MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc
sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung
thực nhất.
Miền trung Việt Nam vốn là vùng đất phong phú các làn điệu hò so với
cả nước. Hò Bình Trị Thiên phong phú, đa dạng, đủ các làn điệu hò trên cạn,
dưới nước được phân bố đều từ vùng trung du, đồng bằng đến vùng biển có
đến 40 làn điệu hò, dựa trên tính chất công việc mà hò thể hiện, đó cũng là
một trong những yếu tố tạo nên sự đa dạng, phong phú của hò Trị Thiên.
Hò Trị Thiên thu hút sự quan tâm của em bởi những lí do sau:
Trị Thiên vốn là một vùng đất cổ. Nhưng mãi đến đầu thế kỉ XIV mới
thật sự nhập vào Đại Việt. Từ đó những cuộc di dân, lập ấp làm nảy sinh
nhiều vấn đề liên quan đến văn hóa, văn nghệ mà hò là một thể loại khá tiêu
biểu cho mối quan hệ này.
Hò Trị Thiên tiếp tục phát triển các thể loại hò Việt Nam vốn có nguồn
gốc từ phía bắc, cần phải làm rõ mối quan hệ đó.
Từ lâu đã có nhiều nhà nghiên cứu dân ca, âm nhạc quan tâm đến hò
Trị Thiên. Họ để lại nhiều công trình nghiên cứu như “Dân ca Bình Trị Thiên”
của Trần Việt Ngữ: “Ca dao – dân ca Bình Trị Thiên” do Trần Hoàng chủ
biên: “Hò Huế” tiểu luận cao học của Lê Văn Chưởng. Các công trình này
đều ngợi ý mối quan hệ đến một công tác khoa học, đó là sự phân vùng hò.
Có thể coi đặc trưng của hò Trị Thiên là một đóng góp về mặt khoa học.
Niềm đam mê âm nhạc, đặc biệt âm nhạc dân gian đã đưa em đến với
các làn điệu hò, đặc biệt là hò Trị Thiên. Từ đó giúp em có thêm tình yêu, có
thêm hứng thú để làm đề tài này.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối với việc nghiên cứu văn học dân gian, ngoài việc tìm hiểu lý luận
còn cần có những kiến thức qua những chuyến đi thực địa. Viêc không có đủ
điều kiện để có thể đi thực tế là một trong những khó khăn trong quá trình tìm
hiểu, nghiên cứu đề tài, chắc rằng những kiến thức mà em nêu ở đây chỉ là
một phần nhỏ mà em chọn lọc được qua đọc sách, báo…
1
3.Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài này, em sử dụng các
phương pháp sau:
+ Phương pháp lịch sử
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phạm vi nghiên cứu: hai tỉnh thuộc miền trung Việt Nam – Quảng Trị
và Thừa Thiên Huế.
4. Đối tượng nghiên cứu: hò Trị Thiên
5. Ý nghĩa của đề tài:
Lâu nay, trong tâm tưởng những người yêu dân ca, người ta thường chú
tâm đến hò Huế, mà chưa thực sự lưu tâm đến hò Quảng Trị - Thừa Thiên
Huế, như một khối có mối quan hệ chặt chẽ nhiều phương diện liên hệ đến
văn nghệ, văn hóa dân gian. Thực tế, trên nhiều mặt, cơ bản hò Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế là một. Đó là một vùng hò độc đáo ở khu vực hò miền trung.
Thực hiện đề tài này, em có cơ hội tìm hiểu sâu sắc hơn về một loại dân
ca địa phương, nhằm nêu bật những nét đặc trưng của hò Trị Thiên, một lĩnh
vực mà các bạn trẻ bây giờ ít quan tâm tới.
Tìm hiểu, đào sâu những đặc trưng của một thể loại dân ca ở một địa
phương cụ thể. Từ cơ sở đó, tình yêu quê hương sẽ được phát huy, góp phần
vào công việc bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc.
6. Đóng góp của đề tài:
Trình bày tương đối đầy đủ và chính xác, sắp xếp, phân loại một cách
khoa học, có hệ thống về hò ở Trị Thiên.
Góp phần lý giải và khẳng định có một vùng hò Trị Thiên: về cơ bản,
hò Trị Thiên là một vùng có những đặc điểm chung nhất về lịch sử, địa lý, văn
hóa. Con người vùng này từ thế kỷ XIV và thế kỷ XVI vốn chủ yếu là những
lưu dân từ Thanh Nghệ vào sinh sống nên tiếng nói, tâm tính, phong cách
sống, hoàn cảnh và môi trường sống có những đặc điểm giống nhau. Đó là
những yếu tố cho ta nhận thức hò Trị Thiên có chung nguồn gốc với hò Thanh
Nghệ. Tuy nhiên, khi chuyển đến vùng đất mới với cách làm ăn, phong tục và
sinh hoạt mới thì hò đã phát triển đáng kể, có những nét riêng của nó. Hò chịu
sự tác động của môi trường sống mà nẩy nở, biến chuyển qua môi trường ấy,
2
phần nào chịu ảnh hưởng của âm nhạc Champa nữa. Có thể khẳng định Trị
Thiên là một vùng hò có đặc điểm và sắc thái khá độc đáo.
Cách phản ánh các trạng thái tình cảm cùng thể hiện tính chất khôi hài,
trào phúng trong hò Trị Thiên cũng có sắc thái riêng. Đó là tiếng nói thắm
thiết nghĩa tình, đầy thương cảm và hướng nội, là sự dung hợp, giảm bớt chất
tư duy, ý chí mà tăng độ tình cảm, chừng mực vừa phải. Lối trào phúng của
Trị Thiên không chỉ là sự nhẹ nhàng, kín đáo mà còn có chiều sâu tư tưởng,
ẩn chứa một triết lí nhân sinh thật thâm trầm, sâu sắc, đó là hệ quả kết hợp
của con người gốc Thanh – Nghệ cùng với sự tích tụ và nâng cao văn hóa ở
một vùng có Huế là thủ phủ của chúa Nguyễn và kinh đô của các nước kéo
dài mấy trăm năm.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒ TRỊ THIÊN
1.1. Địa lí và con người Trị Thiên
1.1.1. Địa lí Trị Thiên
Trị Thiên là hai tỉnh nằm vào phía bắc miền Trung Việt Nam giữa hai vĩ
tuyến 16 độ và 17 độ Bắc. Vùng đất này là một phần của đòn gánh hai đầu hai
vựa lúa Tổ quốc: Bắc và Nam.
Đất Trị Thiên hẹp, được quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song chia
làm hai miền khác nhau: miền núi rừng và đồng bằng. Núi rừng trùng trùng
điệp điệp, càng về Nam thì càng lấn ra biển. Đồng bằng ở phía Đông dài và
hẹp chạy từ Vĩnh Linh đến chân đèo Hải Vân, được bồi đắp bởi phù sa của
các sông Bến Hải, Hiếu, Thạch Hãn… Vùng đất cao phía Tây là một dải đất
hẹp được bồi đắp bởi phù sa cổ sinh, nghèo chất mùn. Vùng đất ở phía Đông
tuy bằng phẳng nhưng bị cắt xẻ bởi sông ngòi, kênh rạch và đầmm lầy. Có thể
nói Trị Thiên là nơi hội tụ đủ các hình thái địa lý của Tổ quốc, có núi cao,
biển rộng, sông lặng, rừng dày, bình nguyên, cao nguyên, cồn cát mênh mông.
Đó là những yếu tố hun đúc tính khí con người, đồng thời cũng là nguồn cảm
hứng cho văn nghệ sĩ sang tác.
Nằm trọn trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của dãy
Trường Sơn cùng với sự phong tỏa của gió Poehn (gió Lào) và khối khí lạnh
Hoa Nam tràn về, mỗi năm Trị Thiên có hai mùa rõ rệt, mùa khô và mùa mưa.
Trên đại thể, miền đất này không được thiên nhiên ưu đãi.
1.1.2. Con người Trị Thiên
Con người Trị Thiên có tính cần cù lao động. Họ thiết tha gắn bó với
ruộng đồng, vườn tược, quyết tâm bảo vệ xóm làng, dù chịu đựng bao gian
khổ, cũng do ý thức nhớ ơn tổ tiên ngày trước bỏ công lao, máu và mồ hôi
mới giữ được mảnh đất này. Tình yêu quê hương vẫn luôn là một mối tình sâu
đậm trong long mỗi con người Trị Thiên. Sản vật địa phương là kết quả công
sức lao động của con người ngày ngày cày sâu cuốc bẫm trên mảnh đất tuy
khô cằn nhưng cũng lắm hứa hẹn, bất ngờ. Vùng đất đỏ Bazan Quảng Trị
thích hợp với nghề trồng trọt, là sứ sở của cây cà phê, thơm, mít, chè, cao su,
4
đặc biệt là hồ tiêu. Thừa Thiên là nơi có nhiều đặc sản ngon nổi tiếng: Quýt
Hương Cần, mít Kim Long, dâu Truồi, thuốc lá Phong Lai, cau Nam Phổ,
chuối, dừa Mỹ Lợi…Các địa điểm thủ công nghiệp lâu năm như Bao La
chuyên đan thúng mủng, Triều Sơn làm nón, Mậu Tài làm kim, đúc đồng ở
Phường Đúc, gốm Phước Tích, rèn Hiền Lương… đã được lưu truyền qua
những câu ca dao mà câu hò ru em là một tiêu biểu:
“Ru em cho théc cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim”
Nam Phổ, Chợ Dinh, Triều Sơn, Mậu Tài, những xóm làng xanh mướt,
hiền hòa nằm dọc sông Hương thơ mộng là dấu ấn đậm đà trong tâm khảm
của người Thừa Thiên về quê hương mình. Nó vừa là một nơi chốn cụ thể để
dân làng gắn sinh mệnh của họ vào trong suốt thời gian tồn tại trên thế gian,
vừa là một hình ảnh khơi gợi cảm hứng sang tạo nên câu hò, điệu hát chan
chứa tình yêu quê hương dân tộc… Trên bình diện đó, đất nước và con người
không còn là hai thực thể cách phân mà hầu như hòa nhập làm một, cùng
chung nhịp thở, vận mệnh để giọng hò, câu hát thể hiện tâm tình thiết tha ấy
qua làn điệu ngọt ngào ấm áp tình quê.
1.2. Phân loại và đặc điểm hò Trị Thiên
Hò là một thể loại dân ca có mặt lâu đời trong kho tang văn nghệ dân
gian phong phú của Trị Thiên. Dựa theo tiêu chí chức năng, ta có thể phân hò
•
•
•
Trị Thiên thành ba loại:
Hò nghi lễ
Hò sinh hoạt, vui chơi
Hò lao động sản xuất và nghề nghiệp
1.2.1. Hò nghi lễ
Tiêu biểu của hò nghi lễ là hò đưa tình chèo cạn. Đây là một hệ thống
diễn xướng gồm các điệu múa, hường, ngâm, hát, hò, lý dùng để hò trước
quan tài khi đưa người chết đến mộ và sắp hạ huyệt có nghĩa là đưa linh hồn
người chết về cõi âm bằng chiếc thuyền thiêng.
5
Một buổi hò đưa linh gồm các hình thức như hường (nói lối nhưng
mạnh hơn), hát nam linh, lý đưa linh và hát lui thuyền (gồm điệu lý ta và hò
chào thuyền) kết thúc là hò nện và đọc vè.
Ở Huế, dẫn đầu hò đưa linh là kép, đối với các buổi đưa đám trong thể,
kép mặc y phục như một kép võ tuồng, rồi đến mười hai chào con, y phục
giống nhau như y phục lính thú đời xưa, cuối cùng là lái, y phục bình thường
như trong sinh hoạt hằng ngày. Ở làng Tùng, xã Vĩnh Giang, phủ Vĩnh Linh,
Quảng Trị có một đội “chèo cạn làng Tùng” nổi tiếng, gồm cai tùy, một đàn
nhạc bát âm, gồm sáo, nhị, nguyệt, kèn sona… và một tốp mười hai thanh
niên trai khỏe mạnh. Lễ hò đưa linh được tổ chức ở trước quan tài và khi đưa
quan tài đến huyệt. Các điệu hát khi đưa quan tài ở hò đưa linh Quảng Trị đơn
giản hơn lối hò đưa linh ở Huế.
1.2.2. Hò sinh hoạt vui chơi
* Hò ru em
Hò rue m hay ru con dùng để rue m bé ngủ. Hò rue m Trị Thiên sử
dụng câu ca dao lục bát. Đây là loại hò đơn, người hò dễ bộc lộ tâm trạng của
mình khi ru.
*Hò bài thai
Hò bài thai là một lối chơi thanh nhã, thuần túy dân tộc. Ở Trị Thiên
hò bài thai được chơi trong dịp tết vào những ngày xuân ấm áp ở góc đường,
phố chợ.
Các con bài được dùng để hò bài thai là những con bài ủa bộ bài tới: ba
mươi lá bài được dán trong những ô vuông kẻ đều nhau trên một tấm giấy
rộng đặc trên bàn gỗ cứng, người cái cầm con bài mình định hò bỏ vào một
cái đĩa, đậy lại bằng một cái tô, họ chuồi con bài dưới chiếu. Thế rồi họ bắt
đầu hò. Câu hò ẩn một ý nghĩa để cho người nghe suy luận và đoán ra con bài
thai (thai nghén). Thông thường người cái hò bốn câu, hai lượt. Người nghe
lắng tai thưởng thức câu hò, suy ngẫm và đặt tiền vào con bài mình dự đoán.
Xong xuôi người cái mở bát và trình con bài thai ra, giải thích ý nghĩa của câu
6
hò ứng với con bài ấy. Nhà cái lùa tiền người đặt sai và chung tiền người đặt
trúng. Xong lại hò câu khác.
Đây là một lối chơi vận dụng lối suy đoán theo cách dân gian, một lối
đánh tráo ý nghĩa ngôn từ.
Hò bài thai đúng là một trò chơi văn chương đôc đáo ở Trị Thiên. So
sánh hình thức thả thơ, đánh thơ của người trí thức, chất thơ không kém.
*Hò bài chòi
Là một lối chơi ngồi trên chòi mà đánh như hình thức tổ cức tôm điếm
ngoài bắc. Cách chơi bài như sau:
Lá bắt đầu chơi, người ta phát mỗi chòi năm con bài được dán trên một
thẻ tre. Xong anh Hiệu rút một trong ba mươi con bài ở trong ống ra, nhìn con
bài rồi hô tên con bài, hoặc hò một câu ám chỉ tên con bài, rồi đọc tên con bài
ấy, chòi nào trúng thì gõ mõ ở chòi mình, anh Hiệu sẽ đem bài đến đó, xong
lại rút một con bài khác, lại hò bằng một câu đúng với ý nghĩa con bài ấy,
chòi nào trúng lại gõ mõ, rồi báo tin cho các chòi khác biết mình đã tới. Trò
chơi tiếp tục cho đến ván thứ chín kết thúc. Số tiền một ván dành cho hội để
lo tổ chức.
*Hò thai
Ở Thừa Thiên có một loại hò để dùng trong các trò chơi của cổ nhân:
“Các nhà nho dùng lối đối bằng thơ để dạy học trò hoặc để cùng vui trong
ngày xuân. Các cụ làm thơ rồi cho hò lên theo ngũ cung hơi nam giọng ai:
Rung ring nước chảy qua đèo
Bà già lật đật mua heo cưới chồng.
Và những cái trái lí như vậy được các cụ giải thích là trái mận (trái:
quả, lý: mận). Thai nghén một vật dụng là cái phản, các cụ hò thai:
Ngã lưng cho chúng lên ngồi
Chẳng thương lại đắt cho lời bất trung.
Lối hò này thuộc loại hò đơn, thể hiện được tinh thần trào phúng cùng
tính cách tao nhã của con người ở một vùng đất văn vật.
7
*Hò bài tiệm
Là một lối hò dùng con bài như hò bài thai nhưng cách chơi lại khác.
Người hò cái hò một câu “tiệm”, xong bỏ con bài vào trong hộp kín,
mắc lên cây cao với dải lụa điều phơ phất. Ở dưới cây này, câu hò “tiệm”
được viết chữ lớn dán vào thân cây để ai cũng đọc được.
Thường sau hai mươi bốn giờ mới công bố con bài thai. Cách giải con
bài này cũng là một lối chơi chữ lắt léo dân gian. Ví dụ như câu hò sau đây ở
chợ mới Lương Văn:
Dưới gởi thơ lên, trên gởi thơ xuống
Đang ăn đang uống bỏ đũa xem thơ
Hai hàng nước mắt dặm tờ
Duyên chàng nợ thiếp ai ngờ mà xa.
Giải thích: con liễu. Ý nói xong xuôi rồi, cuộc tình duyên đã kết liễu.
*Hò nàng vung
Là một lối chơi hò văn chương tao nhã của người lớn, thường là thanh
niên nam nữ; đây là loại hò đối đáp giao duyên. Ở chiếu hò nàng vung, một
người con gái đóng vai nàng vung đứng giữa, thanh niên đứng xếp vòng tròn
xung quanh. Nội dung hò đối đáp thường lấy từ tích truyện dân gian như “O
Hiên trò Siêu”, hoặc sử dụng các câu chuyện cổ tích hiện đại. Cuộc hò thường
kéo dài đến khuya, càng khuya càng thanh thoát, có nét quyến rũ của ân tình
và huyền bí.
1.2.3. Hò lao động sản xuất và nghề nghiệp
Hò lao động có mặt khắp nơi trên vùng đất này, trên sông, phá, biển
đến đồng ruộng, đồi núi. Ở Quảng Trị và Thừa Thiên có những làn điệu hò
chung, nhưng cũng có những điệu hò có tính chất địa phương. Ta có thể kể
các làn điệu hò riêng ở Quảng Trị:
*Hồ đô hậy (hay giang hậy): là điệu hò dùng khi làm việc nhẹ (xắt sắn,
thái khoai, đâm bèo…) với tiếng đệm “là hô giang hậy” mộc mạc, rắn rỏi.
*Hò Hải Thanh ( hay hò Như Lệ): Phổ biến ở làng Như Lệ, xã Hải
Thanh, xuất hiện trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đây là một biến điệu
8
của hò mái nhì Trị Thiên. Giọng hò cao vút, ngân dài. Người ta dùng lối hò này
để kêu gọi những người lính lầm đường lạc lối theo Pháp trở về với nhân dân.
*Hò mái nhì Triệu Hải: cũng là một biến điệu của hò mái nhì, nhưng
không được hò khi chèo thuyền mà được hò khi kéo sợi, dệt vải. Nam nữ vừa
dệt vải, vừa hò đối đáp nhau trên sân rộng.
*Hò đập bắp: là điệu hò tập thể có xướng xô đối đáp, phát sinh ở
Thượng Xá, Hải Lăng. Người ta dùng điệu hò này để làm mối xúc tác văn
nghệ cho tái gái vừa hò đối đáp vừa hò đập bắp hầu tăng năng suất lao động.
Ở Quảng trị và Thừa Thiên có chung các làn điệu hò sau:
•
Hò ô ( còn gọi là mái ô, hò đạp nước): đây là loại hò đơn với tiếng đệm ô, ô, ô
kéo dài đầy trữ tình được dùng khi đạp nước, nhổ cỏ, đi bừa hay đi theo trâu
làm việc trong đêm. Điệu hò càng phát huy tác dụng khi người hò một mình
•
giữa cánh đồng trong đêm khuya, thể hiện tâm tình thương nhớ xa xôi.
Hò giã gạo (hay hò khoan): là điệu hò tập thể, phổ biến khắp Trị Thiên. Trong
một cối hò thường có bốn người, nam hoặc nữ, vừa hò vừa giã gạo. Các câu
hò đối đáp liên tục, tiếp diễn cho đến khi nào có người bỏ cuộc vì không đối
•
•
đáp được thì chày cho người khác.
Hò lơ: là điệu hò cấy lúa, phổ biến khắp Trị Thiên.
Hò xay lúa: được hò khi xay lúa, đây là điệu hò đầy tính trữ tình, để bộc lộ
•
tình cảm của người hò.
Hò nện (hay hò hụi): dùng để nện đất, đắp nền nhà, còn được hò khi đắp mộ.
Đây là một điệu hò của tập thể đông người, có kẻ xướng, người xô rập ràng
•
để thúc đẩy động tác lao động. Điệu hò này rất phổ biến ở Trị Thiên.
Hò quét vôi (hay giã vôi, đâm vôi): dùng khi quét vôi, đây là một lối hò tập
thể, chia ra nhiều giai đoạn hò tương ứng với tiến trình công việc gĩ vôi, có
•
xướng, xô.
Hò kéo thác: dùng khi kéo bè qua thác, kéo gỗ qua đèo. Điệu hò mang tính
•
chất mạnh mẽ, khỏe khoắn.
Hò đẩy nốc: là điệu hò tập thể, có xướng, cái xướng, con xô, khi đẩy nốc ra
•
khỏi nơi mắc cạn.
Hò gọi nghé: (hay nghé gọi): là điệu hò của các em bé khi chăn trâu.
9
•
Hò mái nhì: là điệu hò trên sông nước đặc sắc của Trị Thiên, phổ biến trên các
con sông từ Huế ra Quảng Trị, trên sông Hương, các đầm Hà Trung, Cầu Hai.
Đây là điệu hò đơn nhưng cũng có lúc hò tập thể, có xướng xô. Hò mái nhì là
điệu hò tình cảm nhất, văn vẻ nhất xứ Huế và miền Trung, thể hiện trọn vẹn
•
phong cách ngọt ngào, thương cảm ân tình của con người Trị Thiên.
Hò mái đẩy: là điệu hò của người trèo thuyền có làn điệu như hò mái nhì,
•
nhưng có ít biến điệu.
Hò khau vai: dùng khi tát nước gầu đai ở các huyện Phong Điền, Quảng Điền,
•
Thừa Thiên Huế.
Hò khau song: dùng khi tát nước gàu song phổ biến ở các vùng đồng bằng
Thừa Thiên Huế.
10
CHƯƠNG 2.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA HÒ TRỊ THIÊN
2.1. Mối quan hệ giữa hò Trị Thiên với dân ca các vùng và sự biến
chuyển của nó trong quá trình lịch sử
2.1.1. Mối qua hệ giữa hò Trị Thiên với dân ca các vùng khác nhau
của đất nước
Trị Thiên là vùng đất thực sự định hình vào đầu thế kỷ XIV. Người Trị
Thiên phần lớn có gốc từ những lưu dân Thanh Nghệ vào. Những lưu dân này
sống ở vùng đất mới vẫn không quên phong tục, tập quán. Tâm hồn tình cảm
ngày càng phong phú. Do môi trường và hoàn cảnh sống, họ có điều kiện để
phát huy sở trường văn nghệ. Hò trở thành một phương tiện để tăng thêm
năng suất lao động, giải tỏa sự mệt nhọc, cùng để thể hiện tâm hồn, tình cảm
người Trị Thiên trong cuộc sống mới.
Ở Bắc Bộ có các làn điệu hò lao động như hò kéo gỗ, hò đẩy xe, chèo
thuyền… ở Thanh Hóa thì hò Sông Mã trở thành phổ biến, ở Nghệ Tĩnh, hát
ví dặm phổ biến trong các ngành nghề thủ công và lao động, tuy nhiên chỉ có
một làn điệu. Ninh Viết Giao có nhận xét:
“Nói hát ví là nói chung. Đi sâu tìm hiểu ta thấy có nhiều loại hát ví.
Dù loại nào bà con cũng hát một làn điệu”.
Về dân ca Nghệ Tĩnh, Đặng Văn Lung đã nhận xét tương tự:
Hình thức tổ chức hò hát thì muộn, chất lượng âm nhạc rất cao, song
làn điệu không phong phú… Dân ca Nghệ Tĩnh rất gắn với lao động. Vì gắn
lao động nên giữ được nhiều yếu tố cổ, đặc biệt là phương thức sinh hoạt. Vì
gắn với lao động nên dân ca Nghệ Tĩnh bị nhịp điệu lao động khống chế.
Nhịp điệu âm nhạc không đổi và làn điệu âm nhạc không phát triển.
Trên cơ sở những nhận xét đó, ta thấy hò Trị Thiên có những mối tương
quan ảnh hưởng tới dân ca Nghệ Tĩnh, như lề lối trong sinh hoạt hò hát.
Trên cơ sở những nhận xét đó, ta thấy họ Trị Thiên có những mối tương
quan ảnh hưởng tới dân ca Nghệ Tĩnh, như lề lối trong sinh hoạt hò hát. Tiến
11
trình một cuộc hò khoan giã gạo Trị Thiên giống như tiến trình hát phường
vải. Nếu thủ tục một cuộc hát phường vải phải qua ba chặng: chặng thứ nhất
gồm hát dạo, hát chào, hát mừng và hát hỏi, chặng thứu hai hát đố, hát đối,
chặng thứ ba gồm hát mời, hát tình nghĩa và hát tiễn thì ở cuộc hò giã gạo Trị
Thiên đúng thủ tục cũng trải qua các chặng hò mời, hò chào, hò vào cuộc và
hò từ tạ. Về phương diện văn học, một số lượng lớn câu hò giống nhau giữa
hò Trị Thiên với dân ca Nghệ Tĩnh, chứng tỏ sự tương quan ảnh hưởng ấy, ví
như câu hò đối đáp nam nữ ở Trị Thiên với câu hát ví của phường vải Nghệ
Tĩnh hoàn toàn giống nhau.
Nữ
:
Đồn rằng chàng học kinh thi
Cá nằm dưới cỏ, chữ chi rứa chàng?
Nam :
Anh đây chẳng học kinh Thi
Cá nằm dưới cỏ có khi cá tràu,
Tuy nhiên khó mà tìm thấy ảnh hưởng của âm điệu hò Nghệ Tĩnh trên
hò Trị Thiên. Khảo sát trên thực địa ta có thể tìm được vài nơi ở Trị Thiên còn
lưu truyền lối hát giặm Nghệ Tĩnh như các thôn Lương Viễn, Viễn Trình,
Quảng Bình là nơi có nhiều mối tương quan đến hò Trị Thiên hơn cả. Theo sự
nghiên cứu của chúng tôi, Quảng Bình là nơi phát sinh nhiều làn điệu hò đủ
các thể loại: hò nghi lễ, hò lao động sản xuất và nghề nghiệp, hò sinh hoạt vui
chơi. Trong số đó hò lao động có một vị trí đáng kể và có ảnh hưởng mạnh
đến hò Trị Thiên. Có thể giải thích hiện tượng này bằng các nguyên do về địa
lí, lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa.
2.1.2. Qúa trình biến chuyển của hò Trị Thiên
Nhìn tổng quát, quá trình biến chuyển của hò Trị Thiên có những giai
đoạn sau:
•
Giai đoạn chuyển tiếp: Tiếp tục sử dụng các làn điệu hò trên cạn, dưới nước
sẵn có. Trên cơ sở đó, có những thay đổi về hình thức và về lối diễn xướng
sao cho phù hợp với sinh hoạt và con người địa phương trong môi trường
sống mới.
12
•
Giai đoạn ổn định, phát triển: Khi cuộc sống dần dần đi vào nề nếp, các làn
điệu hò, hát ổn định và có cơ hội phát triển. Đủ các thể loại hò lao động, nghi
lễ, vui chơi, đồng thời phát triển. Người ta vui với công việc và có tâm lí dùng
sinh hoạt hò hát để thúc đẩy động tác lao động, thể hiện tâm tình bộc lộ thái
độ, tín ngưỡng tâm linh, ở từng nơi, từng lúc, một số làn điệu được sang tạo
để đáp ứng nhu cầu thời sự hoặc sinh hoạt cộng đồng, nghề nghiệp. Hò trong
giai đoạn này giảm dần tính chất khẩn trương của công việc mà tăng thêm
•
tính chất trữ tình.
Giai đoạn suy thoái biến dạng: Khi cuộc sống văn minh cơ khí ngày càng phát
triển, khi những phương tiện máy móc, điện lực thay thế dần thay thế càng
phương tiện thủ công, khi các phương tiện giải trí ngày càng nhiều thì hò
ngày càng suy thoái. Nó chỉ tồn tại như cái bong ngày một nhạt màu với thời
gian. Nó là điều khó thể tránh được khi máy móc thay thế con người làm văn
nghệ. Con người không còn là chủ thể sang tạo một cách hồn nhiên và toàn
vẹn như trước. Thời điểm này gióng lên tiếng chuông báo tử cho một số thể
loại hò vốn từ lâu có mặt trong đời sống tinh thần và tỉnh cảm của người dân
Trị Thiên.
Về mặt cụ thể, trong giai đoạn chuyển tiếp ta có thể kể đến hò kéo thác
dùng khi đẩy bè qua thác, kéo gỗ qua đèo, hò đẩy nốc để đẩy thuyền mắc cạn
với lối xướng xô đơn giản đã được sử dụng khi lao động tập thể.
Hò giã vôi. Hò giã gạo, hò nện (hay hò hụi), hò mái đẩy, mái nhì hẳn à
được khai sinh trong cùng một thời điểm. Có ý kiến cho rằng hò giã vôi được
sáng tạo trước tiên ở Quảng Bình, vào đầu thế kỉ XVII, khi quân Nguyễn xây
lũy Trường Dục và lũy Thầy để chống nhau với quân Trịnh. Điệu hò lao động
này rõ rang là phù hợp với tiến trình của cuộc giã vôi. Do đó có tác động nâng
cao năng suất lao động, nên ảnh hưởng của hò giã vôi đã lan dần vào Trị
Thiên những năm đó.
Hò mái thì ngày càng phát huy tác dụng do âm điệu mượt mà, sâu lắng
của nó. Cũng từ sức cuốn hút đó, người dân Trị Thiên đã sáng tạo thêm làn
điệu hò mái nhì Hải Thanh (hay Như Lệ), phổ biến ở làng Như Lệ, xã Hải
13
Thanh Quảng Trị. Làn điệu này xuất hiện trong thời kì chống Pháp, là biến
điệu của hò mái nhì, có tác dụng kêu gọi những người con đất Việt lầm lỡ
trong đồn giặc Pháp mau trở về với dân tộc, nhân dân.
Hò giã gạo (hò khoan Trị Thiên) cũng có đời sống tương tự. Do lối đối
đáp sinh động, biến tấu linh hoạt, âm điệu nhịp nhàng vui tươi, hò giã gạo đã
được đưa vào cuộc vui chơi giải trí. Ngày nay, lối hò giã gạo đối đáp lại được
trình diễn trong các thuyền du lịch trên sông Hương để giới thiệu cho du
khách trong và ngoài nước biết một sinh hoạt văn nghệ dân gian một thời
vắng bóng ở Trị Thiên.
Hò đập nắp được phát sinh tương đối muộn ở Quảng Trị
Hò bài thai – bài chòi có cuộc sống dài hơn, có lẽ nó gắn liền với phong
tục tập quán của dân tộc. Vào những ngày tết cổ truyền, loại hò này lại xuất
hiện như đáp ứng yêu cầu vui chơi của nhân dân. Cho đến những năm tám
mươi của thế kỉ này, nó vẫn tồn tại. Đến nay thì đã mất dấu.
Trường tồn lâu hơn cả là loại hò ru con. Về các làng quê Trị Thiên, ta
lại nghe tiếng hò ru con êm ái thiết tha. Sinh hoạt nông thôn Trị Thiên chưa
được điện khí hóa, hiện đại hóa một cách toàn diện nên hò ru vẫn còn chỗ
đứng. Cho đến một lúc nào đó, khi máy móc thay thế sinh hoạt, lao động con
người, làn điệu hò này có nguy cơ biến dạng hoặc mất dấu, như trường hợp
làn điệu hò ô, hò xay lúa, hò quét vôi thịnh hành một thuở, khi đời sống nông
nghiệp, thủ công nghiệp tồn tại và phát triển ở Trị Thiên.
Tuy nhiên, có một loại hò tưởng chừng mất dấu, nay lại thấy xuất hiện,
đó là hò đưa linh. Sinh hoạt hò này được tái lập theo với sự phục hồi các lễ
hội cổ truyền. Sự trở lại của hò đưa linh trong đời sống cơ khí hiện đại là một
chứng cớ cho ta thấy yếu tố tín ngưỡng tâm linh vẫn còn sâu đậm trong nếp
sống, nếp nghĩ của dân Trị Thiên.
Hò là sản phẩm của con người trong đời sống. Nó được khai sinh, phát
triển và tàn lụi theo đời sống vật chất và tinh thần của con người. Một điều
cần chú ý là trong quá trình biến chuyển, nó được bồi đắp bởi những người
trong tầng lớp trí thức nho học. hò tuy có mặt ở miền Bắc khá lâu, nhưng
14
trong quá trình biến chuyển, nó không được các nho sĩ trí thức tham gia đậm
đà và để lại các cong trình văn học như ở Trị Thiên.
2.2. Hò Trị Thiên trong mỗi tương quan với dân ca Việt Nam
Đặt trong mối tương quan chung về dân ca gắn liền với nghi lễ, miền
Bắc phong phú loại này hơn các vùng miền Trung và miền Nam: hát Dậm,
Dô, Xoan, Ải Lao…, từ dân ca nghi lễ phát triển thành dân ca lễ hội. Các lớp
liên tục từ các lời ca khẩn nguyện đến lời cầu mong chúc nhau về công việc
làm ăn, biểu lộ tình cảm giữa con người với nhau, cuối cùng là hát giao
duyên: “Những cuộc hát như vậy vừa gắn với nghi lễ nông nghiệp (hội mùa)
và nghi lễ tế thần (tế thành hoàng).
Ở Trị Thiên, hình thức dân ca nghi lễ còn được thấy trong các hình thức
hát “sắc bùa”, hát “tập chèo” ở Phò Trạch xã Phong Bình, hò “đưa linh chèo
cạn”, hát “bả trạo” ở vùng đồng bằng và ven biển. Trong các loại hò hát này
thì loại dân ca tế thần như ở miền Bắc không thấy xuất hiện. Điều này có thể
giải thích được khi ta biết đất Bắc là đất cổ so với Trị Thiên là nơi mới ổn
định và phát triển từ thế kỉ XIV, vì vậy ở Trị Thiên lại nặng về dân ca nghi lễ
có liên quan đến đời sống con người trần tục. Hát sắc bùa là loại hình thức đi
hát và dán bùa để trừ yêu ma quỷ quái, đem lại tài lộc cho gia đình được sắc.
Hò đưa linh được diễn xướng khi cử hành tang lễ để đưa linh hồn người chết
qua bên kia thế giới. Trong hò đưa linh ta cũng thấy các sinh hoạt hò lao động
chèo thuyền trên sông nước.
Ở dân ca lao động, đặc điểm quan trọng là sự kết hợp gắn bó giữa nhịp
điệu lao động và xúc cảm của con người trong lao động. Ở những giai đoạn
sớm của lịch sử phát triển văn học dân gian, yếu tố nhịp điệu đóng vai trò
quan trọng hơn xúc cảm của con người. Nhưng trong tiến trình xã hội, yếu tố
xúc cảm giãn nở dần và có khi lấn át yếu tố nhịp điệu.
15
CHƯƠNG 3.
ĐẶC TRƯNG CỦA HÒ TRỊ THIÊN
3.1. Cách phản ánh các trạng thái tình cảm của con người
Tiếng hò Trị Thiên qua bao thăng trầm của lịch sử đã để lại những dấu
ấn trong tâm tư những người yêu mến văn nghệ. Không những người ta rung
động theo các làn điệu hò khi lao động sản xuất, trong các dịp cử hành nghi
lễ theo phong tục khi sinh hoạt vui chơi mà còn nhớ mãi các câu hò đầy tính
trữ tình.
Những người Việt theo những đợt di dân vào đến đất Ô Châu ác địa để
xây dựng quê hương mới gồm có hai đợt lớn. Đợt thứ nhất vào thế kỉ XIV, đợt
thứ hai vào thế kỉ XVI. Những con người ấy cùng nhau rời bỏ xóm làng
không nhớ nhung sao được, vùng đất mà những người bản địa dần dần hòa
đồng với người tụ cư gạt bỏ những mâu thuẫn để cùng chung một bề sâu và
bề dày lắng đọng. Sự lắng đọng ấy có thể nhận ra ở những biểu hiện ngọt
ngào, tha thiết, xao xuyến, sầu thương rất Huế - cũng rất Chiêm, rất Việt, rất
Bắc, rất Nam. Tiếng hát lời ca nơi đây bộc lộ cái bản sắc này đầy đủ nhất.
Phải chăng những biểu hiện vừa được nêu trên đã thể hiện tâm tư tình
cảm, bộc lộ được bản sắc con người Trị Thiên một cách đầy đủ. Với hò Trị
Thiên còn có thể nêu thêm một số yếu tố nữa trong cách phản ánh trạng thái
tình cảm, mới nêu lên được đặc trưng nội dung câu hò ở một vùng đất. Đó là
tiếng nói thắm thiết, giàu tình nghĩa, kín đáo, thương cảm và hướng nội trong
các câu hò trữ tình.
Hò là thể loại dân ca có nhiều chuyển tải những tình cảm con người. Đã
là người ai lại chẳng có tình cảm đối với quê hương đất nước, nơi mình sinh
ra và lớn lên, ai lại chẳng qua một lần yêu. Trong cuộc sống thường nhật,
những liên hệ với gia đình bà con xóm giềng trở thành một mối dây tình cảm
ràng buộc. Tất cả những mối tình cảm riêng chung đó tụ thành một khối mà
khi phân tích tính trữ tình trong hò Trị Thiên, ta không thể không đề cập đến.
Trị Thiên là nơi vùng đất nhỏ hẹp, không màu mỡ như các tỉnh Nam
Bộ, nhưng long gắn bó, yêu mến quê hương của dân Trị Thiên chẳng thua
kém các dân miền khác, có khi có những nét nổi bật bởi hai lí do: vùng đất
16
Quảng Trị là nơi hứng chịu nhiều thiệt thòi do chiến tranh, có khi lại bị xóa
tên trong một thời gian. Mỗi lần nhắc đến địa danh quê hương là mỗi lần tâm
hồn xúc động. Thừa Thiên có Huế là kinh đô kéo dài hàng trăm năm, lại thêm
phong cảnh hữu tình, tập chung nhiều danh lam. Di tích nên dễ gây rung động
trong long những người con trên mảnh đất này, vốn hứng chịu những cảnh
tang thương.
Hoàn cảnh lịch sử avf những điều kiện về thiên nhiên, đất nước, tạo
cho người Trị Thiên nhiều mối xúc cảm về quê hương mình. Những xúc cảm
ấy được thể hiện qua các câu hò đầy tha thiết tình nghĩa mà điểm dễ thấy nhất
là mối tình cảm nồng nàn hòa quyện quấn quýt với những đại danh quê
hương.
Tình cảm dễ bộc lộ nhất là ấn tượng đẹp về hong cảnh, con người ở quê
hương mình.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Cung bậc tình cảm đối với quê hương thật đa dạng. Người ta cười, khóc
với quê hương với những bước đi, những chuyển biến thời sự. Ai lại không
thấy lòng mình tưng bừng rộn rã theo với tiến độ xây dựng nhanh chóng ở
quê hương.
Tôi về Gio Hà, Gio Hải nhìn cua nhìn cá.
Anh về Triệu Phú gặt trước cày sau.
Nhìn về Triệu Độ rộn ràng cuốc đất trồng rau.
Nhìn cua Cam Lộ thấy bí bầu đã xanh.
Có khi là một nhận định có tính cách tổng kết về những kinh nghiệm đã
trải qua trong cuộc đời từng trải:
Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô mình cũng nhớ mình
Nhớ sông Hương gió mát, nhớ non Bình trăng trong.
Nỗi nhớ không nguôi về cảnh sắc xinh đẹp của quê hương gây nên một
cảm xúc dạt dào, hơn thế nữa, một tình yêu không bờ bến. Hiểu được tâm tình
17
này, ta sẽ dễ dàng giải thích được nỗi sâu thẳm đong đầy trong long người khi
quê hương lâm vào cảnh tang thương:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh long nước non.
Câu hò đầy xúc động này là sáng tác của Ưng Bình Thúc Gia Thị, một
thi nhân nổi tiếng ở đất đã minh chứng cho vai trò trí thức trong sự nghiệp
sáng tạo văn học dân gian. Do phù hợp với tâm tình quần chúng, nó trở thành
dân gian hóa, xuất xứ của nó không phải là một bài thơ vô danh như ý kiến
của Hoàng Trịnh trong “Đối thoại văn học”. Xúc cảm một cá nhân đã lan
truyền sang xúc cảm một tập thể rộng lớn để thể hiện mối tâm tình của con
người đối với vận mệnh của đất nước trước hoàn cảnh biến chuyển đổi thay.
Cảnh sắc quê hương ở đây đã khơi gợi những nỗi niềm yêu mến Đất Nước
thiết tha hơn lúc nào hết.
Đối với tình cảm gái trai, sự thắm thiết càng bộc lộ rõ trong những lời
than thở:
Bạn thốt ra chừng mô dạ em sầu chừng ấy
Cuộc chung tình chưa được mấy bao lâu
Bởi vì ai lật ván tháo cầu
Để bây chừ gái đớn đau đằng gái, trai thảm sầu đằng trai
Thắm thiết trong tình yêu còn được chứng thực qua nghĩa chung thủy:
Trăm năm em cũng đợi chờ
Ví đầu tóc bạc ra tơ cũng đành
Đó là sự quyết tâm sống với nhau trọn đời khi đã trao tình:
Chàng trao cho thiếp một miếng trầu
miệng nhai môi thắm
Thiếp trao cho chàng một miếng thuốc
18
chàng hút lửa dậy khói bay.
Nên duyên chồng vợ thì hay
Rủi thời có khổ ăn mày cũng tìm nhau.
Trong sự thể hiện tình cảm thiết tha, người con gái Trị Thiên thường
nhiều lúc bày tỏ long mình một cách mạnh mẽ:
Ra về để lại áo đây
Đêm khuya em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lung.
Dưới sự áp bức của quyền phụ mẫu, nàng vẫn cương quyết giữ vẹn
thủy chung, chứng tỏ một nhân cách cao quý một tư tưởng độc lập, kiên định:
Thiếp đây không phải con người long chim, dạ cá
Trách tấm long thầy mẹ bán gả đôi nơi
Trăm năm thề thốt nặng lời
Thiếp xin lấy con dao vàng tự vận giữa trời phen ni.
Nếu tình cảm gái trai được hò Trị Thiên thể hiện thật thắm thiết thì
những tình cảm đối với gia đình xã hội cũng đầy ắp nghĩa thắm tình.
Gia đình là đơn vị cơ bản cấu tạo nên xã hội. Mối quan hệ giữa cá nhân
và gia đình là mối quan hệ thiết thân của mỗi thành viên trong đơn vị nhỏ và
ấm cũng đấy. Mái nhà, tổ ấm là nơi chất chứa bao kỉ niệm của thuở ấu thời. Ai
xa nhà mà không bịn rịn:
Ra đi ngó trước ngó sau
Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng
Sống trong mái nhà ấy, người mẹ vẫn gần gũi với con cái hơn người
cha, nên tình cảm của người con gái đối với mẹ thường nặng hơn:
Ra đi bỏ mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa chén trà ai bưng
Những tình thương chân chất ấy được cụ thể hóa bằng miếng ăn mà
người con hiếu thảo dâng lên cho mẹ:
Tôm rằng bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già
19
Người cha thường được nhắc đến khi người con gái xa nhà nhớ đến
song thân. Đó là long hiếu thảo rất đáng trân trọng:
Em lấy chồng cách một con sông chịu làm xa xứ
Cách một cái hói chịu chữ xa hương
Nay chừ thầy với mẹ ở nhà đắng cơm nghẹn nước
khổ trăm đường anh ơi !
Lòng hiếu thảo ấy được nhân lên khi song thân khuất núi. Ta sẽ cảm
nhận tất cả sự thắm thiết nghĩa tình đó trong câu hò rue m ngọt ngào nhưng
lại gây xốn xang, ray rứt cho người nghe:
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày
Bên ướt mẹ nằm bên ráo con lăn
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn
Hai đứa mình lên non gánh đá về xây lăng phụng thờ.
Nét đặc trưng trong câu hò trữ tình ở Trị Thiên là tiếng nói thắm thiết
nghĩa tình đầy thương cảm, kín đáo và hướng nội. Nó không quá mộc mạc,
trần trụi, nồng nàn, say đắm, phóng khoáng như tiếng hò câu hát ở Nam
Trung Bộ, cũng chưa đạt mức rắn rỏi, đanh thép, mạnh mẽ như ca dao Nghệ
Tĩnh, mà là sự dung hợp, giảm bớt chất lí trí mà tăng thêm độ tình cảm trong
một chừng mực vừa phải. Những tình cảm đằm thắm này được phản ánh
trong các câu hò Trị thiên vẽ nên hình tượng các nhân vật trữ tình, làm nổi bật
sắc thái văn hóa của một vùng đất.
3.2.Cách thể hiện tính chất khôi hài trào phúng trong hò Trị Thiên
Ưa khôi hài, trào phúng là tính chất chung của dân tộc, nhưng tính chất
khôi hài trào phúng mỗi nơi lại mang một sắc thái riêng. Qua cách thể hiện
các câu hò đối đáp ta có thể thấy được nét đặc trưng của mỗi miền. Một số
tính chất tiêu biểu ở Trị Thiên được nêu lên là tính chất nhẹ nhàng, mộc mạc,
văn vẻ, tế nhị, và thâm trầm sâu sắc.
20
Xét về tính chất con người Trị Thiên, ngoài yếu tố về gốc tính và môi
trường sống, ta cần thấy ảnh hưởng của yếu tố khác tác động nhưu hoàn cảnh
địa lí, lịch sử và sự tiếp thu văn hóa trong cả một quá trình sinh sống lâu dài
trên mảnh đất quê hương.
Lối trào phúng của Trị Thiên không chỉ là sự nhẹ nhàng kín đáo mà có
chiều sâu tư tưởng. Cái sâu sắc của nụ cười ẩn chứa trong từng câu chữ, trong
ý tưởng có tính cách triết lí về người đời và đời người. Tập “câu hò mái đẩy”
của ông nguyễn Khoa Vy là một tập hợp các câu hò trào phúng tiêu biểu cho
xứ Huế. Bàn về chuyện ăn của người đời, câu hò sau là một câu châm biếm
sâu sắc:
Ăn nhịn thì qua ngày, ăn vay thì mắc nợ
Ăn cho thiên hạ sợ, ăn cho vợ con kinh
Ăn cho sướng lỗ miệng mình
Ăn cho đổ quán xiêu đình cũng cứ ăn.
Trong cuộc đời tình cảm nhiều khi ta gặp những trường hợp phức tạp
khó khăn mà mototj con người đa tình, có óc khôi hài trào phúng như ông
Thảo Am lại có đề tài sáng tác. Gặp người tình cũ, nghe nàng than vãn, ông
sáng tác câu hò trách tình:
Qua gặp em buổi ban mai em nói thiếu tình yêu
Lại gặp em buổi chiều em nói thiếu tiền tiêu
Ngày xuân em hãy còn nhiều
Biết bao nhiêu là buổi mai chiều nữa em ơi !
Bỡn cợt đấy, nhưng đâu phải là một lối bớn cợt thông thường, nghe qua
rồi bỏ, mà ẩn chứa những ngụ ý sâu sắc về thế thái nhân tình.
Trong cuộc thế, người đời vẫn có những quan niệm sống khác nhau. Kẻ
giàu có mà hà tiện quá mức coi trọng đồng tiền vẫn là một đê tài cho những
nhà văn nhà thơ trào phúng đem ra châm biếm.
Thảo Am, Nguyễn Khoa Vy nhà thơ trào phúng có tâm hồn dân gian,
bằng những sáng tác câu hò mái đẩy đã đưa ra một triết lí sống qua sự phê
phán những nhà giàu có mà hà tiện:
21
Ruộng mẫu, trâu đôi chiết rồi cũng bỏ
Nhà cao cửa lớn cũng nỏ đem theo
Đồng tiền giữ chặt như keo
Của đời người tạm mốc meo còn gì ?
Thiết nghĩ triết sống ấy cũng là phương cách giúp người đời biết tận
hưởng những gì là thú vị trong cuộc sống ngắn ngủi này mà khỏi rơi vào tình
trạng yếm thế, bi quan.
Tóm lại cuộc đời từng trải sẽ cho ta thấu hiểu, thế nào là thế ái nhân
tình. Các câu hò của Thảo Am, nhà thơ trào phúng dân gian bậc nhất ở Huế ẩn
chứa một triết lí nhân sinh thật thâm trầm sâu sắc.
Bằng óc trào phúng của mình, dân gian cũng biểu lộ thái độ châm biếm
những hạng người khác nhau trong xã hội chỉ vì một mối lợi thật nhỏ mà
tranh giành, xung đột lẫn nhau:
Gẫm xem thế sự nực cười
Một con cá lội mấy người buông câu.
Lại có những người khi cha mẹ còn sống thì chỉ hắt hủi, chẳng phụng
dưỡng, đến khi chết thì cũng giỗ linh đình:
Khi sống thì chẳng cho ăn
Đến khi thác xuống làm văn tế ruồi.
Có những sự thật qua siển nhiên, lại tìm cách che đậy:
Khó lòng lấy thúng úp voi
Dù cho khéo mấy cũng lòi nửa con.
Bằng óc trào phúng của mình, dân gian châm biếm những kẻ bị quáng
mắt bởi đồng tiền:
Vai mang bị bạc lè kè
Nói quấy nói quá chúng nghe rầm rầm
Trong lưng không có một đồng
Lời nói như rồng cũng chẳng ai nghe.
22
Qua các câu hò ở Trị Thiên, ta thấy được những sắc thái tình cảm cùng
những khía cạnh tư tưởng của con người ở đây. Hai mặt ấy bổ sung cho nhau,
góp thành nét đặc trưng trong nội dung câu hò Trị Thiên: đó là tiếng nói thắm
thiết nghĩa tình đầy thương cảm kín đáo và hướng nội, là sự dung hợp, không
quá thiên về lí trí mà tăng độ tình cảm trong một chừng mực vừa phải. Lối
trào phúng ở đây ngoài sự nhẹ nhàng kín đáo còn có chiều sâu tư tưởng, ẩn
chứa một triết lí nhân sinh thâm trầm, sâu sắc. Đó là hệ quả kết hợp của con
người gốc Thanh Nghệ, sống lâu trên mảnh đất tích tụ và có điều kiện nâng
cao văn hóa khi Trị Thiên được chọn làm thủ phủ của chúa Nguyễn và Huế là
kinh đô của cả nước kéo dài gần hai thế kỉ.
23
CHƯƠNG 4.
ĐẶC TRƯNG VỀ NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG HÒ TRỊ THIÊN
4.1. Một số đặc điểm về ngôn ngữ âm nhạc và diễn xướng
Hò là một thể loại dân ca có sự kết hợp giữa ngôn ngữ, văn học, âm
nhạc và diễn xướng.
•
Ngôn ngữ Trị Thiên
Hò ở vùng nào xuất phát từ phương ngữ vùng ấy.
Vùng Trị Thiên cơ bản là dân Nghệ Tĩnh vào theo con đường thẩm thấu
dần kể từ đời Trần. Chính vì thế mà phương ngữ Nghệ Tĩnh và phương ngữ
Bình Trị Thiên có nhiều đặc điểm giống nhau. Kết quả là vùng đất này lại
mang nhiều nét cổ hơn phương ngữ ở miền Bắc.
Riêng tiếng Huế lại mang nhiều sắc thái mới của phương ngữ Nam
Trung bộ và Nam bộ. Điều này phản ánh một chi tiết lịch sử thú vị. Trong thời
phong kiến nhà Nguyễn, các bà vua kể từ Minh Mạng trở về sau phần lớn là
con gái các đại thần quê ở Nam bộ, những người đã từng giúp Gia Long gây
dựng cơ đồ. Do đó các bà trong nội dung ở Huế đều có tiếng nói Nam Bộ. Các
cung phi thị nữ được tuyển vào cung cũng phải học tiếng nói miền Nam.
Phương ngữ miền Nam trở thành biệt ngữ của cung đình của nhà Nguyễn. Do
đó địa vị tôn quý như thế, nên biệt ngữ này ảnh hưởng đến tiếng nói quần
chúng và cả vùng Thừa Thiên – Huế làm cho phương ngữ này có thêm một số
nét của phương ngữ miền Nam mà các phương ngữ miền Trung khác không có.
Đó là một số đặc điểm về phương ngữ Trị Thiên ta cần chú ý trước khi
tìm hiểu âm nhạc và diễn xướng của hò Trị Thiên.
•
Âm nhạc trong hò Trị Thiên
Hò là một thể loại dân ca mà “dân ca nhạc Việt, trước khi âm nhạc Phổ
thông loại mới mà thường được goi là nhạc cải cách hay tân nhạc ra đời đã
hoàn toàn là sự dung hòa của giọng nói địa phương và các thể văn thơ bình dân
hay bác học, do khối óc và con tim của cả hai giới sĩ và nông dân tạo nên”.
24
Do ảnh hưởng của giọng nói địa phương nên khi hò người ta cũng phát
âm theo giai điệu riêng của từng vùng. Một nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng
người Việt ở phía Bắc vốn quen dùng ngữ âm đúng, người miền Nam dùng
giai điệu nằm trong ngũ cung hơi nam giọng ai. Năm cung bậc ở đây cũng
thay đổi và không giống ngũ cung Bắc và ngũ cung oán. Có thể thấy mỗi
vùng có nét khác nhau cho ta nhận biết được sắc thái của từng địa phương qua
câu hò, tiếng hát.
•
Ngũ cung “hơi nam giọng ai” một đặc trưng của nghệ thuật diễn xướng hò Trị
Thiên:
Hệ thống ngũ cung này rất phù hợp với tiếng nói của người Trị Thiên.
Người hai vùng Trị Thiên phát âm lơ lớ, đây là vùng có âm vực cạn và hẹp
nhất nước. Hệ thống ngũ cung “hơi nam giọng ai” này bao trùm trên các làn
điệu hò nghi lễ, hò sinh hoạt, vui chơi hay lao động sản xuất và nghề nghiệp ở
Trị Thiên, tạo nên cung bậc lơ lớ độc đáo. Từ đó nó toát ra một âm hưởng xa
xôi, huyền bí và đầy tính trữ tình trong hò nghi lễ, hò vui chơi, hò lao động,…
nó làm nổi bật bản sắc con người ở một vùng đất cũng như “Nhạc Huế không
phải nhạc giật gân kêu gọi bắp thịt, nó nhỏ nhẹ nhắc gợi những hình ảnh tha
thiết của tâm tư”.
Qua đèo Hải Vân ta nghe người Quảng Nam hò với ngũ cung “hơi nam
giọng oán” như ở các vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Nam bộ. Ra miền Bắc,
vùng Thanh, Nghệ, Quảng Bình, người các vùng này lại hò với ngũ cung
“đúng”. Trị Thiên quả là vùng đất có bản sắc riêng trong văn nghệ dân gian.
4.2. Nghệ thuật diễn xướng hò Trị Thiên
Hò Trị Thiên khá phong phú, mỗi thể loại lại có một lề lối diễn xướng
riêng biệt. Ở nội dung này em sẽ khảo sát hò nghi lễ: hò đưa linh
Hò đưa linh là một hệ thống diễn xướng gồm các điệu múa, các điệu
hường, ngâm, hát, hò có thể trình diễn trọn một đêm.
Đêm đưa linh bắt đầu bằng hai điệu múa: múa hát dật và múa đi lộn
đằng xá.Dẫn đầu đội hình là kép rồi đến mười hai chèo con và đi sau cùng là
lái. Múa xong kép xướng điệu hường sau đó kép hát nam linh:
25