Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.85 KB, 45 trang )

Trần Thị Thanh Bình. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi
09/08/2008
Trần Thị Thanh Bình
Năm sinh: 25.03.1973
Cơ quan công tác : Phòng Đào tạo - Trường ĐH KHXH&NV
ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2.Mục đích nghiên cứu
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5.Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.Bố cục của luận văn
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về văn hóa và văn hóa ứng xử
1.2 Cơ sở lịch sử – xã hội hình thành văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi
1.2.1. Thân thế, hành trạng và di sản
1.2.2. Bối cảnh thời đại và tư tưởng
CHƯƠNG 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG QUAN HỆ VỚI VĂN
HÓA TRUNG HOA
2.1. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trên phương diện ứng phó với
môi trường xã hội: chính trị, quân sự, ngoại giao
2.2. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trên phương diện tận dụng
môi trường xã hội: tiếp biến và dung hợp văn hóa
CHƯƠNG 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG QUAN HỆ VỚI VĂN
HÓA VIỆT NAM
1



3.1. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trong quan hệ với môi trường
xã hội
3.1.1. Trên bình diện tổ chức đời sống tập thể
3.1.2. Trên bình diện tổ chức đời sống cá nhân
3.2. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trong quan hệ với môi trường
tự nhiên
3.2.1. Trên bình diện vật chất: ăn, mặc, ở, đi lại
3.2.1. Trên bình diện tinh thần: quan niệm và thái độ đối với tự nhiên
KẾT LUẬN
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI

Nguyễn Trãi là nhà văn hóa lớn của dân tộc và là danh nhân văn hóa thế giới. Qua
tìm hiểu về văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trên hai trục quan hệ chính là quan hệ với
các nền văn hóa bên ngoài (tiêu biểu là với văn hóa Trung Hoa) và quan hệ trong nội bộ
của nền văn hóa dân tộc, chúng tôi làm rõ những luận điểm chính sau:
Trong một thời đại đầy biến động, có tính chất bản lề của lịch sử dân tộc cuối
thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy một cách xuất sắc truyền
thống văn hóa dân tộc trong quan hệ với Trung Hoa. Đó là văn hóa ứng xử mang đậm
những đặc trưng cơ bản của một nền văn hóa gốc nông nghiệp như dung hợp trong tiếp
nhận và mềm dẻo, hiếu hòa trong ứng phó.
Trong ứng phó, trước giặc Minh hơn hẳn chúng ta về thế và lực, với tư cách là nhà
tư tưởng của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã đề ra các chiến lược và sách lược hợp lý.
Nguyễn Trãi nêu cao tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa, tập hợp lực lượng, dựa
vào dân và phát huy truyền thống đoàn kết trên cơ sở tính cộng đồng của văn hóa dân
tộc. Đây là nền tảng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn. Về mặt chiến lược, trong khi
tương quan lực lượng giữa ta và địch không cân sức, Nguyễn Trãi đã xây dựng chiến

lược kháng chiến trường kỳ và đấu tranh linh hoạt trên tất cả các bình diện chính trị, quân
sự, ngoại giao gắn với yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể. Giai đoạn đầu của cuộc khởi
nghĩa (1418 – 1424), nghĩa quân chủ yếu vận dụng lối đánh du kích thiên biến vạn hóa
trong truyền thống quân sự của dân tộc. Khi lực lượng vững mạnh, nghĩa quân kết hợp
đánh du kích với đánh chính quy, đặc biệt là kết hợp với chiến thuật “tâm công” đặc sắc
trên bình diện chính trị, ngoại giao mà Nguyễn Trãi là người trực tiếp đề xuất và thực hiện.
Sự vận dụng linh hoạt và tổng hợp trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao đã có ý
nghĩa quyết định trong việc đạt được thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình chiến đấu và khi
2


cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, Nguyễn Trãi đều thể hiện rõ nét truyền thống nhân
đạo, hiếu hòa và ước muốn hòa bình lâu dài cho dân tộc khi cấp lương thực, phương tiện
cho giặc về nước đồng thời buộc giặc Minh phải cam kết đảm bảo tình hòa hiếu giữa hai
dân tộc.
Trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai, Nguyễn Trãi là tấm gương sáng trong việc đứng
vững trên cơ sở của truyền thống văn hóa dân tộc để tiếp thu và tiếp biến. Nguyễn Trãi
chịu ảnh hưởng Nho giáo sâu sắc, tự nhận mình là nhà Nho, nhưng Nguyễn Trãi trước
hết là một trí thức dân tộc, một người yêu nước, thương dân. Nguyễn Trãi đã tiếp nhận
những phần tích cực nhất của tư tưởng Nho giáo và tiếp biến, vận dụng sáng tạo trên cơ
sở truyền thống văn hóa dân tộc. Nhân nghĩa vốn là phạm trù trung tâm của Nho giáo, chỉ
mối quan hệ giữa người với người có phần chung chung, được Nguyễn Trãi vận dụng gắn
với nội dung cụ thể là yêu nước, thương dân và lý tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
trước hết là chí nhân, đại nghĩa, an dân. Nguyễn Trãi cũng tiếp nhận cả Phật giáo và Đạo
gia, nhưng hai hệ tư tưởng này đã được Nguyễn Trãi tiếp biến theo hướng tích cực. Về
cơ bản, tư tưởng Phật giáo và Đạo gia thiên về xuất thế, nhưng Nguyễn Trãi trước sau
vẫn là con người nhập thế. Ông tiếp biến Phật và Đạo thành những yếu tố làm phong phú
thêm cho nhận thức và ứng xử của mình. Đó là tinh thần phóng khoáng, coi nhẹ lợi danh,
coi trọng sự di dưỡng tinh thần và cốt cách, sống giản dị và hòa nhập với thiên nhiên. Tư
tưởng Tam giáo hòa quyện ở Nguyễn Trãi nhưng tinh thần nhập thế ở Nguyễn Trãi vẫn

nổi bật, vừa phản ánh truyền thống dung hợp trong tiếp nhận của văn hóa dân tộc, vừa
phản ánh những đặc điểm riêng của thời đại Nguyễn Trãi – thời đại Nho giáo chiếm ưu
thế, gắn với nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền.
Trong nội bộ của nền văn hóa Việt Nam, Nguyễn Trãi đã có những đóng góp
xuất sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển và nâng nền văn hóa dân tộc lên
một tầm cao mới. Nguyễn Trãi đã có công lớn trong việc đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
đến thắng lợi cuối cùng và để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về nghệ
thuật quân sự, về chiến lược chính trị, ngoại giao, làm giàu thêm truyền thống linh hoạt và
tổng hợp của văn hóa Việt Nam trong chiến tranh giữ nước, xây dựng tình hòa hiếu giữa
các dân tộc. Trong đó, nổi bật lên đóng góp của ông về chiến lược “tâm công”, “địch vận”.
Những bức thư “tâm công”, “địch vận” của Nguyễn Trãi vừa thể hiện tư tưởng chính trị,
quân sự, ngoại giao thiên tài, vừa là những áng văn chính luận đặc sắc, góp phần đưa
văn chính luận dân tộc lên một tầm cao mới.
Trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc Minh mười năm gian khổ, Nguyễn
Trãi càng nhận thức sâu sắc hơn về nhân dân, đất nước, về bản sắc văn hóa, đánh dấu
bước phát triển mới trong lịch sử tư tưởng – nhận thức của dân tộc. Ông cũng là người có
đóng góp lớn trong lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội, nhất là việc góp phần xác lập một mô
hình chính trị – xã hội mới, tiến bộ, phù hợp với bước phát triển của đất nước sau thời kỳ
suy vi cuối thế kỷ XIV và sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc Minh. Ông luôn kiên
định với lý tưởng và lập trường của mình trong việc xây dựng một bộ máy chính quyền vì
nước, vì dân. Bi kịch cuối đời của Nguyễn Trãi là bi kịch có tính tất yếu của một con người
quá trung thực, quá lý tưởng đến mức ảo tưởng trong hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của thời
đại ông, nhưng bi kịch đó cũng phần nào cho thấy rõ nét hơn một nhân cách lớn. Ông đã
không tính toán thiệt hơn cho cuộc sống cá nhân trong lựa chọn, ứng xử của mình.
Những ứng xử trên các bình diện thuộc đời sống cá nhân cũng như trong quan hệ
với các phương diện thuộc ứng xử với môi trường tự nhiên cũng cho thấy một Nguyễn
Trãi có ý thức sâu sắc về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyễn Trãi
3



chính là tấm gương sáng trong việc bảo vệ và giữ gìn đạo đức, phong tục, đặc biệt là
ngôn ngữ dân tộc. Ông là người góp phần trong việc nâng tiếng Việt văn học lên một tầm
cao mới mà chỉ với phần còn lại của Quốc âm thi tập cũng cho thấy rõ điều đó.
Nguyễn Trãi thật xứng đáng là nhà văn hóa lớn như UNESCO đã từng tôn vinh.
Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi là bài học lớn về nhân cách, tài năng. Việc nghiên cứu
và phổ biến rộng rãi văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi có ý nghĩa giáo dục to lớn, góp
phần vào việc hình thành nhân cách, giáo dục lòng yêu nước cho các thế hệ về sau.
Người post bài: Lê Thị Ngọc Điệp
Nguyễn Anh Cường. Ngôi chùa trong văn hóa người Việt ở Bắc Bộ
14/09/2008
Nguyễn Anh Cường
Năm sinh: 18.10.1978
ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ:
NGÔI CHÙA TRONG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT Ở BẮC BỘ

MỤC LỤC
DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu
<!--[if !supportLists]-->3.

<!--[endif]-->Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

<!--[if !supportLists]-->4.

<!--[endif]-->Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

5. Những đóng góp của luận văn
<!--[if !supportLists]-->6.


<!--[endif]-->Bố cục luận văn
CHƯƠNG MỘT

NGÔI CHÙA BẮC BỘ NHÌN TRONG THỜI GIAN VĂN HOÁ
1.1. Ngôi chùa trong quá trình du nhập và phát triển của Phật Giáo ở Bắc bộ
1.1.1. Ngôi chùa trong quá trình Phật giáo du nhập
1.1.2. Ngôi chùa trong quá trình Phật giáo phát triển
1.2. Ngôi chùa trong diễn trình văn hoá Phật giáo Bắc bộ
4


1.21. Ngôi chùa ở cấp độ cung đình
1.2.2. Ngôi chùa ở cấp độ làng xã
Tiểu kết
CHƯƠNG HAI
NGÔI CHÙA BẮC BỘ NHÌN TRONG KHÔNG GIAN VĂN HOÁ
<!--[if !supportLists]-->2.1.
quan thiên nhiên

<!--[endif]-->Ngôi chùa trong quan hệ với cảnh

<!--[if !supportLists]-->2.2.

<!--[endif]-->Ngôi chùa nhìn từ kiến trúc

<!--[if !supportLists]-->2.3.
cách thức thờ phượng

<!--[endif]-->Ngôi chùa nhìn từ cấu trúc nội thất và


<!--[if !supportLists]-->2.3.1.

<!--[endif]-->Bài trí ở thượng điện

<!--[if !supportLists]-->2.3.2.

<!--[endif]-->Bài trí ở nhà tiền đường

<!--[if !supportLists]-->2.3.3.

<!--[endif]-->Bài trí ở hành lang

<!--[if !supportLists]-->2.4.
<!--[endif]-->Ngôi chùa trong quan hệ với các kiến
trúc tôn giáo, tín ngưỡng khác ở Bắc bộ
2.4.1. Ngôi chùa trong quan hệ với các kiến trúc tín ngưỡng dân gian
2.4.1.1. Chùa và đình.
2.4.1.2. Chùa và đền, miếu, phủ dân gian
2.4.2. Ngôi chùa trong quan hệ với các kiến trúc tôn giáo khác
2.4.2.1. Chùa và Văn miếu của Nho giáo
2.4.2.2. Chùa và đền quán của Đạo giáo
2.4.2.3. Chùa Phật giáo và Nhà thờ Kitô giáo
Tiểu kết
CHƯƠNG BA
NGÔI CHÙA BẮC BỘ NHÌN TỪ CHỦ THỂ VĂN HOÁ
3.1 Ngôi chùa trong đời sống văn hoá của cư dân Bắc bộ
3.1.1. Tính tổng hợp trong chức năng xã hội của ngôi chùa
3.1.2. Tính dân chủ của ngôi chùa
<!--[if !supportLists]-->3.2 <!--[endif]--> Ngôi chùa trong tâm thức cư dân Bắc bộ

<!--[if !supportLists]-->3.2.1.

<!--[endif]-->Ngôi chùa trong nghệ thuật

3.2.2. Ngôi chùa trong văn chương
Tiểu kết
5


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Tóm tắt luận văn
Ngôi chùa trong văn hoá người Việt ở Bắc bộ

Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Ngôi chùa Bắc bộ nhìn trong thời gian văn hoá:

Chương này đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của ngôi chùa trong thời
gian văn hoá.Chương một đã phần nào giới thiệu quá trình truyền bá và phát triển của
Phật giáo tại Việt Nam và đi đôi với quá trình truyền bá Phật pháp là quá trình xây dựng
chùa chiền. Chương này chỉ ra được vấn đề: Phật giáo miền Bắc mà điển hình là trung
tâm Phật giáo Luy Lâu chính là trung tâm đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Thậm chí
trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại miền Bắc Việt Nam còn phồn thịnh hơn cả hai trung tâm
Phật giáo đương thời ở Trung Quốc là Bành Thành và Lạc Dương.
Qua đó ta thấy sự gặp gỡ độc đáo giữa hai nền văn hoá Việt Nam và Ấn Độ, nói một
cách cụ thể là cuộc gặp gỡ giữa văn hoá Phật giáo Ấn Độ và văn hoá nông nghiệp lúa nước
Việt Nam thông qua hình ảnh độc đáo về sự kết hợp giữa sư Khâu Đà La và Man Nương.
Cuộc gặp gỡ có phần phá cách và thoát ra ngoài giới luật của nhà Phật đã sản sinh ra một vị
Phật của dân tộc Việt Nam.

Bên cạnh đó, nội dung của chương cũng trình bày được sự khác nhau về cấp độ
xây dựng giữa những ngôi chùa ở miền Bắc: chùa ở cấp độ cung đình và chùa ở cấp độ
làng xã.
Những ngôi chùa ở cấp độ cung đình thường là do đích thân nhà vua hoặc các
quan đại thần đứng ra lo việc xây dựng, vì thế qui mô của những ngôi chùa này thường
rất bề thế và nghệ thuật trang trí điêu khắc ở những ngôi chùa này thường mang tính bác
học.
Những ngôi chùa ở cấp độ làng xã thường do nhân dân đóng góp tiền bạc và tự đứng ra
xây dựng, vì thế qui mô những ngôi chùa này thường nhỏ bé và nghệ thuật chạm trổ, điêu khắc
trong chùa thường mang tính dân dã, bình dị.
6


Trên đây chính là những tiền đề để đi sâu vào tìm hiểu và phân tích vai trò của ngôi
chùa Phật giáo trong đời sống cư dân miền Bắc Việt Nam.
Chương 2: Ngôi chùa Bắc bộ nhìn trong không gian văn hóa:

Chương này đề cập đến mối liên hệ của ngôi chùa với không gian văn hoá miền
Bắc. Qua phần trình bày trong chương hai này, ta thấy vai trò và vị trí của ngôi chùa trong
không gian văn hoá miền Bắc rất đặc thù. Đó là sự phong phú và đa dạng trong cách thức
thờ tự của những ngôi chùa ở miền Bắc. Vấn đề này đã được triển khai và phân tích trên
cơ sở lý luận và thực tiễn. Vì chùa miền Bắc là chùa của Phật giáo Đại Thừa, nên ngoài
việc thờ cúng đức Phật, chùa còn thờ các vị Bồ Tát, các vị thần và cộng với việc hỗn dung
cùng tín ngưỡng bản địa nên các vị anh hùng dân tộc, các vị thần thánh của người Việt
cũng được thờ trong chùa của Phật giáo. Đặc biệt chương này còn chỉ ra được ảnh
hưởng của triết lý âm dương, triết lý phồn thực của người Việt đối với việc thờ cúng ở
những ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam.
Trong khía cạnh kiến trúc cho chúng ta cảm nhận được sự hài hoà tinh tế giữa kiến
trúc ngôi chùa với cảnh quan thiên nhiên đồng bằng Bắc bộ, và thể hiện được văn hoá
ứng xử với môi trường tự nhiên của người dân Bắc bộ thể hiện qua việc xây dựng chùa.

Sự tương đồng và dị biệt trên mọi phương diện của ngôi chùa Phật giáo tại Bắc bộ
và các kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác thật là phong phú và đặc sắc.
Giữa chùa và đình ở miền Bắc Việt Nam có nhiều điểm chung trên phương diện
kiến trúc. Từ kiểu thức kiến trúc cho đến các mái đầu đao uốn cong .vv…đều mang nặng
dấu ấn đời sống tâm linh của văn hoá Việt. Ngoài những vấn đề giống nhau, chương này
cũng chỉ ra được sự khác biệt cơ bản trong đối tượng thờ cúng giữa chùa và đình. Nếu
như chùa được lập ra để thờ Phật thì đình được lập ra để thờ các vị thần Thành hoàng
của làng. Nếu như chùa là sản phẩm kết tinh của văn hoá Phật giáo và văn hoá Việt Nam
thì đình là sản phẩm thuần tuý của tổ chức làng xã nông nghiệp Việt Nam.
Sự tương quan giữa chùa và những nơi thờ phụng dân gian khác như đền, miếu,
phủ ở miền Bắc cũng thật rõ nét. Tuy những nơi thờ phượng dân gian này khó có thể so
sánh với chùa về mức độ hoành tráng, nhưng giữa chúng có những nét tương đồng đến
lạ kỳ về kiểu thức kiến trúc và cách thức bài trí bên trong. Tất cả những kiến trúc này đều
có một điểm chung là rất gần gũi với văn hoá dân tộc.
Kiến trúc của chùa và Văn miếu của Nho giáo cũng có nhiều điểm rất giống nhau.
Điểm khác biệt cơ bản là Văn miếu của Nho giáo được lập nên để thờ Khổng tử và các vị
thánh hiền thì chùa của Phật giáo lập nên để thờ Phật và các vị Bồ Tát. Điều khác biệt
đáng lưu ý nữa là đối tượng thờ cúng của Nho giáo nếu xét về mặt giới tính thì chỉ thuần
tuý là nam giới trong khi đối tượng thờ cúng của Phật giáo thì lại bao gồm cả nam lẫn nữ.
Ở miền Bắc Việt Nam hiện vẫn đang còn hiện tượng Tam giáo đồng nguyên trong
7


những nghi lễ và cách thức thờ cúng giữa Phật giáo và Đạo giáo. Những điều này thể hiện rõ
nhất ở Bích Câu đạo quán và Linh Tiên đạo quán.
Khi đi tìm hiểu kiến trúc của ngôi chùa Phật giáo và nhà thờ Ki tô giáo tại miền Bắc
Việt Nam, chúng ta thấy ngôi chùa Phật giáo và nhà thờ Kitô giáo có nhiều điểm tương đồng
và dị biệt. Nhưng giữa chúng có những quan hệ rất mật thiết với nhau. Nếu như kiến trúc của
nhà thờ Tây hoàn toàn đối lập với kiến trúc của chùa thì ngược lại kiểu thức kiến trúc theo lối
nhà thờ Nam lại rất gần gũi với ngôi chùa trên nhiều phương diện. Đó chính là nét hài hoà

độc đáo mang đậm tính dân tộc trong kiến trúc các tôn giáo tại Việt Nam.
Chương 3: Ngôi chùa Bắc bộ nhìn từ chủ thể văn hoá
Chương này đề cập đến vai trò văn hoá của ngôi chùa trong đời sống của cư dân
Bắc bộ
Qua phần khái quát trong chương ba, ta thấy vai trò văn hoá của ngôi chùa Bắc bộ
rất to lớn và đa dạng. Nó cũng nói lên được vai trò quan trọng của ngôi chùa đối với đời
sống nhân dân miền Bắc trong lịch sử và hiện tại. Chùa là nơi thờ cúng là trường học và
đôi khi còn là cơ sở y tế của cộng đồng, là nơi diễn ra hội hè đình đám và khi chết đi thì
người ta gởi thân về cửa Phật. Những lúc gặp những đau buồn trong cuộc sống thì chùa
chính là nơi chốn dễ chia sẽ và cảm thông với những đau buốn mất mát đó. Ngôi chùa
phần nào giúp họ vơi đi những lo lắng, dằn vặt và sầu muộn bằng giáo lý từ bi, bình đẳng
và khoan dung của đạo Phật. Khi nói đến vai trò của ngôi chùa ở Bắc bộ chúng ta phải
nói đến tính tổng hợp trong chức năng xã hội của ngôi chùa. Ngôi chùa bao quát nhiều
khía cạnh trong đời sống tâm linh, văn hoá đối với những ai nương tựa vào mình.
Trong nội dung của chương ba cũng đề cập đến một trong những đặc tính cơ bản
cuả ngôi chùa Bắc bộ là tính dân chủ. Mọi người đều có thể đến chùa tham gia vào sinh
hoạt chốn thiền môn theo cách riêng của mình mà không hề bị ngăn cấm hoặc phân biệt
đối xử. khi đến với chùa thì giàu nghèo, sang hèn, trí thức, bình dân đều không còn là vấn
đề quan trọng, quan trọng nhất chính là tấm lòng của người đến mà thôi. Đến chùa sẽ tạo
cho du khách một cảm nhận bình an khi được bình đẳng trước mọi người và trước các
mặt trong sinh hoạt của ngôi chùa.
Bân cạnh đó, ngôi chùa còn có vị trí quan trọng trong tâm hồn cư dân Bắc bộ. Điều
đó được thể hiện qua đời sống văn học và nghệ thuật mà nhân dân, các nhà thơ, nghệ sỹ
đã dung hình ảnh ngôi chùa như một nguồn cảm hứng, một đối tượng trung tâm để khai
thác nghệ thuật.
KẾT LUẬN
Kể từ khi Phật giáo được du nhập và phát triển ở nước ta cho đến ngày nay, rất
nhiều ngôi chùa đã được xây dựng và trùng tu. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và
giữ nước đầy bi hùng của Tổ quốc chúng ta, Phật giáo luôn sát cánh cùng với dân tộc,
8



luôn đứng về phía dân tộc, lúc hạnh phúc cũng như lúc khổ đau. Phật giáo đã xem dân
tộc như một bà mẹ hiền che chở và cưu mang mình và theo chiều ngược lại bà mẹ hiền
Việt Nam cũng đã nhiều lần nương tựa vào Phật giáo để huy động sức dân và kêu gọi
lòng ái quốc của nhân dân trong những lúc vận nước nghiêng nghèo.
Đồng bằng Bắc bộ là địa bàn xuất phát của tộc Việt, vì vậy nơi đây còn lưu giữ
được tính chất thuần tuý của văn hoá Việt Nam. Hơn nữa đây chính là nơi Phật giáo
được truyền lần đầu tiên vào nước ta và miền Bắc Việt Nam với trung tâm Phật giáo Luy
Lâu đã từng là một trung tâm Phật giáo phát triển rực rỡ trong nhiều thế kỷ nên đây là
không gian địa lý phù hợp để bước đầu nghiên cứu về văn hoá của ngôi chùa.
Vì Phật giáo đến với người Việt bằng con đường hoà bình và giáo lý của Đức Phật rất
phù hợp với tâm tư và tình cảm của người Việt nên đã được nhân dân Việt Nam đón tiếp, tin
tưởng và cưu mang. Người Việt ở đồng bằng Bắc bộ xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần
gũi với họ. Vì thế trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp
mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê. Có thể nói những nơi sơn thuỷ hữu tình, những mảnh đất
thiêng liêng và được tôn trọng, không đâu là không có chùa thờ Phật.
Chính vì toàn thể nhân dân và các triều đại trị vì đồng lòng tin tưởng đạo Phật như
thế nên những ngôi chùa đã được nhiều tầng lớp xây dựng. Những ngôi chùa do vua
quan đích thân đốc thúc việc xây dựng thì gọi là chùa ở cấp độ cung đình, quốc gia,
những ngôi chùa do nhân dân xây dựng thì nhỏ bé hơn và được gọi là những ngôi chùa ở
cấp độ làng xã.
Chùa miền Bắc Việt Nam là chùa của Phật giáo Đại Thừa nên việc thờ phụng rất
đa dạng. Ngoài việc thờ cúng đức Phật lịch sử, chùa miền Bắc còn thờ cúng các vị bồ tát,
các vị thánh thần, các anh hùng dân tộc. Đây cũng là một đặc điểm đáng lưu ý của chùa
miền Bắc. Bên cạnh sự tôn thờ những hình tượng của tôn giáo thì người dân vẫn luôn
hướng về cội nguồn, trân trọng, tôn thờ những người đã có công với đất nước, những
người đã mang lại cho họ sự bình yên, no ấm mà họ có thể nhìn thấy được, cảm nhận
được. Đó chính là một nét đẹp, đáng trân trọng trong truyền thống văn hóa “uống nước
nhớ nguồn” của người dân Bắc bộ.

Ngoài ra cách thờ cúng trong ngôi chùa còn thể hiện tính khoan dung tôn giáo rất
cao, nên những thần thánh của tín ngưỡng dân gian Việt Nam đôi khi cũng được bài trí
trong chùa như Mẫu Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử… Thậm chí đôi khi những vị thần thánh
này còn có vai trò quan trọng như là đối tượng thờ cúng chính trong chùa, điển hình cho
trường hợp này là việc thờ cúng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện.
Do mối quan hệ thân thương và gần gũi với đời sống của cư dân như vậy nên vai
trò của ngôi chùa trong đời sống nhân dân miền Bắc là rất quan trọng. Chùa không chỉ là
nơi để thực hiện các lễ nghi tôn giáo mà còn là trường học, thậm chí trong một vài trường
hợp đặc biệt chùa còn là cơ sở y tế, văn hoá, giáo dục của cộng đồng dân cư. Trong
kháng chiến, nhiều ngôi chùa còn là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng, góp phần không
9


nhỏ cho thắng lợi của dân tộc.
Từ lúc mới lọt lòng cho tới khi biết đọc chữ, tới tuổi biết giận hờn, thương ghét, lúc
đã thành đạt hay khi sắp lìa khỏi cõi trần, dù là người cao sang hay là kẻ thấp hèn, dù ở
thành thị hay giữa chốn quê mùa, đối với phần đông người dân Bắc bộ, hình ảnh ngôi
chùa vẫn luôn hiện hữu trong họ như là một điểm tựa thiêng liêng, một nơi chốn bình an,
tin cậy nhất để họ được nương náu, vỗ về, để họ có thể mong cầu tìm thấy những gì tốt
đẹp nhất trong vô vàn những khao khát của mình. Ngôi chùa không chỉ là một điểm đến
tâm linh của những người ít nhiều có hiểu biết về Phật pháp hoặc có ước muốn tìm hiểu
về nó mà còn là nơi để bất cứ ai cũng có thể tới để làm lắng dịu lòng mình, để mà chiêm
nghiệm cuộc sống sau một quãng đường dài mệt mỏi với những lo toan, ưu phiền và cả
những thành công, thất bại. Ở đó không có sự bất công, phân biệt đối xử giữa kẻ hèn,
người sang để khiến người ta phải ngại ngùng, e sợ; chỉ có sự bảo bọc, yêu thương và
che chở. Ngôi chùa là nơi người dân Bắc bộ tìm đến những khi gia đình họ gặp chuyện
chẳng lành, là nơi an ủi họ mỗi khi cuộc sống gặp khó khăn, trắc trở, là nơi để họ tìm kiếm
những lời khuyên răn mà sống sao cho tốt hơn, cư xử sao cho phải đạo hơn, là nơi để họ
có thể thoải mái giãi bày những tâm tư thầm kín không thể nói với ai; tóm lại, là nơi để họ
có thể trút hết nỗi lòng không một chút băn khoăn, do dự, và nhờ vậy họ cảm nhận cuộc

sống trở nên dễ chịu, tốt đẹp hơn. Bất cứ điều gì, cái gì làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn thì
đều đáng được ngợi ca, trân trọng. Người ta hướng về ngôi chùa như hướng tới những gì
chân, thiện nhất, những gì là hoàn hảo nhất và bởi vậy đó cũng là nơi để họ gửi gắm
những ước vọng (kể cả tham vọng) của mình, mặc dù đó là những mong muốn có khi hết
sức đời thường, trần tục, có vẻ như rất xa cách với những điều thanh tao, cao quí nơi cửa
Phật. Vì lẽ đó mà hình tượng ngôi chùa cứ tự nhiên bước vào cuộc sống của người dân,
hết sức bình dị, thân thương và gần gũi. Những sinh linh bé bỏng, vô tội nhiều khi cũng
được phó thác nơi cửa chùa và được những tấm lòng nhân ái chở che, nuôi dưỡng nên
người để tiếp tục cứu vớt những số phận kém may mắn khác. Rất xa nhưng lại rất gần,
đó là những gì mà người ta có thể cảm nhận khi bước vào chốn thiền môn.
Vì những cảm nhận đó từ hình ảnh ngôi chùa, từ sự cao quí đến mức lung linh, tinh
khiết, từ sự gần gũi đến độ như gia đình, như máu thịt, lẽ tất nhiên hình ảnh ngôi chùa
không thể vắng bóng trong những tác phẩm văn học, nghệ thuật, nơi mà tình cảm của con
người có nhiều cơ hội để giãi bày, để thăng hoa nhất. Vẻ đẹp, sự thân thiện và cả sự mầu
nhiệm của những ngôi chùa đã là nguồn cảm hứng dồi dào tạo nên vô vàn những áng văn
thơ, những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Từ những tao nhân mặc khách, những học giả
hào hoa đến những đấng vương gia sống trong cảnh giàu sang quyền quí cũng đều có
thể động lòng trước cảnh thâm u, trầm mặc và thanh tao của cảnh chùa, trước những
giáo lí ngời ngời của nhà Phật, để từ đó cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật để đời,
những vần thơ, những lời ca bay bổng hay mang đậm tính triết lí sâu sa để người đời còn
mãi muốn nghe, muốn ngẫm… Bóng dáng ngôi chùa cũng còn được bắt gặp từ những tác
phẩm dân dã, giản dị nhất xuất phát từ chốn thôn quê, được tạo nên, được truyền miệng
bởi những người dân quê mùa, chất phác...nhưng không kém phần sắc sảo, tinh tế, đôi
khi còn dí dỏm… Từ một vị trí sâu sa trong tâm tư, tình cảm của người dân Bắc bộ, hình
10


ảnh ngôi chùa đã cất cánh bay bổng, đầy xúc cảm và trí tuệ trong những kiệt tác nghệ
thuật, những áng thơ ca…, như những đóa sen tỏa ngát hương thơm mà con người muôn
đời còn muốn chiêm ngưỡng, ngợi ca. Hình ảnh ngôi chùa hiện diện khắp nơi, từ những

nơi bình dị nhất đến những nơi vương giả nhất. Có thể nói văn học Phật giáo đã được
sáng tác từ cảm hứng chủ đạo là hình ảnh của ngôi chùa.
Ngôi chùa là sản phẩm của văn hoá Việt Nam nên kiểu thức kiến trúc của chùa rất gần
với kiểu thức kiến trúc của ngôi nhà Việt Nam cũng như những công trình kiến trúc tôn giáo, tín
ngưỡng khác ở Bắc bộ. Hiện tượng gặp gỡ và giao thoa trên phương diện kiến trúc giữa Phật
giáo, Nho giáo và Đạo giáo là một sự thật lịch sử vì rằng những kiến trúc này đều xuất phát từ
cội nguồn cảm hứng của nền văn hoá Việt, đều được tạo dựng bởi những bàn tay tài hoa của
những nghệ nhân người Việt mang nặng tấm lòng với văn hoá Việt Nam.
Ngoài mặt tương đồng với các kiến trúc tôn giáo truyền thống, chùa của người Việt
ở đồng bằng Bắc bộ có những khác biệt rất cơ bản với kiến trúc của nhà thờ Ki tô giáo.
Tuy nhiên, một số nhà thờ Ki tô giáo cũng có ý thức quay về với truyền thống văn hoá dân
tộc nên kiến trúc của chúng cũng có những nét tương đồng với kiến trúc của chùa Phật
giáo.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa luôn đồng hành cùng đời sống văn
hoá và tâm linh của cộng đồng cư dân người Việt ở Bắc bộ. Ngôi chùa luôn đóng một vai
trò quan trọng trong cuộc đời của những người dân ở đây. Có thể nói những vui buồn,
những tâm sự thầm kín và cả những ước mơ của người dân Bắc bộ thường được gởi
gắm nơi cửa chùa. Chùa là nơi để người dân gặp gỡ, cầu nguyện và là nơi để sinh hoạt
hội hè. Từ lúc tấm bé, phần đông những cư dân đồng bằng Bắc bộ đã theo mẹ, theo bà
lên chùa lễ Phật. Khi trưởng thành, cảnh chùa là nơi để nam thanh nữ tú gặp gỡ hẹn hò
và đến khi từ giã cuộc đời, họ lại được tiễn đưa bằng những câu kinh tiếng kệ nhà Phật.
Như vậy có thể nói, đối với phần đông cư dân đồng bằng Bắc bộ, cuộc đời của họ bắt đầu
bằng tiếng chuông chùa và kết thúc bằng những lời kinh giải thoát của đạo Phật.
Lịch sử và hiện tại đã chứng minh rằng, vị trí của những ngôi chùa đối với cư dân
đồng bằng Bắc bộ thật là thiêng liêng và gần gũi. Và có lẽ trong tương lai, ngôi chùa vẫn
luôn là yếu tố quan trọng và cần thiết đối với đời sống của người dân nơi đây.
Người post bài: Lê Thị Ngọc Điệp

11



Lưu Hoàng Chương. Triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt
09/08/2008

Lưu Hoàng Chương
Năm sinh: 10.01.1961
Cơ quan : Học viện CTQG – Phân viện Tp.HCM

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG VĂN HÓA DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
MỤC LỤC
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Lịch sử vấn đề
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
V. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1. Ý nghĩa khoa học
2. Ý nghĩa thực tiễn
VI. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
1. Phương pháp nghiên cứu
2. Nguồn tư liệu
VII. Bố cục của luận văn

12


Chương 1: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG VÀ VĂN HOÁ DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
1.1. Triết lý âm dương

1.1.1. Nguồn gốc, bản chất, khái niệm triết lý âm dương
1.1.2. Hai quy luật của triết lý âm dương
1.2. Văn hoá dân gian và văn hoá dân gian người Việt
1.2.1. Quan niệm về văn hoá và văn hoá dân gian
1.2.2. Văn hoá dân gian người Việt
Chương 2: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG VĂN HÓA NHẬN THỨC
2.1. Triết lý âm dương trong nhận thức về vũ trụ
2.1.1 Triết lý âm dương trong nhận thức về nguồn gốc, bản chất của
vũ trụ
2.1.2. Triết lý âm dương trong nhận thức về không gian vũ trụ
2.1.3. Triết lý âm dương trong nhận thức về thời gian vũ trụ
2.2. Triết lý âm dương trong nhận thức về con người
2.2.1. Nhận thức về con người tự nhiên
2.2.2. Nhận thức về con người xã hội
Chương 3: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG VĂN HOÁ TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
3.1. Triết lý âm dương trong văn hoá tổ chức đời sống tập thể
3.1.1. Triết lý âm dương trong tổ chức gia đình (Nhà)
3.1.2. Triết lý âm dương trong tổ chức làng
3.1.3. Triết lý âm dương trong tổ chức quốc gia (Nước)
3.2. Triết lý âm dương trong văn hoá tổ chức đời sống cá nhân
3.2.1. Triết lý âm dương trong tín ngưỡng dân gian
3.2.2. Triết lý âm dương trong phong tục dân gian

13


3.2.3. Triết lý âm dương trong nghệ thuật dân gian
Chương 4: TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ
MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
4.1. Triết lý âm dương trong ứng xử với môi trường tự nhiên

4.1.1. Triết lý âm dương trong tận dụng môi trường tự nhiên: ăn uống,
giữ gìn sức khoẻ
4.1.2. Triết lý âm dương trong ứng phó với môi trường tự nhiên: mặc,

4.2. Triết lý âm dương trong văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
4.2.1. Triết lý âm dương trong tận dụng môi trường xã hội: Tiếp nhận để phát triển
4.2.2. Triết lý âm dương trong đối phó với môi trường xã hội: phản kháng để bảo vệ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG VĂN HÓA DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, bộ phận văn hoá dân gian chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu nền văn hoá
dân tộc và có vai trò rất quan trọng trong lịch sử, nhất là ở việc bồi dưỡng tâm hồn con
người, thống nhất cộng đồng. Văn hoá dân gian cũng là nơi bảo lưu những giá trị văn hoá
lâu đời của dân tộc. Nhiều giá trị văn hoá dân gian đã trở thành bộ phận của đời sống xã
hội hiện đại, trong đó có Triết lý âm dương – một thành tựu đặc sắc của tư duy phương
Đông.
Ngay từ khi ra đời, triết lý âm dương đã được người phương Đông nhất là ở Trung
Quốc và Việt Nam, vận dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống: từ nhận thức về vũ trụ đến
nhận thức về con người, từ tổ chức đời sống tập thể đến đời sống cá nhân, từ ứng xử với
môi trường tự nhiên đến ứng xử với môi trường xã hội. Có thể khẳng định rằng, Triết lý
âm dương đã đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống người phương
14


Đông nói chung, và của người Việt nói riêng.

Ngày nay, triết lý âm dương vẫn được nhiều người tìm hiểu, ứng dụng. Người ta
không chỉ vận dụng triết lý âm dương vào trong các lĩnh vực của đời sống theo phong tục,
mà còn từng bước lý giải và vận dụng nó dựa trên cơ sở khoa học. Vì vậy, nghiên cứu văn
hóa dân gian nói chung, triết lý âm dương nói riêng, vừa là sự “trở về cội nguồn”, vừa là
cơ sở để hiểu sâu sắc hiện tại, để góp phần xây dựng nền văn hoá nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa trên và được sự gợi ý, giúp đỡ của giáo sư hướng dẫn, người viết chọn
đề tài Triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt để nghiên cứu.
II. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt, người viết
hướng tới giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ yếu tố triết lý âm dương trong các hiện tượng văn hoá dân gian
người Việt.
Thứ hai, làm rõ vai trò của triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt.
Thứ ba, ở mức độ nhất định, luận văn nêu lên những ảnh hưởng của triết lý âm
dương trong tâm thức và trong đời sống hiện thực của người Việt hiện nay.
III. Lịch sử vấn đề
Đến nay, vấn đề triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt đã được nhiều
người nghiên cứu, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới (1986). Sớm nhất,
là những khảo cứu về văn hóa Việt Nam ở những thập kỷ đầu thế kỷ XX của một số nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước. Những tác giả và công trình tiêu biểu cho giai đoạn này
như: Phan Kế Bính (Việt Nam phong tục – 1915), Pierre Gourou (Người nông dân châu
thổ Bắc Kỳ – 1936), Nguyễn Văn Huyên (Hội Phù Đổng – 1938, Văn minh Việt Nam –
1944), Đào Duy Anh ( Việt Nam văn hóa sử cương - 1938). Ở những công trình trên, các
tác giả đã đề cập đến triết lý âm dương trong một số lĩnh vực văn hóa dân gian. Tuy
nhiên, do không phải là trọng tâm cần trình bày nên ở những công trình trên, triết lý âm
dương mới được các tác giả đề cập đến một cách khái quát hoặc tản mạn.
Tiếp nối những công trình trên, từ những năm 60 của thế kỷ XX đến nay đã có nhiều
người nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, và vì vậy, triết lý âm dương trong văn hóa dân
gian người Việt cũng được nghiên cứu nhiều hơn. Từ nội dung và phạm vi vấn đề triết lý
âm dương được nghiên cứu, có thể chia các công trình thành hai nhóm: 1/ Những công

trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam mà trong đó có đề cập đến triết lý âm dương; 2/
Những công trình nghiên cứu triết lý âm dương trong văn hóa người Việt.
1/ Ở nhóm thứ nhất, triết lý âm dương không phải là đối tượng chính cần tập trung
khảo sát, phân tích mà nó được trình bày chỉ như một yếu tố của hiện tượng văn hóa nào
15


đó. Những công trình ở dạng này khá nhiều, và chúng là nguồn tư liệu phong phú cho việc
nghiên cứu về triết lý âm dương. Một số công trình tiêu biểu như: Việt lý tố nguyên (1970)
và Nguồn gốc văn hóa Việt Nam (1974) của Kim Định; Văn hoá dân gian Việt Nam trong
bối cảnh văn hoá Đông nam Á (1993) của Đinh Gia Khánh; Tìm về bản sắc văn hoá Việt
Nam (2001) của Trần Ngọc Thêm. Ngoài ra, có một số tác giả khi nghiên cứu một hiện
tượng hoặc một lĩnh vực văn hóa cụ thể cũng có đề cập đến triết lý âm dương như: Hoàng
Đạo Kính, Nguyễn Khắc Tụng trong lĩnh vực kiến trúc; Ngô Đức Thịnh, Đỗ Lai Thúy trong
lĩnh vực tín ngưỡng dân gian; Sơn Nam, Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường trong
lĩnh vực lễ hội và đình miếu Nam Bộ…
2/ Nhóm thứ hai, đó là những công trình hướng tới việc khảo sát triết lý âm dương
trong văn hóa người Việt. Ở nhóm này, các tác giả đã đi vào nghiên cứu triết lý âm dương
trong văn hóa người Việt nói chung, hoặc triết lý âm dương trong những hiện tượng hay
lĩnh vực văn hóa cụ thể.
- Tiêu biểu cho những công trình nghiên cứu về triết lý âm dương trong văn hóa
người Việt nói chung gồm có: Triết lý âm dương và vai trò của nó trong truyền thống văn
hóa Việt Nam (1995) của Trần Ngọc Thêm; Học thuyết âm dương ngũ hành (1998) của Lê
Văn Sửu; Tìm hiểu và ứng dụng triết lý âm dương (1998) của Nguyễn Đình Phư; Âm
dương ngũ hành với đời sống con người (2002) của Lê Văn Quán… Ở những công trình
trên, bên cạnh việc trình bày về nguồn gốc, bản chất của triết lý âm dương, vai trò của triết
lý âm dương trong văn hóa người Việt nói chung, xuất phát từ mục đích nghiên cứu của
mình, mỗi tác giả lại hướng vào những “trọng tâm” nhất định.
- Về triết lý âm dương trong những lĩnh vực văn hóa cụ thể, hiện đã có các công
trình nghiên cứu triết lý âm dương trong y dược học, triết lý âm dương trong nghệ thuật,

triết lý âm dương trong ẩm thực.
Nghiên cứu về triết lý âm dương trong lĩnh vực y dược học có: Hoàng Tuấn (Học
thuyết âm dương và phương dược cổ truyền - 1994); Trần Thị Thu Huyền (Âm dương ngũ
hành với y học cổ truyền và đời sống con người - 1999); Ngô Gia Hy (Thử kết hợp Đông
Tây y qua dịch lý và thận – 1999)… Nghiên cứu về triết lý âm dương trong lĩnh vực nghệ
thuật có: Mịch Quang nghiên cứu về ảnh hưởng của kinh dịch trong nghệ thuật truyền
thống, nhất là hát bộ (Kinh dịch với nghệ thuật truyền thống – 1997, Khơi nguồn mỹ học
dân tộc – 2004); Trần Văn Khê nghiên cứu về triết lý âm dương trong một số loại nhạc cụ,
trong cách diễn xướng của người Việt (Âm và dương trong âm nhạc truyền thống – 2006)
… Nghiên cứu về triết lý âm dương trong lĩnh vực ẩm thực có: Phạm Văn Chính (Ăn uống
hòa hợp âm dương – 2004). Trần Văn Khê (Người Việt ăn uống thế nào – web)…
Qua phần trình bày khái quát nêu trên có nhể thấy, triết lý âm dương đã được nhiều
người quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, qua đó cũng nhận thấy rằng các tác giả chủ yếu
mới chỉ đề cập đến triết lý âm dương một cách khái quát (Nguyễn Văn Huyên, Kim Định,
Đinh Gia Khánh...), hoặc trình bày triết lý âm dương trong văn hóa Việt Nam nói chung
( Trần Ngọc Thêm, Lê Văn Sửu, Nguyễn Đình Phư, Lê Văn Quán), hay là triết lý âm
16


dương ở các lĩnh vực văn hoá cụ thể (Trần Thị Thu Huyền, Hoàng Tuấn, Mịch Quang,
Trần Văn Khê…) nhưng cũng chưa tập trung vào bộ phận văn hóa dân gian. Có thể nói,
hiện vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi chuyên sâu vào trình bày triết lý âm dương
trong văn hoá dân gian người Việt ở các thành tố của nó, một cách hệ thống.
Thực hiện đề tài nêu trên chính là kế thừa thành tựu của những công trình đã nghiên
cứu về lĩnh vực này, đồng thời kết hợp với những nghiên cứu thực tế của bản thân người
viết, nhằm góp phần đưa ra cái nhìn hệ thống về triết lý âm dương trong văn hoá dân
gian người Việt.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những biểu hiện của triết lý âm dương
trong văn hoá dân gian người Việt, bao gồm: văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức đời

sống cộng đồng, văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội.
Như vậy, đề tài này sẽ chỉ khảo sát những hiện tượng văn hoá dân gian do người
Việt sáng tạo và những hiện tượng văn hoá của các tộc người khác được người Việt tiếp
nhận và dân gian hoá chúng.
V. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2. Ý nghĩa khoa học
Văn hoá dân gian là nơi bảo lưu những giá trị văn hoá truyền thống lâu đời của dân
tộc, do đó nghiên cứu triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt chính là góp
phần vào tìm hiểu truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời, việc nghiên cứu này
sẽ bổ sung tư liệu cho các công trình nghiên cứu về văn hoá học và văn hoá Việt Nam.
3. Ý nghĩa thực tiễn
Đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong sự nghiệp ấy, di sản văn hoá được xem là
“tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng
tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá” [ĐCSVN 1998: 63]. Vì vậy, việc làm rõ bản chất
của triết lý âm dương và vai trò của nó trong văn hoá dân gian người Việt, không chỉ có ý
nghĩa là ứng xử đúng đắn với một giá trị văn hoá quá khứ, vốn từng được xem là vấn đề
“nhạy cảm”, mà còn có ý nghĩa thiết thực trong việc xác lập những giá trị và chuẩn mực
văn hoá ở nước ta hiện nay, góp phần thay đổi cách nhìn, cách đánh giá và ứng xử đối với
các di sản văn hoá trong một số lĩnh vực.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
1. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, những phương pháp nghiên cứu
sau đây sẽ được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn:

17


a. Phương pháp luận: Triết lý âm dương là thuộc về nhận thức, thuộc về đời sống
tinh thần nên để tìm hiểu về triết lý âm dương trong văn hóa dân gian người Việt, trước hết

và cơ bản phải xuất phát từ nền tảng vật chất của cộng đồng người Việt bao gồm điều
kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội, để nghiên cứu. Vì vậy, người viết sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận cho luận
văn.
b. Các phương pháp cụ thể:
Thứ nhất, sử dụng phương pháp hệ thống và cấu trúc để sắp xếp những hiện tượng
văn hoá dân gian vô cùng đa dạng, phức tạp vào các thành tố cấu thành văn hoá dân gian
để nghiên cứu.
Thứ hai, vận dụng phương pháp so sánh loại hình để nghiên cứu cơ sở hình thành
và đặc điểm của triết lý âm dương trong văn hoá dân gian người Việt.
Thứ ba, vận dung phương pháp phân tích - tổng hợp để phân tích, khái quát kết quả
nghiên cứu của các ngành khoa học khác về những nội dung có liên quan đến đề tài.
2. Nguồn tư liệu
Tư liệu chủ yếu để viết luận văn là những kết quả nghiên cứu của các ngành văn
hoá học, dân tộc học, khảo cổ học, lịch sử, văn học, lịch sử văn hoá Việt Nam, nhất là về
văn hoá dân gian người Việt. Một số hiện tượng văn hoá truyền thống và hiện đại được
xem là có nhiều khả năng chứa đựng yếu tố triết lý âm dương (lễ tết, lễ hội, cưới hỏi, tang
ma, kiến trúc, y dược học cổ truyền…) cũng sẽ được xem là một nguồn tư liệu để khảo
sát.
VII. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày thành 4 chương.
Chương 1: Triết lý âm dương và văn hoá dân gian người Việt. Chương này trình bày
những khái niệm cơ bản (triết lý âm dương, văn hoá, văn hoá dân gian), đồng thời cũng
trình bày cơ sở lý luận của luận văn.
Từ cách tiếp cận hệ thống cấu trúc, văn hoá được xem là một hệ thống gồm các
thành tố cơ bản: văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức cộng đồng, văn hoá ứng xử với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Dựa trên việc phân chia các thành tố như trên, từ
chương 2 đến chương 4, luận văn trình bày triết lý âm dương trong từng thành tố văn hoá
dân gian người Việt:
Chương 2: Triết lý âm dương trong văn hoá nhận thức. Ở chương này, luận văn trình

bày triết lý âm dương trong nhận thức về vũ trụ và nhận thừc về con người.
Chương 3: Triết lý âm dương trong văn hoá tổ chức cộng đồng. Xuất phát từ mục
18


tiêu của luận văn, chương này trình bày triết lý âm dương trong văn hóa tổ chức đời sống
tập thể ở ba hình thức tổ chức xã hội: nhà, làng, nước, và triết lý âm dương trong tổ chức
đời sống cá nhân ở các lĩnh vực: tín ngưỡng, phong tục và nghệ thuật.
Chương 4: Triết lý âm dương trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Chương này trình bày triết lý âm dương trong văn hóa tận dụng và đối phó
với môi trường tự nhiên, tận dụng và đối phó với môi trường xã hội.

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
Triết lý âm dương là sự nhận thức về thế giới, nó dựa trên cơ sở khái quát những tri
thức có tính kinh nghiệm, trực giác về thế giới và hoạt động thực tiễn của người thời cổ ở
Trung Quốc và Việt Nam. Nội dung cơ bản của triết lý âm dương là mọi sự vật, hiện tượng
đều là sự kết hợp và chuyển hóa lẫn nhau của hai mặt đối lập theo quy luật: trong âm có
dương, trong dương có âm; âm cực sinh dương, dương cực sinh âm. Triết lý âm dương,
đến lượt nó lại là cơ sở cho sự nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội đặc thù (nóng ẩm mưa nhiều, nông
nghiệp lúa nước, ngã tư đường của các luồng văn minh...) mà người Việt hình thành và
phát triển, triết lý âm dương được nhận thức, vận dụng thể hiện sự quân bình – hài hòa
âm dương nhưng thiên về âm tính. Có thể khẳng định: triết lý âm dương với đặc điểm
trên, thấm nhuần trong mọi thành tố của văn hóa dân gian, và góp phần tạo nên nét độc
đáo trong tính cách người Việt.
Ở thành tố văn hóa nhận thức, triết lý âm dương được vận dụng vào giải thích bản
chất của vũ trụ và con người – tiểu vũ trụ. Mọi vật, kể cả con người đều do sự kết hợp và
chuyển hóa của hai yếu tố âm - dương (mẹ - cha; đực – cái) mà thành. Triết lý âm dương
cũng là cơ sở để giải thích về cấu trúc không gian vũ trụ (tam tài, ngũ hành) và thời gian
vũ trụ (lịch âm dương - hệ đếm can chi). Từ việc xem con người là “tiểu vũ trụ”, “thiên địa

vạn vật nhất thể”, người xưa đã vận dụng mô hình nhận thức về vũ trụ vào nhận thức con
người (con người tự nhiên và con người xã hội). Đó là, con người cũng được tạo thành
bởi sự kết hợp âm dương, có cấu tạo theo ngũ hành. Nhận thức trên về vũ trụ và về con
người được ứng dụng trong mọi thành tố văn hóa dân gian người Việt, từ tổ chức đời
sống tập thể, tổ chức đời sống cá nhân đến ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội.
Trong thành tố văn hóa tổ chức đời sống, triết lý âm dương thể hiện qua việc tổ
chức đời sống tập thể và tổ chức đời sống cá nhân của người Việt. Ở bộ phận tổ chức đời
sống tập thể, ba thiết chế xã hội được khảo sát là gia đình (nhà), làng, nước. Trong tổ
chức gia đình, sự quân bình âm dương thiên về âm tính thể hiện ở việc chú trọng sự hòa
thuận, đề cao vai trò của người phụ nữ, cùng với quá trình vận động trong sự đối lập các
mặt: trọng nam, trọng trưởng / trọng nữ; tôn ty trật tự / tình cảm, cộng đồng, hòa thuận;
19


tập trung tài sản, sở hữu cộng đồng / phân tán tài sản, sở hữu cá nhân. Trong tổ chức
làng xã, triết lý âm dương biểu hiện ở tính tự trị và tính cộng đồng, tính tôn ty và tính dân
chủ, trong đó tính tự trị và tính dân chủ vừa là nền (trên cở sở nông nghiệp lúa nước) vừa
luôn có xu thế lấn lướt (quân bình âm dương nhưng thiên về âm tính). Trong tổ chức quốc
gia – Nước, triết lý âm dương thể hiện ở quan niệm về Nước. Nước là sự kết hợp của hai
yếu tố âm dương (Lạc Long Quân – Âu Cơ, Đất – Nước). Nhà nước quản lý xã hội bằng
cả luật pháp và phong tục (biểu hiện ở sự song song tồn tại của phép nước và lệ làng). Và
ở trong dân gian, lệ làng có biểu hiện nổi trội (Phép vua thua lệ làng) – đề cao lệ, đề cao
tình (âm tính).

Ở bộ phận văn hóa tổ
chức đời sống cá nhân, các lĩnh vực được khảo sát bao gồm: tín ngưỡng, phong tục (lễ
hội, cưới hỏi, tang ma) và nghệ thuật (nghệ thuật thanh sắc và nghệ thuật tạo hình). Đây
là bộ phận thể hiện sâu đậm và sinh động triết lý âm dương. Quân bình âm dương thiên
về âm tính trong tín ngưỡng là: tín ngưỡng đa thần, sự tồn tại lâu dài, phổ biến của tín

ngưỡng phồn thực và sự nổi trội của nữ thần. Trong lĩnh vực phong tục, quân bình âm
dương thể hiện qua các nghi lễ, trò diễn, tục lệ: ở lễ hội, đó là sự quân bình giữa phần lễ
với phần hội, giữa phần thế tục với phần linh thiêng; trong hôn nhân, các nghi thức, các lễ
vật luôn thể hiện cặp đôi đực - cái; trong tang ma, các nghi thức các tục lệ thể hiện quan
niệm về quan hệ giữa thế giới người sống (dương) với thế giới người chết (âm). Trong
nghệ thuật dân gian, bộ phận nghệ thuật thanh sắc thể hiện triết lý âm dương ở giọng ca
luyến láy, ở nhạc cụ nhấn nhá và trong diễn xướng đối ca, đối tỷ; bộ phận nghệ thuật tạo
hình thể hiện triết lý âm dương trong hình thức trình bày cặp đôi, trong nội dung thể hiện
biểu tượng âm dương… Đặc điểm nổi trội của của triết lý âm dương trong tổ chức đời
sống cá nhân là tín ngưỡng phồn thực tồn tại lâu dài và thấm đượm trong mọi hoạt động
của người Việt, từ nghi lễ cho đến trò diễn, trò chơi và sáng tạo nghệ thuật…
Triết lý âm dương trong ứng xử với môi trường tự nhiên thể hiện qua hai mặt hoạt
20


động: tận dụng môi trường tự nhiên và ứng phó với môi trường tự nhiên. Ở mặt tậm dụng
môi trường tự nhiên (ăn uống, chữa bệnh), người Việt luôn hướng tới sự quân bình âm
dương giữa các nguyên liệu chế biến thức ăn, giữa thức ăn với cơ thể và giữa cơ thể với
môi trường. Cũng do ở xứ nóng nên cơ cấu bữa ăn của người Việt thiên về thực vật
(nhiều rau, bột) - âm tính. Mặt ứng phó với môi trường tự nhiên thể hiện trong việc mặc và
ở. Mặc của người Việt cũng hướng tới sự quân bình bằng cách làm giảm cái nóng
(dương) của thời tiết qua cách mặc thoáng mát. Quân bình âm dương trong ở của người
Việt thể hiện qua việc chọn hướng nhà (hướng nam), chọn đất theo thuật phong thủy
(tránh luồng khí, dòng nước ngưng tụ hoặc quá mạnh = quá âm hoặc quá dương), hướng
tới sự hài hòa thiên – địa – nhân.
Triết lý âm dương trong ứng xử với môi trường xã hội cũng thể hiện qua hai mặt
hoạt động: tiếp nhận và đối phó. Trên “cái nền” hài hòa âm dương thiên về âm tính, trong
ứng xử với môi trường xã hội, ở mặt tiếp nhận, các hiện tượng văn hóa ngoại lai (Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo…) được biến đổi theo hướng dung hợp (sự kết hợp giữa các tôn
giáo với nhau và với tín ngưỡng bản địa, giữa lý với tình, giữa đạo với đời; biến thành cặp

đôi dực – cái) – quân bình, trọng tình, nữ hóa. Ở mặt phản kháng để tồn tại, với nhận thức
trong âm có dương, trong dương có âm, âm dương chuyển hóa, người Việt có cách ứng
xử là hòa hiếu, tránh đối đầu, khi chiến thắng thì không lạm sát. Và, khi bắt buộc phải tiến
hành chiến tranh thì vận dụng linh hoạt, tổng hợp, có niềm tin ở tương lai.
Ở khía cạnh tạo nên tính cách người Việt, triết lý âm dương là bộ phận quan trọng
của nhận thức với vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan. Xuất phát từ nhận thức âm
dương là gốc của mọi vật nên người Việt luôn hướng tới sự quân bình âm dương. Với
người Việt, quân bình âm dương vừa biểu hiện cho sự hoàn thiện, viên mãn, mà vuông
tròn là một biểu tượng (Vái trời cho đặng vuông tròn – ca dao; Ba vuông sánh với bảy
tròn, đời cha vinh hiển, đời con sang giàu - tục ngữ), vừa được xem như là nguyên tắc
ứng xử (Đừng ăn quá miệng, đừng diện quá sang; Nhọn gãy, cứng nát…tục ngữ).
Cũng từ sự nhận thức về âm dương chuyển hóa (âm cực sinh dương, dương cực
sinh âm) mà người Việt có lối sống thanh thản, lạc quan (Không ai giầu ba họ, không ai
khó ba đời - tục ngữ), ứng xử linh hoạt và khả năng thích nghi cao (Ăn theo thuở, ở theo
thì - tục ngữ).
KẾT LUẬN
Triết lý âm dương ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa dân gian, nó góp phần tạo nên
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, làm nên sức sống dẻo dai, bền bỉ và trường tồn của
người Việt. Ngày nay, triết lý âm dương vẫn tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng trong
nhiều lĩnh vực của đời sống. Và gần đây, trong xu thế “phục hưng” các giá trị văn hóa
phương Đông, triết lý âm dương cũng được chú ý nghiên cứu và vận dụng nhiều hơn,
nhất là ở lĩnh vực nhân tướng học, kiến trúc và y học

21


Song, trong bối cảnh đất nước ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều điều trong nhận thức và ứng xử của người Việt – vốn trước
đây là ưu điểm, nay cũng đã bộc lộ những hạn chế. Đó là từ trọng sự quân bình, đưa đến
tư tưởng bình quân chủ nghĩa và thái độ nước đôi theo kiểu: hòa cả làng; dĩ hòa vi quý;

chín bỏ làm mười. Đó là bên cạnh sự linh hoạt, giỏi ứng phó là sự tùy tiện, đại khái, làm
không đến nơi đến chốn (cơ bản hoàn thành), và hậu quả của nó là nhiều công trình dang
dở, thiếu đồng bộ. Tinh lạc quan cũng nhiều khi đưa đến sự tự mãn, thiếu thực tế. Trọng
tình cũng dẫn đến tình trạng đặt tình trên lý, coi thường pháp luật. Vì vậy, bên cạnh việc
nghiên cứu để thấy giá trị của triết lý âm dương, thì những hạn chế nêu trên cũng cần
được nghiên cứu và có các giải pháp nhằm điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển
đất nước trong tình hình hiện nay.
Người post bài: Lê Thị Ngọc Điệp
Trần Duy Khương. Hiện tượng sử dụng ngôn từ tục dưới góc nhìn VHH
09/08/2008
Trần Duy Khương
Năm sinh: 05.03.1981
ĐỀ TÀI LUẬN VĂN:
HIỆN TƯỢNG SỬ DỤNG NGÔN TỪ TỤC
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
MỤC LỤC
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu, quy ước cách trình bày
7. Bố cục của luận văn
CHƯƠNG MỘT: BẢN CHẤT VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NGÔN TỪ TỤC
1. Khái quát về ngôn từ tục
1.1 Sự xuất hiện của cái tục. Mối quan hệ giữa thiêng và tục

22



1.2 Từ cái tục đến ngôn từ tục
1.2.1 Định nghĩa về ngôn từ tục
1.2.2 Phân loại ngôn từ tục
1.2.3 Các ngôn từ tục trong tiếng Việt và tiếng Hoa
2. Quá trình hình thành ngôn từ tục
2.1 Tiền đề tự nhiên
2.2 Tiền đề xã hội
3. Từ văn hoá đến ngôn từ tục
4. Tiểu kết
CHƯƠNG HAI: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA NGÔN TỪ TỤC
1. Tính phổ quát (theo không gian)
1.1 Ngôn từ tục trong văn hoá phương Tây
1.2 Ngôn từ tục trong văn hoá phương Đông
2. Tính lịch sử (theo thời gian)
2.1 Thời cổ đại
2.2 Thời trung đại
2.3 Thời cận đại
2.4 Thời hiện đại và đương đại
3. Tính giá trị
3.1 Phủ định: tác hại của ngôn từ tục và hiện tượng sử dụng ngôn từ tục
3.2 Khẳng định: tác dụng của ngôn từ tục trong đời sống xã hội
3.3 Thang đo giá trị của ngôn từ tục dưới góc nhìn văn hoá học
4. Các đặc trưng khác của ngôn từ tục
4.1 Tính biểu trưng
4.2 Tính hệ thống
4.3 Tính cộng đồng
23



5. Tiểu kết
CHƯƠNG BA: SỰ VẬN HÀNH CỦA NGÔN TỪ TỤC
1. Cơ sở vận hành
1.1 Sự lựa chọn trong ngôn từ tục
1.1.1 Thanh điệu, ngữ điệu và âm tiết
1.1.2 Khoảng cách
1.2 Ngôn từ tục trong quan hệ với uyển ngữ và từ lóng
2. Các bình diện sử dụng ngôn từ tục
2.1 Dưới góc độ giới tính
2.2 Dưới góc độ tôn giáo - tín ngưỡng
2.3 Dưới góc độ lứa tuổi
2.4 Dưới góc độ phân tầng ngành nghề xã hội
3. Xu hướng vận hành ngôn từ tục
3.1 Xu hướng sử dụng tự do
3.2 Xu hướng cấm sử dụng
3.3 Xu hướng phá cấm
4. Tiểu kết
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC I
PHỤ LỤC II
PHỤ LỤC III
PHỤ LỤC IV
TÓM TẮT LUẬN VĂN
HIỆN TƯỢNG SỬ DỤNG NGÔN TỪ TỤC
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ HỌC
24


Ngôn từ tục luôn là đối tượng bị quản chế bởi đạo đức xã hội và cả những quy

ước, nội quy, quy định, thậm chí là pháp luật. Thế nhưng, người ta vẫn chưa định nghĩa
và hạn định phạm vi một cách rõ ràng về ngôn từ tục, từ đó, ngôn từ tục trở thành một
phạm trù mập mờ, được hiểu theo cảm tính dựa trên tiền lệ chung của một cộng đồng văn
hoá nào đó. Đồng thời, cho đến hiện nay, ngôn từ tục vẫn chưa được nhìn nhận một cách
tổng quát về bản chất cũng như vị trí của nó trong xã hội.
Công trình nghiên cứu này sẽ mang lại cách nhìn nhận mới bao quát hơn, toàn
diện hơn và khách quan hơn đối với hiện tượng xã hội bị xem là cấm kỵ này. Các công
trình nghiên cứu trước đây phần lớn đều bị hạn chế bởi dư luận xã hội, bởi tư tưởng
“cách mạng văn hoá”, do vậy, những từ ngữ tục tĩu luôn bị cắt xén, lược bỏ hoặc chỉ viết
tắt bằng chữ cái đầu của từ ấy.
Ngày nay, với tư tưởng tự do hoá trong nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc và Việt
Nam, các đề tài liên quan đến những cấm kỵ được nghiên cứu ngày càng nhiều, và đã tạo
được sự chín chắn và nghiêm túc trong các công trình nghiên cứu khoa học, phục vụ cho
nhu cầu tri thức chính đáng của xã hội. Các công trình ấy phần nhiều liên quan đến hoạt
động tính dục của nhân loại, như văn hoá ứng xử của mỗi cộng đồng người trong lĩnh vực
tình dục. Thế nhưng, bản thân những từ ngữ thể hiện chúng vẫn chưa được nghiên cứu
thấu đáo. Do vậy, công trình này sẽ đóng góp kịp thời cho mảng trống ấy.
***
Mọi sự vật đều mang tính tương đối, quan niệm của xã hội về cái tục cũng không
nằm ngoài quy luật này. Nhưng, tất cả các sự vật hiện tượng đều chịu sự chi phối của trật
tự, do vậy, khi một sự vật nào đó đặt không đúng vào vị trí vốn có thì nó sẽ làm mất đi
hoặc làm sai lệch giá trị và bản chất vốn có. Vì vậy, bài tiết và tính dục khi xuất hiện
không đúng vào không gian, thời gian và chủ thể sử dụng thì người ta sẽ gán cho
chúng một giá trị mới, một tính chất bề mặt mới, đó là bẩn (bài tiết) hoặc tục (tính
dục). Ngôn từ thể hiện liên quan đến hiện tượng này cũng vậy, khi ấy, chúng sẽ bị
gọi là tiếng bẩn hoặc từ tục. Như vậy, nếu xét theo nghĩa hẹp thì thông thường, tục là
cái gắn liền với tính dục, còn bẩn là cái gắn liền với bài tiết. Thế nhưng, giữa tục và bẩn
theo nghĩa hẹp có nhiều khả năng biến hoá và chuyển đổi cho nhau, vì vậy, công trình
này xem xét cái tục trên một hàm nghĩa tổng thể, tức là cái tục cộng gộp giữa cái tục
từ nguồn gốc tính dục và cái bẩn từ nguồn gốc bài tiết.

Xét về bản chất của cái bẩn, thì bất kỳ một sự xáo trộn vị trí vốn có nào cũng
đều có khả năng trở thành cái bẩn. Ví dụ như một đôi giày mới đặt trên bàn ăn; thức ăn
ngon bắn toé trên quần áo; quần áo sạch vứt bừa bãi trên bàn tiếp khách, tất cả những
cái sạch này đều tạm thời bị biến thành cái bẩn. Đối với thân xác con người cũng vậy, cái
bẩn bị quyết định bởi trật tự của khoảng cách: khi càng rời xa cơ thể chủ thể, những cái
bình thường đều càng có khả năng trở thành cái bẩn. Khi hôn nhau, người ta không thấy
ghê sợ vì nước miếng trong miệng của người yêu, nhưng lại ghê sợ nước miếng của
người xa lạ. Nước miếng trong miệng của người yêu lại không tởm lợm như khi nước
25


×