B.SHAW HÀI KỊCH Ý NIỆM
1. Tác giả
*Những yếu tố ảnh hưởng đến phong cách sáng tác
- Hoàn cảnh gia đình: sinh ra trong một gia đình không trọn
vẹn hạnh phúc, Shaw thấu hiểu được nỗi bất hạnh
- Thời đại: ông chứng kiến một thời đại đầy sóng gió với những
cuộc đấu tranh quyết liệt ở Châu Âu và TG
Thúc đẩy Shaw đi tìm cho mình một con đường mới “tôi tạo
lập con đường của riêng tôi – ông viết – thay cho kiếp nô lệ”
- Vừa là nhà chính trị, đấu tranh cho quyền bình đẳng nam nữ và
công bằng xh vưà là một trong những nhà viết kịch xuất sắc nhất
của thời đại,
- Sự nghiệp: con đường sự nghiệp không được may mắn, đầy
khó khăn
*Sự tiếp nhận loại kịch mới:
- Kịch của ông trải qua số phận cực kì long đong, dần dần mới
được công chúng tiếp nhận, đó là quy luật phổ biến đối với
những cái mới
- Được coi là cha đẻ của hài kịch ý niệm. Hài kịch ý niệm là loại
kịch “trong đó các hệ tư tưởng triết lý nhân sinh giao tranh với
nhau một cách hóm hỉnh hoặc nghiêm trang’,
Hài kịch ý niệm của Shaw có yếu tố tranh luận: trí tuệ + hài hước
2. Đặc điểm của hài kịch ý niệm
2.1.
Ý nghĩa nhan đề : “ Ngôi nhà trái tim tan vở”
- Hầu hết những tác phẩm của Bernard Shaw điều có nhan
đề vô cùng khác biệt và lạ lùng hơn những nhà soạn kịch
trước và sau ông. “Ngôi nhà trái tim tan vở” cũng không
ngoại lệ. Ngay trong những lời nói đầu của vở kịch, ông
đã chỉ ra rằng:
“NGÔI NHÀ TRÁI TIM TAN VỞ”
Châu âu học thức và nhà nhàn du trước chiến tranh
• Các mối quan hệ của những con người trong ngôi nhà
đó vô cùng phức tạp
• Cuộc sống của họ là cuộc sống “trống rỗng về tinh
thần” hầu hết tất cả bọn họ điều cảm thấy bị tan vở từ
, nhưng vô phương cứu chữa và dường như họ không
muốn cứu chữa nữa hoặc tìm cách cứu chữa thì cũng
cứu chữa một cách sai lầm trong trái tim. Và “cũng
như thiên nhiên ghét sự trống rỗng, họ lập tức lấp
đầy và chổ đó bằng tình dục, bằng đủ mọi thú vui tao
nhã”. Do đó, họ sống buông thả mỗi người một cách
riêng của mình.
2.2. Lời đề tựa hài kịch Bernard Shaw
- Trong khi những nhà viết kịch lừng danh như sêxpia
không hề chú ý đến lời đề tựa, lời mở đầu của vở kịch,
thì đằng này ông lại dành rất nhiều những trang viết cho
những lời mở đầu vở kịch. Đây là một điểm giúp phân
biệt giữa hài kịch ý niệm của ông với những nhà soạn
kịch nổi tiếng lừng danh trước đây..
•
- Kịch của Shaw khi in thường kèm theo lời đề tựa rất dài:
Ngôi nhà trái tim tan vỡ trên 40 trang, Nữ thánh
Jeanne gần 70 trang hay Chiếc xe táo trên 30 trang...
-
-
Lời tựa như phương tiện để tác giả trò chuyện với người
đọc, có chức năng như những bình luận ngoại đề, giúp
người xem hiểu được cái hồn của tác phẩm, có cái nhìn
sâu sát hơn, cặn kẽ hơn về những vở kịch của ông.
Thực vậy, đối với lời tựa dài hơn 40 trang của “ngôi nhà
trái tim tan vỡ”, Shaw đã bộc lộ những trăn trở, suy tư
2.3.
của mình đối với đất nước Anh, cụ thể là đời sống của trí
thức và giới trẻ ở Anh sẽ đi về đâu trong cái xã hội Tư
Bản chủ nghĩa
Ngôi nhà trái tim tan vở - Sự giao tranh một cách hóm
hỉnh và trang nghiêm của hệ tư tưởng và triết lí nhân
sinh quan.
- Kết cấu của hài kịch ý niệm: lớp trên (chiếc mặt nạ hài
hước) – tình tiết cốt truyện, khung cảnh, hoạt động của
nhân vật tác động trực tiếp đến người xem – hòa quyện –
lớp dưới (biểu tượng trang nghiêm) – hành động trí tuệ
tác động gián tiếp đến khán giả một cách sâu sắc
Chiếc mặt nạ hài hước:
- Xuất hiện trước mắt ta dưới dạng nghịch lý. Bắt đầu từ
phong cảnh lúc mở màn:
Vd: Một ngôi nhà hình con tàu mũi nhọn, nhà có sân
vườn, nhưng trong sân lại nhô lên cái mái tròn của đài
quan sát và giữa đài quan sát với ngôi nhà là một cột
cờ... tất cả hiện ra như một chiếc tàu, chứ không phải
một ngôi nhà .
- Các nhân vật rất hài hước, tất cả bọn họ xuất hiện trong
ngôi nhà đó dường như đều lạc lõng, chẳng một ai vào
đúng vị trí của mình nếu không điên thì cũng là ngớ ngẫn
Vd:
• Cụ Sôtôvơ một chủ nhà kì vị, vốn là thuyền trưởng
nhưng lại miệt mài luyện độ tập trung thứ 7, cố tìm ra
tia tâm linh để làm nổ tung khối thuốc nổ chôn giấu
ngoài vườn
• Ông chủ Mengan,
ngoài 50 tuổi là một nhà kinh
doanh có đầu óc thực tế thế mà có lúc lại khóc hu hu
như đứa trẻ con khi đang tán tỉnh bà Husabai hoặc khi
bị cô thiếu nữ Elly bóp đầu thôi miên đã lăn ra ngủ
như chết ngay lối cửa ra vào tối mờ đến nổi vú Ghinex
đi qua không nhìn thấy vấp phải bụng
• Lão kẻ trộm khi lẻn vào nhà lại cố tình làm ồn lên cho
bị bắt khiến Megan phải phát cáu mà thốt lên “ngay
cả đến thằng ăn trộm cũng không thể nào xử sự một
cách tự nhiên ở cái nhà này”
- Mối quan hệ của các nhân vật lại càng hài hước. Cuộc
sống của những người ở trong ngôi nhà hình con tàu là
cuộc sống trống rỗng về tinh thần. Để lắp đầy sự khoảng
trống ấy họ lập tức thay vào đó bằng những thú vui tao
nhã, bằng tình dục. Họ yêu đương lăng nhăng .
Vd:
Hecto vừa tán tỉnh Ely lại vừa tán tỉnh em vợ là
ATuốt phu nhân
Mengan định cầu hôn Ely nhưng lại tỏ tình với bà
Husabai....
Ông chủ Megan muốn chinh phục Elly lại thành
thực nói toạc ra ông đã làm cho cha của cô phá sản
ra sao và giờ ông đã yêu bà Husabai
Hamông từng nhận xét những nhân vật trong hài kịch
của Bernard Shaw phơi bày tâm hồn một cách hoàn toàn
thành thực. Chính sự thành thực đó đã tô đậm tính nghịch
lý làm nét hài hước càng tăng thêm
Hình ảnh biểu tượng trang nghiêm :
- Ngôi nhà hình con tàu: đã là ngôi nhà bằng con tàu thì
tất nhiên “ không nền móng không cơ sở”, tròng trành
trước bão táp của cuộc đời. Nó là hình ảnh biểu tượng
cho:
• Một nước Anh già nua, ọp ẹp dưới con mắt của tác
giả.
Nếu hiểu theo hướng mở rộng, nó là toàn thể Châu
âu nếu căn cứ vào lời đề tựa của nhà văn “ Ngôi nhà
trái tim tan vở ở đâu? ... Đó là Châu âu học thức và
nhàn du trước chiến tranh”.
Các nhân vật chính thuộc ba thế hệ khác nhau.
• Cụ Sôtôvơ, chủ ngôi nhà, tuổi ngót 90. Các con gái,
con rễ của cụ tuổi trên dưới 50, là những trí thức
nhàn du không công ăn việc làm, không lí tưởng,
sống cuộc đời buồn tẻ trong mộng ảo, cũng thuộc thế
hệ này có ông khách Megan, thường lui tới gia đình
mà cụ gọi là “kẻ trộm” , một kẻ không nghề nghiệp
gì cả.
• Thuộc thế hệ thứ ba là cô Elly người đầu tiên lui tới
gia đình này. Cụ Sôtôvơ tỏ ra mất hết niềm tin ở thề
hệ con cái, nhưng lại tỏ ra quyến luyến Elly ngay từ
lần gặp đầu tiên, cụ đã từng thốt lên: “Tuổi trẻ! Sắc
đẹp! điều mới lạ! đó là những cái rất cần đến ở ngôi
nhà này”. Tuổi trẻ! Sắc đẹp! điều mới lạ ở đây đều
hội tụ trong nhân vật Elly
Sự quyến luyến của Cụ Sôtôvơ dành cho Elly đã cho
thấy niềm tin của Shaw vào thế hệ trẻ có đầy đủ yếu tố
cứu vớt nước Anh khỏi tình trạng trì trệ bị chi phối bởi
chủ nghĩa tư bản mà đại diện là nhân vật Megan.
Nhưng ác thay thế hệ thanh niên kia đang ngộ nhận
CNTB là ân nhân của mình và của đất nước. Như Elly
định lấy Megan để đền ơn trả nghĩa trước đây đã giúp đỡ
cha cô. Đến khi Elly hiểu rõ sự thật cô vẫn quyết định
lấy Megan bởi cô không thể sống thiếu tiền được.
• Kết thúc truyện là cái chết của Megan vì trúng bom.
Tác giả viết vở kịch này trong những năm đại chiến
thứ I việc để cho “hai tên kẻ trộm” chết đã cho thấy
•
-
2.4.
quan niệm của Shaw: CNTB và những kẻ xấu xa
nhất định sẽ bị tiêu diệt, bởi Shaw là người luôn
hướng ngòi bút đến CNXH.
• Cuối vở kịch là cảnh Elly ngã đầu vào cụ Sôtôvơ,
một mối tình mang tính chất biểu tượng: thế hệ già là
thế hệ có nhiều kinh nghiệm còn thế hệ trẻ, những
con người mộng mơ có đầy đủ những yếu tố: tuổi trẻ,
sắc đẹp điều mới lạ. Già trẻ phải kết hợp với nhau thì
nước Anh mới có hi vọng được khôi phục.
Thi pháp kịch
a. Bố cục
- Kịch truyền thống đòi hỏi kịch phải có cốt truyện xây
dựng trên một hành động. Các sự kiện kịch phải diễn
ra ở một nơi chốn với một thời gian và hành động nhất
định.
- Nhưng kịch của So, bố cục lỏng lẽo, hành động kịch
có vẻ rời rạc, xoay quanh những mâu thuẫn không rõ
rệt
- Kịch truyền thống thường có năm hồi: giao đãi, thắt
nút, phát triển, cao trào và mở nút. “Ngôi nhà trái tim
tan vỡ” chỉ có ba hồi. Dường như tác giả không quan
tâm đến việc chia hồi vì kịch của B. So không phải là
kịch của sân khấu, kịch của hành động. Kịch của So là
kịch ý niệm, cái ông quan tâm không phải là ở chỗ các
nhân vật cuối cùng chấp nhận quan điểm nào hay
người xem xem được những gì mà là người xem suy
nghĩ gì và có thái độ ra sao, cảm nhận được điều gì khi
sân khấu hạ màn. Kịch của ông không cung cấp giải
pháp mà buộc người xem phải tự mình rút ra kết luận,
khán giả ra về mang theo vấn đề mà vở kịch đặt ra
nhưng chưa giải quyết, khán giả phải nhận ra cái đích
vở kịch hướng tới không phải là để mua vui, để giải trí
mà là để thức tỉnh mặc dù khi xem kịch, khán giả cười
rất nhiều.
b. Thủ pháp gây cười:
- Lớp nổi, So đã xây dựng rất thành công. Thủ pháp gây
cười: sử dụng cái tinh tế của ngôn ngữ, các lời bóng
gió, các lối chơi chữ và các tình huống hết sức dí dỏm.
Bên cạnh đó tiếng cười còn được tạo ra bởi những cái
nghịch lí:
+ Một ngôi nhà hình con tàu
+ Các nhân vật lại càng ngược đời hơn
+ Mối quan hệ giữa các nhân vật lại càng hài hước
+ Cuộc sống trống rỗng, họ lập tức lấp đầy vào chỗ
đó bằng tình dục, bằng mọi thú vui tao nhã. Các
nhân vật yêu đương lăng nhăng.
- Các nhân vật của B.Shaw phơi bày tâm hồn họ một
cách hoàn toàn thành thực. Họ nghĩ sao nói vậy. Và sự
“thành thực” ấy có khi lại tô đậm tính chất nghịch lí
làm cho nét hài hước càng tăng thêm.
Nhìn chung, kịch của ông ít gây nên những trận cười ồn ào.
Thay vào đó là cái hài nhẹ nhàng nhưng không kém phần
thâm thúy toát lên từ những mẫu đối thoại duyên dáng, vui
nhộn, sắc sảo, bất ngờ đan chéo vào nhau như tràng pháo
hoa tung lên bầu trời. Cái hóm hỉnh vừa có chất hài, vừa có
chất châm biếm, phù hợp với loại hài kịch ý niệm.
c.
Nhân vật:
- Vở kịch chỉ có mười nhân vật, cả chính lẫn phụ.
B.So đã xây dựng những nhân vật không bình
thường và gắn kết họ với nhau bằng những mối
quan hệ rất bình thường.
Nhưng cái đặc biệt chính là những cuộc trò chuyện
đầy tình phí lí. Toàn bộ tác phẩm là những câu
chuyện đứt gãy, lan man đến mức khó tin của các
thành viên trong ngôi nhà này. Các cuộc đối thoại
giả lả, gần như không căng thẳng, xung đột nhưng
đằng sau là những bộ mặt giả dối trong tất cả các
mối quan hệ
- Các nhân vật có mối quan hệ tình ái chồng chéo lên
nhau tạo nên tiếng cười nhưng lại ẩn chứa cái bi.
Khiến cho người đọc không biết đâu là thật đâu là
giả. Đã có chồng là Hector, Hushabye còn muốn
phiêu lưu tình ái cùng Mangan. Ellie sắp kết hôn
cùng Mangan, dù đã thầm yêu Hector nhưng cuối
vở kịch cô ta lại tuyên bố là vợ da trắng của thuyền
trưởng cách đây hai giờ.
- Tóm lại, trong tác phẩm này các nhân vật được xây
dựng trên nền tảng của sự nghịch lí nhưng rất có lí.
Điều đó là tạo nên sự khác biệt của hài kịch ý niệm
và các loại hài kịch ra đời trước đó.
Hành động trí tuệ (quan trọng nhất)
- Nó kéo theo kết cấu bề mặt và bề sâu của kịch
B.Shaw
- Tác động trực tiếp đến trí não người xem. Buộc
người xem tự quyết định nó đúng hay sai
- Là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đặc điểm của hài
kịch ý niệm
- Là biểu hiện của sự giao tranh
Xung đột kịch sự giao tranh (tranh luận rất trí
tuệ)
- Sự giao tranh giữa các triết lý nhân sinh, sự giả dối
giữa người với người, đồng tiền lên ngôi chi phối
-
d.
e.
hành động kịch, hành động mang tính trí tuệ
cuộc trò chuyện: tư tưởng, quan niệm cuộc sống của
các nhân vật khác nhau:
• Elly giận dữ với Husabai định giật tóc thì nhận
ra người đàn bà xinh đẹp này đội tóc giả, cô ta
chua chát “cái gì cũng giả hết” hết thảy những
gì thuộc về con người đều là giả, những mối quan
hệ giả tạo, hai mặt
• Sự lo lắng của Elly - một cô gái trẻ không biết
phải làm sao với cuộc sống không có tiền, còn
Sôtôvơ nhìn đồng tiền như vật vô nghĩa không
có giá trị, Mangan lại oi tiền là lẽ sống, là mục
đích.
Những nhân vật này, những thề hệ này cách biệt
nhau bởi tuổi tác, vốn sống và sự trải nghiệm, mỗi
người nhìn một cách khác nhau với góc độ khám
phá khác nhau. Qua đó bộc lộ tư tưởng của tác giả,
cũng là lời cảnh báo đối với nền văn minh TBCN
trong giai đoạn khủng hoản hấp hối
Hành động kịch
+ Bề mặt: Xung đột kịch chi phối – giao tranh – tranh luận đầy
trí tuệ - tró chuyện
+ Bề sâu: ý nghĩa biểu tượng, nghịch lý
So với thi pháp kịch cổ điển kịch của Shaw có gì mới:
Cổ điển
Shaw
Xung đột
XĐ kịch cần phản Hài kịch ý niệm
ánh được những Giao tranh
mâu thuẫn cơ bản Xoay quanh những
của XH – thời đại: mâu thuẫn không rõ
Thiện – ác, tốt - xấu, rệt
cao cả - thấp hèn,
tiến bộ - lạc hậu. Cái
tốt đẹp bao giờ cũng
chiến thắng
Hành động trí tuệ Tác động tình cảm
Tác động trí não,
người xem
người xem tự quyết
định
BERTOLT BRECHT KỊCH TỰ SỰ GIÁN CÁCH
1.
2.
Tác giả
- Từ bỏ cuộc sống trưởng giả làm bạn với những người vô
sản
- Chứng kiến những cuộc khủng hoản kinh tế, những mâu
thuẫn gay gắt giữa các nước tư bản già nua với các nước tư
bản trẻ dẫn đến chiến tranh đế quốc hòng phân chia lại thị
trường TG. Ông bắt đầu viết những vở kịch chống lại xã
hội đương thời, đê thể hiện thái độ nổi loạn của cá nhân
trước thực tại tư sản.
- Ông sáng tác từ rất sớm, kịch của ông luôn hướng tới
những ý tưởng cao đẹp, mang tầm ý nghĩa thời đại và mang
màu sắc hiện đại rõ rệt. Qua các vở kịch ông đã khai sinh
và định hình một loại kịch mới với phương pháp thể hiện
độc đáo: kịch tự sự gián cách
Đặc điểm kịch của Brecht
- Nếu kịch của Aristore trói buộc khán giả, lôi cuốn họ vào
thế giới tưởng tượng và mất khả năng nhận xét phê phán.
Thì với Brecht kịch của Aristore chỉ có thể làm tâm hồn
khán giả thanh khiết nhưng trí tuệ không được nâng cao.
Brecht cho rằng nghệ thuật sân khấu không nên áp đặt tình
cảm của khán giả mà phải làm cho họ biết suy nghĩ, khêu
-
3.
-
4.
gợi thắc mắc của khán giả, làm họ đứng từ xa mà nhìn,
khao khát tìm hiểu trước khi phản đối hay tán thành, Brecht
đã gọi phương pháp thể hiện này là phương pháp gián cách
Một khán giả khi đang xem kịch của Aristore đã bắn chết
diễn viên, lúc này mới nhận ra mình đang xem kịch chứ
không phải đời thực người khán giả liền tự sát. Sau đó hai
người được chôn cạnh nhau và người ta gọi hai người ấy là
“người diễn viên tài ba” và “người khán giả xuất sắc”.
Nhưng khi Brecht đến mộ viếng đã nói rằng: “đây là người
diễn viên tồi nhất và người khán giả ngu xuẩn nhất”
quan niệm của ông về kịch gián cách.
Tóm tắt “Vòng phấn Kaukaz”
Màn mở đầu là cuộc tranh luận giữa một số thành viên của
hai nông trường. Nông trường Galinsk dự định sử dụng
cánh đồng cỏ ngày xưa để chăn nuôi ngựa. Nông trường
Roda đề nghị khai khẩn nông trường cỏ để trồng nho. Hai
bên tranh luận xem phần đất đó nên thuộc về ai. Nông
trường Galinsk đồng ý nhường phần đât đó cho nông
trường bạn thực hiện phương án mới trồng cây ăn quả. Sau
đó nông trường Roda đã mời các đại diện của hai nông
trường xem vở kịch “Cái vòng phấn” dựa vào câu chuyện
cổ Trung Hoa. “Cái vòng phấn” kể về câu chuyện giành
quyền nuôi con (thằng bé Michael) của hai bà mẹ Grusha
và vợ của thống đốc
Đặc điểm kịch tự sự và thủ pháp gián cách
4.1.
Thế nào là kịch tự sự?
- Tự sự là kê chuyện, dùng ngôn ngữ để trình bày một
chuỗi sự kiện, từ sự việc này đến sự việc kia cuối cùng
dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa
4.2.
Đặc điểm kịch tự sự
- Có cốt truyện rõ ràng, có hai cốt truyện chính:
-
-
-
+ Xung đột giữa hai nông trường
+ Xung đột của hai bà mẹ
• Vở mở đầu, viết về cuộc sống hiên tại, sau chiến
tranh ha nông trường bàn luận với nhau nên khai
thác một thung lũng để chăn nuôi hay trồng cây
• Vở tiếp theo, nói về chuyện xưa, người mẹ nuôi và
người mẹ đẻ tranh chấp một đứa con
Hai cốt truyện lồng ghép vào nhau, bổ sung cho chau
làm nổi bật chủ đề, quan niệm mới về quyền sở hữu: sự
vật phải thuộc về người có khả năng làm cho nó tốt hơn.
Tác giả đã đề cao một quan niệm pháp lí mới dựa trên lẽ
phải vì lợi ích chung, vì hiện tại và tương lai: “Một vật
phải thuộc về người làm cho nó tốt hơn, hãy trao trẻ nhỏ
cho tấm lòng yêu nó để nó được lớn lên bình yên…Cánh
đồng khô hạn phải thuộc về người biết tưới nước để quả
ngon sẽ từ lòng đất mọc lên”
Ở vở thứ nhất, sự thắng lợi dựa trên sự sáng suốt của
ủy ban kinh tế (bản chất chính quyền nhân dân. Vở thứ
hai, thắng lợi dựa trên lòng yêu thương chân thành của
con người, nhờ sự sáng suốt của quan tòa nhân dân
Brecht đã tiên đoán được quyền và khả năng làm chủ của
nhân dân lao động trong tương lai
Có nhân vật kể chuyện xuất hiện trên sân khấu– điều chưa
từng có trong kịch truyền thống: dẫn dắt khán giả đi từ sự
việc này đến sự việc kia, nối kết các tình tiết vở kịch lại với
nhau
KG –TG rõ ràng, mỗi hồi có tên có chương rõ ràng
4.3.
Đặc điểm kịch gián cách:
Cốt truyện: làm mới cốt truyên bằng những chi tiết kì lạ
Vd: trong câu chuyện của người Trung Hoa người mẹ thực
sự là người giành được con. Nhưng ở đây người mẹ nuôi
-
-
-
-
-
-
-
lại giành được con bởi người mẹ nuôi mới thực sự là người
nuôi dưỡng và yêu thương đứa bé hết lòng làm mới câu
chuyện cũ đem lại nội dung mới
Kết cấu không theo mô hình 5 phần: giao đãi – thắt nút –
phát triển – cao trao – mở nút. Các hồi không liên kết với
nhau theo quan hệ nhân quả mà cái này đặt cạnh cái kia
theo nguyên tắc “cái nọ nảy sinh sau cái kia”
Kịch không bị hạn chế bởi KG – TG. Kịch không diễn ra
như một câu chuyện đang xảy ra mà là câu chuyện được kể
lại
Hai thành phần xen kẽ nhau trong một vở kịch:
+ Một là: câu chuyện được kể cụ thể qua hình ảnh sân
khấu, làm nổi bật sự xung đột giữa cá nhân và xã hội, từ đó
bộc lộ chủ đề của tác phẩm.
+ Hai là: phần gián cách nội dung, ở đây tác giả gợi lên ý
nghĩa bao quát để người đọc suy nghĩ về phương pháp và
lựa chọn quyết định
Gián cách bằng bài hát do ca sĩ và ban hợp ca trình diễn
xen vảo giữa các màn kịch
Diễn viên không được nhập thân vào nhân vật mà phải xem
mình là người kể lại những hành vi của người khác rồi
minh họa lại cho khán giả hiểu
Diễn viên tự do bình luận về hành động của mình
Cuối vở kịch không đi thẳng đến giải quyết vấn đề, kêu gọi
khán giả tìm giải pháp cho vấn đề đã đặt ra. hành động
kịch, khơi gợi óc phán đoán suy tư của khán giả
Nhân vật bị lạ hóa, đừng lấy hình thức đánh giá con người
Vd: AZắc – người tham nhũng, chuyên ăn tiền đút lót một
cách thẳng thắn, lộ liễu người ta vì đồng tình có thể bẻ
cong ngòi bút, bẻ cong cán cân công lý, nhưng không anh
5.
ta lại rât nghiêm minh, phân xử theo lẽ phải (đây cũng là
yếu tố hài hước)
- Diễn xuất tương tác với khán giả cho thấy mình đang
diễn
Mới – cũ
Cũ
Brecht
Có nhân vật kể chuyện xuất
hiện trên sân khấu
Được dàn dựng theo kiểu “hiện Sử dụng thủ pháp gián cách
thực tâm lý” tạo cảm giác như
thật, diễn viên phải thực sự
nhập vai
Làm mới cốt truyện cũ, dân
gian thành cốt truyện mới tư
tưởng
Đánh vào tình cảm người xem, Không đánh vào trực cảm mà
đi thẳng vào giải quyết vấn đề buộc người xem phải tự tìm ra
câu trả lời cho mình
Kết cấu không phát triển theo
mô hình 5 phần
Brecht
B.Shaw
*Giống:
+ Hành động trí tuệ. Không dẫn dắt người xem mà để họ tự
suy nghĩ tìm ra câu trả lời
*Xung đột:
*Xung đột:
Hai cốt truyện, xung đột này Giao tranh
giải quyết xung đột trước
(mâu thuẫn)
ERNEST HEMINGWAY
Tác giả:
Ernest Miller Hemingway là một tiểu thuyết gia người Mỹ,
một nhà văn viết truyện ngắn, và là một nhà báo. Ông là đại
biểu quan trọng cho nền văn học Mỹ thế kỷ XX. Ảnh hưởng
của văn phong Hermingway tới Văn học Mỹ thực sự rất lớn
và vẫn còn cho đến ngày nay.
2. Tóm tắt tiểu thuyết “Ông già và biển cả”
Lão chài Xanchiagô sống cô độc trong một túp lều trên bờ biển
ngoại ô thành phố LaHabana. 84 ngày đêm ra khơi gặp vận xúi
quẩy, đi đi về về chẳng câu được một con cá nào. Lần này ông
lại ra khơi, đưa thuyền đến tận vùng Giếng Lớn nơi có nhiều cá
nhất. Buông câu từ sáng sớm mãi đến non trưa phao câu mới
động đậy. Cá mắc câu kéo chiếc thuyền chạy. Lão gò lưng, gập
mình kéo lại. Từ trưa tới chiều, rồi một ngày một đêm nữa trôi
qua. Bàn tay bị dây câu cứa rách nát ứa máu. Không một mẩu
bánh bỏ vào bụng. Chân tê dại, tay trái bị chuột rút, mệt lả
nhưng lão không chịu buông tha: “Mình sẽ cho nó biết sức con
người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu! “Sáng
ngày thứ 3 cá đuối dần, lão chài dùng lao đâm chết cá, buộc cá
vào đuôi thuyền, hân hoan trở về bến. Con cá nặng độ 6, 7 tấn
dài hơn thuyền khoảng 7 tấc. Trong màn đêm, đàn cá mập đuổi
theo chiếc thuyền, lăn xả vào đớp và rỉa con cá kiếm. Lão chài
dùng mái chèo quật tới tấp vào đàn cá dữ trong đêm tối. Lão
chài về tới bến, con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương. Lão nằm vật
ra lều ngủ thiếp đi, “mơ thấy đàn sư tử”. Sáng hôm sau, bé
Manôlin chạy sang lều rồi đi gọi bạn chài đến săn sóc ông.
3. Nguyên lý “tảng băng trôi” trong “ÔNG GIÀ VÀ BIỂN
CẢ”:
1.
- Phần nổi của: Đó là những gì nhìn thấy được qua lượng ngôn
từ ngắn gọn và đơn giản
- Phần chìm của: Các tầng ý nghĩa
Ông lão dù có câu được con cá kiếm, chiến thắng nó cũng
chẳng mang được nó vào bờ triết lí của tác giả về cuộc đời
của con người là một cuộc hành trình mệt nhọc và chẳng bao
giờ tới đích.
Khi ông lão mang bộ xương vào bờ, người thấy được giá trị
của nó là cậu bé cái mà người hướng dẫn viên du lịch không
hiểu được Cái có giá trị với người này lại trở nên vô giá
với người khác.
Con cá kiếm là thành quả lao động nhưng lại bị bọn cá mập
cướp đi bọn cá mập đồng nghĩa vs bọn tư sản bóc lột
người lao động
So sánh công việc câu cá với nghề viết văn ta cũng thấy được
sự tương đồng giữa chúng: Câu cá cần sức lực, viết văn cần
công lao. Mục đích hướng đến 1 bên là câu được cá, kiếm
được tiền còn bên kia là phấn đấu hoàn thành tác phẩm tuyệt
vời. Lão đánh cá kì vọng vào 1 con cá lớn, còn nhà văn chờ
đợi 1 tác phẩm hay, có giá trị. Đôi khi kết quả mang về lại là
một bộ xương khô hay 1 tác phẩm không như ý muốn. Bộ
xương cá cũng có người hiểu được (cậu bé Mandoli ) cũng có
người không (người hướng dẫn du lịch) và công việc viết văn
cũng vậy: số người hiểu được đón nhận tác phẩm đôi khi
không nhiều bằng số người không hiểu, thờ ơ.
- Những yếu tố hỗ trợ cho nguyên lí “tảng băng trôi”
+ Đối thoại - Độc thoại: Đối thoại rời rạc nhưng chất chứa
nhiều suy tư, có nhiều đoạn đối thoại nhưng thực chất là độc
thoại
Vd:
Giữa biển khơi lão Santiago tự nói to: “Ở dưới ấy thế nào
hả cá? Ta thì khá lắm rồi, bàn tay trái gần khỏi rồi…Cứ
kéo thuyền nữa đi chú mày”
“Lão ơi! Chính lão cũng không nne6nso75 hãi….Lão ơi!
Phải điềm tĩnh! Lúc này lão không thể đuối sức được
đâu”
Lão già hỏi con chim: “mày bao nhiêu tuổi hỡ chim.
Phải chăng đây là chuyến vượt biển đâu tiên của mày”
Lão nói với bàn tay: “Tay với chân gì mà lại thế này!
Mày có muốn tê bại thì cứ việc…”
Trạng thái cô đơn
Người kể chuyện tỏ ra lạnh lùng, khách quan, để nhân vật
tự lên tiếng, tự bộc lộ, không lồng vào đó dòng suy nghĩ
nào, mà để người đọc đánh giá, nhận xét
+ Cốt truyện: vắng bóng cốt truyện, những hoạt động bên
ngoài nhân vật đơn giàn về hoạt động câu cá, với điểm nhìn
di động vào bên trongcho nên dường như toàn bộ hành động
diễn ra ở bên trong nhân vật sự giản lược về cốt truyện
Cốt truyên bị phá vỡ, không có nhân vật trung tâm, nhiều hệ
tư tưởng, nhiều chủ đề đan xen vào nhau, tính chất đa tấng
của ý nghĩa biểu tượng đã phá vỡ tính trung tâm của tác
phẩm
+ Thế giới biểu tượng
Hình tượng con cá kiếm
* Ở góc nhìn thiên nhiên: vẻ đẹp và sức mạnh của tự
nhiên.
* Ở góc nhìn cuộc sống con người: ước mơ và khát
vọng to lớn trong cuộc đời mỗi con người. Sau khi ông
lão đã giết được con cá, da nó chuyển từ màu tía ánh bạc
sang màu trắng bạc và những cái sọc nhạt dần như đuôi
nó. Vẻ đẹp sống động không còn nữa mà thay vào đó là
sắc màu nhợt nhạt của một sinh vật đã bị tước đoạt sự
sống. Đó là khoảng cách xa vời giữa ước mơ và hiện
thực. Khi ước mơ đã trong tầm tay hoặc đã trở thành
hiện thực thì nó không còn giữ được vẻ đẹp đẽ, huy
hoàng như trước nữa.
* Ở góc nhìn nghệ thuật: ước mơ sáng tạo không
ngừng nghỉ. Sự xuất hiện lần đầu của con cá kiếm ám
chỉ cơ hội cho nhà văn khám phá cuộc sống. Hành trình
theo đuổi con cá của ông lão Xan-ti-a-gô cũng là hành
trình lao động nghệ thuật của nhà văn. Con cá kiếm vừa
xuất hiện cũng giống như tác phẩm mới hình thành ở ý
đồ sáng tác, nhà văn chỉ mới cảm nhận được ý nghĩa
tiềm ẩn của nó. Đến khi tác phẩm đã hoàn thành thì nó
phô ra vẻ đẹp để mọi người có thể nhìn thấy, cũng giống
như con cá kiếm lúc phóng vút lên khỏi mặt nước.
Hình tượng ông lão Xantiago:
• Cách miêu tả nhân vật ông lão Santiago gợi liên tưởng
đến chúa Giesu: Bàn tay giang ra hình chữ thập, thâm
bầm nứt nẻ
• Tên nhân vật:
• Biểu tượng cho người lao động lành nghề, có tâm hồn
trong sáng, cao đẹp, có khát vọng lớn lao
• Hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc, dũng cảm săn đuổi
con cá lớn nhất đời là một biểu tượng về hành trình
gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện
thực.
• Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối
thủ . Tôn trọng tự nhiên cũng như tôn trọng kẻ thù
Bài học cho con người nếu muốn giành chiến thắng
Một biểu tượng về cuộc đấu tranh của con người hiện
đại trên thế giới này: suốt cuộc đời cực nhọc vẫn theo
đuổi một giấc mơ kì vĩ
• Biểu tượng cho người nghệ sĩ trong việc theo đuổi cái
đẹp trong nghệ thuật và cuộc sống.
+ Các biểu tượng khác trong tác phẩm
• Đàn cá mập: tượng trưng cho những khó khăn, thử
thách ngăn trở con đường vươn đến lí tưởng của con
người. Bọn tư sản chỉ biết cướp bóc không thành quả
lao động của người lao động nghèo.
• Chú bé Manolin – người bạn thân thiết gần gũi nhất của
ông già: gắn với quá khứ đẹp đẽ của ông lão, gợi nhớ
về thời trai trẻ của ông lão mạnh mẽ, sôi nối =>là sự
tiếp nối của ông lãochú bé là biểu tượng cho tương
lai
Tại sao đứa bé nhìn thấy xương con cá kiếm lại khóc
- Mọi người cười nhạo ông vì mọi người chưa bao giờ hiểu
ông, bọn họ sống hời hợt chỉ nhìn nhận trên phương diện
kinh tế
- Cậu bé khóc vì xót thương và nhìn nhận , thấu hiểu thành
quả của ông. Trong con mắt của cậu ông lão đã chiến thắng
và bộ xương là chiến tích. Cậu khóc không phải vì ông bị
thương mà vì ông đã thực sự chiến thắng, thực sự chinh
phục được con cá kiếm, chinh phục được số phận
Mảng nhân vật khắc kỉ.
- Cực kì khắc nghiệt với bản thân, số phận có khó khăn bao
nhiêu cũng phải cố gắng vượt qua, không được từ bỏ,
không được thỏa hiệp với hoàn cảnh. Đã lựa chon thì phải
chấp nhận đến tận cùng, luôn luôn cố gắng, luôn luôn nổ
lực.
•
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Sự ám ảnh cái chết của Huemingway
- Cốt truyện bị phá vỡ, không có nhân vật trung tâm, nhiều
tư tưởng, nhiều hệ chủ đề đan xen vào nhau. Tính chất đa
tầng của ý nghĩa biểu tượng, tảng băng trôi phá vỡ tình
trung tâm của tác phẩm
“Chúng ta đã đi quá xa…”
- Nhắn nhủ, ông lão đã không lượng sức mình, khuyên chúng
ta ai cũng có ước mơ, nhưng phải xác định nó có phù hợp
với mình hay không, để mình không rơi vào bi kịch
Không chặt con cá ra mà bảo vệ thành quả của mình
- Muôn chứng minh và bảo vệ danh dự đang bị tổn thương
của người ngư phủ
- Như Hemingue đã tự sát vì không còn sáng tạo được nữa,
ông bảo vệ danh dự của mình để không bị nói là “người
nghệ sĩ không còn sáng tạo” khát khao sáng taco5 của
tác giả
Sư tử
- Biểu tượng không bao giờ từ bỏ của ước mơ, không bao
giờ gục ngã
FRANZ KAFKA
1.
2.
Tác giả
Là nhà văn Tiệp Khắc, gốc Do Thái nhưng lại viết bằng tiếng
Đức. Kafka được xem là một trong những nhà văn lớn nhất
của thế kỷ XX, một bậc thầy văn học hiện đại phương Tây,
một hiện tượng văn hoá và tư tưởng rất phức tạp và có tác
động rộng lớn đối với tiến trình văn học ở phương Tây và trên
thế giới
Đặc Điểm Sáng Tác Của Kafka
2.1.
a.
-
-
-
b.
-
c.
-
d.
Kafka chịu tác động từ tư tưởng phi lý, triết học hiện
sinh, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa biểu hiện.
Ảnh hưởng tư tưởng phi lý
Xuất phát từ thái độ không chấp nhận xã hội tư sản và nền
văn minh tư sản, tố cáo những khủng hoảng, bế tắc về mặt
tinh thần.
Trong tác phẩm của Kafka nhân vật thường bị tẩy trắng,
không còn đường viền lịch sử, không còn cá tính, tâm tư,
tình cảm.
Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng nhân vật mang đậm
cảm thức bất an, nhỏ bé của con người hiện đại. Kafka còn
xây dựng nên một thế giới đầy rẫy sự phi lí, phi lí đến cao
độ trong tác phẩm của mình.
Ảnh hưởng của triết học hiện sinh
Hai khái niệm mà chủ nghĩa hiện sinh đặc biệt đề cao là
nhân vị và tự do, bảo toàn cuộc sống tinh thần viên mãn
cho con người. Đến Kafka, triết học hiện sinh một lần nữa
được đẩy đến những nỗi lo thường xuyên vô cùng bi quan
của kiếp người hữu hạn.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực
Nói một cách chính xác, Kafka hầu như không chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa này. Tuy nhiên tác phẩm của ông lại
có những nét chấm phá siêu thực không thể phủ nhận. Tác
phẩm của Kafka đầy rẫy những yếu tố kì ảo, thậm chí quái
dị nhưng vẫn thuyết phục được người đọc. Thế giới mà
kafka xây dựng nên trong tác phẩm của ông là một thế giới
siêu nghiệm. Vì vậy có thể nói có thể Kafka đã gặp chủ
nghĩa siêu thực ở một số khía cạnh về thi pháp, chứ không
thể kết luận ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa này.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa biểu hiện
Gần gũi với chủ nghĩa biểu hiện:
• Những dấu hiệu của sự phủ nhận và bất lực của nhà văn
khi đối diện với sự tha hóa của con người
• Yếu tố kì ảo và sự lắp ghép cái thường ngày và logic của
giấc mơ chỉ là biện pháp
• Ở cách tạo dựng thời gian huyền thoại và những nhân vật
phản truyền thống sâu sắc. Kafka không mô tả thế giới,
không xây dựng nhân vật để miêu tả, vẽ lại hiện thực; mà
thông qua đó, làm rõ cách nhìn nhận cuộc sống và thể
hiện cảm xúc chủ quan độc đáo của người nghệ sĩ.
• Chủ nghĩa biểu hiện đặt niềm tin vào tương lai của thế
giới, nhưng các tác phẩm của Kafka không tìm thấy bóng
dáng nào của niềm tin hay hi vọng. Như vậy không thể kết
luận các sáng tác của Kafka hoàn toàn thuộc về và chịu
ảnh hưởng mạnh nhất của chủ nghĩa biểu hiện
2.2. Tính chất mở trong sáng tác của Kafka
- Tác phẩm của ông buộc người đọc phải suy nghĩ rất
nhiều, tư duy tối đa và tưởng tuợng phong phú thì mới
“may ra” hiểu được phần nào câu chuyện mà ông kể. Do
đó người đọc có thể tự do sáng tạo hay nói đúng hơn là
đồng sáng tạo
- Tính chất mở của Kafka không chỉ ở sự dang dở của tác
phẩm mà còn ở cách kết thúc và mở luôn cả trong nội
dung của truyện.
- Hé ra những cách hiểu, tiếp nhận khác nhau, khó khai thác
đến tận cùng ý nghĩa của tác phẩm
2.3. Yếu tố kì ảo, huyền thoại
a. Tính chất huyền thoại
- Thần thoại cổ xưa là cách giải thích về các hiện tượng tự
nhiên khiến con người khiếp sợ. Còn Kafka, ông đưa
những yếu tố của huyền thoại vào trong tác phẩm là để
-
3.
giải thích về những nỗi sợ hãi của con người hiện đại. Đó
là nỗi lo sợ về chính bản thân mình, sợ bản thân mình bị
biến dạng một cách vô thức, sợ cái xã hội họ đang sống.
Nguyên nhân của nỗi sợ hãi đó là vì sự suy thoái nhân
tính, sự băng hoại đạo đức đang ngày càng lan nhanh
trong cuộc sống. Tính ích kỷ, vụ lợi, háo danh khiến con
người dẫm đạp lên nhau. Giành dật nhau chỉ vì những
toan tính vụn vặt trong cuộc sống.
- Kafka được đánh giá là một "thiên tài nghịch dị": trong
các nhân vật của ông. Nhân vật thường không tên không
tuổi: ông tôi, chàng trai, ông bán than
- Sự biến dạng hình ảnh con người, mô tả con người dưới
dạng những loài vật: con khỉ, con kền kền, con gián hay
thậm chí là dưới những dạng những đồ vật vô tri vô giác:
Cây cầu, cái vụ
- Dù hiện diện ở dạng thức nào, các nhân vật của Kafka
cũng luôn hàm chứa những điều phi lí, khó tin. “Một sáng
nọ tỉnh giấc băn khoăn... Samsa thấy mình trở thành một
con bọ khổng lồ”. Sự phi lí của các nhân vật cùng với lối
kể chuyện cũng đầy phi lí của tác giả đã khiến câu chuyện
đậm nét huyền thoại.
b. Không gian và thời gian kỳ ảo
- Đó là những không gian xa vời, mênh mông, vô tận, là
thời gian hư ảo, vô định, kiểu không gian làm cho người
ta tê lạnh, nhỏ bé và run sợ; kiểu thời gian làm cho người
ta phải choáng ngợp.Không gian và thời gian của ông đã
được đánh giá là những mê lộ bí hiểm vô tận.
Tác phẩm Vụ án
Tóm tắt tác phẩm
Josef K. là người đại diện trong một ngân hàng tại một thành
phố. Vào buổi sáng, K. vừa thức dậy thì xuất hiện hai người
lạ, họ cho biết K. bị bắt và họ là người của tòa án đến giám
sát anh. K tưởng họ nói đùa hoặc có nhầm lẫn gì chăng. Anh
đưa giấy tờ tùy thân để chứng minh mình vô tội nhưng vô ích.
Vì cả bọn chúng đều không biết K mắc tội gì, chúng chỉ biết
một việc duy nhất là giám sát K. mà thôi. K. bị tuyên bắt bởi
tòa án mà anh không thể biết nó nằm ở đâu, anh đã mắc tội gì,
nhưng anh vẫn được đi làm. Chủ nhật hàng tuần anh phải đến
hầu tòa.
Sáng chủ nhật đầu tiên, K. đến dự phiên tòa ở một chung cư
tồi tệ ngoài thành phố. Phòng xử án nằm ở tầng áp mái của
khu chung cư, K. phải khó khăn lắm mới tìm thấy. Anh nhận
được câu trả lời là trát gọi ghi nhầm tên người. Trong phiên
tòa đầy kì quái, nhố nhăng và ngột ngạt đó K. chủ động bào
chữa cho mình bằng cách nói rõ mình vô tội rồi bỏ ra về. Chủ
nhật sau, K. tìm đến tòa để xem tình hình vụ án đi đến đâu.
Tòa không họp nhưng anh khám phá ra vô số điều ghê tởm
của cơ quan tòa án. Không khí trong đó ngày càng ngột ngạt
làm K. không thể đi nổi, hai nhân viên của tòa dìu anh ra cửa.
Trong khi anh khoan khoái hít thở bầu không khí trong lành
thì hai nhân viên kia suýt ngất, vội vã đi vào vì họ đã quen
sống trong môi trường tù túng. Anh biết rõ mình không mắc
tội gì, tòa án cũng không có giấy bắt và buộc anh phạm tội gì,
anh nghĩ mình sẽ nhanh chóng kết thúc vụ án, anh dấu không
cho ai biết và làm mọi cách để kết thúc vụ án. Nhưng đa số
những người anh gặp điều biết anh mắc vào một vụ án mà
theo họ là nghiêm trọng. Ai cũng liên quan đến tòa án tư pháp
và họ đều nhận giúp đỡ anh. Trong quá trình tìm hiểu anh biết
được có rất nhiều người phạm tội tiêu biểu như thương gia
Bloc, ông đã tìm đến 6 “luật sư vườn” để giúp mình nhưng vụ
án của ông đã 5 năm không tiến triển gì. Josef K. trong quá
trình tìm sự giúp đỡ đã biết một sự thực phi lý về tòa án là tòa
đã bắt thì không có tha bổng bao giờ mà chỉ có tạm tha hoặc
tạm hoãn, không có trường hợp vô tội vì nhất định tòa án với
vô vàn những thứ tinh vi sẽ tìm cho ra bằng được những tội
mà trước giờ chưa bao giờ có.
Hết hy vọng ngày được tự do nhưng Josef K. vẫn làm mọi
cách để cứu vãn tình thế. Anh từ chối luật sư Huld bào chữa
cho anh vì anh nhận ra luận sư không làm cho mình gì cả mà
chỉ muốn kéo dài vụ án. Anh tự viết đơn trình lên tòa án mặc
dù biết không giải quyết được gì, và lúc này anh đã bị ám ảnh
thật sự. Lúc nào anh cũng tưởng người ta đang nói về vụ án
của mình.
Vào buổi tối trước của ngày sinh nhật thứ 31 của mình, K. ở
trong tư thế đã chuẩn bị sẵn, đến chín giờ có hai tên lạ mặt tới
dẫn K. đi xử án. K. vui vẻ lên đường, có nhiều lúc cả ba trông
rất thân thiện. Đến một công trường đá bỏ hoang, bọn chúng
lột đồ của K. và loay hoay mãi vẫn không đặt K. nằm được
theo đúng tư thế chúng muốn. Trong khi K. sẵn sàng chấp
nhận cái chết thì chúng cứ đứa nọ nhường đứa kia mà chuyền
tay nhau con dao trên đầu K., làm cho anh có cảm nghĩ là
muốn cầm lấy con dao mà tự chết. K. quan sát xung quanh
đến khi trong đầu bắt đầu có tinh thần phản kháng thì một tên
nắm cổ họng anh, tên kia thọc sâu lưỡi dao vào tim anh và
ngoáy hai lần. Trước khi chết K. nói lời cuối nhằm nhắn nhủ
nỗi nhục nhã ở đời rằng “như một con chó”.
4. Tác Phẩm Vụ Án Dưới Góc Nhìn Đặc Trưng Thể Loại
Kết cấu
- Mở đầu tác phẩm bằng một mắc xích, môt trục trặc rồi từ đó
dẫn đến các chương sau. Từ khởi điểm ấy, từ buổi sáng mở
đầu câu chuyện thì tình thế của K gần như không phát triển
thêm, nói đúng hơn thì nhân vật bị cuốn hút vào những tình