Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Phát triển khu công nghiệp − khu chế xuất có vai trò quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá − hiện đại hoá đất nƣớc, góp phần thực hiện chiến lƣợc phát triển
kinh tế − xã hội của quốc gia. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã chỉ rõ: “Quy hoạch
phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nƣớc. Phát triển có hiệu quả khu công nghiệp, khu
chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn
và khu kinh tế mở”. Chúng ta đều biết vai trò của KCN trong tiến trình công nghiệp
hóa là rất quan trọng. Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là
một tất yếu khách quan nhằm thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Khu công nghiệp Trà
Nóc I Cần Thơ đƣợc xây dựng theo Quyết định số 817/QĐ/TTg, ngày 13/02/1995 của
Thủ tƣớng Chính phủ, diện tích 135,67 hecta, đã có những đóng góp đáng kể trong
việc phát triển kinh tế xã hội của Cần Thơ nói riêng và cả nƣớc nói chung. Tuy nhiên,
với vị trí và vai trò trung tâm của vùng ĐBSCL, đặc biệt kể từ ngày 01/01/2004 thành
phố Cần Thơ đã chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung Ƣơng, khu công
nghiệp Cần Thơ vẫn chƣa làm tốt đƣợc nhiệm vụ của mình, thể hiện qua tỷ lệ lấp đầy
diện tích chƣa cao, chƣa thu hút đƣợc các dự án có vốn đầu tƣ lớn cũng nhƣ tổng vốn
thu hút đƣợc đến cuối năm 2004 chỉ đạt khoảng 348 triệu USD, chỉ bằng một vài dự
án ở các KCN Miền Đông Nam bộ. Năm 2005 khu công nghiệp Cần Thơ thu hút
đƣợc 27 dự án mới với vốn đăng ký 148 triệu USD, trong đó có 4 dự án đầu tƣ nƣớc
ngoài đăng ký 18,2 triệu USD. (Nguồn báo cáo BQL KCN)
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH)
phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã lựa chọn con đƣờng CNH –
HĐH rút ngắn, thực hiện đi tắt, đón đầu bằng nhiều phƣơng thức khác nhau; trong đó,
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN – KCX) là một phƣơng thức rất
quan trọng. Phƣơng thức này cho phép khai thác tốt nhất các tài nguyên, nhất là
nguồn nhân lực; thu hút sử dụng vốn, khoa học – công nghệ, trình độ tổ chức, quản
lý... của thế giới vào quá trình sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Các KCN – KCX góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng hiện đại
hoá, thúc đẩy việc đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao, đồng thời tạo ra cơ chế
quản lý và mô hình quản lý mới; qua đó thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển
mạnh, nhất là kinh tế tƣ nhân và kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, tạo tiền đề trong
tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Trang 1
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Đánh giá về vai trò của KCN, Thủ tƣớng Phan Văn Khải đã nói: “Phát triển KCN
là một giải pháp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho đầu tƣ kinh doanh, tiết kiệm
nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trƣờng sinh thái, bảo đảm an ninh quốc phòng. Chúng ta cần đa dạng hoá các loại
hình KCN, không chỉ quan tâm đến các KCN lớn ở đô thị và ven đô thị mà còn phải
chú trọng các KCN qui mô nhỏ ở các vùng nông thôn, để thúc đẩy công nghiệp hoá
nông nghiệp và nông thôn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Đi đôi với
việc tích cực xây dựng các KCN theo qui hoạch, cần đặc biệt chú trọng thu hút đầu tƣ
vào những KCN đã đƣợc hình thành, thƣờng xuyên rút kinh nghiệm để không ngừng
nâng cao sức hấp dẫn và phát huy hiệu quả đầu tƣ của các KCN”
Cần Thơ từ tỉnh đã đƣợc chuyển thành thành phố trực thuộc Trung Ƣơng, để có thể
đi tắt đón đầu, kích thích thu hút vốn đầu tƣ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ thì việc phát triển các KCN – KCX chính là động lực để tạo
nên những “cú hích” của đô thị mới. Trong thời gian qua, ở Cần Thơ đã hình thành và
phát triển các KCN – KCX Trà Nóc, Hƣng Phú và các cụm tiểu thủ công nghiệp. Đến
cuối năm 2004, đã có 63 dự án hoạt động, giá trị sản xuất công nghiệp chiếm 46,28%
giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, kim ngạch xuất khẩu chiếm 33,88% kinh ngạch
xuất khẩu toàn tỉnh. Từ kết quả đạt đƣợc đã khẳng định vai trò quan trọng của phát
triển các KCN – KCX ở Cần Thơ nói riêng và vùng ĐBSCL, cả nƣớc nói chung. Tuy
nhiên, việc thu hút vốn đầu tƣ vào các KCN – KCX ở Cần Thơ, đặc biệt là KCN
Hƣng Phú, KCN Vị Thanh kết quả đạt đƣợc chƣa xứng với tiềm năng, cơ hội đang
có. Cho đến nay, diện tích cho thuê của KCN Hƣng Phú I mới 18%, KCN Hƣng phú
II là 12%. Do vậy, cần thiết phải có nghiên cứu đánh giá thực trạng thu hút đầu tƣ,
tìm nguyên nhân của vấn đề và qua đó đề xuất giải pháp thu hút vốn đầu tƣ vào KCN
Cần Thơ trong thời gian tới. Do đó việc nghiên cứu đề tài “Đánh giá tình hình đầu
tƣ và các giải pháp nhằm thu hút đầu tƣ vào các KCN KCX Cần Thơ đến năm 2010”
là cần thiết để góp phần đƣa TP. Cần Thơ sớm trở thành trung tâm kinh tế văn hóa
xã hội của vùng ĐBSCL.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu tình hình đầu tƣ vào các KCN Cần Thơ (bao
gồm KCN Vị Thanh Hậu giang), tìm nguyên nhân tồn tại của các KCN, trên cơ sở đó
đề xuất giải pháp thu hút vốn đầu tƣ vào các KCN.
:
Đánh giá tổng quan tình hình đầu tƣ vào KCN Việt Nam và KCN Cần Thơ trong
thời gian qua.
Trang 2
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Đánh giá hiện trạng tình hình thu hút vốn đầu tƣ tại khu công nghiệp Trà Nóc,
KCN Hƣng Phú, KCN Vị Thanh trong thời gian qua, tác động của các chính sách đối
với hoạt động của khu công nghiệp nói chung.
Phân tích đánh giá tìm nguyên nhân vì sao các doanh nghiệp đang hoạt động
hiện nay chƣa vào khu công nghiệp.
Phân tích ma trận SWOT, đánh giá các yếu tố cơ hội, thách thức của môi trƣờng
tác động đến hoạt động thu hút đầu tƣ vào khu công nghiệp nói chung và từng khu
công nghiệp nói riêng; điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động thu hút vốn đầu tƣ của
khu công nghiệp.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và phân tích tác động của
môi trƣờng thu hút đầu tƣ để đề xuất giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tƣ vào các khu
công nghiệp – khu chế xuất.
III. KẾT CẤU NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
Nội dung đề tài đƣợc chia những nội dung sau:
Phần Mở đầu
Phần Nội dung
Chƣơng I: Cơ sở lý luận và quá trình phát triển KCN KCX của Việt Nam .
Chƣơng II: Tổng quan về KCN KCX Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang .
Chƣơng III: Phân tích hoạt động và khả năng thu hút đầu tƣ của các khu công
nghiệp khu chế xuất Thành phố Cần Thơ và Tỉnh Hậu Giang.
Chƣơng IV: Một số giải pháp đẩy mạnh việc thu hút đầu tƣ vào các KCN
Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang.
Phần Kết luận kiến nghị
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Cách tiếp cận:
Liên hệ Ban Quản lý khu công nghiệp−khu chế xuất Cần Thơ, Sở Công nghiệp
TP Cần Thơ, Sở Kế hoạch & đầu tƣ TP Cần Thơ để nắm tổng quan về tình hình đầu
tƣ trong và ngoài nƣớc vào các khu công nghiệp Cần Thơ.
Trực tiếp tiếp xúc và trao đổi với các doanh nghiệp sản xuất − kinh doanh trong
khu công nghiệp, ngoài khu công nghiệp trên địa bàn TP Cần Thơ và các doanh
nghiệp ngoài khu công nghiệp trên địa bàn Thị xã Vị Thanh tỉnh Hậu Giang.
Trang 3
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu thông qua các nguồn dữ liệu thứ cấp có sẵn, như:
Các báo cáo qua các năm về các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc đầu tƣ vào
KCN, tài liệu có liên quan: các văn bản, các chính sách của Chính phủ, địa phƣơng về
KCN,...
Các báo cáo tổng kết của Sở Công nghiệp, Sở Kế hoạch & đầu tƣ, Ban quản lý
khu công nghiệp Cần Thơ về tình hình đầu tƣ cũng nhƣ kết quả sản xuất − kinh doanh
của các doanh nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
Thu thập thông qua số liệu niên giám thống kê của Việt Nam và Cần Thơ .
Quy hoạch tổng thể thành phố Cần Thơ đến năm 2020 của UBND thành phố Cần
Thơ.
Các số liệu từ các trang web ; www.vneconomy.com.vn;
; ;...
Thu thập số liệu sơ cấp:
Điều tra chọn mẫu phỏng vấn qua bản câu hỏi đối với các doanh nghiệp sản
xuất− kinh doanh trên địa bàn nghiên cứu (tỉnh Cần Thơ cũ) tổng số là 300 phiếu
(theo đề cƣơng đƣợc duyệt). Trong quá trình thực hiện, tỉnh Cần Thơ tách ra thành
TP. Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Do đó, nhóm nghiên cứu chia phiếu điều tra trên địa
bàn thành phố Cần Thơ 250 phiếu (ngoài khu công nghiệp là 220 phiếu và trong khu
công nghiệp là 30 phiếu) và tỉnh Hậu Giang là 50 phiếu (tập trung ở thị xã Vị Thanh),
vì số lƣợng doanh nghiệp ở Hậu Giang quá ít. Mặt khác, trong quá trình thu thập
thông tin ở các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên có một số ít phiếu điều tra bị
loại trong xử lý số liệu.
− Phƣơng pháp chọn mẫu ngẫu nhiên để thu thập thông tin.
Xử lý số liệu qua phần mềm Excel, SPSS, phân tích SWOT, đánh giá làm cơ sở
đề xuất định hƣớng và giải pháp cho hoạt động của khu công nghiệp trong tƣơng lai.
Từ những dữ liệu thu thập đƣợc, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích, tổng
hợp, so sánh, đánh giá và rút ra những vấn đề cần nghiên cứu của đề tài.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phỏng vấn các doanh nghiệp chủ yếu ở địa phƣơng Cần Thơ cả trong và ngoài
khu công nghiệp.
Trang 4
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
− Đối với các doanh nghiệp ngoài địa bàn nghiên cứu, cho dù họ có ý định hay
không có ý định vào khu công nghiệp Cần Thơ − Hậu giang, cũng không thuộc phạm
vi nghiên cứu của đề tài.
Số liệu điều tra phỏng vấn chủ yếu tập trung năm 2004
300
phiếu doanh nghiệp, nhƣng thông tin thu đƣợc có 291 phiếu, trong đó có 252 phiếu ở
cụm TP Cần Thơ (222 phiếu ngoài KCN, 30 phiếu trong KCN) và 39 phiếu ở KCN
Vị Thanh
ộng tác
với nhóm nghiên cứu. Ngay cả các phiếu câu hỏi thu đƣợc, nhiều thông tin doanh
nghiệp không trả lời hoặc có trả lời nhƣng chƣa đúng với thực tế. Do vậy, số liệu thu
thập đƣợc có nhiều hạn chế và có những chỉ tiêu khi phân tích chỉ mang tính tham
khảo.
Đề tài này không đề cập đến các khu tiểu thủ công nghiệp ở Cần Thơ
oOo
Trang 5
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KCN KCX VIỆT NAM
I. CÁC KHÁI NIỆM
Khu công nghiệp (KCN): là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ
tƣớng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất .
Khu chế xuất (KCX): là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống; do
Chính phủ hoặc Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập.
Khu công nghệ cao (KCNC): là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên
cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa
lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập. Trong
KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất hoạt động.
Doanh nghiệp khu công nghiệp (DN KCN): là doanh nghiệp đƣợc thành lập và
hoạt động trong khu công nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp
dịch vụ.
Doanh nghiệp chế xuất (DN CX): là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất
khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất
khẩu đƣợc thành lập và hoạt động trong KCN, KCX.
Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng: là doanh nghiệp đƣợc thành lập có chức
năng kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN và đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ quyết định cho
phép đầu tƣ xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, KCX, KCNC.
Ban quản lý các KCN cấp tỉnh: là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN, KCX,
KCNC trong phạm vi địa lý hành chính một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
Trang 6
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
hoặc Ban quản lý KCN trên địa bàn liên tỉnh hoặc Ban quản lý một KCN (trƣờng hợp
cá biệt) do Thủ tƣớng chính phủ quyết định thành lập.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH KCN TRÊN THẾ GIỚI.
Từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới, ngƣời ta đã phát triển loại hình
KCN để tập trung các nhà máy sản xuất công nghiệp vào trong một khu vực. KCN
đầu tiên trên thế giới đƣợc thành lập vào năm 1986 ở Trafford Park thành phố
Manchester (Anh) với tƣ cách là một doanh nghiệp tƣ nhân. Sau đó vào năm 1899
vùng công nghiệp Clearing ở thành phố Chicago, bang Illinois bắt đầu hoạt động và
đƣợc coi là khu công nghiệp đầu tiên của Mỹ. Tuy nhiên trong giai đoạn này, điều
kiện địa lý, môi trƣờng và công nghiệp lợi thế giữa KCN tập trung và công nghiệp
riêng lẻ chƣa có sự chênh lệch đáng kể trong lợi thế kinh tế các mặt nên số lƣợng
KCN tập trung chƣa đƣợc các nhà doanh nghiệp công nghiệp chú trọng cho đến
những năm 1950 − 1960. Do điều kiện công nghiệp phát triển mạnh nên ngoài điều
kiện môi trƣờng sinh thái và các điều kiện xã hội đã có sự bùng nổ về phát triển các
vùng công nghiệp và KCN tập trung.
Đến năm 1959, ở Mỹ đã có 452 vùng công nghiệp và 1.000 khu công nghiệp cho đến
năm 1970 đã tăng khoảng 1.400 KCN, cũng trong thời kỳ này ở Anh có 55 KCN (1959),
Pháp có 230 vùng công nghiệp và Canada có 21 vùng công nghiệp (1965).
Đối với những nƣớc đang phát triển đầu tiên biết sử dụng hệ thống KCN là Puerto
Rico. Trong những năm từ 1947 − 1963 Chính phủ Puerto Rico đã xây dựng 480 nhà
máy để cho thuê với cơ sở hạ tầng phù hợp nhằm thu hút các công ty chế biến của
Mỹ, hầu hết các nhà máy tập trung trong hơn 30 KCN.
KCN đầu tiên ở các nƣớc châu Á đƣợc khai sinh ở Singapore vào năm 1951, đến năm
1954 Malaysia cũng bắt đầu thành lập KCN cho đến giữa thập kỷ 90 đã có 139 KCN, Ấn
Độ bắt đầu thành lập KCN từ 1955 đến năm 1979 đã có 705 khu công nghiệp.
Đặc biệt một số nƣớc trong khu vực châu Á đã thành công rất lớn trong việc sử
dụng các hình thức KCN − KCX − KCNC để phát triển kinh tế của quốc gia điển
hình nhƣ khu công nghệ cao của Tân Trúc − Đài Loan đƣợc xây dựng năm 1980 với
diện tích xây dựng 650 ha trên tổng diện tích quy hoạch 2100 ha với tổng số vốn đầu
năm 1995 lên tới 7 tỷ USD, sau 15 năm hoạt động tổng doanh số hàng hóa và dịch vụ
của khu đạt 10,94 tỷ USD chiếm 3,6% GDP Đài Loan. Đài Loan cũng là nƣớc đầu
tiên sử dụng thể chế KCX đƣợc sáng lập từ năm 1966, KCN Cao Hùng là KCX đầu
tiên trên thế giới. Cho đến năm 1992, thế giới đã có tới 280 KCX đƣợc xây dựng ở 40
nƣớc trong đó có khoảng 60 khu đã hoạt động mang lại hiệu quả cao.
Trang 7
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Về công ăn việc làm: năm 1990 tổng số ngƣời làm việc trong các KCX từ các nƣớc
đang phát triển đạt tới 530.000 ngƣời.
Về xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến của các nƣớc đang
phát triển là 258 tỷ USD năm 1988 khoảng 80% xuất khẩu của khu chế xuất là từ các
nƣớc Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan. Giá trị xuất khẩu đƣợc tính trên một ngƣời công
nhân là hơn 300.000 USD ở Malaysia, 50.500 USD ở Đài Loan và 67.800 USD ở
Hàn Quốc, 72.000 USD ở khu Baguio City Philippines.
Các KCX đã thu hút đƣợc nhiều nhà đầu tƣ nƣớc ngoài phần lớn từ các ngành điện
tử nhƣ ở Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan.
Rõ ràng việc phát triển khu KCN − KCX − KCNC ở các nƣớc đang phát triển đóng
vai trò rất lớn trong việc phát triển ngành công nghiệp và thu nhập kinh tế quốc dân.
Qua việc phát triển của các KCN − KCX − KCNC cao đã đẩy mạnh việc xuất khẩu
của quốc gia thu đƣợc nhiều ngoại tệ, tạo thêm đƣợc nhiều công ăn việc làm, thu hút
đƣợc nhiều nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, tiếp nhận đƣợc kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, tiếp nhận trình độ quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ công nhân lành
nghề, nhanh chóng hòa nhập và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp trên
thị trƣờng khu vực và thế giới.
Các KCN hình thành sẽ thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tƣ xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp sản xuất, cơ sở kinh doanh dịch vụ,... cùng vốn đầu tƣ trực tiếp, các nhà đầu tƣ
mang đến các KCN những công nghệ, dây chuyền sản xuất mới cũng nhƣ phƣơng
pháp quản lý mới. Do đó, nó trực tiếp tác động đóng góp đẩy nhanh tiến trình CNHHĐH và góp phần giữ vững tốc độ tăng trƣởng kinh tế của quốc gia.
III. VAI TRÒ CỦA KCN KCX ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ
HỘI.
Phát triển các KCN−KCX theo đúng chiến lƣợc và quy hoạch tổng thể là sự thực
hiện tốt nhất quá trình phân công lại lao động xã hội trên phạm vi cả nƣớc ở một trình
độ cao hơn, nhằm cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân theo hƣớng tập trung khai thác, tận
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nƣớc, những tiềm năng, lợi thế hiện có,
nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển chung của nền kinh tế theo hƣớng phát triển bền vững.
Phát triển các KCN−KCX theo đúng chiến lƣợc, quy hoạch và hoạt động có hiệu
quả là nhân tố góp phần to lớn trong việc tạo ra khối lƣợng sản phẩm hàng hóa xuất
khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao, tăng thêm nhiều việc làm để thu hút một số
lƣợng không nhỏ những ngƣời lao động ở khắp mọi miền đất nƣớc, nhất là lao động ở
Trang 8
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
nông thôn, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tăng thu nhập quốc dân, ổn
định kinh tế − xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xóa hộ đói, giảm hộ nghèo, ngày
càng có nhiều hộ giàu và tiến tới tất cả cùng giàu.
Phát triển các KCN−KCX theo đúng chiến lƣợc và quy hoạch sẽ tạo ra địa bàn
thuận lợi cho quá trình tiếp thu những thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế phát triển
bền vững.
Phát triển các KCN−KCX theo đúng chiến lƣợc và quy hoạch cũng đồng thời
tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, đồng bộ cả về kết cấu hạ tầng kinh tế − kỹ
thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế − xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần
kinh tế, mọi thành viên của cộng đồng, tiếp cận đƣợc với các nguồn lực, cho phép
thực hiện sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ
môi trƣờng, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì sự phát triển
bền vững.
Sau đây chúng ta hãy xem xét quá trình hình thành và phát triển các KCN−KCX ở
Việt Nam.
IV. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƢ VÀO KCN KCX Ở VIỆT NAM.
4.1. Quá trình hình thành và phát triển KCN−KCX Ở Việt Nam.
Tiền thân phát triển các KCN−KCX−KCNC là khu kỹ nghệ Biên Hòa (nay là KCN
Biên Hòa I) đƣợc thành lập năm 1963 nơi này có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển
công nghiệp, đây cũng là KCN lớn nhất và phát triển nhất sau ngày miền Nam giải
phóng 1975. Song song đó, tại miền Bắc cũng đã bắt đầu xây dựng nhiều khu liên
hợp, cụm công nghiệp lớn nhằm phát triển công nghiệp góp phần phát triển miền Bắc
xã hội chủ nghĩa và cơ sở phát triển các KCN−KCX−KCNC sau này, điển hình là khu
công nghiệp gang thép Thái Nguyên.
Ngày 24/9/1991 Chính phủ chấp thuận chủ trƣơng của Ủy ban Nhà nƣớc về hợp
tác và đầu tƣ đã cấp phép số 245 thành lập KCX Tân Thuận, việc ra đời của KCX là
một bƣớc đột phá gắn liền với ý chí quyết tâm đổi mới tƣ duy, sáng tạo luôn tìm tòi
cái mới trong công cuộc phát triển đất nƣớc.
Nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của việc hình thành xây dựng, phát
triển và quản lý KCN−KCX ngày 18/10/1991 Chính phủ Việt Nam đã ban hành quy
chế KCX kèm theo Nghị định 322/HĐBT và năm 1994 Chính phủ ban hành quy chế
KCN kèm theo Nghị định 192/CP. Đánh dấu cho bƣớc mở đầu của việc phát triển
Trang 9
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
KCN, KCX của nƣớc ta cho đến ngày 24/4/1997 Chính phủ ban hành Nghị định
36/CP thống nhất các quy chế KCN−KCX nhằm kiện toàn và đẩy nhanh tốc độ đầu tƣ
xây dựng và phát triển các KCN−KCX, tạo một hành lang pháp lý đặc biệt cho loại
hình kinh tế còn khá mới mẻ lại có điểm xuất phát thấp, chúng ta chƣa có kinh
nghiệm lại thiếu tiềm lực về nguồn vốn đầu tƣ các cơ sở vật chất hạ tầng trong cũng
nhƣ ngoài địa bàn KCN. Hơn nữa lại vấp phải một sự cạnh tranh rất gay gắt về thu
hút đầu tƣ nƣớc ngoài của các nƣớc trong khu vực nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia. Mặt khác, Đảng Nhà nƣớc ta lựa chọn con đƣờng để phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa nên chúng ta không có
nhiều lợi thế so với các nƣớc khác. Tuy nhiên với đƣờng lối chính trị đúng đắn, Đảng
ta đã lãnh đạo công cuộc đổi mới ở đất nƣớc trong những năm qua thu đƣợc những
thành công, đã khẳng định đƣợc vị trí của đất nƣớc ta trên trƣờng quốc tế, với các
chính sách kinh tế mở, thông thoáng đã hấp dẫn đƣợc các nhà đầu tƣ và các quốc gia
trên thế giới.
Chúng ta là nƣớc đi sau trong lĩnh vực xây dựng phát triển KCN nên có điều kiện tiếp
thu những kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên cơ sở đó phân tích những nguyên nhân về
thành công, thất bại để rút ra những phƣơng thức, điều kiện để hoạch định những bƣớc
đi thích hợp cho việc xây dựng và phát triển các KCN ở nƣớc ta.
Từ khi có quy chế KCX đầu tiên từ năm 1991 đến năm 1992 KCX Tân Thuận (TP.
Hồ Chí Minh) đi vào hoạt động. Theo Vụ Quản lý KCN, KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu
tƣ, tính đến hết tháng 6/2004, nƣớc ta đã có 154 KCN, KCX đƣợc duyệt quy hoạch
phát triển: trong đó 151 KCN, KCX đã thành lập, với tổng diện tích 25.400 ha (không
kể khu kinh tế Dung Quất 14.000 ha là khu kinh tế tổng hợp và KCNC Hòa Lạc,
KCNC TP.HCM). Các KCN đã đƣợc thành lập ở Việt Nam phần lớn đƣợc tập trung
tại các vùng kinh tế trọng điểm là: Vùng tinh tế trọng điểm phía Bắc có 23 khu, diện
tích 3.345 ha, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 50 khu, diện tích 11.579 ha,
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 17 khu, diện tích 2.466 ha và khu kinh tế
Dung Quất (Quãng Ngãi), khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam). Ngoài ra, các khu
khác có 16 khu, diện tích 2.837ha. Hệ thống KCN ở nƣớc ta gồm nhiều loại hình, đa
dạng về quy mô, tính chất và trình độ hiện đại. Trƣớc hết phải nói rằng sự ra đời của
KCX Tân Thuận một hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung sản xuất theo
lãnh thổ đầu tiên ở nƣớc ta, đã tạo đƣợc một mô hình tổ chức sản xuất mới có hiệu
quả, một hình mẫu tiên tiến về cơ chế quản lý một cửa tại chỗ về xu thế thời đại, từ đó
có sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu tƣ và đạt tốc độ nhanh thực hiện đầu tƣ, xứng
đáng là đơn vị đƣợc quốc tế xếp hạng nhất các KCN ở châu Á, với giá trị thành công
của một KCX đi đầu trong công cuộc đổi mới, KCX Tân Thuận đã tạo ra sức lan tỏa
Trang 10
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
mạnh trong cả nƣớc mở ra hƣớng phát triển mới, tiền đề cho việc phát triển KCN,
KCX, KCNC.
Đến nay, các KCN, KCX, KCNC đã và đang làm thay đổi cơ bản đời sống kinh tế
xã hội của những khu vực trƣớc đây còn là những vùng hoang hóa nay trở thành
những vùng công nghiệp, vùng sản xuất hàng hóa phát triển, những trung tâm văn hóa
ngang tầm với các nƣớc trong khu vực.
4.2. Đặc điểm các loại hình khu công nghiệp
Đối với nƣớc ta có các loại hình KCN sau:
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Khu công nghệ cao
Khu kinh tế mở
Đặc điểm chung của các loại hình khu công nghiệp này là: Xuất phát từ khái niệm
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp, do đó KCN có đặc điểm là tập trung vốn và
các nguồn lực khác để tạo nên cơ sở hạ tầng thật tốt thu hút các nhà doanh nghiệp vào
sản xuất, trong một phạm vi địa lý xác định trên một phạm vi lãnh thổ nhất định, đƣợc
Chính phủ áp dụng một cơ chế quản lý ƣu đãi để động viên khuyến khích các nhà đầu
tƣ sản xuất trong KCN. Mục đích để tập trung các điều kiện thuận lợi về mọi mặt (hạ
tầng, cơ chế quản lý,...) nhằm bảo vệ môi trƣờng sinh thái, nâng cao hiệu quả hoạt
động công nghiệp và thƣơng mại, đảm bảo an toàn cho nhà đầu tƣ an tâm sản xuất.
Với đặc điểm và mục đích việc thành lập các KCN nhƣ trên, trong thời gian qua từ
năm 1991 đến nay đã thành lập các loại hình KCN có những đặc điểm mà có thể khái
quát thành các loại hình nhƣ sau:
Các KCN đƣợc thành lập trên một phạm vi khuôn viên có sẵn một số doanh
nghiệp công nghiệp đang hoạt động. Nghĩa là KCN hình thành từ các cụm công
nghiệp có sẵn, do đó đòi hỏi các công ty phát triển cơ sở hạ tầng phải nhanh chóng
nâng cấp cơ sở hạ tầng và phải xây dựng các công trình xử lý chất thải công nghiệp,
trồng cây xanh để giảm thiểu ô nhiễm môi trƣờng sinh thái.
Các KCN hình thành do yêu cầu di dời các nhà máy, các xí nghiệp đang hoạt
động trong nội thành, nội thị, vùng đông dân cƣ sinh sống gây ảnh hƣởng đến hoạt
động của đời sống xã hội, làm mất vẻ mỹ quan, ô nhiễm môi trƣờng, hoặc do yêu cầu
di dời, giải tỏa để xây dựng các công trình xã hội khác. Mặt khác, một số công ty, xí
nghiệp do yêu cầu mở rộng SX, đầu tƣ đổi mới công nghệ phải chọn giải pháp di dời.
Trang 11
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
KCN hiện đại có quy mô lớn đƣợc xây dựng mới, loại hình này có đặc điểm
đƣợc tập trung vốn ban đầu tƣơng đối lớn nên tốc độ xây dựng nhanh, chất lƣợng các
công trình hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có các hệ thống hạ tầng đồng bộ, hệ thống
xử lý các chất thải tiên tiến, có một số khu có nhà máy điện riêng bảo đảm tốt cho quá
trình sản xuất của các doanh nghiệp KCN.
4.3. Tình hình hoạt động của các KCN, KCX Việt Nam thời gian qua:
Sau hơn 14 năm xây dựng và phát triển, với những chính sách ƣu đãi và cơ sở hạ
tầng quốc gia đƣợc cải thiện nâng cấp, các KCN ở Việt Nam đã thật sự hấp dẫn các
nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Các doanh nghiệp đầu tƣ vào KCN thuộc đủ mọi
thành phần kinh tế, bao gồm doanh nghiệp nhà nƣớc, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Đầu tƣ vào KCN bao gồm các lĩnh vực
nhƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, sản xuất công nghiệp nhƣ hóa chất, dệt may, da
giầy, điện tử, lắp ráp ô tô, xe máy... và dịch vụ sản xuất công nghiệp.
Ngoài các dự án đầu tƣ và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Tính đến tháng 6 năm
2004 đã có 2.864 dự án đầu tƣ còn hiệu lực trong các KCN, trong đó có 1.442 dự án
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đăng ký là 11.390 triệu USD và 1.422 dự án
trong nƣớc với tổng vốn đầu tƣ là 72.612 tỷ đồng.
4.3.1. Về vấn đề đất trong KCN.
Tính đến tháng 6 năm 2004, các KCN đã cho thuê đƣợc 5.772 ha, bằng 41,8% tổng
diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê (13.809 ha trong 106 KCN đã đƣợc thành
lập) nếu không tính 38 KCN mới thành lập năm 2003, 6 tháng đầu năm 2004 và một
số KCN đã thành lập từ năm 1997 nhƣng chƣa triển khai thì tỷ lệ lấp đầy của các
KCN trong cả nƣớc đạt 59,8% diện tích đất công nghiệp. Tình hình thuê đất tại các
KCN đến tháng 6 năm 2004 đƣợc thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.1: Tình hình thuê đất tại các KCN ở Việt Nam
Tỷ lệ đất cho thuê/diện tính đất CN Số khu công nghiệp Tỷ lệ (%)
1. Chƣa cho thuê đƣợc đất
21
19,8
2. Đã cho thuê dƣới 10%
04
03,7
3. Đã cho thuê từ 10% đến 30%
14
13,5
4. Đã cho thuê từ 30% đến 50%
17
16,0
5. Đã cho thuê từ 50% đến 80%
25
23,5
6. Đã cho thuê từ 80% trở lên
25
23,5
Tổng
106
100,0
(Nguồn: Vụ Quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Trang 12
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Từ bảng trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Số KCN đã cho thuê từ trên 50% diện tích đất công nghiệp trở lên có 50 khu
(chiếm 47,1% tổng số KCN), các KCN này đã đi vào hoạt động và đã phát huy tốt
hiệu quả của nó.
Trong tổng số 21 khu chƣa cho thuê đất chủ yếu là các khu mới có quyết định
thành lập (16 khu thành lập năm 2003 và 8 khu thành lập trong 6 tháng đầu năm
2004)
19,8%
23,6%
Chæa cho thuã
3,8%
Dæåïi 10%
Tæì10-30%
Tæì30-50%
13,2%
Tæì50-80%
Tæì80% tråílãn
23,6%
16,0%
Đồ thị 1.1: Tỷ lệ đất cho thuê được/diện tích đất công nghiệp
4.3.2. Về tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN
Bảng 1.2: Giá trị SX và XK hàng hóa ở các KCN và khối đầu tư nước ngoài.
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
6 tháng
2004
Khu Công nghiệp
Giá trị sản
Giá trị xuất khẩu
lƣợng hàng hóa
hàng hóa
Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ%
1.950
− 1.500
−
3.555 182,3 2.170 144,7
4.500 126,6 3.000 138,2
5.000 111,1 3.200 106,7
7.300 150,0 3.210 100,3
4.535
149,0
1.995
140,0
ĐVT: Tỷ đồng
Đầu tƣ nƣớc ngoài của cả nƣớc
Giá trị sản lƣợng
Giá trị xuất
hàng hóa
khẩu hàng hóa
Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ%
4.800
−
2.590
−
6.500 135,4
3.320 128,2
7.400 113,8
3.600 108,4
9.000 121,6
4.500 125,0
11.470 127,5
6.225 138,3
8.000
130,0
3.850
128,9
(Nguồn: Vụ Quản lý KCN và KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Trong số các doanh nghiệp trong KCN đã đƣợc cấp giấy phép, có gần 1.541 doanh
nghiệp (trong đó 814 doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, 727 doanh nghiệp
trong nƣớc) đã sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp còn lại đang trong quá trình
Trang 13
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
xây dựng hoặc chuẩn bị xây dựng nhà xƣởng để đi vào sản xuất. Trong thời gian qua,
giá trị sản lƣợng hàng hóa cũng nhƣ giá trị xuất khẩu hàng hóa ở các KCN tăng
trƣởng ở mức cao. Doanh thu và kim ngạch xuất khẩu cả các KCN trong những năm
gần đây đƣợc thể hiện ở bảng trên.
4.3.3. Về thu hút lao động
Đến tháng 6 năm 2004, các KCN đã tạo việc làm cho gần 60 vạn lao động trực tiếp
và khoảng hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Số lao động này chủ yếu tập trung tại một
số tỉnh, thành phố nhƣ:
Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 13 vạn lao động trực tiếp tại các KCN
Tỉnh Bình Dƣơng: có gần 10 vạn lao động
Tỉnh Đồng Nai: có gần 16 vạn lao động
Thành phố Hà Nội: có gần 1,3 vạn lao động
Thành phố Đà Nẵng: có trên 1,4 vạn lao động
KCN Điện Nam − Điện Ngọc (Quảng Nam): gần 2 vạn lao động
KCN Phú Tài (Bình Định): có gần 1,2 vạn lao động
KCN Cần Thơ: có trên 1,5 vạn lao động
4.3.4. Về quản lý Nhà nước đối với KCN
Tính đến tháng 6 năm 2004, cả nƣớc có 42 Ban quản lý KCN cấp tỉnh đƣợc thành
lập. Theo quy định hiện hành, các bộ, ngành ủy quyền cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh
thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc nhƣ: Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ đã ủy
quyền việc cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tƣ đối với các dự án đầu tƣ nƣớc
ngoài đến 40 triệu USD với những điều kiện nhất định; Bộ Thƣơng mại đã ủy quyền
phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lý hoạt động thƣơng mại; Bộ Lao động
và Thƣơng binh xã hội ủy quyền việc cấp phép cho ngƣời lao động nƣớc ngoài... Bên
cạnh đó cùng với việc cải thiện các thủ tục hành chính chung của cả nƣớc, các bộ,
ngành và UBND cấp tỉnh cũng đã ban hành những chính sách đơn giản hóa, giảm
thiểu các thủ tục hành chính, chế độ công khai thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tƣ. Đồng thời, các cơ quan quản lý chuyên ngành nhƣ hải quan, ngân
hàng, công an... cũng đã đƣợc thành lập tại các KCN.
Trên cơ sở cơ chế ủy quyền này đã hình thành và phát huy đƣợc cơ chế quản lý
“một cửa, tại chỗ”. Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã đƣợc trao nhiều quyền quyết định
trong quản ký KCN, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nƣớc đối
với KCN, rút ngắn đƣợc thủ tục hành chính, giải tỏa tâm lý cho các nhà đầu tƣ trong
Trang 14
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
và ngoài nƣớc về chính sách của nhà nƣớc ta đối với việc đầu tƣ vào các KCN, góp
phần không nhỏ thúc đẩy phát triển các KCN, đƣợc các doanh nghiệp KCN thừa nhận
tính tích cực của công tác quản lý Nhà nƣớc. Đây là cơ chế quản lý đúng và phù hợp
với xu thế hội nhập và phát triển hiện nay.
Tóm lại, tình hình phát triển KCN hơn 14 năm qua đã đạt đƣợc những thành tựu cơ
bản. Đó là, các KCN đã thu hút đƣợc nhiều dự án đầu tƣ đặc biệt là đầu tƣ nƣớc
ngoài, tạo nguồn vốn quan trọng cho đầu tƣ phát triển kinh tế−xã hội của đất nƣớc.
Góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Phát huy vai trò hạt nhân, phát triển kinh tế vùng, lãnh
thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa đất nƣớc. Sử dụng có hiệu quả quỹ đất công nghiệp,
vốn đầu tƣ và tiết kiệm chi phí sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho
ngƣời lao động.
4.3.5. Một số định hướng phát triển các KCN ở Việt Nam.
Trong thời gian tới, song song với việc làm tốt công tác quy hoạch phát triển các
KCN, việc xây dựng và phát triển các KCN cần tiến hành theo các định hƣớng sau:
Một là, kết hợp giữa việc lấp đầy diện tích với việc nâng chất lƣợng dự án đầu tƣ
vào KCN.
Từng bƣớc chọn lọc và khuyến khích thu hút các dự án có điều kiện phát huy thế
mạnh của từng địa phƣơng cũng nhƣ các dự án có vốn lớn, công nghệ cao, nguy cơ ô
nhiễm môi trƣờng thấp. Việc chọn lọc chắc chắn sẽ gây tác động mạnh mẽ đến việc
lấp đầy diện tích KCN hiện nay, tuy nhiên đó là định hƣớng tất yếu nhằm đảm bảo,
xây dựng, phát triển KCN theo hƣớng phát triển bền vững.
Hai là, kết hợp chặt chẽ việc phát triển KCN với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và quá trình đô thị hóa, phát triển nông nghiệp, nông thôn, đồng bộ hóa việc phát triển
hạ tầng kỹ thuật−xã hội trong và ngoài hàng rào KCN ngay từ khâu xem xét thành lập
để thống nhất quy hoạch phát triển kinh tế−xã hội, đảm bảo tính khả thi và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các KCN.
Việc kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch KCN với quy hoạch khu đô thị, khu dân cƣ
và các dịch vụ phục vụ sẽ là nhân tố bảo đảm phát triển bền vững, cho phép chính
quyền địa phƣơng tăng thêm nguồn tài chính để có thể khai thác quỹ đất và các lợi ích
khác từ sự phát triển KCN. Khi xây dựng khu đô thị, khu dân cƣ, khu dịch vụ... tùy
theo đặc điểm của từng địa phƣơng, không nhất thiết đi liền với từng KCN mà có thể
liên kết phục vụ nhiều KCN trên địa bàn, hoặc mở rộng ra ngoài phạm vi huyện tỉnh
trong một liên kết toàn khu vực.
Trang 15
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Ba là, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và điều hành thực hiện quy hoạch với
quan điểm “triển khai thông thoáng nhƣng đảm bảo chặt chẽ”. Đối với các KCN gặp
khó khăn trong việc triển khai , cần tập trung giải quyết các vƣớng mặc để tiếp tục
triển khai. Nếu KCN không triển khai đƣợc do chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng
thiếu năng lực hoặc có những khó khăn khác thì kiến nghị với Thủ tƣớng Chính phủ
thay đổi chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. Trƣờng hợp những KCN không có
triển vọng phải triển, cần kiên quyết xem xét rút Giấy phép đầu tƣ (Doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài) hay Quyết định phê duyệt dự án (doanh nghiệp trong nƣớc)
hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế và phƣơng thức quản lý KCN theo hƣớng tăng cƣờng cơ
chế “một cửa, tại chỗ” nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp
trong KCN. Xử lý quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với KCN ở Trung
ƣơng và địa phƣơng nhằm tăng cƣờng thống nhất quản lý KCN theo quy hoạch, cơ
chế, chính sách chung cho KCN. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động của KCN.
Năm là, có biện pháp triệt để trong việc xử lý môi trƣờng.
Trƣớc hết phải nâng cao chất lƣợng quy hoạch KCN, thời gian tới tập trung xây
dựng các KCN chuyên ngành, tăng tỷ lệ diện tích cây xanh và các dịch vụ công. Yêu
cầu mọi doanh nghiệp trong KCN phải có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu
chuẩn trƣớc khi thải ra hệ thống chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nƣớc thải
tập trung và đƣợc đầu tƣ xây dựng song song với việc xây dựng kết cấu hạ tầng KCN.
Tạo sự liên kết giữa các địa phƣơng trong vùng trong việc quy hoạch KCN và vận
động đầu tƣ để bảo đảm cho việc bảo việc môi trƣờng trong toàn khu vực, đặc biệt là
các KCN có thể gây ô nhiễm nguồn nƣớc mặt.
Sáu là, tăng cƣờng việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu nhƣ: cân đối
giữa lào động địa phƣơng va lạo động nhập cƣ; từng bƣớc tăng hàm lƣợng chất xám
trong lao động, có kế hoạch về tái đào tạo nguồn nhân lực.
Chính quyền các cấp cần có hỗ trợ về kinh phí cho các doanh nghiệp trong KCN
trong việc đào tạo nguồn lao động làm việc trong KCN.
Bảy là, tập trung xây dựng đồng bộ hạ tầng ngoài hàng rào KCN, trƣớc mắt khẩn
trƣơng giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân, xây dựng đời sống văn hóa cho công
nhân làm việc tại các KCN.
Trang 16
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Song song với việc hoàn thiện cơ sở kết cấu hạ tầng KCN, trong thời gian tới cần
phải chú trọng đến việc xây dựng khu đô thị, khu dân cƣ, các dịch vụ phục vụ KCN.
Đây là yêu cầu tất yếu và cần thiết đảm bảo phát triển KCN có chất lƣợng và phát
triển bền vững.
V. TÌNH HÌNH ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM (Từ
NĂM 1988 − 2004):
5.1. Tổng quan về tình hình đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt Nam trong
thời gian qua:
Kể từ khi Luật ĐTNN của Việt Nam đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày
29/12/1987 và 4 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, ĐTNNN
vào Việt Nam liên tăng qua các năm 1988 − 1996 nhƣng từ năm 1997 thì bắt đầu
giảm sút. nhận thấy tầm quan trọng của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đối với sự phát
triển của nền kinh tế. Các dự án FDI đã đóng góp vai trò không nhỏ trong công cuộc
phát triển kinh tế của Việt Nam, nhƣng bên cạnh đó cũng có những khó khăn gây trở
ngại cho quá trình thu hút vốn FDI, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực cải thiện môi
trƣờng đầu tƣ nhằm tăng cƣờng thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và đã đạt đƣợc kết
quả khả quan. Từ năm 2000, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào VN lại giảm so với năm
2001, xong nhờ kiên trì nỗ lực vốn ĐTNN thu hút đƣợc trong năm 2004 và đầu năm
2005 này đã tăng lên rất nhiều so với cùng kỳ năm ngoái.
Sau 17 năm thực hiện Luật đầu tƣ nƣớc ngoài, đến cuối tháng 12/2004, cả nƣớc đã
cấp giấy phép đầu tƣ cho 5.995 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký kể cả tăng vốn là
56,9 tỷ USD, trong đó có 4.965 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tƣ đăng ký trên
44,76 tỷ USD. Theo Cục Đầu tƣ nƣớc ngoài − Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, nếu chỉ tính
các dự án còn hiệu lực, đến ngày 31/12/2003 cả nƣớc có 4.324 dự án đƣợc cấp giấy
phép theo Luật tại VN, với tổng vốn đầu tƣ thực hiện đạt trên 24,601 tỷ USD. Xét về
cơ cấu, thì vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 2885 dự án chiếm
66,72% tổng số dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tƣ trên 23,213 tỷ USD chiếm tỷ
trọng 56,9% và đầu tƣ thực hiện đƣợc trên 16,725 tỷ USD chiếm 67,99% tổng số vốn
đầu tƣ thực hiện. Kế đến là dịch vụ với 843 dự án (19,5%) tổng vốn đầu trên 14,682
tỷ USD (35,99%) và vốn đầu tƣ thực hiện trên 6,313 tỷ USD (25,66%). Đầu tƣ nƣớc
ngoài vào lĩnh vực Nông − Lâm − Ngƣ nghiệp còn rất ít với 596 dự án (13,78%), tổng
vốn đầu tƣ trên 2,898 tỷ USD (7,1%) và vốn đầu tƣ thực hiện trên 1,562 tỷ USD
(6,35%).
Tính đến 30/12/2004, đã có 579 dự án mới đƣợc cấp Giấy phép đầu tƣ với tổng số
vốn đầu tƣ đăng ký 1.740,1 triệu USD, bằng 98% về số dự án và tăng 17,2% về vốn
Trang 17
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
đăng ký mới so với cùng kỳ năm 2003. Đồng thời, trong 11 tháng năm 2004 đã có
338 dự án với tổng số vốn đăng ký tăng thêm 1.496,77 triệu USD, tăng 66,9% so với
cùng kỳ năm 2003 về vốn đăng ký tăng thêm. Trong tổng các dự án tăng vốn, có 5 dự
án có quy mô vốn tăng thêm trên 50 triệu USD, lớn nhất là Công ty xi măng Chinfon
Hải Phòng với số vốn tăng thêm 161,7 triệu, Công ty Sun Stel 147 triệu USD. Các dự
án tăng vốn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 75%
tổng số vốn tăng thêm. Ba địa phƣơng thuộc vùng trọng điểm phía Nam theo thứ tự là
Bình Dƣơng, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) và Đồng Nai đã chiếm 65,5% tổng
số vốn tăng thêm bằng chứng là từ đầu năm 2004, TP. HCM đã cấp Giấy phép cho 36
dự án đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng số vốn trên 67,8 triệu USD, gấp hai lần so với cùng
kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó còn có 10 dự án xin tăng vốn trên 12 triệu USD, dự án có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài lớn nhất vừa đƣợc cấp phép là của công ty liên doanh TNHH
Vietcombank − Bonday − Ben Thanh, có tổng số vốn đầu tƣ trên 55 triệu USD. Hai
địa phƣơng thuộc vùng trọng điểm phía Bắc: Hải Phòng và Hà Nội và chiếm 21,1%
tổng vốn tăng thêm. Hà Nội (HN) là nƣớc dẫn đầu về thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, trong
hai tháng đầu năm, HN đã thu hút đƣợc 9 dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) với
tổng vốn dăng ký đạt 824,28% (chiếm 68,3% tổng vốn dăng ký của cả nƣớc). Có 2 dự
án có tổng vốn đầu tƣ lớn là dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh mạng điện thoại di
động CDMA (trị giá 656 triệu USD) và dự án Công ty TNHH Coralis Việt Nam xây
dựng tòa nhà 65 tầng (114,581 triệu USD).
5.2. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo nƣớc:
Khu vực Đông Bắc Á gồm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông) chiếm vị
trí quan trọng trong các nƣớc và vùng lãnh thổ đầu tƣ vào Việt Nam với 2.812 dự án
và 18.657 triệu USD vốn đăng ký kinh doanh và chiếm 43,5% số dự án và chiếm 43%
vốn đăng ký của các dự án đang còn hiệu lực.
Đài Loan tiếp tục dẫn đầu về đầu tƣ vào Việt Nam theo đánh giá trong 3 tháng đầu
năm 2005 của tạp chí Kinh tế thế giới. Trong năm 2004 có 132 số dự án đƣợc cấp
phép chiếm 20,9% trong tổng số dự án và tổng vốn đăng ký trên 410 triệu USD; Hàn
Quốc có thêm 142 dự án chiếm (22,54%) trong tổng số dự án đƣợc cấp mới và tổng
vốn đăng ký trên 318 triệu USD. Mặc dù số dự án của Hàn Quốc cao hơn so với Đài
Loan (10 dự án) nhƣng tổng số vốn đăng ký thì nhỏ hơn so với Hàn Quốc. Kế đến
Nhật Bản có thêm 52 dự án chiếm (8,3%) tổng số dự án đƣợc cấp phép năm 2004 và
tổng vốn đăng ký trên trên 200 triệu USD; Hồng Kông có thêm 32 dự án chiếm
(5,1%) với tổng vốn đăng ký hơn 112 triệu USD. Trong năm 2004, ngoài các nƣớc
Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc có lƣợng vốn đầu tƣ vào Việt Nam gia
Trang 18
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
tăng đáng kể thì Trung Quốc có thêm 62 dự án đầu tƣ với tổng vốn đăng ký rất khiêm
tốn khoảng 75 triệu USD.
Nhìn chung, trong số 66 nƣớc và vùng lãnh thổ có dự án đầu tƣ tại Việt Nam, các
nƣớc châu Á chiếm trên 76% số dự án và trên 70% vốn đăng ký; các nƣớc châu Âu
chiếm gần 16% số dự án và gần 24% vốn đăng ký; Hoa Kỳ chiếm 4% số dự án và
2,8% vốn đăng ký; còn lại là các nƣớc thuộc khu vực khác.
Việt kiều từ 15 nƣớc khác nhau chủ yếu là từ Cộng Hòa Liên Bang Đức, Liên bang
Nga và Pháp đã đầu tƣ khoảng 118 dự án với vốn đầu tƣ đăng ký 362,66 triệu USD,
chỉ bằng 0,8% tổng vốn đầu tƣ đăng ký của cả nƣớc. Xem số liệu ở bảng 1 (về số dự
án, tổng vốn đầu tƣ, vốn pháp định, vốn thực hiện) đƣợc thể hiện ở phụ lục 1.
5.3. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo ngành kinh tế:
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và
xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 67,2% về số dự án và 57,5% tổng vốn đầu tƣ
đăng ký, lĩnh vực này cũng thu hút trên 70% lao động và tạo ra trên 90% giá trị xuất
khẩu của khu vực đầu tƣ nƣớc ngoài; lĩnh vực dịch vụ chiếm 19,2% lĩnh vực Nông −
Lâm − Ngƣ nghiệp, chiếm 13,7% về số dự án và 7,5% về vốn đầu tƣ đăng ký.
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 3.373 dự án đƣợc cấp phép đầu tƣ, chiếm
67,2% dự án, tổng vốn đăng ký trên 25 tỷ USD (chiếm 57,5%). Trong đó công nghiệp
nhẹ và công nghiệp nặng chiếm ƣu thế với 2.819 dự án và gần 168,9 tỷ USD vốn
đăng ký. Nhìn chung những năm gần đây, số dự án đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp
và xây dựng thƣờng tăng so với các năm trƣớc.
Lĩnh vực nông − lâm nghiệp, thuỷ sản thu hút đƣợc 683 dự án, với số vốn đăng ký
hơn 3,3 tỷ USD. Vốn đầu tƣ trong ngành này chỉ chiếm 7,6% tổng vốn đăng ký,
nhƣng các dự án tập trung vào một số lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn
nhƣ chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc,… góp phần tạo công ăn việc làm,
phát triển nguồn nguyên liệu. Góp phần tạo ra nền sản xuất hàng hóa ở nông thôn và
đặc biệt là mở rộng thị trƣờng xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Lĩnh vực dịch vụ có 964 dự án (chiếm 19,2%) tổng vốn đăng ký trên 15,2 tỷ USD
(34,7%) tổng số đầu tƣ đăng ký. Các dự án chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực văn
hóa − y tế − giáo dục, khách sạn − du lịch, bƣu chính viễn thông và các dịch vụ khác.
So với năm 2003, số dự án đầu tƣ vào các ngành dịch vụ có gia tăng, mở ra nhiều
dịch vụ có chất lƣợng cao và đạt tiêu chuẩn Quốc tế để có thể đáp ứng cho nhu cầu
trong nƣớc và nƣớc ngoài.
Trang 19
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Trong năm 2004 có 132 số dự án đƣợc cấp phép với tổng vốn đầu tƣ trên 410 triệu
USD, đứng đầu về số vốn đăng ký nhƣng số dự án thì đứng sau Hàn Quốc với 142 số
dự án đƣợc cấp phép nhƣng tổng vốn đăng ký thì chỉ trên 318 triệu USD. Kế đến là
Trung Quốc với 62 số dự án (9,8%) và tổng vốn đăng ký trên 74 triệu USD, Nhật Bản
với 52 số dự án chiếm (8,3%) trong tổng số dự án và tổng vốn đăng ký trên 200 triệu
USD, Hồng Kông thì có 32 dự án đƣợc cấp phép chiếm (5,1%) trong tổng số dự án
đầu tƣ vào Việt Nam trong năm 2004 và tổng vốn đăng ký trên 112 triệu USD.
Đầu tƣ của các nƣớc thuộc khối ASEAN có chiều hƣớng gia tăng trở lại do các
nƣớc đang trên tiến trình hội nhập. (xem bổ sung bảng1, 2, 3 ở phụ lục 1)
Bảng 1.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế (1998−2004)
TT
Chuyên ngành
I Công nghiệp
CN Dầu khí
CN nhẹ
CN nặng
CN thực phẩm
Xây dựng
II Nông−Lâm− Nghiệp
Nông−Lâm− Nghiệp
Thủy sản
III Dịch vụ
GTVT − Bƣu điện
Khách sạn − Du lịch
Tàichính−Ngân hàng
Vhóa−Y tế−Giáo dục
XD khu đô thị mới
XD văn phòng−căn hộ
XD hạ tầng KCX−KCN
Dịch vụ khác
Tổng số:
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
3.363
27
1.378
1.431
229
298
683
581
102
964
142
165
48
173
3
103
19
311
5.010
25.095.854.522
1.891.583.340
6.623.862.107
10.268.000.710
2.846.887.793
3.465.520.572
3.301.337.207
3.027.658.834
273.678.373
15.294.623.312
2.631.545.689
3.590.789.648
626.050.000
649.869.684
2.466.674.000
3.567.644.954
895.625.046
866.424.291
43.691.815.041
11.335.912.886
1.389.583.340
3.066.235.064
4.239.521.008
1.307.309.104
1.333.264.370
1.485.647.073
1.359.158.947
126.488.126
6.931.529.756
2.058.311.545
1.248.384.385
607.030.238
291.494.400
675.183.000
1.251.694.055
403.434.602
395.997.531
19.753.089.715
Đvt: USD
Đầu tƣ thực
hiện
17.010.076.382
4.426.103.294
2.797.036.659
6.075.022.226
1.815.245.958
1.896.668.245
1.589.947.906
1.461.760.483
128.187.423
6.655.504.867
1.047.943.201
2.095.936.998
617.130.077
342.675.262
51.000.000
1.638.749.298
525.070.031
337.000.000
25.255.529.155
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài − Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
(Tính tới ngày 25/01/2005, chỉ tính các dự án còn hiệu lực).
Trang 20
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
5.4. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo địa phƣơng:
Trong năm 2004 đã có 62 tỉnh, thành phố thu hút đƣợc vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài. Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế
trọng điểm vẫn là những địa phƣơng dẫn đầu thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài theo thứ tự
nhƣ sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dƣơng, Bà Rịa − Vũng
Tàu, Hải Phòng. Riêng vùng trọng điểm phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Bình Dƣơng, Bà Rịa − Vũng Tàu) chiếm 60,1% số dự án cả nƣớc và chiếm gần
56,1% tổng vốn đầu tƣ nƣớc ngoài của cả nƣớc. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
(Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dƣơng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 17, 6% số dự án và
chiếm 25,2% tổng vốn đầu tƣ nƣớc ngoài của cả nƣớc, còn lại 22,3% là ở các địa
phƣơng còn lại.
Hiện tại các dự án ĐTNN đầu tƣ vào các KCN, KCX (không kể các dự án đầu tƣ
xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, chiếm 33% về số dự án và 29,8% tổng vốn đầu
tƣ đăng ký cả nƣớc.
Nhìn chung, nguồn vốn đầu tƣ chỉ tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm, tập
trung vào các ngành dễ thu hút vốn,… trong khi các tỉnh miền núi, nông thôn vốn đầu
tƣ còn quá ít. (Xem bổ sung bảng 4, 5, 6 của phụ lục 1)
Trong số các địa phƣơng thu hút mạnh mẽ ĐTTTNN (từ 1988−25/01/2005), thành
phố Hồ Chí Minh giữ vị trí đứng đầu với 1.547 dự án và trên 11.525 triệu USD vốn
đăng ký, tiếp theo là Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dƣơng. Riêng bốn địa phƣơng là thành
phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dƣơng, Bà Rịa − Vũng Tàu đã có 3130 dự án còn
hiệu lực chiếm 62,5% tổng số dự án đầu tƣ cả nƣớc, với tổng số vốn đăng ký, với vốn
đăng ký 24.741 triệu USD chiếm 56,6% về vốn đăng ký của tổng các dự án đang còn
hiệu lực. Khu vực phía Bắc thu hút đƣợc ít hơn, đáng kể là Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dƣơng và Quảng Ninh với tổng số 844 dự án và trên 10.369 triệu USD vốn đăng ký.
(Xem phụ lục 2: về số dự án, tổng vốn đầu tư, vốn pháp định, vốn thực hiện)
Bảng 1.4: Thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1988−2004)
Đvt: Triệu USD
Năm
1988
1989
1990
Vốn Đăng ký
Tỷ lệ tăng,
Tổng số
giảm (%)
366
539
47,27
677
25,60
Vốn thực hiện
Tỷ lệ tăng,
Tổng số
giảm (%)
49
130
165,31
220
69,23
Vốn thực hiện/
Vốn đăng ký
(%)
13,39
24,12
32,50
Trang 21
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Vốn Đăng ký
Tỷ lệ tăng,
Tổng số
giảm (%)
1.294
91,14
2.036
57,34
2.652
30,26
4.071
53,51
6.616
62,52
8.640
30,59
4.649
−46,19
3.897
−16,18
1.568
−59,76
2.018
28,70
2.592
28,44
1.621
−37,46
191
−88,19
237
23,82
Vốn thực hiện
Tỷ lệ tăng,
Tổng số
giảm (%)
221
0,45
394
78,28
1.099
178,93
1.946
77,07
2.671
37,26
2.927
9,58
3.218
9,94
2.375
−26,20
2.537
6,82
2.420
−4,61
2.430
0,41
2.591
6,63
265
−89,77
275
3,77
Vốn thực hiện/
Vốn đăng ký
(%)
17,08
19
41,44
47,80
40,37
33,88
69,22
60,94
161,80
119,92
93,75
159,84
138,45
116,03
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài − Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
(Tính đến ngày 25/01/2005 − Chỉ tính các Dự án còn hiệu lực)
Qua bảng số liệu trên cho thấy đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tăng nhanh, bình quân
trong năm 1989 − 1995 số dự án tăng trung bình 42,75% và vốn đăng ký đã tăng
52,50%, nhƣng đến năm 1997, tốc độ giảm sút rõ rệt do cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính khu vực và do môi trƣờng đầu tƣ ở Việt Nam chƣa hấp dẫn. Sau lần sửa đổi bổ
sung Luật đầu tƣ nƣớc ngoài vào tháng 05/2000, thì tình hình đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài vào Việt Nam gia tăng. Riêng năm 2002 thì vốn đăng ký giảm 37,46% nhƣng
đến năm 2003 và năm 2004 thì gia tăng vì môi trƣờng đầu tƣ đƣợc thông thoáng hơn,
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại chỗ, thời gian cấp phép và thời gian sửa
đổi giấy phép đƣợc rút ngắn, vốn đầu tƣ vào Việt Nam tăng trong khi đầu tƣ vào các
nƣớc ASEAN giảm sút, chính điều này nói lên sự thành công trong công cuộc sửa đổi
bổ sung luật ĐTNN theo hƣớng thông thoáng hơn cho các nhà đầu tƣ.
5.5. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo hình thức đầu tƣ:
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo hình thức liên doanh chiếm 24,5% về số dự án
đăng ký và 42,6% về tổng vốn đăng ký.
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo hình thức 100% vốn nƣớc ngoài chiếm 71,7% về
số dự án và 45,7% về tổng vốn đăng ký.
Trang 22
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh theo hình
thức BOT chiếm 3,8% về số dự án đăng ký, và 11,7% về tổng vốn đăng ký.
Năm 1988−1992 hình thức liên doanh đóng vai trò chủ đạo, chiếm trên 70% tổng
số dự án đầu tƣ nƣớc ngoài. Hình thức 100% vốn nƣớc ngoài chiếm 12% tổng số dự
án. (Xem bổ sung bảng 7, 8, 9 của phụ lục 2)
Năm 1993−1996 hình thức 100% vốn nƣớc ngoài đã tăng lên 38% tổng số dự án.
Năm 1996−1999 hình thức 100% vốn nƣớc ngoài chiếm 64% tổng số dự án.
Đến năm 2003 hình thức đầu tƣ 100% vốn nƣớc ngoài có 3.007 dự án, chiếm
69,54% tổng số dự án với trên 8.395 triệu USD vốn đầu tƣ chiếm 13,13% và trên
17.285 triệu USD vốn đầu tƣ thực hiện chiếm 42,7%.
Nhƣ vậy, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam đang chuyển dần theo hình thức
100% vốn nƣớc ngoài ngày càng tăng và hình thức liên doanh ngày càng giảm.
Bảng 1.5: ĐTTTNN tại Việt Nam theo hình thức đầu tư (USD)
Hình thức đầu tƣ
1.BOT
2.HĐ hợp tác kinh doanh
3.Liên doanh
4. 100% vốn nƣớc ngoài
Tổng số
Số dự án Vốn đăng ký
6
178
1.231
3.585
5.010
1.370.125.000
3.883.170.361
19.677.455.968
21.271.753.164
43.691.815.041
Đầu tƣ
thực hiện
411.385.000
912.900.000
3.296.128.358 5.260.688.673
7.048.073.242 10.410.870.506
8.062.382.660 8.599.969.570
19.753.089.715 25.255.291.868
Vốn pháp định
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài − Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tính đến ngày 25/01/2005 − Chỉ tính các Dự án còn hiệu lực
VI. KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI CỦA
MỘT SỐ NƢỚC TRONG THỜI GIAN QUA:
Trong nhiều thập niên trở lại đây, khu vực Đông Á − Đông Nam Á đƣợc coi là khu
vực phát triển năng động nhất trên thế giới. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
1997, khu vực này đã nhanh chóng phục hồi và hiện nay vẫn đầu thế giới về tốc độ
tăng trƣởng kinh tế. Trong đó, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Đài Loan và các
nƣớc ASEAN là những quốc gia có nhiều thành công trong thu hút FDI. Mặt khác,
xét dƣới góc độ thể chế, quy mô, trình độ của nền kinh tế của các nƣớc đó có những
nét tƣơng đồng với Việt Nam khi bƣớc vào công nghiệp hóa − hiện đại hóa đất nƣớc.
Trang 23
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
6.1. Trung Quốc:
Là một nƣớc có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Trung Quốc bắt đầu tiến hành
cải cách và mở cửa nền kinh tế năm 1978. Sau hơn hai chục năm, những thành tựu mà
Trung Quốc thu đƣợc là vô cùng to lớn làm kinh ngạc thế giới và có ngƣời gọi đó là
“sự thần kỳ Trung Quốc”. Bƣớc vào nền kinh tế thị trƣờng Trung Quốc có những nét
tƣơng đồng với Việt Nam. Vì vậy những kinh nghiệm của Trung Quốc là những gợi ý
hữu ích đối với Việt Nam trên con đƣờng phát triển. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng
Việt Nam có rất nhiều điểm khác biệt căn bản so với Trung Quốc mà khác biệt căn
bản có tính quyết định đó là quy mô nền kinh tế với thị trƣờng lớn 1,2 tỷ dân hơn gấp
15 lần Việt Nam.
Về chiến lƣợc kinh tế, Trung Quốc coi trọng mở cửa hợp tác với bên ngoài, đẩy
mạnh hoạt động thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế khuyến khích thu hút FDI. Có nhiều
bằng chứng cho thấy Trung Quốc hiện đang theo đuổi chiến lƣợc xuất khẩu thay thế
nhập khẩu.
Thời kỳ đầu cải cách, thực hiện chiến lƣợc mở cửa, ƣu tiên phát triển vùng ven
biển, khai thác các lợi thế thị trƣờng, tài nguyên, lao động, Trung Quốc lập các khu
chế xuất và các đặc khu kinh tế với các chính ƣu đãi thông qua các quy chế riêng,
kinh tế có tiềm năng, thuận lợi cho kinh doanh. Đồng thời hệ thống ngân hàng cũng
đƣợc cải tổ, chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp.
Phân rõ chức năng của ngân hàng Nhà nƣớc với ngân hàng Thƣơng mại, tạo lập lại và
chấn chỉnh thị trƣờng tài chính tiền tệ, ngoại hối, chuyển dần sự vận hành của các thị
trƣờng từ mệnh lệnh hành chính sang cơ chế thị trƣờng.
Về chính sách tiền tệ, Trung Quốc chủ trƣơng giữ vững sự ổn định của thị trƣờng
tiền tệ và thị trƣờng ngoại hối. Đối với chế độ tỷ giá, Trung Quốc kiên trì lựa chọn tỷ
giá hối đoái cố định (từ năm 1978 đến nay). Trong từng thời kỳ căn cứ tình hình tăng
trƣởng, mức độ cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong quá trình thực hiện chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ Trung Quốc cũng
vấp phải những vấn đề nhƣ tình trạng đôla hóa, chênh lệch tỷ giá hối đoái giữa thị
trƣờng chính thức và không chính thức (thị trƣờng chợ đen), tình trạng lên giá và
khan hiếm đồng nội tệ khi dòng FDI đổ vào,… Trung Quốc đã kết hợp hài hòa giữa
biện pháp hành chính đƣợc sử dụng nhiều hơn, tuy nhiên hiện nay chủ yếu đƣợc giải
quyết một cách gián tiếp thông qua thị trƣờng.
Những điều kiện mà Trung Quốc có được để thu hút FDI loại hình này, thể
hiện ở hai điểm:
Trang 24
Đánh giá tình hình đầu tư và các giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào các KCN-KCX Cần Thơ đến năm 2010
Một là, do lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái cố định và thực hiện phá giá đồng nội tệ
trong khi các đồng tiền của những quốc gia có luồng vốn FDI loại hình “làn sóng đầu
tƣ mới” của Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore tăng giá so với đồng đôla Mỹ .
Hai là, Trung Quốc đã thi hành một loạt các chính sách về giá cả, lãi suất, thuế kể
cả hỗ trợ của Chính phủ để giảm các chi phí đầu vào nhƣ điện, nƣớc, điện thoại, thuê
đất, tiền lƣơng,… Trung Quốc thực hiện phá đồng nội tệ của mình trƣớc những chu
kỳ tăng giá mạnh của đồng Yên Nhật và các đồng tiền trong khu vực đã tạo cho
Trung Quốc một lợi thế to lớn về thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế. Những năm gần đây,
đấu giá với một loạt các đồng tiền của các nƣớc lâm vào khủng hoảng tài chính − tiền
tệ, có những quan điểm ủng hộ Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ nhằm tăng
cƣờng cạnh tranh của nền kinh tế. Do sự sụt giảm nghiêm trọng của xuất khẩu bình
quân tăng trƣởng xuất khẩu ở thập kỷ 90 hơn 20% trong khi đó năm 2001 chỉ đạt 8%.
Sự bùng nổ xuất khẩu của Trung Quốc vào những năm gần đây đã dấy lên nhiều ý
kiến của cộng đồng tài chính quốc tế. Họ cho rằng, do thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái
cố định, trong khi đó đồng đôla Mỹ liên tục giảm giá nên đồng nhân dân tệ bị định giá
thấp làm cho hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc có sức cạnh tranh cao về mặt giá cả
đó cũng là một trong các nguyên nhân hấp dẫn FDI của Trung Quốc.
6.2. Các nƣớc ASEAN:
Singapore đã từ lâu luôn coi việc lợi dụng vốn đầu tƣ nƣớc ngoài để phát triển kinh
tế nhƣ một quốc sách. Tùy vào từng giai đoạn khác nhau mà Chính phủ xác định
những ngành kinh tế mũi nhọn, cần ƣu tiên phát triển mà có những chính sách khuyến
khích đầu tƣ. Trong thập kỷ 70 − 80 đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài chiếm gần 98% tổng
vốn đầu tƣ từ bên ngoài. Các nguồn vốn này đã phát triển mạnh các ngành công
nghiệp chế biến hàng hoá nhằm tái xuất khẩu, ngoài ra các lợi thế địa lý của nƣớc nầy
cũng đƣợc sử dụng hiệu quả. Singapore hiện là quốc gia có hệ thống cảng biển hiện
đại và là trung tâm tài chính, thƣơng mại của khu vực thế giới.
Trong những năm 1960, 1970, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào các nƣớc ASEAN
khác (Thái Lan, Malaysia,…) chủ yếu tập trung vào các ngành khai thác tài nguyên
và sử dụng nhiều lao động. Giúp các nƣớc này sử dụng hiệu quả hơn nguồn nhân lực
và tài nguyên thiên của mình. Mặt khác, dƣới sự khuyến khích đầu tƣ của chính phủ
các nƣớc này, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài chuyển dần sang các ngành có hàm lƣợng
khoa học cao và làm xuất hiện một số ngành mới nhƣ: điện tử ở Malaysia, lắp ráp xe
máy ở Thái Lan…
Tuy nhiên, vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài chỉ đầu tƣ vào các
ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh. Do đó, nếu không có sự định
Trang 25