Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tâm sinh lý tuổi trung niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.25 KB, 40 trang )

TÂM SINH LÝ TUỔI TRUNG NIÊN
Phần A: Sinh lí
Không còn là tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống, không còn thời trẻ trâu
ngây ngô khờ dại, cũng chẳng còn những buổi lêu lỏng cùng đám bạn chí cốt hay
những lúc giận dỗi nửa kia chạy về méc mẹ… thay vào đó là một con người chín
chắn hơn, trưởng thành hơn cả về sinh lý lẫn tâm lý, một người với gia đình yên
ổn, con cháu đầy đàn, sự nghiệp thăng tiến. Ở tuổi 40 đến 60 không phải gọi là quá
già để mà yên bề tận hưởng khoảng thời gian cuối đời nhưng cũng không phải là
quá trẻ suốt ngày lao đầu vào công việc, xô bồ với cuộc sống mà quên đi giá trị của
bản thân, quên đi chính mình cũng đang đối mặt với rất nhiều nguy cơ cả về thể
chất và tinh thần làm ảnh hưởng tới cuộc sống hằng ngày. Do đó, chính họ cần phải
biết mình sắp phải đối mặt với những chuyện gì, phải làm những gì để giải quyết
và cân bằng lại cuộc sống.
I.LÃO HÓA
Trước tiên là những thay đổi về mặt cơ thể, nhất là phải đối mặt với quá
trình lão hóa. Lão hóa là một tiến trình tự nhiên và xảy ra liên tục. Hiện tượng này
tăng dần theo thời gian, không ngăn chặn được nhưng có thể làm chậm lại. Cơ thể
chúng ta đạt đỉnh cao về thể chất và chức năng các cơ quan ở tuổi 35, sau đó suy
giảm dần. Những thay đổi về cấu tạo của cơ thể sẽ dẫn đến sự thay đổi hình dạng
bên ngoài.
1./ Não: bắt đầu suy thoái lúc 20 tuổi. Khi chúng ta trưởng thành, các tế bào
não bị giảm dần. Và não cũng teo nhỏ lại. Khởi đầu con người có 100 tỉ tế bào
não, nhưng đến tuổi 20 con số nầy giảm dần, và đến tuổi 40 con người mất mỗi


ngày 10.000 tế bào ảnh hưởng rất nhiều đến trí nhớ và có tác dụng rất lớn đến
tâm sinh lý người già.
2./ Ruột: bắt đầu suy giảm từ tuổi 55. Ruột tốt có sự cân bằng giữa các vi khuẩn
có ích và có hại. Vi khuẩn có ích sẽ giảm đi đáng kể sau tuổi 55, đặc biệt ở phần
ruột già. Sau 55 tuổi bộ tiêu hóa bắt đầu xấu đi và sẽ gây hại cho các bệnh
đường ruột. Táo bón là một bệnh thông thường của tuổi già, cũng như dịch vị từ


bao tử, gan, tuyến tuỵ, ruột non bị suy giảm .
3./ Bọng đái (Bàng quang ):bắt đầu suy thoái từ tuổi 65. Người già thường mất
kiểm soát bọng đái. Nó bắt đầu co lại đột ngột, ngay cả khi không đầy. Khả
năng chứa nước tiểu của bàng quang bây giờ chỉ bằng một nửa so với lúc 40
tuổi. Phụ nữ dễ gặp trục trặc này hơn khi chấm dứt kinh nguyệt. Khả năng chứa
nước tiểu của bọng đái một người già chỉ bằng nửa so với người trẻ tuổi,
khoảng 2 cốc ở tuổi 30 và 1 cốc ở tuổi 70. Ðiều này khiến người già phải đi tiểu
nhiều hơn, và dễ nhiễm trùng đường tiểu.
4./ Ngực: bắt đầu thoái hóa từ năm 35 tuổi. Khi người đàn bà đến 30 tuổi thì
ngực mất dần các mô và mỡ, sự đầy đặn và kích cở của bộ ngực bị suy giảm.
Và đến khi 40 tuổi, nhũ hoa của chị em sẽ bị teo lại và ngực cũng bắt đầu chảy
sệ.
5./ Phổi: lão hóa từ tuổi 20. Sụn sườn vôi hóa, lồng ngực biến dạng, khớp cứng
ảnh hưởng tới thở, nhu mô phổi giảm đàn hồi, giãm phế nang. Dung tích của
phổi bắt đầu giảm dần từ tuổi 20. Ðến tuổi 40 có nhiều người đã bắt đầu khó
thở vì các cơ bắp và xương sườn buồng phổi bắt đầu xơ cứng .
6./ Giọng nói: bắt đầu yếu và khàn kể từ tuổi 65. Phụ nữ có giọng khàn và nhỏ
trong khi đàn ông giọng cao và nhẹ.


7./ Mắt: lão hóa từ năm 40 và phần lớn phải mang kiếng, không còn nhìn rõ
một vật ở xa. Khả năng tập trung của mắt kém hơn do cơ mắt yếu hơn.
8./ Tim: lão hóa từ tuổi 40. Khối lượng cơ tim giảm. Tuần hoàn nuôi cơ tim
cũng giảm, suy tim tiềm tàng, huyết áp tăng dần. Sức bơm của tim giảm dần vì
các mạch máu giảm sự đàn hồi. Các động mạch cứng dần và bị mỡ đóng vào
các thành mạch. Máu cung cấp cho tim cũng bị giảm bớt. Ðàn ông 45 tuổi và
đàn bà 55 dễ bị đau tim.
9./ Gan: lão hóa từ năm 70. Chức năng chuyển hóa và giải độc giảm. Tuy nhiên
gan là một bộ phận gần như không chịu khuất phục tuổi tác. Người ta có thể
ghép gan của một ông già 70 tuổi cho một người 20 tuổi.

10./ Thận: lão hóa năm 50. Số đơn vị lọc chất thải khỏi máu bắt đầu giảm
xuống ở tuổi trung niên.
11./ Tuyến tiền liệt: lão hóa vào năm 50. Hệ thống sinh dục nam gồm có: tinh
hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành
niệu đạo, túi tinh và dương vật. Tuyến tiền liệt thường lớn dần theo tuổi tác. Khi
tuyến tiền liệt tăng kích thước sẽ ép vào niệu đạo và bàng quang, gây khó khăn
cho tiểu tiện. Nó gây nên triệu chứng tiểu ngập ngừng, tiểu nhiều lần, tăng nguy
cơ nhiễm trùng tiết niệu và tiểu khó.
12./ Xương: lão hóa vào tuổi 35. Cho đến giữa những năm 20 tuổi, mật độ
xương vẫn còn tăng. Trẻ em xương lớn rất nhanh, cứ mỗi 2 năm lại thay đổi
toàn bộ xương củ nhưng đến tuổi 35 thì xương đã lão, hiện tượng mất xương
bắt đầu như một quá trình già cả tự nhiên.


13./ Răng: suy từ tuổi 40. Răng bị hao mòn. Dễ bị bệnh nha chu. Niêm mạc bị
teo dần.
14./ Bắp thịt: lão hóa từ năm 30. Thông thường bắp thịt khi bị lão hoá thì được
tái tạo ngay, nhưng đến tuổi 30 thì tái tạo ít hơn là lão hóa. Ðến tuổi 40, mỗi
năm bắp thịt bị sút giảm từ 0.5 đến 2 % . Vì thế người già khó giữ thăng bằng,
trở thành chậm chạp, dễ bị ngã và gẫy xương.
15./ Nghe [thính giác]: giảm đi kể từ giữa năm 50. Rất nhiều người bị lãng tai
kể từ năm 60.


16./ Da: suy giảm kể từ năm 20. Chúng ta đã giảm dần việc sản xuất chất keo
dính của da từ giữa tuổi 20. Việc thay thế các tế bào chết cũng chậm dần.

17./ Vị giác và khứu giác: giảm từ năm 60. Thông thường chúng ta có thể nếm
được 100.000 vị trên lưỡi. Các vị này chúng ta chỉ nếm được phân nửa khi già
và đến tuổi 60 thì không còn ngửi và nếm một cách chính xác được nữa.



18./ Sinh sản: Khả năng sinh nở của phụ nữ bắt đầu giảm sau tuổi 35, vì số
lượng và chất lượng trứng trong tử cung giảm xuống.
19./ Tóc: lão hóa từ tuổi 30. Thông thường cứ 3 năm thì tóc cũ sẽ được thay thế
toàn bộ tóc mới. Và đến năm 35 tuổi thì tóc không còn đen nhánh nữa mà ngã
màu đen xám và rụng dần đi.

20./Phổi: Dung tích của phổi bắt đầu giảm từ tuổi 20. Vì từ tuổi này, sụn sườn
sẽ bị vôi hóa, lồng ngực bắt đầu biến dạng, nhu mô phổi giảm đàn hồi, giãm
phế nang, khớp cứng dần ảnh hưởng tới việc thở. Ðến tuổi 40, nhiều người bắt
đầu cảm thấy khó thở vì các cơ bắp và xương sườn buồng phổi bắt đầu xơ cứng.
Một số biện pháp làm giảm tốc độ lão hóa:
Về tư tưởng luôn luôn lạc quan yêu đời, có triết lý sống đúng; phải chú ý cả
3 vấn đề: lẽ sống, lối sống và hành động sao cho khoa học văn minh, phải có hiểu
biết để nhìn nhận vấn đề sao cho đúng đắn qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình
để làm chủ được mình và giáo dục cho gia đình, con cháu giảm các nỗi bực dọc và
tự chăm lo cho mình.
Thường xuyên luyện tập đều đặn về trí tuệ và thể lực như đọc sách báo, nghe
đài, xem TV… đồng thời tập thể dục thể thao, đi bộ, tập thở, tĩnh tâm thư giãn,
v.v… phù hợp với hoàn cảnh và sức khỏe từng người.


Sinh hoạt điều độ, không làm gì quá sức bình thường, giữ gìn trạng thái cân
bằng giữa ngủ và nghỉ, giữa ăn và làm, giữa trí óc và chân tay, giữa trong nhà và
ngoài trời, giữa lười và chăm, v.v… cũng rất quan trọng.
Ăn uống đúng và đủ theo khả năng của mình, ăn nhiều rau quả tươi, giảm
chất bột, giảm bánh kẹo, bảo đảm cân bằng thức ăn âm và dương, giữ người không
béo và cũng không gầy. không nên ăn quá no, người già rất cần đạm ở đậu tương,
vừng lạc, tôm cua, ốc hến…

Cần có môi trường sống tự nhiên tốt, phần lớn các cụ sống 100 tuổi trở lên
đều ở vùng núi, ở nông thôn còn ở thành phố thì rất ít và gốc cũng không phải
thành thị.

Kiên trì áp dụng 10 bài học về sức khỏe của Nhật Bản, đất nước được mệnh
danh là “vương quốc của tuổi thọ” vì có tuổi thọ cao nhất thế giới hiện nay.
10 bài học đó là:
- Bớt ăn thịt, ăn nhiều rau


- Bớt ăn mặn, ăn nhiều chất chua
- Bớt ăn đường, ăn nhiều hoa quả
- Bớt ăn chất bột, ăn nhiều sữa
- Bớt mặc nhiều quần áo, tắm nhiều lần
- Bớt đi xe, năng đi bộ
- Bớt phiền muộn, ngủ nhiều hơn
- Bớt nóng giận, cười nhiều hơn
- Bớt nói, làm nhiều hơn
- Bớt ham muốn, chia sẻ nhiều hơn
Hiện tượng lão hóa ở mỗi người một khác nhau. Ngay trong một cơ thể, sự
thay đổi ở cơ quan này không giúp tiên đoán được sự lão hóa của cơ quan khác; ví
dụ một người có thể bị đục thủy tinh thể nhưng tim vẫn hoạt động hoàn hảo. Hơn
nữa, người này có thể già chậm so với người ít tuổi hơn; một người 50 tuổi sống
lành mạnh, có thể có thể chất của một người 40 tuổi, trong khi một người khác
cùng tuổi nhưng hút thuốc, uống nhiều rượu bia và có lối sống tĩnh lại có thể có
chức năng các cơ quan của người già hơn vài chục tuổi.
II.RỐI LOẠN CƠ QUAN
Theo đó, những hoạt động của các cơ quan bị giảm thiểu chức năng thậm chí
là bị rối loạn:
1. Tế bào: Hoạt động của tế bào giảm dần theo thời gian. Điều này tác

động đến các hệ thống, cơ quan bộ phận của cơ thể đưa đến sự suy giảm về thể
chất. Mức độ của sự thay đổi này do nhiều yếu tố tác động bao gồm lối sống
như hút thuốc lá, uống nhiều rượu, dinh dưỡng kém, hocmon, thể lực và di


truyền… Tuy nhiên chỉ khoảng 10-15 % trường hợp nhịp độ lão hóa chịu tác
động do di truyền.

2. Hệ tim mạch: Mạch máu trở nên xơ cứng nên dễ bị bệnh tăng huyết áp;
cơ tim, van tim cũng xơ cứng hơn do đó công suất tống máu của tim giảm đi,
hậu quả là người già mau mệt khi vận động thể lực. Các cơ quan điều chỉnh
huyết áp khi thay đổi tư thế trở nên kém nhạy cảm nên dễ bị hạ huyết áp và
chóng mặt khi thay đổi tư thế. Vì vậy buổi sáng khi thức dậy nếu thấy váng đầu
thì nên thay đổi tư thế từ từ và ngồi nghỉ vài phút trước khi đứng dậy.

3. Hệ hô hấp: Phổi mất tính đàn hồi, các cơ hô hấp không còn mạnh và sức
chịu đựng cũng giảm, điều này có ảnh hưởng đến khả năng của phổi trong việc
trao đổi khí oxy, ho khạc và hít thở sâu. Số lượng nhung mao ở phế quản giảm
nên chức năng làm sạch phổi kém. Người già dễ mệt khi vận động thể lực và dễ
bị nhiễm trùng hô hấp. Họ cũng không thể kiểm soát và điều chỉnh nhịp thở có
hiệu quả, kém nhạy bén với tình trạng thiếu oxy và mất khả năng nhận biết sự
co thắt của cuống phổi nên dễ có nguy cơ tử vong khi mắc bệnh cấp tính ở phổi
nếu không điều trị sớm.

4. Hệ tiêu hóa: Cơ thể người già sản xuất ít men lactase là enzyme cần cho
việc tiêu hóa sữa nên không dung nạp được những thức ăn làm từ sữa vì vậy
thường có cảm giác chướng bụng, đầy hơi hoặc tiêu chảy khi ăn loại thực phẩm
này. Nước bọt và các men tiêu hóa không được tiết ra đầy đủ như trước nên khó



tiêu hóa, sự hấp thụ chất dinh dưỡng kém. Thức ăn đi qua khỏi dạ dày chậm và
dạ dày cũng không thể chứa nhiều thức ăn vì không co dãn tốt như trước; đại
tràng thải phân chậm và dễ bị bón.
Gan nhỏ lại vì số lượng tế bào giảm đi, lượng máu đến gan cũng giảm; các
enzyme của gan có vai trò giúp cơ thể chế biến và xử lý thuốc và các chất khác
họat động kém hiệu quả hơn. Gan không còn làm tốt vai trò thải thuốc và các
chất khác ra khỏi cơ thể, do đó thuốc sẽ kéo dài tác dụng hơn.

5. Hệ tiết niệu sinh dục: Hai thận cũng nhỏ lại do số lượng tế bào giảm.
Lượng máu đến thận giảm, sau tuổi 30 chức năng lọc máu và tái hấp thụ ở thận
giảm và khả năng thải chất cặn bã trong máu cũng giảm. Một số thay đổi của
đường tiểu làm cho sự kiểm soát việc tiểu tiện khó khăn hơn:
- Khả năng chứa lượng nước tiểu tối đa của bàng quang giảm.
- Cơ bàng quang yếu nên không thể tống hết nước tiểu ra ngoài, do đó sau
khi đi tiểu vẫn còn sót ít nước tiểu.
- Các cơ vòng của đường tiểu có chức năng kiểm soát việc tống nước tiểu ra
ngoài không thể co thắt chặt làm rỉ giọt nước tiểu, do đó người già khó nín tiểu.
Đàn ông có xu hướng bị phì đại tiền liệt tuyến, khi lớn đến một mức nào đó
có thể gây chèn ép làm tiểu khó.
Ở phụ nữ, sự ảnh hưởng của tuổi già lên nồng độ các hocmon sinh dục rõ rệt
hơn đàn ông. Đến tuổi mãn kinh nồng độ kích thích tố giảm, kinh kỳ ngưng
vĩnh viễn và không còn thụ thai được. Buồng trứng và tử cung teo lại, âm đạo
trở nên mỏng, khô và kém đàn hồi, dẫn đến viêm teo âm đạo. Tuyến vú bớt săn
chắc và có nhiều xơ nên xệ xuống, do đó việc phát hiện khối u ở vú khó hơn.


Ở đàn ông sự thay đổi nồng độ hocmon không xảy ra đột ngột, testosterone
trong máu giảm kéo theo số lượng tinh trùng giảm và hứng thú tình dục cũng
giảm, nhưng giảm từ từ. Rối loạn cương là vấn đề thường gặp của người cao
tuổi.


6. Hệ nội tiết và chuyển hóa: Nồng độ và hoạt động của một số kích thích
tố do các tuyến nội tiết sản xuất bị giảm:
- Kích thích tố tăng trưởng giảm dẫn đến giảm khối lượng cơ.
- Insulin hoạt động kém hiệu quả và được tiết ra ít đi nên người già dễ bị đái
tháo đường typ 2.
- Mức độ chuyển hóa của cơ thể giảm mỗi năm 1% kể từ sau tuổi trưởng
thành. Kết quả là nhu cầu năng lượng giảm, vì vậy mặc dù lượng thức ăn không
thay đổi nhưng người cao tuổi vẫn bị tăng cân. Sự hấp thụ và chuyển hóa thuốc
cũng giảm nên dễ bị nhiễm độc và ngộ độc thuốc.

7. Hệ thần kinh: Các tế bào thần kinh có thể mất đi một số thụ thể đảm
nhận việc tiếp nhận tín hiệu, lưu lượng máu lên não giảm vì vậy não người già
có thể hoạt động kém hơn. Họ phản ứng và thực hiện một công việc có phần
nào chậm, nhưng làm chính xác. Một số chức năng về trí tuệ có giảm đi sau tuổi
70 như nhớ các từ, chuyện mới xảy ra, hoặc khả năng học điều mới. Ở người
cao tuổi, các tín hiệu từ dây thần kinh truyền đến cơ lâu hơn nên cơ phản ứng
chậm đi. Họ cũng nhận ra cảm giác đau chậm và phản ứng cũng chậm hơn.


- Các giác quan: Các giác quan mất đi tính nhạy bén. Xúc giác giảm, khả
năng nghe các âm thanh tần số cao cũng giảm. Sau tuổi 50, khứu giác và vị giác
giảm dần. Hai giác quan này rất cần để thưởng thức hương vị thức ăn. Các gai
vị giác về vị ngọt và mặn giảm về số lượng và độ nhạy. Khả năng ngửi giảm
nhẹ vì lớp niêm mạc mũi mỏng hơn và khô đi. Cũng vì sự thay đổi này mà
người già thấy thức ăn có vẻ đắng hơn và mùi nhạt nhẽo vô vị. Nước bọt tiết ra
ít làm miệng khô. Nướu răng teo lại, hậu quả là phần chân răng dễ bám thức ăn
và vi khuẩn, lớp men răng mòn đi nên dễ bị sâu răng và rụng răng.
Thủy tinh thể trở nên chai cứng, giảm khả năng điều tiết nên không thể nhìn
gần, vì vậy người già cần mang kiếng để đọc sách. Đồng tử đục và nhỏ lại nên

khó thích nghi với ánh sáng mờ, người từ 60 tuổi cần độ sáng gấp 3 lần so với
người trẻ mới nhìn rõ. Khả năng nhận biết màu sắc kém hơn do thủy tinh thể
hơi ngã sang màu vàng, nên khi nhìn màu xanh trở thành xám vì vậy sẽ khó
khăn khi đọc chữ đen trên nền xanh. Mắt người già khô vì ít tiết dịch .
Nói chuyện với người già nên nói lớn và chậm. Tăng ánh sáng để nhìn rõ
hơn. Không thêm muối mà nên thêm màu sắc và gia vị để thức ăn thêm phần
hấp dẫn. Vì khó phân biệt màu sắc người già thấy đồ vật trở nên ảm đạm, hãy
đổi qua những màu sáng hơn như màu cam, đỏ cho những vật dụng trong nhà,
áo quần…
- Giấc ngủ: Người già khó ngủ và phải mất thời gian lâu mới đi vào giấc
ngủ. Họ ngủ không sâu, không ngon giấc, không đầy giấc và thường thức giấc
nhiều lần. Sở dĩ có những rối loạn này là do nhiều yếu tố tác động:
+ Giảm tiết melatonin là kích thích tố kiểm soát chu kỳ ngủ làm cho
người cao tuổi thường buồn ngủ sớm và thức giấc lúc sáng sớm. Giảm tiết kích
thích tố tăng trưởng là kích thích tố làm cho ngủ sâu.


+ Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh có thể gây ảnh hưởng đến giấc
ngủ như viêm xương khớp làm đau nhức, bệnh tim gây khó thở, loạn nhịp. Một
số loại thuốc trị bệnh có thể làm mất ngủ như thuốc hạ huyết áp, thuốc chống
trầm cảm, steroids, thuốc sỗ mũi, thuốc làm giãn phế quản.
thói quen như hút thuốc, uống rượu, cafe, ít vận động… cũng làm khó ngủ.

8. Hệ cơ, xương khớp: Có sự giảm dần sức căng cơ, tính mềm dẽo và sức
mạnh của cơ. Một số nơi trên cơ thể cơ được thay thế bằng mô mỡ và trở nên
mềm nhão. Sau tuổi 30 khối lượng cơ bắt đầu giảm, đến năm 70 chỉ còn bằng
một nửa so với lúc còn trẻ. Hậu quả là người già giảm sức mạnh và độ bền khi
làm một công việc nặng nhọc. Ở người già, khi không họat động, khối lượng và
sức mạnh của cơ giảm đi nhanh chóng so với người trẻ. Mỗi ngày nằm liệt
giường phải mất 2 tuần tập luyện mới lấy lại được khối lượng cơ đã mất.

Theo thời gian hệ xương từ từ giảm calci, mật độ xương cũng giảm dần.
Xương người già trở nên xốp và dễ gãy. Ở phụ nữ hiện tượng này nổi bật hơn:
sự giảm mật độ xương diễn ra nhanh hơn sau tuổi mãn kinh do sự tiết estrogen
giảm. Luợng calci giảm do cơ thể ít hấp thụ được calci từ thức ăn. Mật độ
xương đốt sống giảm, đĩa đệm giữa các đốt sống cũng ít dịch hơn và mỏng hơn
làm cho cột sống ngắn lại, nên khi già người ta thấp hơn và dáng khòm.
Lớp sụn nằm giữa các khớp mỏng đi, các mặt khớp không còn cử động lên
nhau tốt như trước nên dễ bị tổn thương. Sự tổn hại của khớp do vận động qua
thời gian dài và chấn thương tái diễn nhiều lần dẫn đến viêm xương khớp, đây
là bệnh thường gặp nhất ở người già. Các dây chằng dùng nối các khớp với
nhau hay các dây gân để nối cơ vào xương trở nên kém mềm dẽo và linh hoạt.
Các dây chằng dễ bị rách và khi rách thì chậm lành.


Để thích ứng với sự giảm sức mạnh và độ bền, người cao tuổi không nên cố
gắng tự mình làm việc nặng và phải chấp nhận mất nhiều thời gian hơn để hoàn
tất.

9. Da, tóc: Tóc bạc là biểu hiện rõ ràng nhất của quá trình lão hóa. Hầu hết
ai cũng có tóc bạc từ sau tuổi 40, hiện tượng này có chịu ảnh hưởng của yếu tố
gia đình, chủng tộc. Đi kèm với bạc tóc là hói đầu, hiện tượng này cũng có xu
hướng di truyền. Ngòai ra tóc cũng trở nên mảnh hơn khi tuổi cao.
Ở người già các lớp da mất khả năng giữ nước và khô hơn, cơ thể sản xuất ít
sợi collagen có tác dụng làm da săn chắc và elastin làm da mềm dẽo nên da trở
nên nhăn và dễ bị trầy xước, bầm tím. Lớp mỡ dưới da mỏng đi, lớp này như
gối đệm có tác dụng bảo vệ và nâng đỡ da. Lớp mỡ này còn giúp bảo tồn thân
nhiệt, khi lớp này mỏng đi sẽ xuất hiện nhiều nếp nhăn và khả năng thích nghi
với lạnh cũng giảm. Số lượng mút tận cùng thần kinh ở da giảm nên người già
kém nhạy cảm với cảm giác đau, nhiệt độ, sự đè ép do đó dễ bị thương tích. Số
lượng tuyến mồ hôi, mạch máu giảm, lượng máu đến lớp sâu dưới da giảm đưa

đến hậu quả cơ thể giảm khả năng thải nhiệt cơ thể qua đường mạch máu dẫn
đến bề mặt của cơ thể. Nhiệt thoát ra ngoài ít hơn nên cơ thể không tự làm mát
được, do đó dễ bị say nóng. Số lượng tế bào sắc tố giảm, hậu quả là da ít được
bảo vệ chống lại bức xạ cực tím từ ánh sáng mặt trời. Nhiều đốm nâu xuất hiện
ở phần da phơi ra ánh sáng do da giảm đi khả năng loại bỏ chất cặn bã. Người ít
phơi nắng thường trông trẻ hơn so với tuổi.
Ở người cao tuổi da giảm khả năng hình thành vitamin D , vì vậy dễ có nguy
cơ bị thiếu loại sinh tố này.


10. Hệ tạo máu: Tủy xương là nơi sản xuất tế bào máu giảm hoạt động khi
lão hóa, có nghĩa là số lượng tế bào máu của người già được sản xuất ít đi. Tuy
nhiên tủy xương vẫn cung ứng đủ nhu cầu của cơ thể suốt đời. Chỉ khi yêu cầu
của cơ thể về tế bào máu gia tăng ví dụ thiếu máu, nhiễm trùng hay xuất
huyết… lúc bấy giờ tủy xương không thể đáp ứng đầy đủ được.

11. Hệ miễn dịch: Số lượng tế bào miễn dịch lympho T không giảm, nhưng
hoạt động của chúng kém hiệu quả. Do đó người già thường gặp những vấn đề
sau:
- Mất khả năng chống lại nhiễm khuẩn nên có nhiều nguy cơ mắc bệnh.
Viêm phổi, cúm, nấm… là những bệnh thường mắc phải.
- Việc tiêm ngừa kém hiệu quả và thời gian tác dụng không kéo dài như
mong muốn.
- Mất khả năng nhận biết và điều chỉnh những biến đổi của tế bào nên dễ bị
ung thư.
- Khi lão hóa, cơ thể không còn khả năng phân biệt tế bào lạ với tế bào của
cơ thể nên quay sang tấn công những mô và cơ quan của chính cơ thể mình gây
ra bệnh tự miễn nhiễm.
- Giảm phản ứng viêm, triệu chứng dị ứng và chậm lành vết thương. Phản
ứng viêm, dị ứng đều là những đáp ứng của hệ miễn dịch nên cũng giảm đi khi

lão hóa. Hiện tượng chậm lành vết thương ngoài nguyên nhân do suy giảm hệ
miễn dịch còn do những bệnh khác thường gặp ở người già như đái tháo đường,


xơ cứng động mạch làm máu lưu thông kém, dùng các loại thuốc kháng viêm ví
dụ để điều trị viêm khớp…
III. BỆNH TẬT
Kéo theo rất nhiều bệnh tật xuất hiện đe dọa cuộc sống:
1. Cao huyết áp
Một ngày nào đó, nếu đột nhiên bạn cảm thấy nhức đầu dai dẳng trong nhiều
giờ, chạy bộ xa nhanh mệt thì đó là lúc bạn cần lưu ý đến chỉ số huyết áp của
mình. Qua hàng chục năm làm việc, mạch máu của bạn bắt đầu cứng lại. Nếu
máu lưu thông khó khăn hơn, áp lực tăng thì rất có thể bạn bắt đầu bị cao huyết
áp. Về đo huyết áp, bạn cần đo lúc nghỉ (ít ra là 5 phút), ngày 3 lượt: sáng, trưa,
chiều, mỗi lượt đo 3 lần. Nếu chỉ số huyết áp trung bình của bạn trên 140/90
nghĩa là bạn bị cao huyết áp.
Đây là bệnh nguy hiểm với mọi lứa tuổi, nhất là khi bạn đã quá tuổi 50-60.
Nó gây ra các biến chứng đột ngột, đe dọa tử vong như nhũn não, xuất huyết
não. Do vậy, khi huyết áp bắt đầu cao, bạn nên đi khám, cân lại trọng lượng
xem mình có béo phì không.
Muốn tránh huyết áp cao, bạn nên ăn bớt mặn, bớt chất béo và năng tập thể
dục hằng ngày. Thử đi xe đạp mỗi ngày độ vài km, bỏ hẳn xe máy, có thể huyết
áp sẽ trở lại bình thường mà không cần đến viên thuốc nào cả. Các môn đi bộ,
chạy bộ không giảm được huyết áp nhiều, còn môn cầu lông, tennis chỉ càng
làm huyết áp tăng thêm.
2. Bệnh gút
Nếu bạn có thể trạng hơi béo, thích uống bia, cần nghĩ đến bệnh gút khi thấy
đau khớp (nhất là các khớp hạ chi) hoặc khi khớp gốc ngón chân cái sưng, đỏ,
đau lúc về sáng. Bạn nên thử máu và có thể sẽ thấy lượng axit uric máu trên 7
mg%.



3. Xơ gan
Nhiều bạn có quan niệm sai lầm rằng chỉ rượu mới có hại, còn bia rất bổ và
tốt cho sức khoẻ. Thực ra, 3 ly bia cũng có tác hại bằng 1 ly rượu. Nếu uống
quá nhiều rượu bia, gan bạn sẽ bị hóa mỡ. Ở giai đoạn đầu, bệnh còn dễ chữa
nếu bạn kiêng hẳn bia rượu. Nếu vẫn tiếp tục uống, bạn sẽ bị xơ gan, vô phương
cứu chữa.
4. Tiểu đường
Vào tuổi này, bệnh tiểu đường hay xuất hiện ở người béo phì. Nhiều bạn cứ
tưởng rằng ăn nhiều đường, chất ngọt thì sẽ mắc bệnh. Thực ra, cơ thể chúng ta
có một cơ chế điều hòa thật hữu hiệu. Nếu bạn ăn đường nhiều, phần dư sẽ
được dự trữ ở gan dưới dạng glycogen, khiến lượng đường trong máu lúc nào
cũng là 1 g/l. Khi bạn ăn ít đi, cơ thể sẽ lấy glycogen dự trữ ở gan ra dùng lại
dưới dạng glucose.
Bệnh tiểu đường xuất hiện khi cơ chế trên bị rối loạn. Bạn phải uống thuốc
hạ đường huyết hằng ngày suốt đời nếu không muốn bị các biến chứng tai hại
về thần kinh, mắt, thận... rất khó chữa.
5. Các bệnh do thuốc lá
Bạn nghiện thuốc lá? Nên bỏ sớm nếu muốn sống lâu. Thuốc lá là nguyên
nhân gây ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, khí thũng phổi, tâm phế mãn, tắc các
mạch máu đầu chi...
Trong bệnh nhồi máu cơ tim, một phần mạch vành chở máu nuôi cơ tim bị
bít tắc, gây hoại tử cơ tim. Khi tim co bóp, phần cơ hoại tử sẽ bị lủng, gây vỡ
tim. Máu lan tràn rất nhanh vào lồng ngực làm bệnh nhân tử vong đột ngột.
6. Các bệnh do làm việc nặng
Đừng bao giờ làm quá sức mình. Nếu không, đến một ngày nào đó, sau khi
khiêng nặng, bạn sẽ bị cụp xương sống và đứng lên không được. Chứng đau



thần kinh tọa hoặc thoát vị đĩa đệm gây chèn ép thần kinh tọa cũng có thể xảy
ra sau khi quá gắng sức. Cơn đau này đặc biệt khởi đầu từ một bên hông, lan
qua mông xuống một bên chân, bàn chân.
7. Mất ngủ
Càng nhiều tuổi, bạn càng thấy giấc ngủ mình ngắn dần, hay thức dậy sớm
(3-4 giờ sáng). Điều đó báo hiệu bạn đã bị chứng mất ngủ ở người cao
tuổi. Nên tắm nước ấm, tập thể dục nhẹ, không ăn trái cây lúc chiều tối, ngủ nơi
yên tĩnh, tránh đọc sách hay xem phim căng thẳng, bạn sẽ ngủ tốt hơn.
8. Đục thủy tinh thể
Nếu bạn cảm thấy mắt mờ dần, không còn nhìn xa hay gần được nữa thì có
thể bạn đã bị cườm (đục thủy tinh thể), phải đến khám bác sĩ. Khi cườm đã chín
hay già, bác sĩ sẽ mổ lấy thủy tinh thể đục ra và đặt vào một thủy tinh thể nhân
tạo, giúp bạn trông rõ trở lại.
9. Thoái hoá khớp
Sau bao năm hoạt động, khi đến tuổi này, các khớp xương của bạn bắt đầu bị
lão hóa. Nếu cảm thấy đau lưng, mỏi gối, có thể bạn đã bị thoái hóa khớp. Việc
uống thuốc kháng viêm sẽ giúp giảm đau phần nào nhưng bệnh thoái hóa khớp
ở người cao tuổi không sao khỏi hẳn được.
10. U xơ tiền liệt tuyến
Nếu tình cờ bạn cảm thấy tiểu khó, sức rặn yếu đi, hãy đi siêu âm hoặc khám
ở bác sĩ ngoại khoa để phát hiện sớm bệnh u xơ tuyến tiền liệt. Khi được phẫu
thuật cắt bỏ khối u xơ chèn ép ống thoát tiểu, bạn sẽ đi tiểu thoải mái ngay.
Bạn cũng có thể vô tình thấy một khối u mềm ở bìu hay bẹn, đó là do cơ
thành bụng đã yếu, gây bệnh sa ruột hay thoát vị. Không có gì phải lo ngại; hãy
đến khám bác sĩ ngoại khoa. Bác sĩ sẽ mổ kéo ruột lên và may thành bụng chắc
lại.


11. Ung thư dạ dày
Cũng vào tuổi này, khi bạn thấy ăn uống không còn ngon, đôi lúc muốn nôn,

ngày càng thiếu máu, da nhợt nhạt, cần nghĩ ngay đến một bệnh ác tính là ung
thư dạ dày. Phải chụp hình kiểm tra dạ dày để phát hiện bệnh thật sớm. Đừng để
quá trễ; đến khi sờ thấy một khối u cứng ở bụng thì bác sĩ đã không thể giúp gì
cho bạn được.
12. Khả năng tình dục suy giảm
Nếu thấy quan hệ tình dục không còn thoải mái, bạn không nên mặc cảm rồi
tự mua Viagra dùng. Do Viagra là thuốc giãn mạch nên cần hết sức cẩn thận với
người có tiền sử cao huyết áp, tim mạch. Nếu dùng không đúng, nó có thể gây
tử vong đột ngột.
Để có thể duy trì được sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần, giữ được tính năng
động và độc lập trong cuộc sống cần nỗ lực rất lớn thực hiện những yêu cầu sau:
1. Kiểm tra sức khỏe
2. Dinh dưỡng tốt
3. Rèn luyện thể chất và tinh thần
4. Chú ý đến các biện pháp an toàn: đề phòng té ngã, lắp thiết bị báo cháy
5. Thái độ sống tích cực lạc quan: duy trì mối liên hệ tốt với người xung
quanh, gia đình, bạn bè.
IV.HỒI XUÂN
Đặc biệt, trong giai đoạn này con người sẽ trải qua giai đoạn hồi xuân. Hồi
xuân là một dấu ấn đặc biệt mang đậm tính văn hóa của cá nhân, là điểm sáng của
quá trình phát triển ở mỗi người, là một hiện tượng phổ biến của cơ thể trước khi
quá trình lão hóa “rầm rộ” xảy ra. Hồi xuân không có nghĩa là trở lại thời tuổi trẻ,
đó chỉ là một giai đoạn "bùng cháy", là bồi hồi, xao xuyến khi sắp phải bỏ lại sau


lưng những cảm xúc thăng hoa tuyệt đỉnh, là món quà tặng của tạo hóa trước khi
"lực bất tòng tâm". Nam giới và nữ giới sẽ trải qua giai đoạn hồi xuân với những
thay dổi khác nhau.
Ở phụ nữ:
Khi bước vào kỳ hồi xuân người phụ nữ thấy tinh thần phấn khởi, năng nổ,

hoạt bát hẳn lên, sức khỏe tốt hơn, ham muốn tình dục cũng tăng cao.
Sự thay đổi nội tiết sinh dục chính là nguyên nhân của hiện tượng hồi xuân.
Đây là món quà của tạo hóa ban cho người phụ nữ. Về mặt sinh học, thời gian hồi
xuân của mỗi người phụ nữ khác nhau. Có những người thì hồi xuân trôi qua êm
đềm như một cơn gió thoảng nhè nhẹ, nhưng có những người hồi xuân như là một
bản tình ca mùa xuân, dạt dào cháy bỏng.
Các nhà nội tiết cho rằng phụ nữ bước vào tuổi 45 trở đi, buồng trứng bắt
đầu “lên lão”, cho nên sự bài tiết hormone hướng sinh dục ngày một giảm đi, do đó
cơ thể phát ra những xung động theo cơ chế điều khiển ngược lên cấp trên. Thế là
tổng chỉ huy nội tiết ở trên não bộ phát lệnh cho thùy trước tuyến yên làm tăng nội
tiết tố hướng sinh dục FSH (Folicle stimulating hoóc-môn) sẽ kích thích xuống
buồng trứng khiến lớp áo trong của nang trứng tăng tiết estrogen. Chính vì thế, cơ
thể có sự trở lại của estrogen. Cái tuổi hồi xuân bắt đầu xuất hiện đến từ đây.
Mặt khác, khi buồng trứng yếu thì tuyến thượng thận tăng tiết testosterone.
Chính testosterone làm rối loạn kinh nguyệt nhưng lại làm tăng ham muốn. Vì thế,
có người dịu dàng, có người nóng nảy tùy thuộc vào sự biến động nội tiết. Nội tiết
tăng, kéo theo sự thay đổi tâm lý. Họ thích được chiều chuộng, âu yếm, tặng quà
hay vài lời khen. Thích chải chuốt hơn, thích được mọi người quan tâm và “tìm lại
mùa xuân” bằng cách ăn mặc đỏm dáng như mấy cô còn trẻ. Sức sống của họ
mãnh liệt. Đồng hành sự thay đổi tâm lý ấy là sự ham muốn tình dục tăng lên. Ở
cái tuổi mà ý thức về việc hưởng thụ về lạc thú ái tình đã chín muồi, ở cái tuổi mà


sự cảm nhận người hôn phối đã trở nên rõ ràng, cả vợ lẫn chồng cần phải nhận ra
rằng người hôn phối của mình như thế nào gọi là “thích” trong các hoạt động tình
dục. Thời gian đó được mệnh danh là sống cho nhau và vì nhau, không còn vị kỷ
hấp tấp như thuở còn son trẻ. Cái tuổi hồi xuân chỉ tồn tại không được là bao chỉ
xảy ra trong vòng 1 – 2 năm mà thôi.

Ở đàn ông:

Độ tuổi hồi xuân ở đàn ông trước đây thường là 47 - 52 tuổi. Bây giờ, tuổi
này kéo dài tới tận 52 - 56 tuổi. Đàn ông hồi xuân không như phụ nữ, dù cũng có
những dấu hiệu nhất định. Mức độ hồi xuân ở mỗi người mỗi khác. Có người mạnh
mẽ, có người âm ỉ... Khi hồi xuân, người đàn ông có khuynh hướng trẻ lại cả về tư
duy, tình cảm lẫn hành vi, thậm chí cả các nhu cầu. Tuy nhiên, các dấu hiệu của sự
hồi xuân ở nam giới mang tính tiềm tàng, lắng đọng. Nó không ồn ào, cuồng nhiệt,
nông nổi, non nớt như lúc dậy thì, nhưng lại bộc lộ một cách mạnh mẽ mà thanh
lịch, sâu sắc mà tha thiết.
Hồi xuân là một dấu ấn đặc biệt mang đậm tính văn hóa của cá nhân, là điểm
sáng của quá trình phát triển ở mỗi người. Nam giới hồi xuân thường rất tự tin và
lạc quan. Chính hai yếu tố trên khiến họ yêu đời hơn. Trong công việc, họ nhìn
nhận mọi việc theo chiều hướng tốt lên, trong đó có cả sự lạc quan kèm chút phấn
khích. Họ thường dễ tha thứ cho lỗi lầm của đồng nghiệp, cấp dưới, dễ chia sẻ cảm
xúc với người thân quen, muốn chứng minh lòng hào hiệp, mong được thông cảm
và đồng hành với những người xung quanh... Do vậy ở tuổi này, người đàn ông trở
nên đáng yêu và đáng kính hơn.
Trạng thái cảm xúc của quý ông hồi xuân còn là sự đan xen giữa thực tại,
tương lai và quá khứ. Đôi khi quý ông tỏ ra tiếc nuối điều gì đó chưa như ý hay


một hình ảnh, trạng thái hoặc cảm xúc đã qua và có lúc mong ước, dù là ảo tưởng,
sống lại thời sung mãn. Có lúc lại muốn được hâm nóng cảm xúc một lần nữa,
thích sống với cảm giác được mong chờ, hẹn hò, hồi hộp như đang yêu.
Với một quý ông đương hồi xuân, khả năng quan hệ tình dục như một dấu
hiệu của sự trẻ trung, cường tráng và là một bằng chứng vẫn đang... mạnh. Đặc
biệt, nhiều người tỏ ra thích thú và mãn nguyện khi nhận ra họ vẫn phong độ trong
tình dục. Tuy nhiên, về chuyện ấy, không phải ai ở tuổi này cũng bỗng dưng mạnh
mẽ lạ thường. Do vậy, nhiều người đã kỳ vọng nhưng không được như ý nên tỏ ra
lo lắng, thậm chí xuất hiện tâm trạng căng thẳng, hoang mang và sau đó lại quay ra
nghĩ quẩn là mình đã già. Trạng thái tâm lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến "phong

độ" của quý ông trong thời gian này. Chỉ có sự tự tin mới giúp họ cảm thấy mình
luôn mạnh mẽ và ở "phong độ" ổn định.
V. MÃN KINH
Nhưng sau thời kỳ “trẻ hóa” đó, sau những tháng ngày phong độ trở lại đó,
rồi sẻ phải đối mặt vớii tình trạng tiền mãn kinh và mãn kinh ở phụ nữ với tắt dục
ở đàn ông.
Tiền mãn kinh là giai đoạn trước khi kinh nguyệt của phụ nữ dứt hẳn, nó có
thể sớm và kéo dài từ 4-5 năm trước khi người phụ nữ bước vào giai đoạn mãn
kinh hoàn toàn. Tiền mãn kinh thường xảy ra ở độ tuổi từ 48-52, diễn ra sớm hay
muộn phụ thuộc vào các yếu tố: khí hậu, di truyền, tình hình kinh tế gia đình, xã
hội,.. Những chị em có chế độ dinh dưỡng và vệ sinh tốt thì giai đoạn tiền mãn
kinh diễn ra muộn hơn và ngược lại. một số triệu chứng hay gặp phải trong giai
đoạn này: chức năng tình dục suy giảm, kinh nguyệt không đều, nguy cơ mắc các
bệnh về tim mạch và xương khớp, vấn đề về âm đạo và bàng quang, thay đổi tâm
lý do sự thiếu hụt của tiết tố nữ gây ra cho phụ nữ những cơn bốc hỏa, nóng ran,


toát mồ hôi, hay cáu gắt, hồi hộp, lo âu, thậm chí có trường hợp thay đổi cả tính
tình.
Mãn kinh được định nghĩa là thời gian chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng, tức là
lần cuối cùng ra huyết âm đạo do các hormone buồng trứng gây ra, và tuồi trung
bình của mãn kinh là 51 tuổi.
Trước thời điểm này 5 năm, kinh nguyệt thường không đều, nên mãn kinh
chỉ hồi cứu, sau 12 tháng “vô kinh” hoàn toàn không thấy kinh. Mãn kinh cũng có
thể gọi là “tắt dục”. Trong thời kỳ chu mãn kinh kéo dài đến vài năm sau mãn kinh,
tất cả thời kỳ sau mãn kinh gọi là hậu mãn kinh.
Măc dù tuổi mãn kinh nói trên là phổ biến, nhưng có sự biến thiên đáng kể.
Mãn kinh có xu hướng xảy ra ở tuổi cao hơn ở các nước phương Tây, có lẽ là do
ảnh hưởng của chế độ ăn uống và lối sống. Ngay trong một nước cũng có yếu tố di
truyền mạnh quyết định tuổi mãn kinh; Điều này được chứng minh khi nghiên cứu

gia đình và so sánh số liệu của các cặp sinh đôi.
Ngoài ra nên chú ý rằng một số phụ nữ mãn kinh sớm, tức là xảy ra ở một
tuổi khá trẻ. Điều này có thể xảy ra một cách tự nhiên, vì lý do di truyền hoặc
không rõ nguyên nhân, hoặc là hậu quả của cắt bỏ buồng trứng. Một số thủ thuật
cắt bỏ tử cung hoặc cắt bỏ buồng trứng hai bên có thể được thưc hiện có cân nhắc
vì những lý do lâm sàng như cắt bỏ khối u buồng trứng. Trong mọi trường hợp tình
trạng hormone cũng giống như phụ nữ mãn kinh tự nhiên ở bất kỳ tuổi nào.


Các triệu chứng của mãn kinh
Không phải vì mãn kinh là một hiện tượng tự nhiên nên không có triệu chứng, và
có nhiều phụ nữ có nhiều triệu chứng tiền mãn kinh khó chịu khi cơ thể họ điều
chỉnh thích nghi với nồng độ hormone mới
– Các triệu chứng thường gặp nhất là cơn bốc hoả, và đổ mồ hôi không phải
lúc, mà có trên 4% số phụ nữ mãn kinh mắc phải và gây phiền hà cho đa số phụ
nữ. Họ có thể cảm thấy nóng quanh ngực, đầu và cổ các triệu chứng này đi kèm
với tăng nhiệt độ dưới da tại chỗ có thể đo được (và đôi khi thấy đuợc) kéo dài 2040 phút
– Nhịp tim có thể tăng lên 20 lần/ phút. Những triệu chứng vận mạch này có
thể khởi phát ở những phụ nữ còn kinh nguyệt đều đặn và có thế kéo dài 5-10 năm
sau mãn kinh (thường là 2-3 năm).
Xuất độ của cơn bốc hoả thay đổi khá nhiều, từ 1 lần mỗi vài ngày đến 100
lần mỗi tuần ở một số trường hợp nặng. Các cơn bốc hoả có thể do stress, uống
rượu hoặc nóng bức gây ra, nhưng đa số khó tìm đuợc nguyên nhân cụ thể.
– Rối loạn tính khí cũng thường gặp, tuy khó lượng hóa hơn điển hình là lo
lắng, ngủ gà, thiếu tập trung và mất ngủ. Những triệu chứng này thường gặp nhất
khoảng 3 năm trước khi mãn kinh.
Tỉ lệ phụ nữ có những thay đổi tính khí đó ước tính khoảng 25 -50%. Triệu
chứng trầm cảm cũng được báo cáo trong thời gian này.
– Ham muốn tình dục ở phụ nữ mãn kinh thường được báo cáo là thấp, có
thể liên quan đến tác động tâm lý của estrogen trên não và giảm nồg độ androgen.

Có nhiều yếu tố can dự vào vào việc định đoạt mức độ ham muốn tình dục
và hưởng lạc, bao gồm những thay đổi thực thể mô tả dưới đây tuy vậy, (bản
thân mãn kinh không phải là một quá trình lão hoá) cũng là một yếu tố liên quan


trực tiếp đến; mất ham muốn và chức năm tình dục đã được báo cáo sau khi cắt bỏ
buồng trứng
– Các thay đổi khác ít được báo cáo hơn là đau khớp, hoặc đau cơ, chóng
mặt và dị cảm.
Thay đổi niệu sinh dục
Các cơ quan niệu sinh dục như âm đạo, âm hộ, và niệu đạo xa cùng một nguồn gốc
phôi học, và tất cả đều nhạy cảm với estrogen. Vì vậy, khi nồng độ estrogen bắt
đầu suy giảm, những cơ cấu này sẽ thay đổi và có thể gây nên triệu chứng đó gây
khó chịu và thường gặp.
Teo âm đạo
Thiếu estrogen làm mỏng biểu mô âm đạo vì tốc độ phân bào giảm đi; tỉ lệ
các tế bào trưởng thành hơn trên bề mặt giảm. Thể tích bào tương cũng giảm. Biểu
mô âm đạo trở nên khô hơn và dể tổn thương hơn. Sự phối hợp những yếu tố đó có
thể gây nên một số triệu chứng bất lợi như đau hoặc ngứa tại chỗ.
Tế bào biểu mô không những thay đổi số lượng mà còn thay đổi tính chất
trong điều kiện tiền mãn kinh, các tế bào nông ở âm đạo tiết ra glycogen, thúc đẩy
sự tăng trưởng các trực khuẩn này là vi sinh cộng sinh và giúp bảo vệ chống nhiễm
khuẩn do các tác nhân gây bệnh khác, vì chúng sản xuất acid lactid làm âm đạo có
pH acid ức chế sự tăng trưởng nhiều tác nhân gây bệnh khác.
Trong tình trạng mãn kinh, giảm số luợng trực khuẩn, đặc biệt là vi khuẩn
trong phân, còn có nguy cơ cao nhiễm khuẩn đường tiểu dưới, dẫn đến viêm bàng
quang.
Triệu chứng âm đạo: 38% Nhiễm trùng niệu tái diễn: 13%
Giao hợp đau: 38% Tiểu tiện mất tự chủ: 29%
Khí hư: 15% Khi gắng sức 12%



×