Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chính sách KTĐN SINGAPORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.04 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC SINGAPORE
Cộng hòa Singapore là quốc gia nhỏ nhất của Đông Nam Á, có diện tích
710km2 với dân số 5,312 triệu người (2012), trong đó 64% mang quốc tịch
Singapore, số còn lại 36% là cư dân định cư hoặc người làm việc nước ngoài.
Singapore là một quốc gia đa tôn giáo, theo thống kê khoảng 51% dân số
Singapore theo Phật giáo và Đạo giáo, 15% dân số (chủ yếu là người Hoa, người
gốc Âu và người Ấn Độ) là tín đồ Đạo Cơ-đốc. Hồi giáo chiếm khoảng 14% dân
số, chủ yếu tồn tại trong các cộng đồng người Mã Lai, người Ấn Độ theo Hồi
giáo, và người Hồi (người Hoa theo Hồi giáo). Có khoảng 15% dân số
Singapore tuyên bố họ không có tôn giáo, các tôn giáo khác không đáng kể.
Singapore không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài.
Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét, không có nước ngọt, đất canh
tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp
không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu
cầu ở trong nước.
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao
hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu,
công nghệ lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore còn là trung
tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ ( chiếm 40%
thu nhập quốc dân). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng
trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%. Tuy nhiên, từ
cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la Singapore đã bị
mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Từ
1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%, và năm
2000 đạt hơn 9%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 09, suy giảm của kinh tế


thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm
2001, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002 đạt 3%, 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ
2004, tăng trưởng mạnh: Năm 2004 đạt 8,4%, 2005 đạt 5,7%, 2006 đạt 7,7% và
năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2% do tác dộng không hoảng
kinh tế.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền
kinh tế tri thức. Singapore dang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến
2


Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới
mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm
kinh doanh.
Quan hệ quốc tế
Chính sách đối ngoại của Singapore đã được thiết kế để đảm bảo một sự
cân bằng trong khu vực. Singapore là một thành viên sáng lập của ASEAN vào
năm 1967 và kể từ đó đến nay, Singapore đã làm việc chăm chỉ để duy trì mối
quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng trong khu vực.
Singapore là một cầu thủ hoạt động trên sân khẩu thế giới quốc tế thông
qua các thành viên của Liên Hợp Quốc, Khối thịnh vượng chung, ASEAN,
APEC, WTO và các NAM. Singapore chuẩn bị cho lần đầu tiên vào Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc vào năm 2001 và 2002. Singapore là một trong năm
nước ASEAN tham gia Phái đoàn EU/ASEAN Giám sát Aceh. Singapore như là
một quốc gia thương mại, là quốc gia ủng hộ mạnh mẽ của thương mại tự do và
sử dụng thành viên của APEC và WTO nhấn cho sự tiến bộ trong lĩnh vực này.
Singapore là Chủ tịch APEC trong năm năm 2009. Chủ đề “ Duy trì tăng trưởng,
kết nối khu vực”, và tập trung vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại
và đầu tư trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, cũng như các biện pháp hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế, giải quyết các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đẩy
mạnh hội nhập kinh tế khu vực, và chống lại chủ nghĩa bào hộ.


3


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA SINGAPORE
QUA TỪNG THỜI KỲ

2.1. Giai đoạn 1965 – 1979
* Bối cảnh lịch sử
Ngày 22/12/1965, nước Công hoà Singapore tuyên bố thành lập. Sau khi
độc lập, Singapore đối diện với một tương lai đầy bất trắc. Singapore đối diện
với nguy hiểm trước khả năng bị quân đội Indonesia tấn công và bị ép buộc
bằng vũ lực để tái gia nhập Liên bang Malaysia theo các điều khoản bất lợi.
Phần lớn truyền thong quốc tế hoài nghi về viễn cảnh cho sự tồn tại của
Singapore. Bên cạnh vấn đề chủ quyền, các vấn đề cấp bách là thất nghiệp, nhà
ở, giáo dục, thiếu tài nguyên thiên nhiên và đất đai.
Trong suốt thế kỷ XX, trên thế giới, xu thế toàn cầu hoá phát triển ngày
càng mạnh mẽ, thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu, vượt ra khỏi ranh giới quốc gia.
* Trong bối cảnh đó, Singapore đã chủ trương thực hiện chủ trương tự do
hóa thương mại thể hiện qua:
Thứ nhất, Singapore ngay lập tức tìm kiếm công nhận quốc tế đối với chủ
quyền của mình. Ngày 21/9/1965, Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc và gia
nhập Thịnh vượng chung vào tháng 10 cùng năm. Singapore sau đó đồng sang
lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào ngày 8/8/1967 và được nhận làm
thành viên của Phong trào không lien kết vào năm 1970.
Thứ hai, về chính sách thương mại
Trong buổi đầu phát triển độc lập, nền kinh tế Singapore gặp rất nhiều khó
khăn: thị trường nhỏ hẹp, sự thiếu thốn về tài nguyên thiên nhiên… Thủ tướng
Lý Quang Diệu đã đưa ra những chính sách kinh tế hợp lý, xây dựng một nền

kinh tế hướng ngoại, hoà nhâp vào hệ thống kinh tế thế giới.
Singapore theo đuổi chính sách thương mại tự do và áp dụng phát triển hệ
thống pháp luật kinh doanh đã từng được thực dân Anh thực hiện đã giúp thu hút
nguồn vốn và nhân lực ngoại quốc.
4


Do thị trường trong nước không lớn, Singapore buộc phải phát triển các
ngành công nghiệp định hướng vào xuất khẩu, và cũng do trong nước không đủ
vốn, công nghệ tại chỗ và điều kiện tiếp thị, Singapore đã hợp tác với các tập
đoàn đa quốc gia.
Các khu công nghiệp được thành lập, đặc biệt là tại Jurong, và đầu tư
ngoại quốc được thu hút đến đảo quốc do ưu đãi về thuế.
Thứ ba, về chính sách thu hút vốn đầu tư
Trong thời kỳ 1965-1979, chính phủ Singapore khuyến khích thu hút đầu
tư nước ngoài để phát triển kinh tế, đặc biệt là tập trung vào các ngành công
nghiệp hướng ra xuất khẩu. Không vay nợ để đầu tư mà chủ yếu tạo môi trường
cho tư nhân nước ngoài trực tiếp bỏ vốn đầu tư.
Chính phủ đã đưa ra hàng loạt ưu đãi đối với các nhà tư bản nước ngoài.
Kết quả đạt được trong thời kỳ này là:
Singapore nhanh chóng trở thành trung tâm công nghiệp chế biến, chế tạo
hàng xuất khẩu quan trọng ở Đông Nam Á. Kim ngạch xuất khẩu của Singapore
không ngừng tăng lên, năm 1967 là 7896 triệu USD thì đến năm 1970 đã lên đến
12290 triệu USD.
Lĩnh vực dịch vụ cũng phát triển vào đương thời nhờ nhu cầu đối với dịch
vụ cho tàu ghé qua cảng và thương mại ngày càng tăng cao.
Singapore cũng thu hút các công ty dầu thô lớn như Shell và Esso đến
thiết lập những nhà máy lọc dầu tại Singapore, đến giữa thập niên 1970 thì
Singapore trở thành trung tâm lọc dầu lớn thứ 3 trên thế giới.
Singapore cũng là một trung tâm tài chính quốc tế, nơi thu hút rất nhiều

nhà đầu tư vào đây hợp tác. Từ 1972 đến 1982, tổng số vốn đầu tư nước ngoài
vào Singpore đạt 7,77 tỷ đô la Singapore, trong đó Mỹ chiến 34% và châu Âu
chiến 39%.
Singapore tập trung phát triển thành trung tâm thương mại, hàng hải và
dịch vụ du lịch hấp dẫn nhất Đông Nam Á.

a.

2.2. Giai đoạn 1980 – 1999
2.2.1. Chính sách thương mại quốc tế
Trong giai đoạn 1980-1999, Singapore tập trung vào các chiến lược
hướng về xuất khẩu. Một số biện pháp đã được áp dụng như:
Chính sách hoàn thuế GST (Thuế hàng hóa và dịch vụ)
5


b.

c.

d.

Tại Singapore hiện áp dụng thuế hàng hóa và dịch vụ (Goods and
Services Tax) ở mức 7%. Để khuyến khích xuất khẩu tại chỗ, Singapore đã thực
hiện chính sách hoàn thuế cho du khách để kich thích chi tiêu của họ.Theo
chương trình hoàn thuế cho du khách (Tourist Refund Scheme), nếu mua hàng
hóa tại Singapore từ những cửa hiệu bán lẻ tham gia chương trình, du khách có
thể được hoàn lại thuế GST khi vận chuyển hàng hóa ra khỏi Singapore qua sân
bay quốc tế Changi (Changi International Airport) hoặc Sân Bay Seletar (Seletar
Airport) trong vòng 2 tháng kể từ ngày mua hàng. Các khoản hoàn thuế GST

không được áp dụng cho những du khách khởi hành bằng đường bộ hoặc đường
biển.Những du khách đáp ứng các điều kiện của chương trình sẽ được quyền
nhận tiền hoàn thuế GST từ những cửa hiệu bán lẻ hoặc tại một chi nhánh hoàn
thuế trung tâm. Hiện tại, có 2 chi nhánh hoàn thuế trung tâm, đó là: công ty
Global Refund Singapore Ltd. Và Premier Tax Free (Singapore) Pte Ltd.
Hỗ trợ xuất khẩu
Cơ quan tiền tệ Singapore tiến hành một chương trình chiết khấu lại trên
các biên lai xuất khẩu mà có thể do ngân hàng chiết khấu lại một lần xuất khẩu
thực và tái xuất biên lại cho cơ quan tiên tệ Singapore với mức ưu việt hơn, hiện
nay là 3,75%/năm. Khoản hoa hồng tối đa có thể nhận nhờ thỏa thuận của ngân
hàng theo chương trình này tối đa là 1,5%/năm. Tỷ lệ đặc biệt của lãi suất hoàn
trả cho cơ quan trên thông qua thỏa thuận từ ngân hàng là để chuyển cho các nhà
xuất khẩu.
Giảm thuế: Các công ty tham gia vào thương mại quốc tế của Singapore
đều được miễn giảm thuế. Ngoài ra, các công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải
đường biển quốc tế, thương mại điện tử, và các công ty trong nước mở rộng hoạt
động kinh doanh của mình ra nước ngoài cũng được xét miễn giảm thuế. Tỷ lệ
thuế miễn giảm là đối với các công ty và các hàng hoá đã được phê chuẩn là
10% (trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay là 22%).
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Singapore là công ty nhà nước
góp 50% vốn cung cấp tất cả các dịch vụ bảo hiểm cho nhà xuất khẩu Singapore
chống lại việc người mua không trả tiền vì lý do chính trị hoặc kinh tế đột ngột
xảy ra đối với người mua. Công ty này cũng đưa ra các chương trình bảo đảm
của ngân hàng đối với nhu cầu bảo hiểm tín dụng ngắn, trung và dài hạn của các
nhà xuất khẩu ở địa phương.Công ty này cũng là thành viên đầy đủ của Liên
hiệp các nhà bảo hiểm tín dụng và đầu tư quốc tế.
Thành lập cục xúc tiến thương mại Singapore
Cục xúc tiền thương mại Singapore được thành lập năm 1983, chịu trách
nhiệm chính trong việc thúc đẩy Singapore tiến nhanh trên đấu trường thương

mại quốc tế, bảo vệ quyền lợi kinh tế của quốc đảo, đồng thời giới thiệu sản
phẩm của Singapore trên khắp thế giới. Cục xúc tiến thương mại Singapore chú
6


e.

trọng đến viêc mở rộng hoạt động thương mại ra nước ngoài. Hiện nay, có hơn
30 văn phòng thương mại trên khắp thế giới.
Thủ tục xuất khẩu
Nhà xuất khẩu bắt buộc phải là công ty hợp pháp hoặc nếu là công ty
nước ngoài thì phải đăng ký kinh doanh theo Luật Công ty hoặc các tổ chức kinh
doanh đăng ký theo Luật đăng ký kinh doanh. Họ cũng phải đăng ký mã số hải
quan tại Hải quan Singapore để có Mã số đăng ký trung tâm. Luật Quy định
hàng hoá xuất nhập khẩu 1995 có quy định tất cả các loại hàng xuất khẩu đều
phải có giấy phép xuất khẩu. Đối với hàng hoá không bị hạn chế xuất khẩu,
người xuất khẩu phải có được giấy phép xuất khẩu từ Hải quan Singapore thông
qua hệ thống Tradenet trong vòng ba ngày sau xuất khẩu, còn đối với hàng hoá
bị giới hạn xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu phải lấy được trước khi xuất khẩu.
Thủ tục xuất khẩu diễn ra cũng vô cùng nhanh gọn, trong 90% số trường hợp có
quá trình khai báo thông qua Tradenet được hoàn tất trong vòng mười phút.
Đối với hàng hoá chiến lược, theo quy định của Luật (Kiểm soát) Hàng
hoá chiến lược thì nhà xuất khẩu phải có được giấy phép có hiệu lực do Hải
quan Singapore cấp trước khi xuất khẩu. Các hàng hoá loại này gồm vũ khí, hoá
chất và nguyên liệu sinh học, và hàng hoá tiêu dùng lâu bền, bao gồm cả chất có
phóng xạ hạt nhân. Giấy chứng nhận cũng cần có trước khi xuất khẩu hàng hoá
chịu hạn ngạch như dệt may, quần áo xuất khẩu đến một số thị trường bị giới
hạn, và đối với những hàng hoá yêu cầu những giấy tờ đặc biệt (do nước nhập
khẩu yêu cầu) như sản phẩm nông nghiệp. Khi hàng hoá phải di chuyển từ một
vùng mậu dịch tự do sang một khu thương mại khác trong vòng lãnh thổ

Singapore hay những hàng hoá nằm trong hạn chế xuất khẩu mà được di chuyển
trong phạm vi cùng một vùng thương mại tự do thì phải có giấy phép chuyển tải.
Một số hàng hoá nhất định ví dụ như hàng hoá không thuộc diện hạn chế xuất
khẩu mới được phép không cần loại giấy tờ này.
Đối với hoạt động nhập khẩu, Singapore sử dụng các công cụ như:
Thuế quan ràng buộc: Thuế quan ràng buộc của Singapore nằm trong
danh mục của Hệ thống hài hòa Mô tả và Mã hóa hàng hóa 1996. Thuế suất ràng
buộc của Singapore đối với các sản phẩm nông nghiệp tính trên cơ sở tỷ trọng
thương mại đã giảm từ 12,4% xuống còn 5,1%. Đối với các mặt hàng nông
nghiệp, Singapore cam kết 100% dòng thuế quan theo. Khoảng 98,7% thuế quan
ràng buộc cuả nước này dựa vào thuế theo giá trị. Đối với các sản phẩm khoáng
sản, giầy dép, đá quý, máy móc giao thông, vũ khí, đạn dược, tác phẩm nghệ
thuật thì không có hoặc rất ít các cam kết ràng buộc thuế quan. Các dòng thuế
cam kết ràng buộc từng phần chủ yếu là đối với các sản phẩm da hoặc thuộc da,
đá quý, máy móc và các dụng cụ chính xác.
7


Về hạn ngạch thuế quan, Singapore không áp dụng bất kỳ một hạn ngạch
thuế quan hay thuế biến đổi nào.
Thuế quan ưu đãi: theo các hiệp định ưu đãi thuế quan mà nước này đã ký
với các đối tác thương mại gần đây (ví dụ hiệp định thương mại tự do với
Australia, Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), Nhật Bản, New Zealand,
Mỹ, Jordan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Panama, hiệp định chung với 3 nước: Thuỵ Sỹ,
Na Uy, và New Zealand), Singapore đã dỡ bỏ tất cả hàng rào thuế quan đối với
hàng hoá nhập khẩu từ các nước này. Đồng thời, theo cam kết đối với Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), hàng rào thuế quan đối với hàng hoá nhập
khẩu từ Thái Lan và Philippines cũng bị dỡ bỏ từ tháng 1 năm 2001.
- Miễn giảm thuế: miễn thuế hang nhập khẩu do một số lý do và mục đích
sử dụng cuối cùng. Hàng hóa được nhập khẩu tạm thời sẽ được tái xuất trong

vòng 3 tháng và hàng tạm xuất sau đó sẽ được tái nhập trở lại đều không chịu
thuế hải quan và thuế GST. Hàng hóa nhập khẩu chịu thuế nhập khẩu là hàng
nguyên liệu thô hay là nguyên liệu trực tiếp cho ngành công nghiệp trong nước;
rượu samsoo và rượu cồn dùng cho ngành công nghiệp trong nước; hàng hóa
nhập khẩu theo phái ngoại giao tại Singapore đều được miễn thuế theo quy định
của Hải quan Singapore. Tất cả hàng hóa nhập khẩu từ các nước trong Hệ thống
chung về ưu đãi mậu dịch(GSPT) và Ưu đãi Khối thịnh vượng chung đều được
miễn thuế.
- Quy tắc xuất xứ: Singapore không duy trì bất cứ một quy tắc xuất xứ tối
huệ quốc (MFN) nào. Quy tắc xuất xứ ưu đãi được điều chỉnh thông qua các
hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực cụ thể của nước này. Trong
các hiệp định thương mại tự do song phương, xuất xứ của sản phẩm phải chiếm
tới từ 30% đến 60% giá trị gia tăng chung của hàng hoá là thuộc nước xuất
khẩu.
Cụ thể quy tắc xuất xứ của một số khu vực và đối tác thương mại
song phương của Singapore như sau:
● Đối với xuất xứ ASEAN: Hàng nhập khẩu bắt buộc được sản xuất
hoàn toàn tại các nước ASEAN hoặc có hàm lượng giá trị gia tăng tại các
nước này ít nhất 40% giá FOB của sản phẩm hoàn thiện. Dệt may và các
sản phẩm dệt may đủ điều kiện được đối xử ưu đãi theo CEPT (Hiệp định
thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung) nếu quá trình chuyển đổi giá trị chủ
yếu diễn ra trong các nước ASEAN.
● Đối với Hệ thống chung về ưu đãi mậu dịch GSTP (Global
System of Trade Preferences): sản phẩm phải được sản xuất toàn bộ tại
những nước tham gia hoặc nước tham gia phải đóng góp ít nhất 50% giá
8


FOB của sản phẩm hoàn thiện. Tuy nhiên tổng giá trị gia tăng tại các nước
tham gia chiếm ít nhất 60% cũng được chấp nhận.

● Đối với Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA): Sản phẩm cuối
cùng phải trải qua một quá trình chuyển đổi giá trị lớn để được hưởng đối
xử ưu đãi. Chuyển đổi giá trị lớn phải bắt đầu từ nguyên liệu được dùng
trong sản xuất ra sản phẩm đó. Đối với một số sản phẩm thì quy tắc giá trị
gia tăng được quy định cho quy tắc xuất xứ của sản phẩm được hưởng ưu
đãi nếu hàm lượng giá trị tại EFTA hoặc Singapore của nó đạt một tỷ lệ
phần trăm cố định trên giá xuất xưởng, từ khoảng 40% - 80% tuỳ thuộc
vào loại hàng hoá đó.
● Đối với xuất xứ Australia: Sản phẩm phải được sản xuất hoàn toàn
tại Australia hoặc có 30% đến 50% (tuỳ từng mặt hàng) giá FOB của hàng
hoá đó được sản xuất tại Australia hay Singapore.
● Đối với xuất xứ Mỹ: Sản phẩm phải được sản xuất hoàn toàn tại
Mỹ, hoặc đối với một số sản phẩm điện tử phải có giá trị gia tăng từ Mỹ
hoặc Singapore từ 30% đến 60% giá FOB của sản phẩm cuối cùng. Với
một số sản phẩm, đầu vào nhập khẩu dùng để sản xuất sản phẩm cuối
cùng từ Mỹ hoặc Singapore phải được phân loại theo bảng phân loại thuế
quan khác biệt. Đối với một số sản phẩm hoá chất và hoá dầu thì quá trình
xử lý phải diễn ra ở Mỹ hoặc Singapore.

2.2.2. Chính sách đầu tư quốc tế
2.2.2.1. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
a.

Cho phép các nhà đầu tư tự do di chuyển các khoản lợi nhuận về nước,
có chế độ ưu đãi về thuế đối với những ngành, những lĩnh vực mà chính
phủ ưu tiên đầu tư phát triển như: các khoản đầu tư cho nghiên cứu khoa học,
công nghệ, đào tạo tay nghề cho công nhân và nâng cấp trang thiết bị sản xuất.
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua: Luật khuyến
khích và phát triển kinh tế 1967; Luật bổ sung 1970-1975; Luật thuế Thu nhậpvà
những điều khoản bổ sung mới vào cuối những năm 1970; Sang những năm

1980 các luật trên lại được bổ sung và nới rộng nhiều điều khoản… Làm cho
môi trường đầu tư Sing vừa minh bạch vừa hấp dẫn, thu hút nhiều các nhà đầu
tư nước ngoài đổ vốn vào
Nhờ đó mà Singapore đã rất thành công trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài và lượng vốn này thực sự là nguồn lực quan trọng đưa nền kinh tế
9


Singapore hội nhập với khu vực và trên thế giới. Cụ thể, từ năm 1970-1985, Mỹ
đã đầu tư trực tiếp vào Singapore 7.9 tỷ USD. Vào đầu những năm 1990, tuy
đầu tư của Mỹ vào thị trường Singapore có giảm đi song Mỹ vẫn dẫn đầu danh
sách các nước đầu tư nhiều nhất vào Singapore, tổng số vốn đầu tư của Mỹ vào
Singapore vẫn tăng đều trong các năm: năm 1994 đầu tư đạt 10.3 tỷ USD, năm
1995 đạt 12.6 tỷ USD. Về phía các nhà đầu tư Nhật Bản, từ 1991 đến nay vẫn
đạt khoảng 400 triệu USD/năm.
b.

Cho phép các nhà đầu tư thuê lao động nước ngoài.
Theo thời gian, đặc biệt là trong thời kỳ 1985-1986, tiền lương tăng lên và
Singapore nhận thấy chỉ có thể giữ vững nền kinh tế bằng cách nâng cấp FDI và
nâng cao khả năng cạnh tranh của lực lượng lao động so với những nước láng
giềng có chi phí thấp. EDB đã tập trung vào những ngành có hàm lượng tri thức
cao để có thể trả tiền lương cao hơn. Để giải quyết việc thiếu lao động có kỹ
thuật, các công ty được khuyến khích tuyển dụng lao động nước ngoài. Gần đây,
EDB đã bắt đầu thu hút các trường đại học nước ngoài. Chương trình khu vực
hoá của EDB khuyến khích các công ty xây dựng các cơ sở có hàm lượng kỹ
năng cao tại Singapore và chuyển sản xuất sử dụng nhiều lao động và đất đai ra
nước ngoài.

c.


Chính sách miễn thuế bản quyền và thu nhập đối với các công ty đầu tư vào
lĩnh vực nghiên cứu.
Thời kỳ 1985-1986, là thời kỳ suy thoái đầu tiên của Singapore kể từ sau
chiến tranh, đã làm thay đổi các quan hệ lao động và thúc đẩy việc hình thành
các kế hoạch liên kết các công ty Singapore với các TNC (Trans National
Corporations – Công ty xuyên quốc gia). Singapore chỉ có thể giải quyết được
tình trạng tiền lương gia tăng nếu các công ty bản địa phát triển được năng lực
(các nguồn lực kỹ thuật và con người) và chính phủ khuyến khích bằng cách tài
trợ nghiên cứu và phát triển (R&D) để nâng cấp các TNC, thiết lập các cơ sở có
kỹ năng cao và các viện nghiên cứu chung).
EDB đã nỗ lực nâng cấp sản xuất trong nước bằng Chương trình Nâng
cấp Công nghiệp Bản địa (LIUP) năm 1986. Theo Chương trình này, các TNC
được khuyến khích ký kết các hợp đồng cung ứng dài hạn với các công ty bản
địa. Các công ty bản địa đã được hưởng lợi nhiều nhất trong ngành điện tử qua
việc cung ứng các dịch vụ bảo hành, các linh kiện và thiết bị cho các TNC sản
xuất sản phẩm bán dẫn. Những sáng kiến như LIUP cũng có tác dụng gắn kết
FDI nhiều hơn với nền kinh tế Singapore bằng các lợi ích chung và sự phụ thuộc
lẫn nhau.
2.2.2.2. Chính sách đầu tư ra nước ngoài
10


Trong giai đoạn 1965-1990, Trước tình hình nền kinh tế trong nước đã
bão hòa, tích lũy cho đầu tư trong nước cao hơn nhu cầu đầu tư, Singapore bắt
đầu đầu tư ra nước ngoài: chủ yêu là vào Trung Quốc, Malaixia và Indonexia.
Hướng đầu tư ban đầu tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến cần nhiều
lao động như sản xuất đồ điện, đồ điện tử, công nghiệp nặng sử dụng nhiều vốn
như hóa chất, cao su, lọc dầu; ngày nay các nhà đầu tư chú trọng hơn vào dịch
vụ tài chính, du lịch và xuất nhập khẩu.

Bước sang thập kỷ 90, chính sách kinh tế đối ngoại của Singapore đã có
nhiều thay đổi do có những sự thay đổi rất lớn trong tình hình kinh tế - chính trị
ở Singapore cũng như trên thế giới. Singapore chuyển hướng sang mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế và hoạt động đầu tư với các nước đang phát triển, đặc biệt là
các nước trong khối ASEAN. Thể hiện qua tỷ trọng đầu tư vào các nước khu vực
Đông Nam Á của Singapore tăng dần qua các năm: năm 1990 đầu tư của
Singapore vào khu vực này chiếm chưa đến 1%, nhưng đến năm 1997 Singapore
cùng với Malaysia đã trở thành những nhà cung cấp vốn lớn trong khu vực, bên
cạnh một số cường quốc như: Mỹ, Nhật và 1 số nước châu Âu, trong năm 1997,
tổng vốn đầu tư của Singapore vào khu vực là 8.1 tỷ USD (chiếm 60.3% tổng
lượng vốn đầu tư nội bộ khu vực). Trong các nước đang phát triển trong khối
ASEAN, Singapore chú trọng đến quan hệ ngoại giao cũng như đầu tư vào các
nước: Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam.


Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư ra nước ngoài
Hỗ trợ vốn thông qua vốn tín dụng ưu đãi: chính phủ sẽ cung cấp một phần tài
chính đầu tư ra nước ngoài, mặt khác giúp các công ty này phát hành cổ phiếu
trên thị trường để huy động thêm vốn. với các xí nghiệp vừa và nhỏ được tài trợ
thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài.



Miễn giảm thuế thu nhập công ty cho các công ty đầu tư ra nước ngoài: chính
phủ quy định tất cả các xí nghiệp đầu tư ra nước ngoài mà có được lợi nhuận
đều có thể xin miễn thuế, kể cả các xí nghiệp đầu tư vào các nước chưa có Hiệp
định bảo hộ với Singapore vẫn được quyền miễn thuế.




Thành lập Câu lạc bộ đầu tư ra nước ngoài: hiện nay Singapore đã có 48 câu lạc
bộ đầu tư hải ngoại cung cấp thông tin về các nước và khu vực có đầu tư của
Singapore, tìm kiếm đối tác mới, tư vấn đầu tư, chia sẻ kinh nghiệm, mở lớp đào
tạo, huấn luyện phục vụ cho việc đầu tư ra nước ngoài. Tháng 1/1993, Singapore
còn lập Ủy ban xúc tiến đầu tư ra nước ngoài. Nhiệm vụ của ủy ban này là đánh
giá khả năng đầu tư của các xí nghiệp và đệ trình lên chính phủ những kiến nghị
có tính khả thi.
11


2.2.3.

Chính sách thị trường
Thời kỳ trước 1990, Singapore chú trọng phát triển quan hệ thương mại
với: Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Âu. Singapore đã được các nước phát triển cho
hưởng ưu đãi tối huệ quốc về thương mại trong một thời gian dài. Những nước
này là thị trường lớn của Singapore (chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu
năm 1989) đã giúp nền kinh tế Singapore tăng trưởng với tốc độ cao.
Kể từ năm 1990, Tình hình có nhiều biến động, Liên Xô tan rã, kết thúc
chiến tranh lạnh, trên thế giới xuất hiện nhiều xu tế hòa bình, hợp tác, cùng phát
triển, trên thế giới xuất hiện nhiều thị trường tiềm năng. Singapore bắt đầu mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế với các nước trong khối ASEAN, Trung Quốc, Ấn
Độ…nhằm tìm kiếm thị trường mới, tránh phụ thuộc vào thị trường các nước
phát triển.
Có thể tạm kết luận, trong giai đoạn 1970 – 1999, Singapore đã áp dụng
và thực hiện thành công mô hình chính sách tự do hóa thương mại và thúc đẩy
xuất khẩu.

2.3.


Giai đoạn 2000 – nay
2.3.1. Chính sách thương mại
Trong giai đoạn này, chính sách đối ngoại của Singapore có những điểm
mới sau:
a.
Tích cực tham gia vào các FTA
Kể từ 2000 đến nay, Singapore tăng cường ký kết các hiệp định FTA song
phương bởi họ cho rằng các hiệp định thương mại tự do đóng vai trò quan trọng
với quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư toàn cầu. Tính đến nay, Singapore
đã phát triển 13 hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương với 23 đối
tác. Nếu tính luôn cả các FTA đang đàm phán và đề xuất thì có tổng cộng 32
RTA/FTA . Theo chính phủ Singapore “ FTA là siêu xa lộ nối Singapore với các
nền kinh tế chính và những thị trường mới. Các nhà xuất khẩu cũng như các nhà
đầu tư đặt bản doanh tại Singapore sẽ được hưởng vô số lợi ích như giảm thuế
quan, tiếp cận những khu vực ưu tiên, thâm nhập thị trường nhanh hơn trong khi
đảm bảo được sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,...
Hệ thống của 13 FTAs được thiết kế để định vị Singapore như là một
trung tâm sản xuất tích hợp trong khu vực: thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và
phát triển trong nền kinh tế, dựa vào tri thức và vận hành trung tâm dịch vụ.
Trong đo có 3 FTA ảnh hưởng lớn đến Singapore là FTA giữa Singapore và các
đối tác Trung Quốc, Mỹ và EU.
12


Áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật vào thương mại
_ Thương mại không giấy tờ (paperless trading): bằng việc thiết lập hệ
thống Tradenet, Singapore đã cách mạng hoá các thủ tục thương mại nói chung
và xuát nhập khẩu nói riêng.
_ Thương mại điện tử: được xây dựng và phát triển bởi Ủy ban phát triển
thương mại Singapore (TDB).

_ Hệ thống cấp phép tự động: TDB phối hợp với các cơ quan luật pháp
như cơ quan phát triển truyền thông Singapore (IDA) và cơ quan thanh tra về
bức xạ (RPI) để tự động hoá hệ thống cấp giấy phép.
_ Ứng dụng chứng chỉ xuất xứ (CO) trực tuyến: thương nhân Singapore
có thể xin chứng chỉ xuất xứ trên mạng Internet với các cơ quan có thẩm quyển
thuộc hệ thống “Cấp chứng chỉ xuất xứ điện tử (ECO)”.
b.

c. Sử dụng công cụ thương mại chặt chẽ đối với hàng nhập khẩu
* Hạn chế, cấm và cấp phép nhập khẩu
- Cấm nhập khẩu ở nước này chủ yếu được áp dụng ở một số mặt hàng
mà chính phủ cảnh báo là có hại cho sức khỏe, an ninh hay toàn xã hội, môi
trường hoặc theo các hiệp định của Liên hiệp quốc hoặc các hiệp định quốc tế.
Một số sản phẩm cấm nhập khẩu đó là kẹo cao su, bật lửa có hình dáng súng lục
hoặc hình tròn, pháo, ô tô đã sử dụng từ 3 năm trở lên. Tuy nhiên, chính phủ
Singapore đã nới lỏng các biện pháp này cho một số mặt hàng như: lệnh cấm
nhập khẩu kẹo cao su đã được bãi bỏ một phần, cho phép sử dụng kẹo cao su để
chữa bệnh theo Hiệp định thương mại tự do giữa Singapore và Mỹ năm 2004,
bãi bỏ lệnh cấm nhập khẩu đổi với hàng hoá từ Irắc vào năm 2003 theo Nghị
quyết của Liên hiệp quốc năm 2003. Từ năm 2006, Singapore cũng cấm hầu hết
các sản phẩm vũ khí hoặc nguyên liệu có liên quan nhập khẩu hoặc quá cảnh tại
Singapore để sang Iran theo Nghị quyết của Liên hiệp quốc.
- Hạn chế và cấp phép nhập khẩu được áp đặt vừa để thực hiện các cam
kết quốc tế và đảm bảo sức khỏe, bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia. Cấp
phép nhập khẩu có thể là tự động hay không tự động tùy thuộc vào loại hàng
hóa, ví dụ gạo là loại mặt hàng cấp phép nhập khẩu không tự động. Các sản
phẩm bị kiểm soát nhập khẩu bao gồm: dược phẩm, hóa chất có hại, phim ảnh
và băng video, vũ khí đạn dược,… phải có giấy phép nhập khẩu. So với danh
mục hàng nhập khẩu cần có giấy phép năm 2004, hiện nay Singapore đã bổ sung
vào danh sách một số mặt hàng như: mỹ phẩm, dầu điêzen, kim cương thô từ Bờ

Biển Ngà, nhân sâm, thuốc nhuộm tóc, nitro-cellulose, gỗ.
* Các biện pháp khẩn cấp: Biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp
Chống bán phá giá và trợ cấp được tiến hành theo Luật thuế chống phá
giá và trợ cấp 1996, sửa đổi 3 lần vào năm 2000, 2003 và 2004. Bộ trưởng Bộ
Thương mại và Công nghiệp chịu trách nhiệm điều tra ban đầu để quyết định
13


xem hàng hoá đó có bị bán phá giá hay được trợ cấp hay không. Theo Luật này
năm 1996, điều tra ban đầu phải được hoàn thành trong vòng 90 ngày kể từ ngày
điều tra, và các biện pháp cuối cùng phải được áp dụng trong vòng 120 ngày từ
ngày thông báo các biện pháp sơ bộ đối với trợ cấp và 180 ngày đối với các
trường hợp chống bán phá giá. Xem xét lại các quyết định được thực hiện bởi
Bộ trưởng phải được tham chiếu Toà án xét xử Chống bán phá giá trong vòng 30
ngày kể từ ngày công bố kết quả điều tra. Đến năm 2004, Đạo luật sửa đổi chỉ
quy định việc điều tra phải hoàn thành trong vòng 1 năm, trừ trường hợp đặc
biệt, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng kể từ khi bắt đầu. Các biện
pháp tạm thời không được áp dụng sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu điều tra.
Toà án sẽ ra quyết định trên cơ sở những bằng chứng được đưa ra trong thời
gian điều tra đầu tiên và có thể không cần thêm thông tin. Trong thời kỳ từ năm
1996 đến năm 2003, Singapore không quy định các biện pháp phòng vệ. Đến
năm 2004, Đạo luật sửa đổi có quy định biện pháp phòng vệ có thể là thuế
phòng vệ hoặc biện pháp an ninh tương đương với số tiền thiệt hại ước tính do
bán phá giá gây ra.
* Các tiêu chuẩn và biện pháp vệ sinh dịch tễ:
- Tiêu chuẩn:
Các tiêu chuẩn được đề ra bởi Uỷ ban Năng suất và Cải tiến Singapore
(SPRING Singapore) trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp. Uỷ ban này
chịu trách nhiệm đưa ra các tiêu chuẩn quốc gia và tăng cường năng lực cạnh
tranh của Singapore. Theo báo cáo của WTO, có khoảng 34% tiêu chuẩn của

Singapore là tương đương với tiêu chuẩn quốc tế, giảm so với 36% năm 2000.
Trong một số lĩnh vực thiết yếu, Singapore duy trì 100% tiêu chuẩn theo chuẩn
quốc tế như: quản lý chất lượng, môi trường, công nghệ thông tin và y tế. Một
số lĩnh vực tiêu chuẩn của Singapore đặt ra thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế trong đó
có lĩnh vực xây dựng, nguyên nhân là do có ít tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực
này, trong đó một số tiêu chuẩn không đáp ứng được do cơ sở hạ tầng.
Singapore chưa áp đặt các loại sản phẩm nhập khẩu vào Singapore phải
đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm
HACCP, tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000, tiêu chuẩn trách nhiệm xã
hội SA 8000... tuy nhiên Chính phủ Singapore đang khuyến khích áp dụng tiêu
chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP.
Riêng đối với mặt hàng điện tử, thiết bị và linh kiện điện tử, trong quy
định về bảo vệ người tiêu dùng "Singapore Consumer Protection", Cơ quan An
toàn Singapore đã đưa ra danh mục 47 mặt hàng điện tử, thiết bị và linh kiện
điện tử bị quản lý, và 35 yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các mặt
hàng này. Từng mặt hàng bị quản lý đều có qui định rõ số hiệu, loại tiêu chuẩn
cụ thể của Singapore, hoặc của nước ngoài cùng với các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ
thuật cụ thể.
14


-Vệ sinh:
Các biện pháp này rất chặt chẽ ở Singapore và được ban hành và thực thi
bởi Cơ quan Quản lý thực phẩm và thú y (AVA) trực thuộc Bộ Phát triển quốc
gia. Trước đây, hoạt động của AVA được thực hiện bởi Vụ sản xuất cơ bản
(Primary Production Department) thuộc Bộ Phát triển quốc gia, chịu trách nhiệm
về thịt và sản phẩm từ thịt, cá và sản phẩm từ cá, rau quả tươi nhưng kể từ năm
2002 với sự sáp nhập của Vụ Kiểm soát thực phẩm (Food Control Division),
AVA hiện chịu trách nhiệm đối với an toàn thực phẩm tươi sống và cả qua chế
biến. Tất cả các loại thực vật được nhập khẩu vào Singapore đều phải qua bộ

phận kiểm tra thực vật của AVA kiểm tra và cùng với những giấy tờ hải quan
thông thường, chúng còn phải có giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật của nước
xuất xứ. Hàng nhập khẩu là sữa, vật nuôi, thịt và cá đều được kiểm soát chặt chế
và chỉ được nhập từ một số nước nhất định.
Hàng thực phẩm và phải tuân thủ các yêu cầu, quy định đối với hàng thực
phẩm trong Bộ luật "Sale of Food Act". Đối với các mặt hàng thực phẩm, thủy
hải sản nhập khẩu vào Singapore, Cơ quan kiểm dịch vệ sinh an toàn thực phẩm
Singapore (AVA), tùy từng loại hàng sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu gửi mẫu để kiểm
tra về: hóa chất, thành phần dinh dưỡng, chất gây nghiện, thuốc trừ sâu, nhiễm
khuẩn, vật ký sinh, chất lượng sản phẩm, chất độc hại, phân tích sinh học. Chỉ
khi nào mẫu sản phẩm đạt các thông số yêu cầu về an toàn thực phẩm và các yêu
cầu khác đối với từng mặt hàng cụ thể trong bộ luật "Sale of Food Act" thì mới
được nhập khẩu vào Singapore.
* Quy định về kỹ thuật: Các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng do SPRING
Singapore đề ra để thực hiện Chương trình đăng ký bảo vệ người tiêu dùng (yêu
cầu an toàn), theo các quy định bảo vệ người tiêu dùng của nước này. Theo đó,
hàng hoá trong diện quản lý phải được đãng ký với SPRING được quảng cáo,
thương mại hay bày bán tại Singapore. Quy định bảo vệ người tiêu dùng năm
1991 đã được thay thế bởi Quy định bảo vệ người tiêu dùng năm 2002. Các quy
định mới dựa trên giấy chứng nhận phù hợp do cơ quan đánh giá phù hợp chỉ
định được chỉ định cấp.
* Quy định về nhãn mác:
Được quy định trong Luật Mua bán thực phẩm (Sale of Food Act) ra đời
năm 1973 và sửa đổi năm 2002. Theo Luật này, đối với các mặt hàng thực phẩm,
dược phẩm, rượu, sơn và những chất dung môi yêu cầu phải có nhãn mác và
phải ghi rõ nước xuất xứ. Hàng thực phẩm được bao gói lại phải được gắn nhãn
để chỉ rõ: tên gọi thích hợp của hàng thực phẩm đó (bằng tiếng Anh) được in
bằng chữ cái in hoa cao ít nhất 1/16 inch; thành phần trong đó; trọng lượng tịnh,
tên và địa chỉ của nhà sản xuất; nước xuất xứ. Việc mô tả bằng tiếng Anh có thể
thêm vào nhãn mác miễn là ngôn ngữ không mâu thuẫn và không làm thay đổi

15


bất cứ một thông tin nào trên nhãn mác,… Một số loại thực phẩm, thuốc hay súc
vật, sơn và các dung môi thiết yếu khác phải có nhãn mác đặc biệt… Những
minh họa về hình ảnh phải không sai lệch với bản chất tự nhiên hay nguồn gốc
của thực phẩm. Thực phẩm theo những tiêu chuẩn đã đặt ra phải có nhãn mác
phù hợp với tiêu chuẩn đó. Vào năm 1992, chính phủ Singapore đã phát động
chương trình Nhãn mác xanh và hiện có 32 sản phẩm nằm trong chương trình
này. Trong sửa đổi năm 2002, Singapore đưa thêm một số quy định về nhãn mác
cho hàng mỹ phẩm và dược phẩm độc quyền của Trung Quốc.
c.
Đối với hàng hóa xuất khẩu:
Singapore tiếp tục sử dụng một số chính sách hỗ trợ đối với hàng xuất
khẩu ở thời kỳ trước như: Hoàn thuế xuất khẩu, giảm thuế, hỗ trợ xúc tiến
thương mại và marketing.
Singapore phụ thuộc rất lớn vào sức tiêu thụ của thị trường bên ngoài do
thị trường trong nước quá nhỏ bé. Do vậy nước này thực hiện chính sách khuyến
khích xuất khẩu mạnh. Hàng hoá được tự do xuất khẩu mà không phải chịu bất
kỳ một loại thuế xuất khẩu nào. Hạn chế xuất khẩu được duy trì ở nước này
cũng chỉ vì lý do bảo vệ sức khoẻ và an ninh quốc gia. Cụ thể:
+ Cấm xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu và cấp phép
Cấm xuất khẩu được thực hiện do lệnh trừng phạt được áp dụng đối với
một số nước, và cấm xuất khẩu động vật quý hiếm như sừng tê giác và các chế
phẩm của nó. Hạn chế xuất khẩu được áp dụng chủ yếu vì lý do an ninh, sức
khoẻ và bảo vệ môi trường. Các loại hàng hóa bị hạn chế xuất khẩu đó là động
vật, sản phẩm động vật, cá và sản phẩm từ cá, vũ khí chất nổ, hoá chất, chất
phóng xạ. Các quy định về cấm xuất khẩu của Singapore chỉ thay đổi rất ít kể từ
năm 1996. Lệnh cấm vận đã được bãi bỏ theo Nghị quyết của Hội đồng bảo an
Liên hiệp quốc cho các nước: Angola (2003), Eritrea và Ethiopia (2001), Libya

(2003), Irắc (trừ vũ khí và vật liệu liên quan các loại) (2003), Yogoslavia và
Kosovo (2001). Hiện nay, Singapore đang áp dụng lệnh cấm xuất khẩu vũ khí,
đạn dược sang các nước: Afghanistan, Bờ Biển Ngà, Công gô, Irắc, Rwanda,
Liberia, Somalia, Siena Leone, Iran, Sudan.
d.
Hình thành vùng thương mại tự do
Với vị trí là một điểm trung chuyển hàng hoá từ phương Đông sang
phương Tây đồng thời có cảng nước sâu và sân bay quốc tế lớn, Singapore là
một cảng chuyển tải hàng hoá lớn trong khu vực với khoảng 50% lượng hàng
hoá xuất khẩu của nước này vào năm 2003 là hàng tái xuất. Do vậy, việc thành
lập ra các vùng tự do thương mại là rất quan trọng với nước này trong việc thúc
đẩy sự lưu thông và chuyển tải của hàng hoá, tạo điều kiện để Singapore trở
thành một điểm trung chuyển hàng hoá lớn trong khu vực. Các vùng thương mại
tự do tại Singapơre được đặt ở Cảng Singapore bao gồm Cảng Singapore,
Keppel Distripark, Cầu nối Keppel, và Brani Terminal); Cảng Jurong,
16


Sembawang, Paris Panjang Terminal và Wharves, và Changi (Khu hàng hoá vận
chuyển bằng đường hàng không Changi và Khu vận tải hàng không). Tất cả các
mặt hàng chịu thuế trừ sản phẩm rượu bia và thuốc lá đều có thể được lưu kho
tại các vùng thương mại tự do. Sản phẩm thuốc lá và rượu bia, nếu không được
chuyển tải thì phải được lưu trữ tại những kho ngoại quan do Hải quan
Singapore cho phép. Giấy phép hải quan không yêu cầu đối với những hàng hoá
được dỡ trực tiếp vào Vùng thương mại tự do hay chuyển tải hàng hoá không
chịu thuế quan nhưng không bị hạn chế và cấm nhập khẩu. Thuế GST sẽ tạm
thời không tính nếu hàng hoá vẫn ở trong kho ngoại quan, và chỉ phải trả khi
hàng hoá đó được bán vào nội địa. Các hàng hoá được lưu ở kho ngoại quan là
cà phê, hạt tiêu, cao su, kim loại chính (đồng, niken, nhôm, . . .), dầu thô và chế
phẩm hoá dầu, và những hàng hoá khác có thể được giám sát theo từng trường

hợp cụ thể; và hàng tạm nhập khẩu không chịu thuế nhập khẩu có tới 80% giá trị
trở lên dành cho tái xuất.
2.3.2. Chính sách đầu tư quốc tế
Trong khi nhiều nước ASEAN có thế mạnh về tài nguyên và con người…
nhưng vẫn luẩn quẩn trong vòng thu nhập trung bình, thì Singapore lại có những
bước phát triển thần kỳ, dù khi mới trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959,
nước này có xuất phát điểm thấp, với nguồn tài nguyên gần như ở con số 0. Năm
2015, Theo Cục Thống kê Singapore, GDP bình quân đầu người của nước này
đạt 61.567,28 USD. Có được điều này một phần quan trọng là nhờ vào các chính
sách đầu tư quốc tế vô cùng thuận lợi mà Chính phủ Singapore đã áp dụng trong
khoảng thời gian hơn 10 năm trở lại đây. Cụ thể có thể chúng ta cùng phân tích
một số chính sách đầu tư quốc tế chủ đạo mà Singapore đã áp dụng kể từ giai
đoạn 2000 đến nay sau:
a.

Thu hút đầu tư nước ngoài
-Chính sách thu hút nhân tài:
Trong số 4,5 triệu lao động Singapore có tới 25% là người nước
ngoài. Singapore có quy định rõ ràng, lương của lao động bình thường
ở Singapore chỉ khoảng 2.000 USD/tháng hoặc cao hơn chút ít. Còn với lao
động nước ngoài có kĩ năng, tay nghề, ngoài việc được hưởng lương theo mức
của các nhân tài, họ còn được phép đưa người thân sang sống cùng. Họ được
cấp giấy phép định cư và nhập tịch lâu dài tại Singpapre chỉ trong... vài ngày.
Đây là tốc độ nhập tịch nhanh chóng mặt mà bất cứ người nhập cư nào cũng
thèm muốn.

17


Đi liền với đó, Singapore cũng hạn chế lao động nước ngoài không có tay

nghề bằng việc chi trả thu nhập thấp, không được phép đưa người thân sang
sống cùng. Những chi phí khác cho dịch xụ xã hội của họ cũng cao hơn người
bình thường.
Giống như Trung Quốc và Mỹ, Chính phủ Singapore tuyển chọn nhân tài
dựa trên năng lực, khả năng đóng góp vào sự phát triển của đất nước này chứ
không phân biệt quốc tịch, chủng tộc của người nhập cư.
-Chính sách đầu tư, trợ cấp giáo dục:
Singapore có đội ngũ lao động cấp cao hàng đầu thế giới. Sở dĩ nói như
vậy vì những người này tạo ra năng suất vô cùng lớn, thành thạo về chuyên
môn, kĩ thuật và có thái độ làm việc tích cực. Nhưng để có được điều
này, Singapore đã phải liên tục đầu tư vào việc đào tạo cả một thế hệ thông qua
con đường giáo dục.
Singapore cũng xác định giáo dục là một kênh hữu hiệu thu hút du học
sinh nước ngoài. Chính vì vậy, ngoài cải tiến hệ thống giáo dục, Singapore cũng
có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho các Giáo sư, Tiến sĩ. Hiện tại, du học sinh
đến Singapore là rất lớn và nước này cũng là một trong những trung tâm đào tạo
uy tín của thế giới. Có thể kể đến các trường đại học danh tiếng như Công nghệ
Nanyang (NTU), Học viện phát triển quản lý Singapore (MDIS), Đại học Quốc
gia Singapore (NUS)...
Sinh viên nước ngoài đến học tập tại Singapore được vay tiền để chi trả
cho những chi phí cần thiết về sinh hoạt và học tập. Sau khi tốt nghiệp với kết
quả học tập cao, những cử nhân "ngoại" này phải cam kết làm việc cho một
công ty nào đó của Singapore ít nhất là 3 năm để trả nợ.
-Các chính sách về thuế
Thuế là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nhân
và là điểm mấu chốt để cân nhắc khi thành lập doanh nghiệp tại bất kỳ quốc gia
nào. Một trong những lợi thế độc nhất của Singapore là thuế thu nhập cá nhân và
thuế doanh nghiệp thấp. Thuế thu nhập cá nhân theo hệ thống từng mức, bắt đầu
từ 0% cho đến 20% đối với người có thu nhập cao hơn S$ 320,000/ năm.
Tương tự như vậy, thuế doanh nghiệp cho công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân

có lợi nhuận trên S$300,000/ năm thì dưới 9%, và hạn mức cố định là 17% cho
doanh nghiệp có lợi nhuận trên S$300,000. Không có thuế lợi nhuận đầu tư tại
Singapore. Và đối với thu nhập doanh nghiệp đã được tính thuế, thì cổ tức thuộc
về các cổ đông sẽ không bị đánh thuế thu nhập cá nhân.
18


Mức thuế doanh nghiệp cao nhất chỉ là 17%. Đây là mức thuế doanh
nghiệp thấp nhất thế giới. Bên cạnh đó, Singapore đã kí kết hiệp định tránh đánh
thuế hai lần (DTA) với hơn 70 quốc gia trên thế giới, qua đó góp phần quan
trọng giảm gánh thuế cho doanh nghiệp nước ngoài. Mạng lưới DTA mở rộng,
cùng với thuế tăng vốn và thu nhập cổ tức bằng 0, đã biến Singapore thành nơi
hấp dẫn cho đầu tư kinh doanh thông qua hình thức liên danh.
Trong nỗ lực để nền kinh tế thoát khỏi sự phụ thuộc vào thuế thu nhập và
làm thậm chí còn mang tính cạnh tranh hơn, chính phủ đã thông qua diện rộng
gọi thuế tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ (GST). Singapore duy trì một mức GST
thấp nhất thế giới (hiện nay là 7%), đứng dưới mức trung bình toàn cầu thuế
GTGT / GST 16,4%, và mức trung bình của khu vực châu Á-Thái Bình Dương
là 10,5%.
-Chính sách về bảo vệ tài sản trí tuệ
Sự bảo vệ tài sản trí tuệ được xem là một vấn đề vô cùng nghiêm túc tại
Singapore. Singapore đã và đang trở thành trung tâm số một cho những doanh
nghiệp tìm kiếm để quản lý tài sản trí tuệ của họ. Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới
(WEF), Viện Phát triển Quản lý (IMD), Cơ Quan Tham Vấn Về Rủi Ro Chính
Trị, Kinh Tế (PERC) đã đánh giá Singapore là nước dẫn đầu về lĩnh vực này ở
Châu
Á.
Singapore có luật bảo vệ tài sản trí tuệ rất chặt chẽ. Tại Singapore, Tại
Singapore, đó là một hành vi phạm tội hình sự đối với một người hoặc công ty
cố ý thực hiện hành vi vi phạm bản quyền.

Ngoài việc đăng ký nhãn hiệu tại Singapore, các doanh nghiệp Singapore
cũng có thể nộp đơn xin đăng ký nhãn hiệu toàn cầu từ Singapore là một nước
tham gia ký kết công ước IP lớn và các hiệp ước như Hiệp ước Hợp tác sáng
chế, Công ước Paris, Công ước Berne, Nghị định thư Madrid, Budapest Hiệp
ước, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ, và Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới.
-Chính sách nhập cư linh hoạt
Chính sách nhập cư là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
quyết định đăng ký kinh doanh tại nước ngoài của doanh nghiệp. Chính sách
nhập cư cởi mở của Singapore tạo điều kiện cho việc di chuyển của người nước
ngoài nhu cầu thành lập doanh nghiệp ở đây. Để giúp các cá nhân có thể thường
trú vĩnh viễn, Singapore có 1 chính sách nhập cư thoải mái, làm cho nó dễ dàng
hơn cho các doanh nhân nước ngoài đạt được giấy phép xin thường trú tại
Singapore. Với sự hỗ trợ tối đa từ chính phủ thông qua các chương trình và
khuyến khích, Singapore được nhìn nhận là nơi dễ dàng nhất thế giới để mở hoạt
động kinh doanh cũng như là nền kinh tế cạnh tranh nhất trong khu vực.
19


-Hệ thống pháp luật thuận lợi
Hệ thống luật pháp của Singapore cũng hoạt động rất hiệu quả. Cơ sở
pháp lí liên tục được cập nhật và đổi mới để phù hợp với môi trường văn hóa,
kinh tế và thương mại hiện hành. Thừa hưởng hệ thống pháp luật từ Anh và phát
triển thành bản sắc riêng, hệ thống luật pháp của Singapore đến nay được đánh
giá cao nhờ tính hiệu quả và nhất quán. Các doanh nghiệp ở Singapore không
phải chứng kiến quá trình thủ tục pháp lí chậm chạp, làm giảm sút hiệu quả hoạt
động kinh doanh.
Chính phủ Singapore coi việc tiếp cận với pháp luật là một giá trị kinh tế
nền tảng, được khai thác nhằm nâng cao uy tín của Singapore như là một trung
tâm thương mại và pháp lý hàng đầu ở châu Á. Hệ thống luật thương mại của

Singapore có tiếng là công bằng và vô tư, biến quốc đảo Sư tử ngày càng trở
thành lựa chọn tự nhiên làm nơi giải quyết tranh chấp, đặc biệt là hòa giải và
trọng tài, ở khu vực Đông Nam Á. Khuôn khổ pháp lý của Singapore đã tạo ra
một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài, khi không giới hạn sở
hữu nước ngoài và không có kiểm soát ngoại hối.
Những năm qua, Singapore nổi tiếng với bộ máy hành chính hoạt động rất
trơn tru, nhanh chóng, với sự cộng tác hiệu quả giữa các các cơ quan hữu quan
để giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dễ dàng. Các doanh nghiệp nước
ngoài chỉ cần xin cấp giấy phép hoạt động và đăng kí thành lập, thông qua sự
kiểm soát của Cơ quan quản lý doanh nghiệp và kế toán (ACRA), với nhiều hình
thức như mở công ty con, văn phòng chi nhánh, văn phòng đại diện. Các thủ tục
đăng kí này rất rõ ràng và nhất quán, cũng như cơ chế thuế ưu đãi và liên danh
hiệu quả cùng việc cho phép sở hữu nước ngoài 100%.
b. Đầu tư ra nước ngoài
Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Singapore đã tăng nhanh chóng
trong khoảng hơn 10 trở lại đây, sự phát triển mạnh mẽ này đóng góp vào sự hội
nhập sâu rộng hơn của nền kinh tế nước này với các quốc gia khác trong khu
vực và trên thế giới. Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Singapore có lien quan
mật thiết đến những nỗ lực không ngừng để đảm bảo duy trì sự cạnh tranh quốc
tế ở quốc đảo này.
Chính sách đầu tư ra nước ngoài đã có sự chuẩn bị nhằm thành lập những
công ty có chi nhánh nước ngoài. Các công ty có lien quan đến Chính phủ được
coi là mũi nhọn đi dầu và mở đường cho các công ty khác vươn tới thị trường
nước ngoài. Các quốc gia Châu Á đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ là những
quốc gia trọng điểm mà Singapore hướng tới đầu tư. Để đảm bảo vững chắc,
những nỗ lực của Chính phủ bao gốm những chính sách đo lường cụ thể:

20



-Dẫn dầu trong việc đầu tư ra nước ngoài. Nhiều lĩnh vực trong việc phát
triển cơ sở hạ tầng, ví dụ như xây dựng khu công nghiệp ở Trung Quốc, Ấn Độ
và Việt Nam.
-Thành lập các diễn đàn doanh nghiệp cấp quốc gia và khu vực
-Thành lập các đơn vị phát triển chiến lược doanh nghiệp quốc tế, Ủy ban
phát triển kinh tế là nơi cung cấp các chuyên gia, phát hiện cơ hội kinh doanh,
lien hệ chính phủ…
-Cộng tác với các công ty xuyên quốc gia phương Tây (MNCs). Những
công ty đến sau sẽ tiếp túc thuê đất trong khu công nghiệp, thành lập quan hệ đối
tác với các công ty Singapore, và đặt trụ sở chính của mình tại Singapore.
-Chính sách thúc đẩy hình thành các kế hoạch lien kết các công ty
Singapore với các công ty xuyên quốc gia.

21


CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CHÍNH SÁCH KINH TẾ
ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
3.1. Quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam – Singapore
Tính đến nay, Việt Nam và Singapore đã xây dựng mối quan hệ hợp tác
được hơn 42 năm (từ ngày 1/8/1973). Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam Singapore, trên thực tế, đã ngày càng phát triển mạnh mẽ, mang lại hiệu quả
thiết thực cho nhân dân hai nước.
Tầm cao mới trong mối quan hệ này cũng đã được thiết lập trong chuyến
thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long vào trung
tuần tháng 9 năm 2013, khi hai bên chính thức tuyên bố nâng cấp Quan hệ Hữu
nghị và Hợp tác toàn diện Việt Nam - Singapore thành Quan hệ Đối tác chiến
lược.
Kể từ đó tới nay, những nỗ lực cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác gắn bó
và tin cậy này đã được cả hai phía dày công vun đắp. Trong những năm gần đây,
quan hệ Việt Nam-Singapore đã có những bước nhảy vọt cả về lượng và chất

trên mọi lĩnh vực. Điều đó thể hiện rõ qua hàng loạt chuyến thăm cấp cao của
nguyên thủ hai nước; lãnh đạo các bộ, ngành hai bên cũng thường xuyên thăm
gặp gỡ, trao đổi, hợp tác.
a. Đầu tư
Trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Singapore, hợp tác kinh tế, đầu tư và
thương mại đang trở thành điểm sáng và trụ cột trong quan hệ giữa hai nước.
Nhiều năm qua, Singapore luôn duy trì là một trong những nhà đầu tư và đối tác
thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Chỉ trong vòng 3 năm từ 2011 đến 2014, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) của Singapore vào Việt Nam đã tăng trưởng ngoạn mục với vốn đăng ký
từ 23 tỷ USD năm 2011 lên hơn 30 tỷ USD hiện nay.
Trong 7 tháng đầu năm 2014, các doanh nghiệp Singapore đã đầu tư vào
Việt Nam 67 dự án (bao gồm cả dự án tăng vốn), với tổng vốn đăng ký 804 triệu
USD, đứng thứ 4 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Nếu tính lũy kế đến ngày 20/7/2014, thì con số này là 1.294 dự án, với tổng vốn
đăng ký trên 30,6 tỷ USD, đứng thứ ba trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ
có đầu tư tại Việt Nam.
22


Điều đáng ghi nhận hơn, một số dự án quy mô lớn của nhà đầu tư
Singapore đã và đang đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam. Các khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP) trải dài khắp cả nước
đang góp phần rất lớn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó có
nhà đầu tư Singapore, và trở thành hình mẫu hợp tác đầu tư Việt Nam Singapore.
b. Thương mại
Singapore cũng là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam ở khu vực
châu Á. Theo số liệu công bố của cơ quan thống kê Singapore, thương mại song
phương không ngừng phát triển với mức tăng trưởng bình quân trong 3 năm
2011 đến 2014 đạt 12,7%/năm, năm 2013 đạt 13,11 tỷ USD, tăng 10,7% so với

năm 2012. Đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore
tăng gần gấp 2 lần, từ 2 tỷ SGD năm 2011 lên hơn 3,8 tỷ SGD năm 2013. Đặc
biệt, trong năm 2014 - năm đầu tiên thực hiện mối quan hệ đối tác chiến lược,
kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Singapore đạt mức tăng trưởng ấn
tượng. Theo số liệu của Cơ quan thống kê Singapore, trong 7 tháng đầu năm
2014, kim ngạch thương mại hai chiều đạt gần 12 tỷ SGD, tăng 23,4% so với
cùng kỳ năm 2013, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore
đạt gần 2,3 tỷ SGD, tăng 27%, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore
đạt 9,5 tỷ SGD, tăng 23%.
Cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa hai bên có tính bổ sung cho nhau rõ rệt.
Hiện Singapore là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam trong Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tiềm năng hợp tác kinh tế-thương mại giữa
Việt Nam và Singapore còn rất lớn.
Hai nước đã phối hợp và hợp tác tốt trên các diễn đàn khu vực và quốc tế,
cùng đóng góp nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và giữ vững
hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương;
phối hợp tốt trong tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), Hiệp định đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và tại các
diễn đàn như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn
đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), Phong trào Không liên kết và Liên hợp quốc.
c. Các lĩnh vực khác
Không chỉ là hợp tác thương mại, đầu tư, Việt Nam và Singapore cũng đã
tích cực hợp tác trong các lĩnh vực khác. Nội hàm hợp tác Đối tác Chiến lược
Việt Nam - Singapore bao trùm 5 trụ cột, gồm: làm sâu sắc thêm quan hệ chính
trị tin cậy lẫn nhau; tăng cường hợp tác kinh tế; nâng cao hợp tác an ninh quốc
23


phòng; thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực khác (giáo dục, pháp luật, y tế, văn
hóa - nghệ thuật - thể thao); tăng cường hợp tác tại các diễn đàn quốc tế và khu

vực.
d. Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch
Đặc biệt Singapore là một trong những thị trường khách du lịch quan
trọng của Việt Nam. Những năm gần đây, lượng kháchSingapore đến Việt Nam
khá ổn định. Năm 2013, Việt Nam đón gần 200.000 lượt khách Singapore, đứng
thứ 11 trong số các thị trường lớn nhất của du lịch Việt Nam. Singapore cũng là
nhà đầu tư lớn thứ hai vào du lịch ViệtNam với 27 dự án và có vốn đăng ký hơn
1,7 tỷ USD. Các hoạt động hợp tác du lịch cũng rất phát triển, đặc biệt trong lĩnh
vực du lịch tàu biển.
Trong lĩnh vực thể thao, hai bên thường xuyên có quan hệ hợp tác chặt
chẽ trên mọi phương diện như trao đổi đoàn, thi đấu, tập huấn, trao đổi chuyên
gia, huấn luyện viên, vận động viên, tham gia các khoá đào tạo…
Trong lĩnh vực văn hoá, hai bên cũng đã tổ chức giao lưu nghệ thuật và
đều tích cực ủng hộ, tham gia các hoạt động dự án do các bên đề xuất trong
khuôn khổ các dự án về văn hoá của Uỷ ban Văn hoá - Thông tin ASEAN
(ASEAN-COCI).
e. Lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh khu vực
Về an ninh trên Biển Đông, hai bên đều bày tỏ lo ngại trước những diễn
biến mới, phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, rủi ro tại vùng biển này. Hai bên
thống nhất để có được hòa bình ổn định trên Biển Đông và khu vực châu Á-Thái
Bình Dương, không có cách nào khác là tất cả các bên liên quan cần phải triệt để
tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển
(UNCLOS) 1982, chấm dứt việc xây đảo nhân tạo trái phép làm thay đổi hiện
trạng tại khu vực đang tranh chấp, không đe dọa vũ lực và sử dụng vũ lực,
không quân sự hóa trên Biển Đông.
Trước mắt, tất cả các bên phải thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC) và thực tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán để sớm có được
Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).Hai bên mong muốn quan điểm này sẽ
có được sự thống nhất cao trong nội bộ Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và sự ủng hộ của các nước yêu chuộng hòa bình, mong muốn ổn định

và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Về quan hệ hợp tác quốc phòng song phương, hai bên đánh giá quan hệ
hợp tác thời gian qua đã mang lại hiệu quả thiết thực trên một số lĩnh vực như
24


trao đổi đoàn, các cơ chế đối thoại, tham vấn, đào tạo, quân y, an ninh biển, tìm
kiếm cứu nạn.
Trong năm đầu năm 2016, Bộ Quốc phòng Singapore đã dành cho Bộ
Quốc phòng Việt Nam một số học bổng các khóa nâng cao tiếng Anh tại
Singapore cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sỹ quan Việt Nam làm việc tại
Trung tâm Chia sẻ-Hợp nhất Thông tin An ninh Hàng hải (IFC).
Với mong muốn tăng cường hợp tác quốc phòng một cách toàn diện, thực
chất đóng góp hơn nữa cho quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước, hai bên đã
nhất trí tiếp tục nâng cao hiệu quả hợp tác theo các nội dung đã thống nhất như
tăng cường trao đổi đoàn các cấp, duy trì cơ chế đối thoại chính sách quốc
phòng cấp Thứ trưởng và coi đây là trụ cột trong quan hệ quốc phòng giữa hai
nước nhằm trao đổi các vấn đề chiến lược và xây dựng kế hoạch hợp tác giữa
hai quân đội.
Hai bên cũng thống nhất trong thời gian tới nghiên cứu khả năng mở rộng
hợp tác trong lĩnh vực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp
quốc, trong đó nghiên cứu khả năng triển khai chung lực lượng tại các phái bộ
Liên hợp quốc, tùy theo khả năng của mỗi bên cũng như yêu cầu của Liên hợp
quốc; tìm kiếm khả năng phối hợp chung về tổ chức và tham gia các cuộc diễn
tập về tìm kiếm cứu nạn song phương và đa phương trong thời gian tới.
Kết luận
Rõ ràng, giữa Việt Nam và Singapore không chỉ là mối quan hệ hợp tác
song phương, mà còn là sự hợp tác chặt chẽ trong khuôn khổ ASEAN, APEC,
ASEM…, trong nỗ lực đẩy mạnh việc xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm
2015, nhằm tăng cường đoàn kết và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN ở

khu vực, vì hòa bình, an ninh và phát triển. Các cơ chế hợp tác trong lĩnh vực
ngoại giao, an ninh, quốc phòng của hai nước được duy trì và ngày càng phát
huy hiệu quả.

3.2. Bài học kinh nghiệm cho chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam
Singapore là một nền kinh tế mạnh và khá toàn diện ở khu vực Đông Nam
Á. Trên cơ sở việc nghiên cứu và tìm hiểu về chính sách kinh tế đối ngoại của
Singapore chúng ta có thể rút ra một số bài học cho cho Việt Nam.
a.

Về chính sách thương mại quốc tế:

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×