TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN “SỢI TÓC” CỦA
THẠCH LAM
Giáo viên hướng dẫn: cô Ngô Thị Hy
Sinh viên: Lê Thị Ngọc Trân
MSSV: DNV130578
Lớp: DH14NV
MỤC LỤC
1
Phần I: MỞ ĐẦU..........................................................................Trang 1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................4
5. Cấu trúc tiểu luận.............................................................................. 4
Phần II: NỘI DUNG.................................................................................. 5
1. Giới thiệu chung............................................................................... 5
1.1. Khái quát thân thế và sự nghiệp của Thạch Lam............................5
1.2. Giới thiệu về nghệ thuật trần thuật..................................................5
2. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Sợi Tóc của Thạch
Lam....................................................................................................... 6
...............................................................................................................
2.1.Chủ thể trần thuật............................................................................. 6
2.2.Điểm nhìn trần thuật........................................................................7
2.3 Giọng điệu trần thuật.....................................................................12
2.4. Thành phần lời văn.......................................................................13
Phần III: Kết Luận ................................................................................. 16
Tư Liệu Tham Khảo...................................................................................
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trước thế kỷ XX văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền
văn học Trung Quốc-lấy nho giáo làm nền tảng. Đến khi thực dân Pháp xâm
2
lược, dân tộc ta đã phải đối diện với những đổi thay của thời cuộc. Những
biến động của lịch sử, văn hoá và xã hội đã làm nảy sinh những nhu cầu mới,
nhất là ở phương diện văn học. Để đáp ứng những thị hiếu đó quan niệm và
tư tưởng thẩm mĩ của người sáng tác cần phải khác trước, chính vì vậy nền
văn học Việt Nam đòi hỏi phải vận động theo quy luật của thời đại, tức là văn
học cần được hiện đại hoá. Để thúc đẩy quá trình hiện đại hoá đó có nhiều
yếu tố cũng như nhân tố góp phần đổi mới nền văn học. Song không thể
không kể đến những đóng góp tích cực của nhóm Tự lực văn đoàn cho tiến
trình phát triển của nền văn học dân tộc.
Mỗi thành viên trong nhóm Tự lực văn đoàn đều có mặt mạnh về thể
loại cũng như sở trường riêng. Đối với thơ ca người đọc đều biết đến Thế Lữ
và Xuân Diệu với những bài thơ trữ tình, còn Tú Mỡ lại chuyên về thơ trào
phúng hoặc Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàn Đạo họ tuy có viết nhiều truyện
ngắn nhưng được biết đến nhiều hơn với tiểu thuyết, trái lại Thạch Lam cũng
viết nhiều tiểu thuyết nhưng lại thành công hơn ở truyện ngắn.
Nếu đề tài quen thuộc của nhóm Tự lực văn đoàn là những cảnh sống
được thi vị hoá, những ước mơ thoát ly mang màu sắc cải lương, hay là
những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến. Thì
Thạch Lam lại có khuynh hướng đi gần với cuộc sống của những người dân
nghèo khổ, do đó chúng ta cũng không lạ gì khi Thạch Lam là một thành viên
của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng “trước sau văn phong của Thach Lam vẫn
chảy riêng biệt một dòng”1. Một mặt là vì luôn hướng ngòi bút về phía lớp
người lao động bần cùng trong xã hội, nên truyện của Thạch Lam hay ghi lại
những cảm xúc trước số phận hẩm hiu của những kiếp người, nhất là người
phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, giàu lòng hi sinh như nhân
vật Tâm trong tác phẩm “Cô hàng xén” hoặc miêu tả cảnh gia đình đông con,
sống cơ cực như “Nhà mẹ Lê” trong xóm chợ với lòng cảm thông sâu sắc.
Mặt khác, bởi Thạch Lam là cây bút thiên về tình cảm, thế nên có thể nói
“tâm lý” là sở trường của ông, thích đi sâu khai thác nội tâm nhân vật, miêu
tả tỉ mỉ, tinh tế và sâu sắc những tâm lý phức tạp của con người, nhất là khi
3
đối diện với cuộc đấu tranh quyết liệt giữa thiên-ác, tốt-xấu mà ranh giới của
nó đôi khi mong manh như “Sợi tóc”.
Những ai yêu thích trang văn của Thạch Lam ắt hẳn sẽ thấy được tấm
lòng nhân đạo đáng kính của tác giả trước niềm xót xa, cảm thông mà ông đã
kín đáo gửi gắm vào tác phẩm của mình. Đọc truyện của Thạch Lam, Huy
Cận đã nhận định: “Những truyện ngắn của Thạch Lam là hay không phải vì
chúng ta có thể xếp loại các truyện ấy vào dòng văn học hiện thực. Những
truyện ấy hay vì nó truyền đến cho người xem một cách cảm nhận cuộc đời,
một lối rung cảm xót xa trìu mến trước những cảnh đời nghèo túng, đôi khi
tủi cực, đôi lúc hắt hiu”. Và cái hay của truyện ngắn Thạch Lam không chỉ ở
việc nó mang đến cho người đọc những cảm nhận cuộc đời, những cảm
thương cho kiếp người mà tác phẩm của ông còn hay ở cách truyền tải những
cảm xúc đó đến với người đọc. Bằng cách nào tác phẩm của ông lại lôi cuốn
người đọc đến thế, bằng cách nào Thạch Lam có thể “làm cho lòng người
đọc thêm trong sạch và phong phú” đến thế? Để đi tìm câu trả lời cho câu hỏi
này chúng ta không chỉ xem xét ở ý nghĩa nội dung mà còn phải xem xét ở
góc độ nghệ thuật mà chủ yếu là ở phương diện “nghệ thuật trần thuật” –
cách kể chuyện độc đáo, đầy ma lực của nhà văn, một yếu tố quan trọng góp
phần làm nên thành công trong sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam.
Từ những điều tích cực đã nêu trên cùng với lòng say mê và yêu mến Thạch
Lam-một nhà văn tài năng, đầy nhân hậu, luôn lặng lẽ đi tìm cái đẹp trong
văn chương cũng như trong cuộc sống, người viết đã chọn đề tài “Nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam” mà cụ thể là “Nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn Sợi tóc của Thach Lam”. Đây là tác phẩm tiêu
biểu cho sở thích đi sâu vào từng ngóc ngách sâu kín nhất của tâm hồn con
người
Lịch sử vấn đề:
Những sáng tác của Thạch Lam từ trước đến nay dù chảy qua bao nhiêu thế
hệ giai, qua bao nhiêu giai đoạn đi nữa những sáng tác của ông vẫn luôn thu hút
được đông đảo bạn đọc và người hâm mộ với một ma lực vô hình. Thậm chí đã
có không ít bài nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, quan điểm cũng như phong
2.
4
cách nghệ thuật hoặc đi sâu cảm thụ, phân tích các tập truyện, các tác phẩm cụ thể
của ngòi bút “Thiện Sỹ” này.
Nhưng bàn về phương diện nghệ thuật trần thuật trong những sáng tác của
Thạch Lam thì còn ít, chỉ được đề cập đến trong một vài bài viết và chưa có tính
hệ thống. Đồng thời nó còn là một trong những mặt làm nên phong cách nghệ
thuật độc đáo của Thạch Lam vì vậy cần phải xem đây là vấn đề phải đi sâu hơn,
quan tâm nhiều hơn nữa.
3. Mục đích nghiên cứu:
Tiểu luận sẽ đi sâu tìm hiểu những khía cạnh của nghệ thuật trần thuật như:
người trần thuật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn
“Sợi Tóc” của Thạch Lam. Để giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về tài năng của
Thạch Lam cũng như giải mã được câu hỏi tại sao văn của ông để lại nhiều dấu
ấn sâu sắc trong lòng người đọc đến thế.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích-tổng hợp: đi sâu vào quá trình khai thác các bình
diện làm nổi bật lên nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm.
5.
Cấu trúc tiểu luận
Phần I: MỞ ĐẦU
6. Lý do chọn đề tài
7. Lịch sử vấn đề
8. Mục đích nghiên cứu
9. Phương pháp nghiên cứu.
10. Cấu trúc tiểu luận
Phần II: NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung.
1.1. Khái quát thân thế và sự nghiệp của Thạch Lam
1.2. Giới thiệu về nghệ thuật trần thuật
2. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Sợi Tóc của Thạch
Lam.
2.1.Chủ thể trần thuật.
2.2.Điểm nhìn trần thuật
2.3 Giọng điệu trần thuật.
2.4. Thành phần lời văn
5
Phần III: Kết Luận
Tư Liệu Tham Khảo
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung.
1.1. Khái quát thân thế, sự nghiệp và con người của Thạch Lam
Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn tường Sáu, ngoài bút
danh Thạch Lam, ông còn có các bút danh là Việt Sinh, Thiện Sỹ. Là thành viên
của nhóm Tự Lực văn Đoàn, cũng rất nổi tiếng như hai anh ruột của mình, chính
là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Những tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Gió đầu
mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc, Hà Nội băm sáu phố phường…
Ngòi bút ấy từ thuở nhỏ đã biết mơ mộng, đa cảm, đi đứng nhẹ nhàng và rất
quý trọng sự sống. Có lần nhà văn Vũ Bằng kể lại rằng: “Thạch Lam yêu sự sống
hơn bất kỳ ai. Anh quý từ cốc nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng uống
một cách gần như thành kính… như thể cảm ơn trời đất đã cho mình sống để
thưởng thức ngon lành như vậy…Anh là một người độc đáo có tài lại khiêm
nhường, người nhỏ mà nhân cách lớn…”
1.2. Giới thiệu về nghệ thuật trần thuật
Trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp thông tin
về sự kiện, nhân vật theo một thứ tự nhất định trong không gian, thời gian và về ý
nghĩa.
Trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai, xuất hiện ở đâu, khi nào, làm
việc gì, trong tình huống nào. Trần thuật được sử dụng phổ biến trong thơ, trong
ca dao, trần thuật còn được tìm thấy trong các tác phẩm tự sự và trong truyện
ngắn. Trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ. Nếu chủ thể của lời kể
trong thơ trữ tình là nhân vật trữ tình thì người kể trong truyện là người kể truyện.
Từ người kể truyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật,
giọng điệu trần thuật.
2. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Sợi Tóc của Thạch Lam.
6
2.1.Chủ thể trần thuật.
Người trần thuật (chủ thể trần thuật) là một người do nhà văn tạo ra thay
mình thực hiện hành vi trần thuật. Vai trò của người trần thuật đối với một tác
phẩm tự sự là hết sức quan trọng, có thể kể bằng ngôi thứ ba, ngôi thứ nhất
hoặc ngôi thứ hai. Trong đó, ở ngôi trần thuật thứ ba, bản thân người kể
không tham gia vào diễn biến câu chuyện nhưng chuyện gì cũng biết, bởi vì
nó cho phép người kể đứng ở vị trí nào đó quan sát hết và kể lại cho người
khác nghe một cách khách quan. Đây là ngôi kể tự do nhất, cũng là một dạng
trần thuật phổ biến của văn xuôi truyền thống, nó biểu hiện cụ thể ở việc
người kể tự giấu mình và gọi tên các nhân vật theo tên của chúng. Chẳng hạn
như trong đoạn mở đầu tác phẩm Vợ Nhặtb của Kim Lân, người trần thuật ẩn
mình đằng sau câu chữ để quan sát về một nhân vật tên là Tràng có thói quen
vừa đi vừa cười tủm tỉm, lại thêm cái tật hay nói một mình, người trần thuật
quen gọi kẻ có “gương mặt thô kệch” ấy là hắn: “Trước kia mỗi chiều, cứ vào
lúc chạng vạng mặt người thì Tràng đi làm về. Hắn bước ngật ngưỡng trên
con đường khẳng khiu ….Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mất nhỏ tí, gà
gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ
mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa
dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn
nghĩ.”. Hay là ở đoạn miêu tả cuộc sống chị em Liên ở cái cửa hàng hơi tối,
quẩn quanh tiếng muỗi vo ve: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng
vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong
cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả
thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều
quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị…” và cũng bằng ngôi kể khách
quan này người trần thuật có thể vẽ lại một cách chi tiết, cụ thể bức tranh phố
huyện nghèo khổ, tràn ngập bóng tối xung quanh cuộc sống của “Hai đứa
trẻ”.
Song, cùng nằm trong chuỗi những sáng tác của Thạch Lam nhưng khi
xem xét ở phương diện chủ thể trần thuật ta thấy mở đầu tác phẩm “Sợi tóc”
được dẫn dắt bởi một chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba giấu mình, từ một cuộc
chuyện trò, hàn huyên tâm tình: “Anh Thành nhỏm dậy, nghiêng mình chống
khuỷu tay xuống giường rồi bắt đầu nói với một giọng trầm và thong thả
7
khiến người nghe hiểu được hết các ý tứ của câu chuyện”, nó như một duyên
cớ khơi gợi câu chuyện. Đây là lối kể “chuyện trong truyện” hay gọi là lối kể
chuyện kép, thường nhìn thấy ở một số tác phẩm khác của Thạch Lam chẳng
hạn như truyện “Một cơn giận”. Thế nhưng, ngoài đoạn mở đầu thì đến đoạn
cuối kết thúc tác phẩm chủ thể trần thuật ẩn mình mới lại xuất hiện một lần
nữa sau khi nghe nhân vật chính kể hết đầu đuôi câu chuyện: “Anh Thành nói
xong, với cái điếu hút một hơi thuốc lào rất kêu. Rồi anh thở ra thong thả,
mắt lờ mờ nhìn dõi theo làn khói đi”. Như vậy, có thể nói chủ thể trần thuật ở
ngôi thứ ba chiếm một phần rất ít trong truyện, vì phần lớn truyện được kể lại
bởi chủ thể trần thuật ở ngôi thứ nhất. Đọc tiếp truyện ta thấy, sau lời mào đầu
ngắn gọn nhân vật Thành xuất hiện. Thế là từ đó, vai người kể chuyện được
chuyển giao cho Thành, anh ta trực tiếp đảm đương vai trò tường thuật câu
chuyện từ đầu đến cuối với trường nhìn của chính mình. Như vậy, trong suốt
quá trình còn lại của diễn biến câu chuyện, người kể chuyện từ trần thuật ngôi
thứ ba sang trần thuật ngôi thứ nhất. Cụ thể hơn, trong tác phẩm này chủ thể
trần thuật là nhân vật Thành, xưng “tôi” và kể lại quá trình đấu tranh giữa việc
lấy cắp hay không lấy cắp tiền của bạn. Vậy, tại sao tác giả bất ngờ để người
kể chuyện vô nhân xưng chuyển sang người kể chuyện xưng “tôi”, chỉ có thể
là vì ngoài bản thân “tôi” ra sẽ không có bất cứ ai có thể hiểu và diễn tả một
cách tường tận những biến chuyển trong tâm hồn “tôi”. Cũng nhờ tác giả trao
quyền kể lại cho chính nhân vật đã làm cho câu chuyện trở nên chân thật,
đáng tin cậy và có sức thuyết phục hơn đối với độc giả, đồng thời có thể kéo
cả người đọc cùng nhập cuộc, cùng sống với nhân vật trong tác phẩm. Bởi lẽ,
“tôi” vừa có vai trò nhập vai, tham gia vào câu chuyện vừa là người dẫn dắt
chuyện, anh ta không kể chuyện của ai cả mà kể lại câu chuyện của chính
mình, do “tôi thấy”, “tôi trãi qua”, thậm chí còn kể lại cả tâm trạng của mình
“tôi cảm” và “tôi nghĩ”. Tuy ngôi kể thứ nhất có hạn chế hơn so với ngôi kể
thứ ba, chủ yếu là kể theo hướng chủ quan, nhưng hướng chủ quan của cái
“Tôi” ấy đã góp phần dẫn dắt câu chuyện một cách tự nhiên, linh hoạt hơn,
người đọc dường như có thể cảm nhận được rõ nét cái cảm giác mong manh
như sợi tóc của biên giới giữa thiện và ác, giữa lương tâm và tội lỗi và dường
8
như đang cùng nhân vật chơi vơi giữa thực và mộng, giữa cái thú cám dỗ và
khoái lạc.
2.2.Điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn trần thuật là vị trí người kể dựa vào để quan sát, cảm nhận,
trần thuật, đánh giá các nhân vật, sự kiện. Và có nhiều loại điểm nhìn, nhưng
khi tiếp cận với “Sợi tóc” ta sẽ dễ dàng nhận dạng được hai loại điểm nhìn cơ
bản thường bắt gặp trong nhiều sáng tác văn chương, đó là: điểm nhìn bên
ngoài và điểm nhìn bên trong.
Điểm nhìn bên ngoài là trường hợp người trần thuật đứng từ ngoài để
quan sát và kể lại câu chuyện, chứ không hiểu rõ tâm lý nhân vật. Chẳng hạn
như trong tác phẩm này người trần thuật ở ngôi thứ ba ẩn mình, có thể là
chính tác giả hoặc một ai đó đi chăng nữa thì ở kiểu người trần thuật này chỉ
có thể ở bên ngoài lắng nghe câu chuyện của nhân vật Thành, quan sát những
cử chỉ hành động của anh ta và mô tả lại như: “Anh Thành nhỏm dậy,
nghiêng mình chống khuỷu tay xuống giường rồi bắt đầu nói với một giọng
trầm và thong thả” hoặc “Anh Thành nói xong, với cái điếu hút một hơi
thuốc lào rất kêu. Rồi anh thở ra thong thả, mắt lờ mờ nhìn dõi theo làn khói
đi”, như vậy qua con mắt của người kể truyện ẩn mình hình ảnh nhân vật
chính càng thêm lộ rõ dáng vẻ suy tư, chiêm nghiệm khi trải lòng mình. Tuy
nhiên, đây là điểm nhìn khá hạn chế, bởi vì nó chỉ cho phép người kể miêu tả
lại những gì xảy ra bên ngoài hoặc xung quanh nhân vật vì vậy để tăng độ
gần gũi cho câu chuyện tác giả đã trao quyền trần thuật lại cho nhân vật
chính, từ khi đón nhận ngòi bút về phần mình nhân vật đã để cho người đọc
thông qua nhãn quan của mình để cùng nhìn thấy, cùng nhận xét đánh giá
những sự việc xảy ra xung quanh mình, có thể nói nhân vật đã bước một
bước khá uyển chuyển với mục đích dẫn dắt người đọc cùng tham gia câu
chuyện một cách tự nhiên. Như vậy, thông qua điểm nhìn bên ngoài của nhân
vật (hay của chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất) chúng ta thấy những gì?. Đầu
tiên là những đoạn kể về người anh họ tên là Bân đến rũ Thành đi mua một
chiếc đồng hồ hạng tốt, nhưng khi Thành chọn cho anh ta một cái đồng hồ
hàng hiệu, đẹp và đắt “hiệu Movado, xuống nước hay vùi cát cũng không hề
gì” Bân tỏ ra thích thú, anh ta cứ “mân mê cầm lên ngắm nghía” có vẻ cũng
muốn mua lắm nhưng “lưỡng lự một lát, anh ta trả lại nhà hàng”. Sau một
9
hồi “mặc cả ráo riết từng hào” ở một hiệu khác, cuối cùng Bân cũng mua
được “một cái đồng hồ hiệu không mấy ai biết tiếng”. Bân còn có cái tính
hay cẩn thận nữa-cái tính cẩn thận của một anh kiệt, khi Bân đi vào buồng
với cô nhân tình anh ta đã không quên “đem cả cái áo tây trong có ví tiền
vào chỗ nằm, vất trên thành đầu giường”. Như vậy, nhân vật tôi trong tác
phẩm này bằng ngôi kể thứ nhất cùng với điểm nhìn bên ngoài đã cho người
đọc thấy được Bân là một người “rất giàu và rất ngốc”, lại thêm cái tính hay
hà tiện, keo kiệt. Và sau đó từ nhân vật Bân – cũng chính là nguyên nhân
khiến Thành – một người đi từ “lương thiện” đến “ăn cắp”, qua chi tiết Thành
nhìn thấy cái ví tiền của Bân: “Lúc trả tiền, tôi thấy hắn giở ra một cái ví da
lớn, phồng chặt. Hắn đếm giấy bạc thong thả và cẩn thận. Thoáng nhìn qua,
tôi cũng biết trong ví nhiều tiền lắm” chưa dừng lại ở đó, anh còn miêu tả tỉ
mỉ hơn: “ngoài số tiền bạc lẻ hắn mang ra trả, tôi còn thấy gấp ở ngăn trên
đến năm, sáu cái giấy bạc một trăm nữa, những giấy bạc mới, màu còn tươi
nguyên”, cái nhìn chi tiết của người trần thuật đã cho chúng ta thấy những
dấu hiệu đầu tiên của sự cám dỗ và sự cám dỗ ấy lại tiến thêm một bước nữa
khi Thành lấy áo định ra về: “Vừa nói tôi vừa với cái áo tây của tôi treo trên
mắc. Bỗng nhiên có cái gì chuyển mạnh qua tim tôi: tay tôi yên hẳn lại; tôi
vừa mới nhận ra rằng cái áo tôi đương cầm không phải là cái áo của tôi. Thì
ra lúc mang áo vào giường nằm, Bân đã mang nhầm áo. Hai chúng tôi cùng
mặc một thứ hàng len giống màu, như vậy dễ lẫn lắm. Tôi ghé nhìn vào trong
áo thấy cái ví tiền ở túi thò ra ngoài một tí. Cái ví tiền . . . mấy tờ giấy bạc ”.
Đọc đến đây chúng ta có cảm tưởng, dường như tác giả đã để cho người kể
chuyện, cũng chính là nhân vật, đôi lúc tự tách ra khỏi mình, giữ một khoản
cách nhất định để tả lại những hành động trạng thái lúc ấy của chính mình:
“Tôi điềm nhiên treo cái áo vào chỗ cũ, quay ra. Mấy chị em cũng phụ họa
vào lời mời của Bân, nài nỉ: “Tội gì mà về bây giờ anh, khuya và lạnh chết”.
Sau lời nài nỉ của Bân và mấy em nhân tình Thành cũng nán lại “bâng
khuâng tôi lại gần giường”, cũng chẳng biết anh ở lại là vì những lời nài nỉ ấy
hay là vì cái ví tiền kia? Chỉ biết cám dỗ đã bắt đầu chi phối hoàn toàn cả
suy nghĩ lẫn hành động của Thành, trong khi đang sắp xếp, tính toán trong
tâm chí, anh bỗng “giật mình đỡ lấy dọc tẩu” vì lúc này cô Lan đã tiêm xong
10
điếu thuốc từ bao giờ, quay dọc sang mời. Mắt cô nhìn anh âu yếm, anh “giả
vờ cười không đáp, rồi xoay nằm ngửa, nhìn lên trần nhà”, lát sau Thành
“nhổm dậy đến bên mắc, với áo, chiếc áo của Bân” qua lần vải, Thành “thấy
chiếc ví kềnh kệnh răn rắn”, anh đưa tay vào trong áo “luồn vào khe ví, sờ
vào mấy tấm giấy bạc” và “rùng mình”, “ Mấy ngón tay mân mê đầu tấm
giấy, một cái, hai cái…”. Có lẽ chính cái khoái lạc khi được “mân mê” những
tờ giấy bạc đã làm cho thành trở nên bối rối anh cứ hết “đi lại trong nhà” rồi
lại “ đứng lên, ngồi xuống, như một cái máy”, sau đó Thành đi vào phía
giường Bân nằm “cúi xuống, tì vào thành giường – cố ý tì vào chỗ vắt cái áo
– nhìn vào trong, qua màn”. Nhưng anh chưa vội quay ra “vẫn cứ tì mình
trên thành giường”. Rõ ràng những hành động của Thành đã cho người đọc
thấy được sự rối bời bởi những giằng xé trong anh. Tuy nhiên, có người đã
từng nói con người là “một động vật rất phiền phức” cho nên muốn đi sâu
vào tâm hồn con người không thể chỉ nhìn từ những trạng thái bên ngoài mà
phải nhìn từ bên trong. Do đó, để có thể khám phá được những giằng xé bên
trong chiều sâu tâm hồn của nhân vật Thành chúng ta cần đứng ở phương
diện của diểm nhìn bên trong để tìm hiểu.
Dù thế nào đi nữa điểm nhìn bên ngoài luôn có những hạn chế nhất định của
nó, vì thế chỉ sử dụng một điểm nhìn thôi chưa đủ, muốn dẫn dắt người đọc
khám phá sâu hơn nữa từng ngóc ngách tâm hồn con người, tâm hồn nhân vật
tác giả đã cho phép người đọc mượn điểm nhìn bên trong của nhân vật như
một dạng phương tiện để làm tỏ hướng đi. Theo lí thuyết tự sự học, dạng thức
người kể chuyện với điểm nhìn bên trong đã tạo nên sự cách tân cho nghệ
thuật trần thuật, đặc biệt ở phương thức trần thuật từ ngôi thứ nhất, người kể
chuyện xưng tôi. Đây là hệ quả của những đổi mới trong tư duy nghệ thuật,
khi văn học vốn từ quan niệm con người tập thể chuyển thành con người cá
thể, quan tâm nhiều hơn đến chủ thể sáng tạo và sự sống cá nhân. Với ngôi
trần thuật này, người kể chuyện xưng tôi có vai trò to lớn trong việc quyết
định cấu trúc tác phẩm cũng như toàn quyền miêu tả. Tóm lại, điểm nhìn bên
trong, khi người kể chuyện là nhân vật xưng “tôi” đã nghiêm khắc mổ xẻ,
phanh phui những mặt trái của tính cách, phẩm chất dưới sự phán xét của tòa
án lương tâm, đồng thời nó cũng cho phép tác giả cũng như đọc giả khám phá
11
toàn bộ chiều sâu tâm lý nhân vật, nó thường thể hiện qua những đoạn độc
thoại nội tâm của nhân vật, chỉ có nhân vật mới biết được những suy nghĩ của
chính tâm hồn mình mà những người xung quanh không biết được. Người
đọc muốn nghe thấy và nhìn thấy chỉ có thể bằng con đường của điểm nhìn
bên trong nhân vật. Chẳng hạn như những đoạn miêu tả lại dòng suy nghĩ của
nhân vật Thành nhất là khi nhắc đến người anh họ tên Bân: “có lẽ mình cho
anh ta là ngốc, bởi vì hắn không xử sự như mình, không có những quan niệm
về cuộc đời như mình; nhưng thật ra biết đâu cách ăn ở của anh ta lại không
khôn ngoan hơn, bởi vì anh ta đã giầu và sung sướng?”, khi dẫn Bân đi mua
đồng hồ Thành nghĩ trong bụng: “anh chàng này thật là ngốc, có tiền mà
không biết chơi đồng hồ tốt. Lại kiệt nữa. Không biết hắn để tiền làm cái
gì?”, lúc Thành nhìn thấy cái ví tiền “phồng chặt” của Bân anh lúc nào cũng
tự hỏi mình sao “hắn” lại có nhiều tiền thế: “Quái, thằng cha này làm gì mà
lắm tiền thế? Mình thì chả bao giờ có đến được một trăm bạc bỏ túi!” hay
những lúc trong óc của Thành cứ vơ vẩn cái ý nghĩ: “sao một thằng ngốc như
hắn – tôi thấy hắn càng ngốc – lại có lắm tiền thế, còn mình”, “Hắn làm gì
mà có lắm tiền thế? Lại mang để trong ví làm gì? Rõ anh chàng ngốc không
biết dùng đồng tiền, tiền ở trong tay hắn cũng uổng. Ngộ có đứa lấy đi thì
sao? Để thế có bữa mất thật…”. Như vậy, không chỉ qua những lởi miêu tả
của Thành về Bân mà ngay cả trong tâm tưởng của Thành như một lần nữa đã
khẳng định để người đọc tin rằng Bân là một “anh chàng ngốc không biết
dùng đồng tiền, tiền ở trong tay hắn cũng uổng”, anh chàng ấy càng ngốc lại
càng giàu, càng giàu thì lại càng keo kiệt, cái tâm tưởng đó cũng vô tình phơi
ra những suy nghĩ có vẻ trách đời, anh trách đời bất công, một kẻ ngốc như
Bân lại lắm tiền mà chẳng biết gì đến thú ăn chơi, thú xài hàng hiệu, chả bù
cho Thành vốn “sành sỏi” và “thạo đời”, mà chả có nhiều tiền để tiêu cho
những “ngón ăn chơi” đó. Quả thật, bằng chủ thể trần thuật ở ngôi thứ nhất
tác giả đã biến chuyển nó thành công cụ đắc lực giúp đọc giả dễ dàng khám
phá nhân vật không chỉ từ bên ngoài mà còn khám phá những gì đang diễn ra
bên trong nhân vật, chẳng hạn như những dòng suy nghĩ để chuẩn bị, tính
toán, đắn đo, liệu lượng của Thành: “Tôi cứ việc điềm nhiên với lấy áo, mở ví
rút ra hai tờ, rồi khoác áo ở trên vai, ra ý sắp sửa về. Rồi chọn lúc mọi người
12
vô ý – mà dẫu có ý cũng không ai biết được – tôi đổi lấy áo của tôi vắt ở đầu
giường Bân… Thế là xong, và gọn. Mai dậy Bân biết mất chắc chẳng bao giờ
dám nghi ngờ cho tôi. Mà nghi ngờ thế nào được?”. Tất cả những cách xếp
đặt ấy diễn ra rất nhanh trong tâm trí Thành, dù chỉ thoáng qua thôi cũng đủ
để Thành tưởng trước được các việc xảy ra như thế, êm thấm, yên lặng, và
trôi chảy, thật dễ dàng mà không còn sợ cái gì cả, cho dù Bân có nghi ngờ
cũng không thể nghi ngờ Thành được bởi vì: “Tôi về từ đêm cơ mà! Vả lại
cái áo đựng tiền hắn đã cẩn thận mang vào giường ngay từ chập tối, vậy nếu
có người lấy, thì chỉ có người nhà cô đầu mà thôi. Mà người nhà thì cũng
khó lòng đến đấy lấy được, họa chăng có ngay cô nằm với Bân. ừ, có lẽ Bân
sẽ nghi cho nhân tình của hắn lấy… Chắc thế”, “Bân sẽ không dám nói gì
đâu; biết nhân tình lấy, hắn sẽ im lặng, sợ làm cho nhân tình xấu hổ, và sợ
làm tai tiếng chủ nhà. Hắn vốn tính nhát, với lại hai trăm đối với hắn chắc
chả là bao.”. Khi Thành ngó sáng chiếc áo vắt ở đầu giường – chiếc áo của
Thành – anh nghĩ chắc vẫn còn y nguyên ở đấy, anh lại tưởng tượng: “khi có
hai trăm trong túi rồi, lên xe về điềm tĩnh đi nằm ngủ. Sớm mai mất tiền, thế
nào hắn chả về qua nhà mình. Hắn gọi cửa vào, đánh thức mình dậy và bơ
phờ bảo: Tôi mất hai trăm bạc tối hôm qua rồi, anh ạ…”. Thành còn tưởng
tượng được bộ mặt ngạc nhiên của mình lúc bấy giờ như không hề can dự gì
đến mình, anh nói với chính mình: rồi Bân“sẽ thuật lại buổi tối hôm nay, lúc
mang áo vào giường, đến lúc thấy mất: “Chỉ có con nhân tình tôi nó lấy thôi,
anh ạ. Chả còn ai vào đấy nữa…”, sau khi sắp xếp chuyện lấy tiền và giả vờ
như không đâu vào đấy xong Thành lại nghĩ đến chuyện tiêu tiền như thế
nào: “Nếu hắn không biên số thì mình cứ việc tiêu tự nhiên! Vạn nhất hắn có
biên số rồi, thì bảo hắn đi trình cẩm. Nhưng mình sẽ tiêu ngay hôm ấy… Một
người như mình cầm tờ giấy trăm vào Gô Đa mua hàng, ai dám nghi
ngờ?...”, quả là một kế hoạch hoàn hảo. Thành như phân thân để đối thoại
với chính mình, nhưng thực chất là độc thoại. Như vậy tác giả đã cho phép
chúng ta đứng ở góc độ của điểm nhìn bên trong để nghe, nhìn những điều
sâu kính trong tâm hồn nhân vật mà chỉ nhân vật biết được hay thậm chí có
những lúc họ còn không nắm bắt được những gì xảy ra bên trong tâm hồn của
mình, như Thành trong lúc băn khoăn lưỡng lự giữa việc có lấy cắp tiền hay
13
không lấy cắp tiền của bạn anh đã tự hỏi: “Lấy mấy tờ, độ hai tờ - tại sao lại
hai? Tôi không biết”; “Tâm hồn tôi lúc bấy giờ thế nào, tôi không biết rõ”;
“Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không biết.”; “Hình như ý nghĩ ham muốn hay trù
trừ tối ấy không phải là của tôi, hình như của ai ấy…”. Tâm hồn con người
là thế, lúc nào cũng có những bí mật mà chính họ cũng không hiểu nổi. Như
Chế Lan Viên đã nói: “Lòng ta chẳng bao giờ ta đi hết được”. Vì vậy, khi đến
với thế giới nghệ thuật nội tâm của ngòi bút Thạch Lam, chúng ta sẽ bắt gặp
chính mình ở đó. Sự thực của đời sống tâm hồn con người luôn được Thạch
Lam soi chiếu qua nhiều góc độ, có những điều tốt đẹp, có cả những yếu hèn
băn khoăn, những sắc màu mong manh của tâm lí. Ôi cái yếu hèn băn khoăn
trong phút chốc đã để đồng tiền che lấp, nó cứ hiển hiện lên trước mắt
Thành, nó lấp đầy cả tâm trí anh: “Trước mắt tôi, mấy tờ giấy bạc một trăm
gấp trong ngăn ví, hiện ra rất rõ rệt”, “Qua làn khói trắng tỏa ra, tôi tưởng
nhìn thấy tập giấy bạc một trăm, còn mới nguyên gấp trong ngăn ví”, mấy tờ
giấy bạc, nó làm Thành chẳng còn nghe thấy được gì nữa cả: “Bân nói câu gì
sau, tôi cũng không nghe thấy”, nó làm cho anh thấy “băn khoăn, bứt rứt”,
trong khoảnh khắc ấy chỉ có Thành mới hiểu được những cảm giác đó và cái
cảm giác của “thời gian qua”: “tôi cảm thấy đi qua tâm hồn tôi từ bên này
sang bên kia… như thế không biết trong bao nhiêu lâu… Tôi khẽ thở dài”.
Ngòi bút điêu luyện của Thạch lam đã cho chúng ta thấy được sự rối bời
trong tâm trạng con người vì sự giằng co tranh chấp giữa lương tâm và tội lỗi.
Trong một cái tích tắc, cùng lúc với hành động “tì mình trên thành giường”
nhưng trong tâm trí thì đang “lưỡng lự” lắm, trong cái giây phút ngắn ngủi đó
anh cảm thấy “một lát bấy giờ sao lâu thế”, thiếu chút nữa tâm hồn Thành đã
sa ngã vào vùng tội lỗi bằng hành động nhơ nhuốc-ăn cắp tiền của bạn. Nhân
vật của Thạch Lam là như vậy, luôn hiện lên với đầy đủ cả cái thiện và cái ác,
cả mặt tốt lẫn mặt xấu như những con người thực ngoài đời, khiến cho người
đọc một thoáng “giật mình”: ranh giới giữa cái Thiện và cái Ác rất mong
manh. Con người lương thiện vẫn có thể bị xui khiến làm điều ác một cách dễ
dàng. Thành cũng thế anh đã phải chịu sự ám ảnh, dằn vặt rất nhiều khi lựa
chọn giữa lấy hay không lấy cắp tiền. Và rồi cuối cùng: “không biết tại sao,
bỗng nhiên: Áo anh đây này, đây là áo của tôi-Và nói thêm bằng tiếng Pháp:
14
Anh đếm lại tiền đi. Và để cẩn thận vào trong ấy”. Ngay sau khi đã trấn áp
được cám dỗ tội lỗi, Thành lại “bần thần ngẩn ngơ” một chút tiếc thương,
thiện ác vẫn còn vẩn vơ trong trí. Thậm chí đến lúc Thành lên xe về nhà, tâm
trí vẫn còn rối mù, như người mất hồn, vẫn còn chút tiếc rẻ ngấm ngầm, dù
đã tỉnh táo hẳn rồi, cám dỗ vẫn còn vương vấn trong lòng “Tôi cảm thấy một
cái thú khoái lạc kỳ dị khe khẽ và thầm lặng rung động trong người, có lẽ là
cái khoái lạc bị cám dỗ, mà cũng có lẽ cái khoái lạc đã đè nén được sự cám
dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi không tự thú cho tôi biết và cũng cố ý
không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm hồn tôi thêm một vẻ rờn
rợn và sâu sắc”. Ngòi bút Thạch Lam luôn soi rọi vào những khoảng sáng tối
trong nội tâm nhân vật, nắm bắt đúng sự thức tỉnh của con người: “Tâm trí
tôi giãn ra như một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường”.
Cái hay ở đây không chỉ ở điểm nhìn bên trong hay điểm nhìn bên
ngoài, hay ở chổ Thạch Lam đã thể hiện được điểm nhìn toàn vẹn của mình
về con người bằng sự luân chuyển điểm nhìn một cách uyển chuyển, tác giả
kết hợp cả điểm nhìn bên trong lẫn bên ngoài. Nhân vật vừa miêu tả những gì
mình nhìn thấy vừa miêu tả được nội tâm, hết nhìn bên ngoài rồi lại nhìn bên
trong, vừa diễn tả được những rung động tinh tế của tâm hồn con người vừa
khám phá được những bí ẩn khôn cùng bên trong nó. Có thể gọi đây là một
thứ công cụ hổ trợ đắc lực giúp ngòi bút của ông lách sâu vào mọi ngõ ngách
của tâm hồn con người để khám phá những điều bí mật. Thạch Lam quả thật
là một nhà giải phẫu tâm lý tài ba, ông đã dẫn chúng ta đi sâu vào tận đáy tâm
hồn con người để ta chứng kiến được cái biên giới mong manh giữa thiện, ác,
giữa ăn cắp hay không ăn cắp, cái địa giới ấy chỉ mỏng manh như một sợi
tóc.
2.3.Giọng điệu trần thuật
Theo Thạc sĩ Phạm Thị Lương “các nhà văn sau khi định hình phong
cách sáng tác ít nhiều đều thể hiện được một chất giọng đặc trưng trong
sáng tác của mình”. Như Nguyễn Công Hoan, ông phản ánh hiện thực nông
thôn trước Cách Mạng, lên án xã hội thực dân nửa phong kiến và bọn quan
lại tay sai bằng giọng văn trào phúng hài hước và nhiều khi rất cay độc. Trái
15
với Nguyễn Công Hoan, giọng điệu trần thuật của Nguyên Hồng là giọng
điệu cảm thương thống thiết trước nỗi thống khổ của con người, trong truyện
ngắn của Nam Cao giọng điệu trần thuật lại mang đậm tính triết lý. Với
Thạch Lam, tuy xuất hiện trên văn đàn cùng thời với rất nhiều nhà văn khác,
nhưng văn Thạch Lam lại mang một dấu ấn rất riêng. Vì truyện ngắn của ông
nhiều khi có sự xuất hiện của chủ thể trần thuật ở ngôi thứ nhất thậm chí là cả
ngôi thứ ba, giọng điệu trần thuật cũng vì thế mà đa dạng theo điểm nhìn của
chủ thể trần thuật, có khi trầm lắng, tâm tình, khi thì xót xa đồng cảm, nhìn
chung giọng văn của Thạch Lam luôn làm lan toả trong lòng người đọc một
nỗi buồn man mác, song cũng để lại nhiều dư âm trong lòng người yêu mến
văn chương Thạch Lam.
Vì lẽ đó, tác giả đã khéo léo dẫn dắt người đọc đi vào “Sợi Tóc” bằng
một giọng văn nhẹ nhàng, nửa như mơ hồ, nửa như thực như mơ nhằm khơi
mạch tâm trạng nhân vật một cách hết sức tinh tế và đưa người đọc miên man
theo từng dòng cảm xúc của nhân vật: “qua làn khói trắng tỏa ra, tôi tưởng
nhìn thấy tập giấy bạc một trăm, còn mới nguyên gấp trong ngăn ví”; “tôi
chỉ thoáng nghe thấy, trong trí như còn bận sự gì”; “hình như ý nghĩ ham
muốn hay trù trừ tối ấy không phải là của tôi, hình như của ai ấy, của một
người nào khác lạ, khác với cái người thường của tôi bây giờ…”
Bên cạnh đó, để câu chuyện đi vào lòng người một cách chân thật nhất,
đồng thời làm thức tỉnh thế giới nội tâm chìm khuất bên trong mỗi con người,
Thạch Lam đã sử dụng lối kể tâm tình với giọng điệu thủ thỉ, trầm lắng. Nhờ
đó câu văn tràn đầy cảm xúc, mang những triết lý nhẹ nhàng, giản đơn mà từ
trước đến giờ ta chưa khám phá ra, có lẽ vì nó quá nhỏ, nhỏ đến nỗi đôi khi ta
quên mình cũng đã có những lúc đứng trước cuộc đời này mà tự hỏi: “sao
mình hãy còn là người lương thiện, không phải là kẻ ăn cắp”; “Cái gì đã giữ
tôi lại?”; “Có lẽ chỉ một lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này
hay phía kia, đã khiến tôi có ăn cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ,
một chút gì đó, chia địa giới của hai bên… Tôi có tiếc đã không lấy hay
không, hay bằng lòng mình vì đã chống giữ lại cái ý xấu?”. Bằng cách đó,
đến cuối truyện, người kể không hề đưa ra bất cứ một lời nhận định cụ thể
16
nào cho hành động của mình mà chốt lại câu chuyện bằng một lời kể chiêm
nghiệm rất thực, rất đời, tạo nên tấm gương sáng mà ai soi vào cũng thấy có
mình ở trong đó, thấy cả ưu điểm, nhược điểm để hiểu người hơn, hiểu mình
hơn, để cảm thông hơn và sống đẹp hơn. Và nếu, chúng ta kết hợp lời chiêm
nghiệm của nhân vật với nhan đề “Sợi Tóc” mới có thể thấy hết được ý nghĩa
sâu sắc của nó về ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và người
xấu luôn tồn tại trong mỗi con người chúng ta. Đúng thật, cái ranh giới đó
quá mong manh, như một sợi tóc, chỉ một chút mơ hồ, sa ngã, ta không giữ
trọn được cái lương thiện của mình dù chỉ là trong ý nghĩ cũng đủ làm cho
tâm hồn mất đi sự thanh cao của cái đẹp, cái thiện.
Giọng văn của Thạch Lam dẫu có đa dạng bao nhiêu thì vẫn luôn có
sức cuốn hút người đọc một cách kì diệu. Bởi văn Thạch Lam luôn như thế,
nhẹ nhàng, sâu lắng, diễn tả tinh tế những cung bậc tình cảm của con người
như kiểu “lạt mềm buộc chặt” làm người đọc càng đi sâu vào càng không thể
dứt ra.
2.4. Thành phần lời văn
Thành phần lời văn là lời văn của tác phẩm văn học, được cấu tạo bằng
hai thành phần chính: lời văn trực tiếp và lời văn gián tiếp.
Lời trực tiếp là lời do nhân vật hay tác giả trực tiếp nói lên trong tác
phẩm. Do vậy, lời trực tiếp trong một tác phẩm tự sự thường được nhận biết
qua những câu thoại. Trong lời trực tiếp của nhân vật chúng ta có thêm hai
dạng cơ bản là lời đối thoại trực tiếp giữa các nhân vật trong tác phẩm và lời
nội tâm của nhân vật khi tự nói với chính mình. Chẳng hạn như:
- Đẹp thì đẹp thật, nhưng mà đắt quá, anh ạ. Thôi, chúng ta lại các hiệu
khách mà mua thì hơn.
…
- Ta lên hiệu chén, rồi lát nữa làm một chầu chứ, - hắn vỗ vào túi – tôi có đủ
tiền đây!
17
Đó là đoạn đối thoại trực tiếp giữa giữa Bân và Thành khi đi mua đồng hồ,
thông qua đó nhân vật Bân tự bộc lộ mình với tính cách của một anh nhà
giàu nhưng hà tiện. Hoặc những đoạn đối đáp khi Thành toan đi về:
- Anh hãy ở chơi đã, về làm gì vội. Ngày mai chủ nhật cơ mà.
- Thôi, tôi phải về. Sáng mai còn có việc.
- Ở chơi đã anh. Ở chơi sáng sớm mai về với tôi một thể.
- Ờ… ờ…
- Tội gì mà về bây giờ anh, khuya và lạnh chết.
- Anh uống chén nước nóng. Rồi nằm xuống đây có hơn không?
- Ờ thì hẵng nằm một lát đã.
- Phải đấy, đến mai hẵng về. Tôi bảo chị Lan phải làm thế nào giữ anh ấy lại
thì làm…
- Không… thể nào tôi cũng phải về, anh ạ…
Những đoạn đối đáp ấy nghe qua tưởng như rất tự nhiên, nhưng tự nhiên thật,
nó tự nhiên đến nổi buột miệng ra như thế, chứ Thành chẳng còn tâm trí đâu
để ý đến nữa bởi vì lúc này trước mắt anh chỉ còn có “mấy tờ giấy bạc một
trăm gấp trong ngăn ví, hiện ra rất rõ rệt”. Dù Thành không khẳng định một
lời nào nhưng nhờ đó người đọc cũng đủ để hình dung được sự rối bời của
Thành khi bước chân xâm lấn của dục vọng bước đầu chiếm lấy những suy
nghĩ xấu xa bên trong tâm hồn con người. Đến gần cuối truyện, chủ thể trần
thuật cũng không một lời nào cho người đọc biết rõ ràng sự lựa chọn của
Thành là có lấy hay không lấy, cũng không nói rõ tại sao Thành lại lựa chọn
như thế, nhưng qua đoạn đối thoại của nhân vật như:
- Mai nhé.
- Oui, à demain.
18
- Áo anh đây này, đây là áo của tôi. Anh đếm lại tiền đi. Và để cẩn thận vào
trong ấy.
Bân nhỏm nửa người dậy, cầm lấy áo:
- Merci, được rồi.
Chúng ta đã biết được sự lựa chọn của Thành và biết được tại sao anh lựa
chọn cách trả lại tiền cho bạn, câu trả lời chỉ có thể gói ghém trong hai chữ
đó là sự “thức tỉnh”, sự thức tỉnh của “lương thiện”.
Bên cạnh việc để nhân vật tự bộc lộ mình, lời văn trực tiếp còn biểu hiện nội
tâm, tình cảm, những suy nghĩ của nhân vật, nó biểu hiện qua những lời độc
thoại nội tâm như:
Sớm mai mất tiền, thế nào hắn chả về qua nhà mình. Hắn gọi cửa vào, đánh
thức mình dậy và bơ phờ bảo:
- Tôi mất hai trăm bạc tối hôm qua rồi, anh ạ…
Tôi thấy trước bộ mặt ngạc nhiên của tôi lúc bấy giờ - một vẻ mặt rất tự
nhiên, - và tôi hỏi: “Chết chửa, mất bao giờ? Ở đâu?”
Hắn sẽ thuật lại buổi tối hôm nay, lúc mang áo vào giường, đến lúc thấy mất:
“Chỉ có con nhân tình tôi nó lấy thôi, anh ạ. Chả còn ai vào đấy nữa…”
- Thế giấy bạc của anh có biên số không?
Nếu hắn không biên số thì mình cứ việc tiêu tự nhiên! Vạn nhất hắn có biên
số rồi, thì bảo hắn đi trình cẩm. Nhưng mình sẽ tiêu ngay hôm ấy… Một
người như mình cầm tờ giấy trăm vào Gô Đa mua hàng, ai dám nghi ngờ?...
Thực chất trên mặt hình thức đây là một đoạn đối thoại, tuy nhiên tất cả đều
do nhân vật tự suy diễn ra bên trong dòng nhận thức của mình, tự nói với
mình, chỉ nhân vật mới nghe thấy, suy cho cùng đây là lời nói của chính nhân
vật, do nhân vật độc thoại, nó hoàn toàn độc lập với các lời đối đáp. Cho nên
nó được xếp vào kiểu lời văn trực tiếp, bộc lộ nội tâm nhân vật.
19
Ngoài lời văn trực tiếp tác giả của truyện ngắn “Sợi tóc” còn sử dụng
loại lời văn gián tiếp phức tạp hơn. Lời văn gián tiếp được chia làm hai loại,
theo quan niệm của Bakhtin là: lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp hai
giọng. Trong đó lời gián tiếp một giọng chính là lời của người trần thuật
không có lời đan xen của nhân vật. Bởi vì truyện này có đặc điểm là "truyện
lồng trong truyện", tức là nó gồm hai chủ thể trần thuật, ở đoạn đầu và đoạn
cuối tác phẩm chủ thể trần thuật là người ẩn mình, thật khó để xác định đó có
phải là lời của tác giả hay không hoặc tác giả mượn lời của một nhân vật
khac, nhưng nhìn chung chủ thể trần thuật ẩn mình này luôn quan sát hành
động của nhân vật Thành rồi kể lại. Vì vậy, về thành phần lời văn ở những
đoạn này tác giả đã dùng lời gián tiếp một giọng theo điểm nhìn hướng
ngoại chủ yếu để miêu tả những sự việc khách quan tác động đến tâm trạng
và ý thức của nhân vật. Còn đối với lời gián tiếp hai giọng, được hiểu là lời
kể của chủ thể trần thuật xen lời nhân vật. Trong loại lời văn này lại có các
dạng chính là: lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp phong cách hóa, lời gián tiếp của
người kể chuyện. Xét thấy tác phẩm “Sợi Tóc” của Thạch Lam người kể
chuyện là anh Thành – nhân vật chính trong truyện. Thông thường lời của
nhân vật là lời trực tiếp nhưng khi tác giả trao cho nhân vật đó chức năng kể
chuyện thì nó trở thành lời gián tiếp. Như vậy ở đây ta thấy Thạch Lam đã
trao quyền trần thuật cho nhân vật Thành đứng ra xưng “tôi” và kể chuyện.
Tôi này chính là người trong cuộc hoặc là tham gia vào câu chuyện hoặc là
người chứng kiến nên việc kể chuyện đem đến một sức thuyết phục nhất định
đối với độc giả. Bằng lời gián tiếp hai giọng, nhân vật Thành với tư cách là
người trần thuật ngôi thứ nhất theo điểm nhìn hướng ngoại, thông qua con
mắt nhìn của Thành – chủ thể trần thuật xưng “tôi” đã làm hiện lên một cách
chân thực, rõ nét tính cách của nhân vật Bân cùng với dáng vẻ vui vẻ của anh
ta “Bân ăn vui vẻ lắm, có lẽ hắn vừa ý vì cái đồng hồ mua rẻ”, cũng nhờ đó
chủ thể trần thuật còn miêu tả được cả dáng vẻ của chính mình lúc đứng lúc
ngồi như một cái máy hay hành động “giả vờ cười không đáp, rồi xoay nằm
ngửa, nhìn lên trần nhà”, lòng đầy rối bời khi chuẩn bị thi hành theo cái kế
hoạch mà mình vừa nghĩ ra ngay trong đầu của Thành. Đồng thời kiểu lời văn
này còn có tác dụng miêu tả thế giới khách quan hay những sự việc bên ngoài
20
đã tác động đến suy nghĩ, tâm trạng nhân vật như là từ việc đi mua đồng hồ
đến lúc Thành nhìn thấy ví tiền của bạn và trong óc cứ vơ vẩn cái ý nghĩ
“sao một thằng ngốc như hắn – tôi thấy hắn càng ngốc – lại có lắm tiền thế,
còn mình…” cho đến khi Thành nảy sinh lòng tham.
Bên cạnh lời văn gián tiếp hai giọng miêu tả ngoại cảnh, khắc họa chân
dung nhân vật, ta còn bắt gặp lời văn gián tiếp hai giọng của chủ thể trần
thuật xưng “tôi” với điểm nhìn hướng nội. Nhờ đó truyện ngắn được trần
thuật như một lời tâm sự, bộc bạch nỗi lòng của chính người trong cuộc.
Thực ra đây là lời trực tiếp của nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm, nhưng
“tôi” cũng là chủ thể trần thuật trong tác phẩm nên lời trực tiếp này đã trở
thành lời văn gián tiếp. Do nó là lời bộc bạch của chính người trong cuộc nên
nó có một sự chân thực và sức thuyết phục riêng, và lời văn mang đậm dấu
ấn của chủ thể trần thuật, tiêu biểu nhất là ở những đoạn Thành sắp xếp việc
lấy tiền của Bân đâu vào đấy: “Lấy mấy tờ, độ hai….Tôi cứ việc điềm nhiên
với lấy áo, mở ví rút ra hai tờ, rồi khoác áo ở trên vai, ra ý sắp sửa về. Rồi
chọn lúc mọi người vô ý – mà dẫu có ý cũng không ai biết được – tôi đổi lấy
áo của tôi vắt ở đầu giường Bân… Thế là xong, và gọn. Mai dậy Bân biết
mất chắc chẳng bao giờ dám nghi ngờ cho tôi. Mà nghi ngờ thế nào được?
Tôi về từ đêm cơ mà! ….”. Ngoài ra nó còn được thể hiện qua nhiều đoạn
độc thoại nội tâm khác của nhân vật xưng “tôi”. Như vậy, với kiểu lời văn
trần thuật này, tác giả đã để chủ thể trần thuật tự bạch tất cả những nỗi lòng
sâu kín của mình. Không thông qua điểm nhìn của bất cứ người nào khác, mà
xuất phát từ điểm nhìn bên trong của chính chủ thể trần thuật, nhân vật có cơ
hội giãi bày tất cả những cảm xúc, bộc lộ những tâm tư, suy nghĩ, chiêm
nghiệm về cuộc sống, về thế giới xung quanh. Và ẩn đằng nhau thế giới nội
tâm chân thực đó, bóng dáng của cái tôi tác giả xuất hiện nhất là ở những
đoạn Thành tự vấn lòng mình khi “khi ngồi trên xe về qua những phố khuya
vắng vẻ” cho đến sáng hôm sau tỉnh dậy ở nhà, anh vẫn ngẩn ngơ nghĩ lại các
việc tối hôm trước, y như trong một giấc mộng, chứ không phải việc đã xảy
ra và anh đã ngạc nhiên tự hỏi lòng mình. Dường như cái tôi tác giả đã hóa
thân vào chủ thể trần thuật để phơi bày tất cả những vi mạch tâm trạng của
mình. Nhờ vậy tác giả đã dẫn dắt người đọc cùng mình, cùng nhân vật của
21
mình khám phá những miền khuất lấp của tâm hồn mà cần có một tâm hồn
mẫn cảm và nhân hậu nào đó mới có thể cảm nhận hết những lay chuyển tinh
tế của nó, để chiêm nghiệm những triết lý của cuộc sống, rằng bên trong mỗi
con người, bên cạnh cái thiên lương luôn tồn tại một khoảng tối mà ẩn náu
sau nó là sự hèn hạ, yếu đuối, xấu xa đáng loại bỏ để tìm ra những khoảng
sáng thanh cao. Bởi Thạch Lam cho rằng cuộc sống nếu thiếu cái đẹp sẽ trở
nên tầm thường biết bao. Ông từng từng nói: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ,
len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường. Công việc
của nhà văn là phải hiểu cái đẹp ở chính chỗ mà người ta không ngờ tới, tìm
cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật cho người khác một bài học trông nhìn
và thưởng thức.”
Phần III: Kết Luận
“Sợi tóc” là một trong số những tác phẩm được xếp vào hạng “những
đoản thiên tiểu thuyết đáng kể và hay nhất trong văn chương Việt Nam”. Ðây
là một đoản thiên tâm lý sâu sắc nhất của Thạch Lam và của nền văn chương
Việt Nam, xứng đáng được xếp ngang hàng với những truyện hay trên văn
đàn thế giới. Ngòi bút thần sầu củaThạch Lam đã phô diễn được đầy đủ về
bản chất con người, về cái biên giới mong manh như sợi tóc giữa thiện và ác,
giữa lương tâm và tội lỗi. Qua tác phẩm này chúng ta lại được biết thêm ở
Thạch Lam – một khách lữ hành, yêu cái đẹp, mải miết đi tìm cái đẹp giữa
cuộc đời thường, ông tin rằng cái đẹp lẩn khuất đâu đó bên trong những tâm
hồn bình dị, mộc mạc mà tinh tế. Với ông cái đẹp nó hiện hữu ở lòng thương
yêu đồng loại hay lòng thương yêu loài vật của những đứa trẻ hồn hậu, thậm
chí cái đẹp ở ngay trong sự sám hối của con người trước tội lỗi, trong cõi đời
này ai trong chúng ta cũng ít nhất một lần có lỗi. Nhận ra lỗi lầm để rồi sám
hối là rất khó, xin lỗi và sửa lỗi lại càng khó hơn nhiều. Nhưng Thạch Lam đã
làm được điều đó, trước hành động không đúng hay trước bất cứ một cám dỗ
nào, nhân vật có cảm giác mình khó có thể vượt qua cái ranh giới mong manh
của cái thiện để ngã mình sang cái ác, cái xấu xa tội lỗi. Nhưng Thạch Lam
đã để cho nhân vật tự đấu tranh để chọn ra một lối đi thích hợp. Và bao giờ
cái thiện, cái đẹp cũng chiến thắng. Con người lại trở về với những phẩm chất
22
tốt đẹp của mình, bởi chính ông cũng luôn quan niệm như thế. Vì vậy văn
chương của Thạch Lam “không phải là một cách đem đến cho người đọc sự
thoát ly hay sự quên…, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực
làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.”
Bằng cách đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của Thạch Lam ở phượng diện
“Nghệ thuật trần thuật” chúng ta đã có nhiều hiểu biết hơn về phong cách
sáng tác của ngòi bút tài hoa ấy đồng thời thấy được nhiều hơn những tầng ý
nghĩa trong truyện ngắn “Sợi tóc” nói riêng và truyện ngắn Thạch Lam nói
chung. Qua đó cũng có thể trả lời cho câu hỏi tại sao văn chương Thạch Lam
lại có sức ma lực như thế và tại sao lại được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến
đến thế.
--------------------------------------------------------Tư liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
/> /> /> />Giáo trình dẫn luận thi pháp học, nhà xuất bản giáo dục.
/>%A5utruy%E1%BB%87nng%E1%BA%AFngth%E1%BA%A1chlam
/>
23