vào ngày 23 tháng 5 năm 1993 tại
Prague, Cộng hoa Séc. Hiện tại, tổ chức này đại diện cho hơn 20.000 luật sư trẻ
và là tổ chức luật sư trẻ nhất trên thế giới. Tổ chức được thành lập để khuyến
khích sự liên kết giữa các luật sư để thúc đẩy lợi ích và sự thịnh vượng của các
luật sư trẻ trên khắp châu Âu trong đó có luật sư ở Anh3.
4. Nghề luật sư ở Mỹ
4.1. Sự ra đời nghề luật sư ở Mỹ
Nghề luật sư ở Mỹ ra đời muộn hơn so với nghề luật sư ở các nước châu
Âu như Anh, Pháp, Đức. Trong thời kỳ thuộc địa ở Mỹ (1607-1776), không có
các trường luật để đào tạo những người quan tâm đến chuyên ngành luật. Một
số người trẻ tuổi đã đến Anh để theo học luật và tham gia vào các hội quán của
Hội luật gia Anh. Những hội quán này không phải là các trường luật chính
thức, nhưng chúng là một phần của văn hóa pháp lý Anh quốc và giúp cho các
sinh viên gần gũi hơn với luật pháp Anh. Những người mong muốn theo nghề
luật trong thời kỳ này thông thường được thực hiện thông qua hình thức học
nghề (apprenticeship). Trong thời gian học nghề, một thực tập sinh sẽ được tiền
bối của mình, vốn là một luật sư đang hành nghề, hướng dẫn đọc luật và truyền
đạt kinh nghiệm trong nghề. Abraham Lincoln, cố tổng thống thứ 13 của Hoa
Kỳ, cũng đã trở thành luật sư bằng cách thức đào tạo như vậy.
Sau cuộc Cách mạng Mỹ (1775- 1783), số luật sư tăng lên nhanh chóng
do cả việc giáo dục pháp lý và quyền hành nghề luật sư không bị giới hạn chặt
chẽ. Phương pháp học việc tiếp tục là cách thức phổ biến nhất để được đào tạo
pháp luật nhưng các trường luật cũng đã bắt đầu xuất hiện. Những trường luật
đầu tiên bắt nguồn từ những văn phòng luật chuyên về đào tạo thư ký và người
học việc. Trường sớm nhất như vậy là Trường Litchfield ở Connecticut, được
thành lập năm 1784. Trường này dạy theo phương pháp bài giảng chủ yếu tập
trung vào luật thương mại. Cuối cùng, một số trường đại cương đã bắt đầu đưa
môn luật thành một phần trong chương trình giảng dạy chung, và trong năm
1817 một trường luật độc lập đã được thành lập ở trong trường Đại học

Harvard.
3 Một số tổ chức xã hội – nghề nghiệp tiêu biểu của luật sư ở Anh: />
7


Trong nửa cuối thế kỷ XIX, số trường luật tăng mạnh, từ 15 trường năm
1850 đến 102 trường năm 1900. Các trường luật vào thời gian đó và những
trường luật ngày nay có hai điểm khác biệt quan trọng. Thứ nhất, các trường
luật vào thời gian đó không thường xuyên yêu cầu phải học qua đại cương. Thứ
hai, chương trình giảng dạy tiêu chuẩn của trường luật vào năm 1850 có thể
được hoàn thành trong một năm. Vào thời gian sau này của những năm 1800,
nhiều trường luật đã xây dựng các chương trình hai năm.
Năm 1870 đã bắt đầu có những thay đổi quan trọng ở trường Đại học
Harvard có tác động lâu dài đối với đào tạo pháp luật. Đại học Harvard đã xây
dựng những yêu cầu đầu vào/tuyển chọn khắt khe hơn; các sinh viên không có
bằng đại cương sẽ phải thi đầu vào. Khóa học của trường luật tăng lên thành
hai năm vào năm 1871 và thành ba năm vào năm 1876. Tương tự như vậy, các
sinh viên bắt buộc phải vượt qua những kỳ thi cuối của năm thứ nhất trước khi
tiếp tục theo học các khóa học của năm thứ hai.
Tuy nhiên, thay đổi lâu dài nhất là việc bắt đầu áp dụng phương pháp
giảng dạy theo tình huống/vụ án. Phương pháp này thay thế các bài giảng và
sách giáo khoa bằng các tuyển tập tình huống (tập hợp báo cáo các vụ án trên
thực tế) được thiết kế để giải thích những nguyên tắc luật pháp, chúng có ý
nghĩa gì, và chúng được phát triển như thế nào. Các giáo viên sử dụng phương
pháp Xô-crát để hướng dẫn sinh viên khám phá những khái niệm pháp luật
trong các vụ án. Các trường khác cuối cùng cũng áp dụng phương pháp của
Đại học Harvard, và phương pháp giảng dạy theo tình huống/vụ án vẫn là
phương pháp giảng dạy được thừa nhận ở nhiều trường luật ngày nay.
Do nhu cầu về các luật sư tăng lên trong những năm cuối thập niên 1800
nên số trường luật mới được thành lập cũng tăng lên tương ứng. Việc mở một

trường luật cũng không quá tốn kém, và số trường học ban đêm sử dụng các
luật sư và thẩm phán làm cán bộ giảng dạy bán thời gian bắt đầu xuất hiện. Các
tiêu chuẩn khi đó thường lỏng lẻo và chương trình giảng dạy dường như chú
trọng đến tập quán địa phương. Đóng góp quan trọng của những trường này là
ở chỗ chúng giúp cho việc đào tạo trở nên dễ dàng hơn đối với các sinh viên
nghèo, nhập cư và thuộc tầng lớp lao động.
Trong thế kỷ XX, số người muốn nghiên cứu luật đã tăng lên mạnh mẽ.
Cho đến những năm 1960, số người nộp đơn vào các trường luật đã tăng đến
mức gần như tất cả các trường đều trở nên kén sinh viên hơn. Đồng thời, để
thích ứng với sức ép và tranh chấp xã hội, nhiều trường luật đã bắt đầu tích cực
tuyển dụng những người nộp đơn là phụ nữ và thuộc các nhóm thiểu số.

8


Cũng đến những năm 1960, chương trình giảng dạy ở một số trường luật
đã mở rộng sang những mối quan tâm xã hội như luật các quyền công dân và
các vấn đề về “luật và sự nghèo khổ”. Các khóa học về luật quốc tế cũng được
đưa vào chương trình giảng dạy.
Cuối cùng, việc các luật sư sử dụng quảng cáo ngày càng nhiều đã có
ảnh hưởng sâu sắc đối với nghề luật. Giờ đây, trên các đài truyền hình ở khắp
đất nước, mọi người có thể nhìn thấy các luật sư tiến hành kháng án để thu hút
những khách hàng mới. Hơn nữa, các trung tâm tư vấn pháp luật, được thành
lập do việc sử dụng quảng cáo ngày càng nhiều, đã phát triển nhanh chóng.
4.2. Tiêu chuẩn hành nghề luật sư ở Mỹ
Không phải như ở Việt Nam, nghề luật đòi hỏi phải có bằng cấp, tức là
bạn phải tốt nghiệp đại học. Cụ thể hơn, các trường đại học Mỹ không cấp
bằng Cử nhân Luật. Muốn học luật ở Mỹ bạn phải hoàn thành 4 năm đại học ở
một trường nào đó, sau đó là 3 năm ở một trường luật được Hội luật sư quốc
gia công nhận và cuối cùng phải trải qua kỳ thi luật (BAR TEST).

Các trường luật danh tiếng hằng năm nhận rất nhiều hồ sơ của các ứng
viên đã là Tiến sĩ ở một ngành nào đấy và muốn đổi nghề làm luật sư. Hội
đồng xét tuyển sẽ căn cứ vào điểm số (điểm trung bình toàn khoá học, điểm
của từng môn học) mà bạn đã từng học, thư giới thiệu, bài viết giới thiệu bản
thân,… và một kì thi tuyển đầu vào (tuỳ từng trường). Mặc dù điểm số bài thi
đầu vào không phải là thước đo hoàn toàn chính xác khả năng lý luận cần thiết
của một luật sư nhưng các trường thường đặt trọng số tương đối lớn đối với bài
thi này. Phương pháp dạy - học ở trường luật của Mỹ rất khác so với phương
pháp của các trường ở Pháp và ở Anh. Sinh viên phải đọc tài liệu trước khi đến
lớp (theo yêu cầu của Giáo sư). Tài liệu bao gồm: các bản án, văn bản pháp
luật, học thuyết pháp lý (đoạn trích), một số bài viết kinh tế và xã hội học.
Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng phương pháp hùng biện, theo đó
sinh viên làm việc theo nhóm dưới sự chỉ đạo của các giáo sư, trình bày về
những gì họ đã đọc, những vấn đề mà họ nhận thức được, giáo sư sẽ đặt câu
hỏi cho các học viên, để làm cho họ phát hiện được mối quan hệ giữa vấn đề
đang nghiên cứu và những vấn đề có liên quan.
Thời gian học luật thường là 3 năm tập trung, khối lượng bài vở của luật
cực kỳ nhiều. Sinh viên phải đọc luật, án lệ, và viết các bài bình luận … Ngoài
ra, sinh viên luật năm nhất phải học qua lớp dạy kỹ năng viết để có thể viết bài
cho một tạp chí pháp luật đúng cách (đó cũng là cả một quá trình học tập và
làm quen). Khối lượng bài vở lớn nhưng các hoạt động ngoại khóa của các
9


trường đào tạo luật ở Mỹ vẫn chiếm một mức độ ưu tiên không nhỏ để viết để
chuẩn bị cho việc hành nghề trong tương lai. Họ phải tích cực tham gia phiên
toà diễn tập, hoặc làm biên tập cho tạp chí pháp luật của sinh viên, tư vấn luật
miễn phí cho cộng đồng... Một số trường (như trường luật Harvard) bắt buộc
sinh viên phải làm 40 giờ tư vấn miễn phí cho cộng đồng như là một điều kiện
để tốt nghiệp. Sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng để hành nghề luật sư. Ngoài

ra, ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết với đào tạo nghề trong
chương trình đại học luật. Theo đó, sinh viên tốt nghiệp trường luật chỉ cần qua
thời gian tập sự ngắn là có thể làm việc được. Cách đào tạo này rất khác so với
cách đào tạo ở các nước châu Âu (thường đưa đào tạo luật vào chương trình đại
học cơ bản và sinh viên tốt nghiệp không đủ khả năng hành nghề ngay và
những người muốn hành nghề phải trải qua một khoá đào tạo nghề).
Tuy nhiên, được cấp bằng luật sư không phải mặc nhiên là có thể hành
nghề được. Ở ¾ số Tiểu bang ở nước Mỹ, có bằng đại học là điều kiện cần
nhưng chưa đủ để trở thành luật sư (một số tiểu bang không yêu cầu có bằng
luật là California, Maine, New York, Vermont, Virginia, Washington và
Wyoming và họ có thể tự học khi làm thực tập ở văn phòng luật nào đấy).
Những người được cấp bằng luật sư còn phải trải qua một kỳ thi để được tiếp
nhận vào luật sư đoàn. Tất cả các bang đều quy định tất cả luật sư tiềm năng
(cho dù có bằng luật sư hay không như yêu cầu của một số bang ở Mỹ) đều
phải thi đậu vào một luật sư đoàn nào đó và phải đáp ứng một số tiêu chuẩn về
phẩm chất đạo đức thì mới được hành nghề luật sư. Một số tiểu bang cho phép
đoàn luật sư của tiểu bang được kết nạp các luật sư đăng ký thành viên ở một
đoàn luật sư khác. Tất cả các tiểu bang đều cho phép các luật sư từ tiểu bang
khác được hành nghề ở tiểu bang của mình trong một vụ việc cụ thể và theo
những điều kiện nhất định.
Ở Mỹ không có sự phân biệt giữa luật sư tư vấn và luật sư bào chữa.
Thông thường họ được gọi là lawyer, còn khi đi bào chữa được gọi là attorney.
Luật sư hoạt động dưới sự kiểm soát của Toà án tối cao cấp tiểu bang nơi họ
hành nghề. Khác với những người dạy học ở các trường luật và luật gia doanh
nghiệp không chịu sự kiểm soát của Toà án, nhưng hầu như luôn luôn là thành
viên của Đoàn luật sư của Tiểu bang nào đó, không nhất thiết là tiểu bang nơi
họ hành nghề.
4.3. Nhận thức về vai trò luật sư và hành nghề luật sư ở Mỹ
Tại Mỹ, không có sự phân biệt giữa hai nghề luật sư như ở Anh. Ở đây
tồn tại mô hình “một nghề luật duy nhất” theo đó luật sư có phạm vi hoạt động

10


rất rộng và có hiệu quả. Danh hiệu “luật sư” mang nhiều nghĩa khác nhau. Luật
sư xuất hiện ở tòa án, trước thẩm phán và bồi thẩm đoàn, cũng có luật sư chưa
bao giờ có mặt trong một phiên tòa; ngoài ra còn có các luật sư làm công việc
chuyên môn cho các tập đoàn đa quốc gia, ở các ban quản lý công ty, các luật
sư hành nghề độc lập giúp các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ về các vấn đề pháp
lý như ly hôn, di chúc, chuyển nhượng hoặc tranh chấp tài sản; luật sư đại diện
cho các thân chủ trong những vấn đề mang tính cá nhân; luật sư của chính phủ,
công tố viên, thẩm phán, giảng viên luật, luật sư làm việc cho những tổ chức
của người nghèo hoặc luật sư đấu tranh vì một nền pháp trị tiên tiến. Luật là
nghề ưu tiên hàng đầu cho những người tham gia chính trường. Chính vì vậy
vai trò của các luật sư tại Mỹ là rất lớn. Luật sư tại Mỹ hành nghề tương đối tự
do, được phép quảng cáo, chào hàng, có thể can thiệp vào mọi lĩnh vực pháp
luật, đây cũng là độc quyền của các luật sư.
Nước Mỹ với thể chế liên bang, tính đa dạng của các bang thành viên và
sắc tộc đòi hỏi phải có mô hình tư pháp riêng và mô hình nghề luật thống nhất.
Mô hình này ra đời trong bối cảnh môi trường pháp lý và xã hội đặc thù, ở đó
nhà nước giảm thiểu sự can thiệp vào đời sống xã hội, trong tố tụng áp dụng
nguyên tắc đối kháng, tại phiên toà thẩm phán và bồi thẩm đoàn chỉ căn cứ vào
những gì họ nghe thấy tại phiên toà để đưa ra phán quyết của mình. Trong
phòng xử án luật sư không bảo vệ công lý mà bảo vệ cho lý lẽ của mình. Người
Mỹ có ý thức rằng chỉ cần luật sư giỏi là họ có cơ may thắng kiện và trên thực
tế điều đó không phải là không có cơ sở.
Hoa Kỳ là quốc gia có số người làm nghề luật sư nhiều nhất thế giới, cả
về số lượng cũng như theo tỷ lệ dân số. Theo tài liệu công bố bởi Luật sư đoàn
Hoa Kỳ (American Bar Association), Hoa Kỳ có khoảng trên 1,2 triệu luật sư
trên tổng số dân khoảng 312 triệu, với tỉ lệ khoảng 01 luật sư/300 người dân.
Có nhiều nguyên nhân giải thích vấn đề đội ngũ luật sư đông đảo và lương

bổng cao nhất ở Mỹ. Thứ nhất, nước Mỹ là một nước ưa kiện tụng nhất trên thế
giới nên số số lượng luật sư ở Mỹ rất lớn. Người dân có thể kiện bất kỳ về vấn
đề gì họ thấy cần có sự can thiệp của pháp luật. Thứ hai, cho dù họ không kiện
ai đi chăng nữa thì rất nhiều giao dịch trong xã hội cần thông qua luật sư nếu
muốn chắc ăn. Bạn cần đến luật sư từ việc rất nhỏ như vi phạm giao thông,
khai thuế, cho đến ly dị, thừa kế, các loại giao dịch theo hợp đồng… Dĩ nhiên
là chi phí thuê luật sư rất cao. Ví dụ bạn chạy xe quá tốc độ cho phép bị cảnh
sát bắt và bạn muốn nhờ luật sư thì chi phí tùy theo mức độ nặng nhẹ và tiểu
bang mà bạn vi phạm có giá dao động ít nhất từ $300 trở lên.

11


Đa số các luật sư Mỹ hành nghề với danh nghĩa cá nhân (70%) hoặc liên
kết với duy nhất một đồng nghiệp khác (15%). Tuy nhiên, ở những thành phố
lớn, luật sư thường làm việc trong một Văn phòng luật bao gồm khoảng từ 10
đến 200 luật sư. Một số ít luật sư theo chuyên ngành luật sư tranh tụng, tham
gia hoạt động tố tụng trước phiên toà (hỏi cung và phản cung) trong các vụ án
dân sự và hình sự. Một số khác theo chuyên ngành tương tự như luật sư công
của Pháp. Còn lại đa số luật sư hoạt động ngoài lĩnh vực tranh tụng, thực hiện
vai trò tương tự như công chứng viên, nhà tư vấn pháp luật, nhà tư vấn về thuế.
Rất nhiều luật sư được tuyển dụng tại các cơ quan hành chính, các doanh
nghiệp Nhà nước hoặc tư nhân.
Các luật sư của Mỹ nộp đơn xin đào tạo chuyên ngành trong rất nhiều
hoàn cảnh khác nhau. Một số môi trường làm việc có lợi nhuận và uy thế cao
hơn nhiều so với những nơi khác. Điều này đã dẫn đến cái gọi là sự phân tầng.
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ uy thế là loại
chuyên ngành luật và loại khách hàng được phục vụ. Các luật sư với chuyên
ngành riêng phục vụ cho các hãng kinh doanh và tổ chức lớn chiếm nửa trên;
còn những người đại diện cho lợi ích của các cá nhân thuộc nửa dưới.

Ở tầng trên của bậc thang danh vọng là các công ty luật lớn của quốc
gia. Luật sư trong các hãng này từ trước đến nay được biết đến không phải nhờ
xuất hiện ở tòa án, mà nhờ những tư vấn cho khách hàng. Khách hàng phải có
khả năng chi trả cho những chuyên gia xuất sắc này, và do vậy họ thường là
các doanh nghiệp lớn hơn là các cá nhân. Tuy nhiên, nhiều công ty luật lớn của
quốc gia thường cung cấp các dịch vụ pháp luật “probono” (tiếng Latinh có
nghĩa là “hàng hóa công cộng” hay miễn phí) cho các quyền công dân, tự do
công dân, lợi ích người tiêu dùng, và các vấn đề về môi trường.
Các công ty luật lớn của quốc gia có nhiều thành viên và người cộng tác.
Các thành viên sở hữu công ty luật và được trả một phần trong lợi nhuận của
công ty. Những người cộng tác được trả lương và thực chất là làm việc cho các
thành viên. Những công ty lớn này cạnh tranh để có được những sinh viên xuất
sắc nhất tốt nghiệp từ các trường luật quốc gia. Những công ty luật uy tín nhất
có từ 250 luật sư trở lên và cũng tuyển dụng hàng trăm người khác làm công
việc bán pháp lý (những người không phải là luật sư nhưng được đào tạo
chuyên biệt để xử lý nhiều thủ tục thường nhật của công việc pháp lý), các nhà
quản lý, quản thủ thư viện và thư ký.
Ở một mức độ thấp hơn những người làm việc cho các công ty luật lớn
của quốc gia là những người được các doanh nghiệp lớn tuyển dụng làm luật sư
riêng. Nhiều doanh nghiệp sử dụng các công ty luật của quốc gia như nguồn cố
12


vấn bên ngoài. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này ngày càng có xu hướng thuê
nhiều luật sư được trả lương của riêng họ làm cố vấn nội bộ. Bộ phận pháp chế
của một vài doanh nghiệp có quy mô lớn hơn so với của các hãng tư nhân. Hơn
nữa, các doanh nghiệp này còn cạnh tranh với các công ty luật lớn để có được
những sinh viên luật xuất sắc nhất.
Thay vì đại diện cho doanh nghiệp tại Tòa án (một nhiệm vụ thường
được xử lý bởi nguồn cố vấn bên ngoài trong trường hợp cần thiết), bộ phận

pháp chế xử lý hàng loạt những vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp hiện nay
gặp phải. Chẳng hạn, bộ phận pháp chế giám sát hoạt động của nhân viên
doanh nghiệp để bảo đảm những hoạt động này tuân thủ các quy định của liên
bang và bang về thuê và thôi việc người lao động. Các luật sư của doanh
nghiệp có thể cố vấn cho hội đồng quản trị về những vấn đề như thỏa ước hợp
đồng, sáp nhập, bán cổ phần và những hoạt động kinh doanh khác. Các luật sư
của công ty cũng có thể đào tạo các nhân viên khác về những quy định luật
pháp áp dụng trong công việc cụ thể của họ và bảo đảm rằng họ tuân thủ những
quy định đó. Bộ phận pháp chế của một công ty lớn cũng hoạt động như là cầu
nối với nguồn cố vấn bên ngoài.
Hầu hết các luật sư của Mỹ làm việc trong nửa dưới của nghề luật xét về
danh vọng/uy tín và không đòi hỏi mức lương cao như trong các công ty luật
lớn của quốc gia và các doanh nghiệp hàng đầu. Tuy nhiên, họ tham gia vào rất
nhiều hoạt động và thường thấy họ trong và ngoài giờ làm việc tại các phòng
xử án của nước Mỹ. Đó là những luật sư đại diện cho khách hàng trong các vụ
kiện tai nạn cá nhân, khởi tố và bào chữa cho những người bị buộc tội hình sự,
đại diện cho các ông chồng và bà vợ trong các vụ ly hôn, giúp mọi người tiến
hành các giao dịch về bất động sản và giúp mọi người soạn di chúc - đó chỉ là
một số ít trong các hoạt động của họ.
Các luật sư làm việc cho chính phủ thường thuộc nửa dưới của nghề luật.
Một vài người, chẳng hạn tổng chưởng lý Mỹ và tổng cố vấn pháp luật của Mỹ,
chiếm những vị trí đầy quyền thế, nhưng đa phần những người khác làm việc
cực nhọc ở những vị trí thấp kém và được trả lương ít ỏi. Rất nhiều luật sư lựa
chọn những nghề khác như thẩm phán ở Tòa án cấp liên bang hoặc bang.
Một khác biệt khác về sự chuyên môn hóa trong nghề luật là giữa các
luật sư của bên nguyên và bên bị. Các luật sư của bên nguyên khởi xướng các
vụ kiện, còn các luật sư của bên bị bào chữa cho những người bị buộc tội có
hành động phạm pháp trong các vụ án dân sự và hình sự.

13



4.4. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở Mỹ
Luật sư đoàn Hoa Kỳ (American Bar Association, ABA) là tổ chức quốc
gia về ngành luật ở Mỹ. Năm 2002 với hơn 400.000 thành viên trong đó có
hơn 350.000 luật sư, ABA là hiệp hội nghề nghiệp tự nguyện lớn nhất thế giới.
Hiệp hội này đã đóng hai vai trò vừa phục vụ cho nghề luật vừa cho công
chúng, và số lượng thành viên chiếm khoảng một nửa tổng số luật sư đang làm
việc ở Mỹ.
Hội đồng lãnh đạo của ABA gồm 38 thành viên có thẩm quyền và hành
động nhân danh ABA, đại diện cho quyền lợi của các thành viên, có nhiệm kỳ
ba năm, trong đó có đại diện một số bang, theo độ tuổi và giới tính, nghề
nghiệp, dân tộc (trong đó đặc biệt có đại diện một sinh viên luật không có
quyền biểu quyết), cùng 6 thành viên đương nhiên là Chủ tịch và một số chức
danh lãnh đạo ABA.
ABA cam kết thực hiện nhiệm vụ của một hiệp hội luật sư quốc gia bao
gồm: phục vụ các thành viên, cải thiện các nghề luật pháp, ngăn chặn sự phân
biệt đối xử và cải thiện tính đa dạng và tăng cường pháp quyền tại Hoa Kỳ và
trên thế giới. Được thành lập năm 1878, ABA cam kết hỗ trợ các nghề pháp lý
thông qua các nguồn thực tiễn cho các chuyên gia pháp luật đồng thời tăng
cường quản trị công lý, cấp phép cho các trường luật, thành lập các quy chuẩn
đạo đức nghề nghiệp, … Các luật sư, sinh viên trường luật và những người
quan tâm tới luật pháp và nghề luật đều có thể đăng ký thành viên tại ABA.4
Trụ sở chính của ABA được đặt tại Chicago, bên cạnh một văn phòng
đại diện lớn tại Washington D.C.
Dù quyền lực thực sự trong việc công nhận và quản lý luật sư là của các
bang và các cơ quan tư pháp khác ở Mỹ nhưng ABA là nhân tố chính trong
việc hình thành nên những kim chỉ nam về đạo đức cho nghề luật thông qua
việc ban hành.Những quy định hình mẫu của ABA về Hành vi nghề nghiệp.
ABA cũng có tiếng nói rất quan trọng trong những vấn đề liên quan đến luật và

nghề luật trước Quốc hội và cơ quan hành pháp ở Washington D.C. Ví dụ như
trong 25 năm qua ABA đã đóng vai trò quan trọng trong phong trào pháp
quyền quốc tế

4 Giới thiệu về Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ (ABA): />ItemID=7044

14



×